Khóa luận Công tác quản lý thuế giá trị gia tăng tại Chi cục thuế Quận 2

LỜI MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài: Trong nền kinh tế hiện đại, thuế không chỉ là công cụ đảm bảo nguồn thu cho ngân sách Nhà nước mà còn là một công cụ quan trọng của Nhà nước để quản lý, điều tiết vĩ mô nền kinh tế. Đối với hầu hết các quốc gia trên thế giới, thuế là nguồn thu chủ yếu của ngân sách Nhà nước. Còn ở các nước đang phát triển như Việt Nam, theo thống kê của Tổng cục thuế thì 92% ngân sách Nhà nước thuế gián thu chiếm tỷ trọng lớn trong tổng thu ngân sách Nhà nước, đặc biệt là thuế GTGT. Thuế GTGT là một loại thuế tiến bộ, điều tiết rộng rãi hầu hết mọi đối tượng trong nhân dân, những người tiêu dùng hàng hoá, dịch vụ chịu thuế. Do đó, thuế GTGT có vai trò rất to lớn trong mọi lĩnh vực kinh tế, chính trị, xã hội. Trong tiến trình hội nhập, thuế lại càng có vị thế lớn trong chiến lược toàn cầu hoá. Vì vậy, công tác quản lý thuế mặc nhiên trở thành mối quan tâm hàng đầu của mỗi quốc gia. Những kiến thức về thuế và quản lý thuế đang là nhu cầu thường trực không chỉ đối với các nhà quản lý, các doanh nhân, mà còn cần phổ cập đến tất cả mọi công dân, những ai đang chịu sự điều chỉnh của các sắc thuế hiện hành.Trong tình hình kinh tế hiện nay, nguồn thu từ viện trợ nước ngoài đã giảm nhiều, kinh tế đối ngoại chuyển thành quan hệ có vay, có trả. Thuế là công cụ góp phần bội chi ngân sách, giảm lạm phát, từng bước góp phần ổn định xã hội, chuẩn bị điều kiện và tiền đề cho việc phát triển lâu dài Sau hơn 12 năm thi hành Luật thuế GTGT, bên cạnh những thành tựu đạt được, còn tồn tại nhiều vấn đề bất cập. Các vụ gian lận thuế GTGT ngày càng nhiều, các hình thức ngày càng tinh vi hơn cho thấy vấn đề gian lận thuế GTGT đã trở nên vô cùng nguy hiểm và đáng báo động bởi nó tạo ra sự bất công bằng cho các đối tượng nộp thuế. Do nhiều người chưa hiểu rõ về thuế GTGT, ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế cũng như ý thức trong việc góp phần tham gia chống thất thu thuế chưa cao. Đồng thời, do thời gian áp dụng còn nhiều thay đổi chưa hoàn thiện nên luật thuế GTGT còn một số bất hợp lý chưa được thay đổi phù hợp với điều kiện của Việt Nam hiện nay, do đó công tác quản lý thuế GTGT còn gặp một số khó khăn, hạn chế. Một trong những vấn đề quan trọng góp phần khắc phục những hạn chế trên là phải tăng cường hiệu quả công tác quản lý thuế GTGT cho các cơ quan thuế từ trung ương đến địa phương. Chi cục thuế quận 2 đã luôn cố gắng phấn đấu hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Trong những năm đầu của thế kỷ XXI, điều kiện kinh tế-xã hội (KT-XH) phát triển khá, cùng với sự cố gắng, nổ lực phấn đấu trong công tác quản lý của Chi cục thuế quận 2 nên kết quả thu ngân sách đã đạt kết quả khá cao, hầu hết đều đạt và vượt mức dự toán, số thu năm sau luôn cao hơn năm trước. Tuy nhiên, kết quả đó vẫn chưa tương xứng với khả năng của quận, công tác quản lý thuế vẫn còn yếu kém và lúng túng, chưa phát huy được hết khả năng, hiệu quả của mình. Đặc biệt là các khoản thu về thuế GTGT, vẫn còn tình trạng nợ đọng, vẫn còn thất thu cả về đối tượng nộp thuế (ĐTNT) lẫn doanh thu và mức thuế. Để góp phần đảm bảo công bằng giữa các chủ thể có nghĩa vụ nộp thuế thì việc nghiên cứu cơ chế thi hành Quản lý thuế GTGT có ý nghĩa quan trọng trong đánh giá thực trạng và những giải pháp để hoàn thiện pháp Quản lý thuế GTGT. Chính vì lý lẽ đó nên em chọn nghiên cứu đề tài: “Công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế Quận 2”. 2. Mục đích, lý do chọn đề tài: Là một sinh viên năm cuối, trong khung chương trình đào tạo, em được học về thuế GTGT. Qua quá trình học em nhận thấy bản thân em và các bạn sinh viên khác rất lúng túng trong việc hiểu về bản chất của các hành vi vi phạm thuế GTGT, cách tổ chức quản lý thuế GTGT. Do đó, khi chuẩn bị chọn đề tài viết khóa luận tốt nghiệp, với lòng ham mê học hỏi cùng với những thắc mắc muốn được giải đáp em đã chọn đề tài về công tác Quản lý thuế GTGT và thực tiễn thi hành nhìn từ những hành vi vi phạm. 3. Phạm vi nghiên cứu đề tài Chỉ trong một thời gian ngắn, mà vốn kiến thức và khả năng phân tích tổng hợp còn nhiều hạn chế, do đó em chỉ xin trình bày trong khóa luận này những tìm hiểu của riêng mình dựa trên quá trình nghiên cứu thực tiễn áp dụng những quy định của Quản lý thuế GTGT nhìn từ những hành vi vi phạm, từ đó có thể góp phần kiện toàn về mặt pháp lý quy định của công tác quản lý thuế GTGT. 4. Phương pháp nghiên cứu đề tài Trong khóa luận em đã sử dụng các phương pháp nghiên cứu như: phân tích so sánh, thống kê, tổng hợp. Với những kiến thức, những tài liệu tích lũy được trong quá trình học tập tại Khoa Tài chính - Kế toán – Ngân hàng của Trường Kỹ Thuật Công Nghệ TP.HCM; bằng khả năng tổng hợp; liên kết logic; đánh giá vấn đề trên cơ sở lý luận biện chứng, em mạnh dạn đưa ra những quan điểm, ý kiến của cá nhân mình. 5. Bố cục của khóa luận: Chương I: Lý luận chung về thuế GTGT và công tác quản lý thuế GTGT. Chương II: Thực trạng công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế quận 2. Chương III: Giải pháp hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế quận 2. Do thời gian có hạn, trình độ nghiên cứu và khả năng đánh giá, nhìn nhận vấn đề còn nhiều hạn chế nên khóa luận sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Em rất mong nhận được sự góp ý chân thành từ phía quý thầy cô và bạn bè để khóa luận được hoàn thiện hơn.

doc113 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1731 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Công tác quản lý thuế giá trị gia tăng tại Chi cục thuế Quận 2, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
h chây ỳ không thực hiện nộp đủ số thuế phải nộp vào NSNN. + Nhiệm vụ quản lý kê khai thuế là một trong các khâu quan trọng của quản lý thuế nhưng Tổng cục Thuế không có bộ phận chuyên trách để nghiên cứu, xây dựng các biện pháp nghiệp vụ, các quy trình quản lý, tổng hợp đánh giá và chỉ đạo hệ thống quản lý việc đăng ký thuế, kê khai thuế trong phạm vi toàn quốc. Do đó, việc quản lý NNT, kê khai thuế chưa chặt chẽ, thiếu thống nhất trong toàn quốc, đã làm thất thu cho NSNN trong khâu kê khai thuế. + Cơ quan Thuế chưa có chức năng thẩm định để trình cấp có thẩm quyền quyết định hoặc quyết định theo thẩm quyền việc xoá tiền nợ thuế, tiền phạt. Do đó, nhiều khoản tiền nợ thuế không còn đối tượng để thu nhưng không được xoá, thậm chí còn tính thêm các khoản tiền phạt, làm cho tổng số nợ tăng thêm một cách giả tạo. Chưa có thẩm quyền gia hạn thời hạn nộp hồ sơ khai thuế, gia hạn thời hạn nộp thuế trong một số trường hợp bất khả kháng nên các trường hợp này vẫn bị xử phạt, càng làm tăng thêm khó khăn cho các tổ chức cá nhân khi có hoàn cảnh khó khăn thực sự. + Cơ quan Thuế chưa có nhiệm vụ xây dựng hệ thống thông tin về Người nộp thuế. Do đó, hệ thống dữ liệu thông tin hiện nay rất thiếu, vừa không đáp ứng yêu cầu khai thác, sử dụng của người nộp thuế, vừa không bảo đảm sự kiểm tra, giám sát chặt chẽ và có hiệu quả của cơ quan thuế… + Cơ quan Thuế chưa có quyền hạn đủ mạnh trong thực thi nhiệm vụ kiểm tra, thanh tra thuế để phát hiện các hành vi cố ý trốn thuế, gian lận tiền thuế, như quyền được: - Thu thập thông tin liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế (được ghi âm, ghi hình công khai); - Tạm giữ tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế; - Khám nơi cất dấu tài liệu, tang vật liên quan đến hành vi trốn thuế, gian lận thuế. + Chưa có qui định cơ quan Thuế phải có trách nhiệm bồi thường thiệt hại cho người nộp thuế theo quy định của pháp luật. Vì vậy, chưa nêu cao được trách nhiệm thực thi công vụ của cơ quan thuế, của công chức thuế để bảo đảm lợi ích hợp pháp của Người nộp thuế trong trường hợp họ bị thiệt hại do cơ quan thuế, cán bộ thuế gây ra. Bộ máy quản lý thuế vừa kết hợp một cách dàn trải theo sắc thuế với quản lý theo đối tượng, vừa quản lý theo chức năng nên dẫn đến việc thực hiện chức năng, nhiệm vụ giữa các bộ phận chưa chuyên sâu, chuyên nghiệp. Cơ quan Thuế chưa có hệ thống tổ chức thanh tra nội bộ riêng, do đó công tác kiểm tra, giám sát việc chấp hành trách nhiệm pháp luật, trách nhiệm công vụ, bảo đảm tính liêm khiết của cán bộ, công chức thuế còn rất hạn chế, chưa phát hiện và xử lý kịp thời các cán bộ thuế vi phạm pháp luật thuế, thiếu tinh thần trách nhiệm đối với người nộp thuế và đối với Nhà nước, đặc biệt là các hành vi gây phiền hà, nhũng nhiễu đối với người nộp thuế, hoặc thông đồng với các hành vi gian lận làm thất thoát nguồn thu của Ngân sách Nhà nước. Và cũng vì vậy, việc bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng cho đội ngũ công chức khi bị vu khống, đe doạ cũng chưa làm tốt. Nhiệm vụ của từng bộ phận thuộc cơ quan Thuế quy định chưa thật cụ thể, rõ ràng và hợp lý. Bộ máy thực hiện các chức năng quan trọng như tuyên truyền - hỗ trợ đối tượng nộp thuế, đặc biệt là kiểm tra, giám sát kê khai thuế; thanh tra, kiểm tra - xử lý các vi phạm về thuế nhìn chung còn thiếu và yếu, chưa đủ mạnh để thực hiện tốt các chức năng quan trọng này. Chức năng thường xuyên tổng kết các kỹ năng, kinh nghiệm quản lý thuế trong nước, nghiên cứu vận dụng các kinh nghiệm tốt có tính chuẩn mực quốc tế nhằm đổi mới và phát triển các kỹ năng, biện pháp nghiệp vụ quản lý thuế tiên tiến, nhằm không ngừng nâng cao hiệu lực, hiệu quả quản lý thuế cũng chưa có bộ phận chuyên trách đảm nhiệm. Quy trình quản lý thuế chưa hiệu quả. Việc triển khai thực hiện các quy trình quản lý, các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Nhà nước chưa phát huy được hiệu quả. Quy trình quản lý hiện hành vẫn duy trì việc cơ quan thuế in và phát hành thông báo thuế và quy định các doanh nghiệp phải nộp thuế theo số thuế và thời hạn trong thông báo thuế của cơ quan thuế không tạo tính chủ động nộp thuế cho ĐTNT, nên nhiều trường hợp vẫn còn nộp chậm thuế làm cho công tác thu ngân sách chậm, chưa nâng cao được ý thức tự giác của ĐTNT. Việc thực hiện các biện pháp quản lý ở một số bộ phận chưa được coi trọng đúng mức, chưa quản lý hết ĐTNT. Việc quản lý, xác định doanh thu, chi phí còn yếu kém, cơ quan thuế chưa nắm được đầy đủ tình hình sản xuất, kinh doanh của một số ĐTNT. Công tác kiểm tra chưa phù hợp, chưa hiệu quả. Công tác kiểm tra hiện tại chỉ được thực hiện qua một khâu, các biên bản kiểm tra về thuế nếu không có khiếu nại, tố cáo thì hầu như không được phúc tra, nên dễ dẫn tới việc buông lỏng quản lý, bỏ sót nguồn thu hoặc tạo điều kiện cho một số cán bộ thông đồng với doanh nghiệp gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Bộ phận kiểm tra thuế vẫn còn mỏng (mới chỉ chiếm tỷ trọng khoảng 15% tổng số cán bộ trong cơ quan), trong khi khối lượng công việc lớn, nhiệm vụ nặng nề, khó khăn. Việc phối hợp quản lý, kiểm tra tình hình sử dụng hoá đơn, chứng từ của các doanh nghiệp giữa các bộ phận trong cơ quan thuế chưa có quy chế cụ thể, chưa đáp ứng được yêu cầu nhanh, chính xác, hiệu quả để phục vụ tốt cho công tác quản lý thuế GTGT. Việc triển khai công tác kiểm tra, xác minh hoá đơn, đối chiếu chéo hoá đơn đã có nhiều tiến bộ nhưng tiến độ còn chậm, thời gian kéo dài. Cơ quan thuế chưa phát hiện và xử lý triệt để các trường hợp vi phạm. Có trường hợp giám đốc, kế toán, thủ quỹ nhiều khi chỉ do một người nắm giữ, cho nên việc kiểm tra, thanh tra khó phát hiện các hành vi gian lận. Một số ít các doanh nghiệp nghỉ kinh doanh nhưng không báo cáo lên cơ quan thuế dẫn đến tình trạng để lưu lạc mã số thuế gây khó khăn cho việc quản lý hoặc có trường hợp báo nghỉ kinh doanh nhưng thực tế vẫn kinh doanh để trốn lậu thuế... Từ đầu năm 2002, việc đóng dấu lên hoá đơn đã hạn chế việc lưu hành hoá đơn bất hợp pháp và giảm tình trạng tẩy xoá hoá đơn. Tuy nhiên lại xuất hiện thủ đoạn mới: một chủ doanh nghiệp cho ra đời nhiều công ty “ma” (có đăng ký kinh doanh, có mã số thuế nhưng không khai báo thuế) để đi mua hoá đơn (vẫn có đóng dấu lên hoá đơn). Một số doanh nghiệp xuất khẩu cũng đã thành lập các công ty “ma”, các công ty này chuyên lập bảng kê mua hàng hoá sau đó xuất hoá đơn GTGT cho doanh nghiệp xuất khẩu, doanh nghiệp khi xuất hàng sẽ được hoàn lại toàn bộ số thuế GTGT đầu vào và như vậy sau một công đoạn nữa doanh nghiệp xuất khẩu vẫn được khấu trừ khống thuế GTGT đầu vào. Năng lực và ý thức trách nhiệm của một số cán bộ còn kém. ý thức trách nhiệm và năng lực của một bộ phận cán bộ còn kém, còn bàng quan với công việc, xa rời thực tiễn, thụ động trong công tác. Trong khi đó thái độ xử lý của Chi cục chưa kiên quyết, còn nương nhẹ, do đó công tác quản lý chưa phát huy tối đa năng lực của mỗi cán bộ. Sự phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà nước chưa chặt chẽ, chưa chủ động. Sự phối hợp giữa cơ quan thuế với các ngành, các cấp chưa đồng bộ, như việc cấp giấy phép kinh doanh không gắn liền với việc kê khai đăng ký kinh doanh, đăng ký nộp thuế của doanh nghiệp với cơ quan thuế gây khó khăn trong việc quản lý ĐTNT. Công tác tư vấn, tuyên truyền chưa phát huy hết hiệu quả. Công tác tư vấn thuế cho các ĐTNT chưa được chú ý đúng mức, công tác tuyên truyền tuy đã được thực hiện đầy đủ nhưng hiệu quả chưa cao. Trình độ hiểu biết về pháp luật thuế của nhân dân còn thấp, tâm lý, ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của người tiêu dùng và các doanh nghiệp còn hạn chế, còn thói quen mua hàng hoá không có hoá đơn. Hơn nữa thuế GTGT là thuế gián thu, thuế bị che lấp trong giá cả nên họ nghĩ mình không phải là người chịu thuế dẫn đến thái độ thờ ơ của người tiêu dùng đối với chính sách thuế, điều đó đã tiếp tay cho người bán trốn lậu thuế. Việc kiểm tra cũng gặp nhiều khó khăn trong công tác đối chiếu hoá đơn, do người tiêu dùng chưa có thói quen lấy hóa đơn, chưa quan tâm đến tính hợp pháp, hợp lệ của hoá đơn, do đó ĐTNT có thể gian lận trên hoá đơn mà khó có thể phát hiện, chưa kể đến việc người mua và người bán có thể thông đồng với nhau để làm sai lệch giá trị trên hoá đơn. Trình độ tin học chưa cao, việc áp dụng công tác quản lý thuế trên máy tính chưa đồng bộ. Công tác quản lý thuế GTGT trên máy tính đạt hiệu quả chưa cao, các chương trình quản lý trên máy tính chưa hoàn chỉnh, trình độ kỹ năng về máy tính còn hạn chế. Công tác thống kê, khai thác thông tin KT-XH trong quản lý thuế GTGT bị coi nhẹ, dẫn đến không nắm sát được tình hình sản xuất, kinh doanh ở địa phương nên khi kiểm tra, không so sánh đối chiếu được thực lực, khả năng của nguồn hàng mà ĐTNT cung cấp để từ đó có cơ sở đối chiếu, đấu tranh với các hành vi sai phạm, cũng như để hoạch định chính sách kinh tế và xây dựng dự toán thu ngân sách của địa phương. Việc phối hợp với các cơ quan quản lý Nhà Nước còn lỏng lẻo, chưa hiệu quả. Việc phối hợp trong việc quản lý đối tượng đăng ký kinh doanh còn yếu, có trường hợp Sở Kế hoạch và Đầu tư đã cấp giấy phép kinh doanh nhưng doanh nghiệp chưa đến đăng ký nộp thuế mà cơ quan thuế vẫn không biết, cơ quan thuế không theo dõi được tình hình hoạt động của các doanh nghiệp sau khi đăng ký thuế nên có doanh nghiệp đã nghỉ kinh doanh nhưng cơ quan thuế vẫn không biết. Hay có trường hợp ĐTNT chây ỳ, chưa nộp thuế vào Kho bạc nhưng cơ quan thuế chưa phát hiện kịp thời. Sự phối hợp giữa cơ quan thuế với Hải quan trong việc quản lý thuế GTGT đối với hàng hoá xuất- nhập khẩu còn hạn chế nên còn để xảy ra tình trạng ĐTNT khai khống xuất- nhập khẩu hàng hóa để xin khấu trừ, hoàn thuế GTGT gây thất thu cho Ngân sách Nhà nước... Các nguyên nhân khách quan Công tác quản lý thuế GTGT còn những điểm yếu kém, hạn chế ngoài các nguyên nhân chủ quan trên, còn có tác động của một số nguyên nhân khách quan cơ bản sau: chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế còn hạn chế; môi trường pháp lý chưa phù hợp; các quy định của Nhà nước chưa phù hợp; công tác quản lý Nhà nước trên máy tính chưa cao, chưa toàn diện; sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước chưa hiệu quả; nền kinh tế của Quận phát triển chưa cao, chưa đồng đều; luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thực hiện luật thuế GTGT còn nhiều hạn chế. Chức năng, nhiệm vụ của cơ quan thuế còn hạn chế. Theo quy định của Nhà nước thì cơ quan thuế không có chức năng điều tra, do đó việc quản lý, kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế khi phát hiện có những dấu hiệu vi phạm thì cơ quan thuế không thể tiếp tục dùng các biện pháp khác cho việc điều tra, mà chỉ có thể tiến hành kiểm tra trên sổ sách, chứng từ kế toán do doanh nghiệp cung cấp, trong khi những tài liệu đó có thể đã bị thay đổi, chỉnh sửa, do đó hạn chế đến công tác kiểm tra. Môi trường pháp lý chưa phù hợp. Môi trường pháp lý cho kinh doanh đã thay đổi nhưng vẫn chưa phù hợp với yêu cầu của việc thực hiện luật thuế GTGT. Chẳng hạn, còn rất nhiều doanh nghiệp và hộ kinh doanh cố tình không phát hành hoá đơn khi bán hàng, hoặc phát hành hoá đơn khống (không có hàng hoá) bán cho doanh nghiệp khác để được khấu trừ thuế đầu vào nhưng cơ quan thuế chưa kiểm soát được. Luật doanh nghiệp quá thông thoáng, thủ tục thành lập doanh nghiệp đơn giản, không có sự kiểm tra kịp thời sau đăng ký kinh doanh nên có nhiều doanh nghiệp đã đi vào hoạt động sản xuất, kinh doanh nhưng không khai báo nộp thuế mà cơ quan thuế vẫn không phát hiện ra. Mặt khác cơ quan thuế cũng chưa theo dõi được liên tục tình hình hoạt động của doanh nghiệp sau đăng ký, do vậy nhiều trường hợp doanh nghiệp không kinh doanh hoặc đã bỏ kinh doanh nhưng cơ quan thuế không phát hiện được kịp thời nên vẫn bán hoá đơn trên cơ sở hồ sơ đăng ký kinh doanh đã được cấp. Một số doanh nghiệp đã lợi dụng chủ trương thông thoáng về cấp đăng ký kinh doanh để thành lập doanh nghiệp nhưng không đăng ký thuế hoặc thành lập các doanh nghiệp “ma” để chiếm dụng tiền thuế của Nhà nước bằng nhiều cách. Các văn bản quy phạm pháp luật hiện nay còn thiếu tính đồng bộ. Sự thiếu thống nhất về chính sách, chế độ đã tạo ra kẽ hở, thậm chí trở nên rất nguy hiểm nếu có sự đồng tình giữa các đối tượng nộp thuế và cán bộ thuế. Các quy định của Nhà nước chưa phù hợp. Nhà nước chưa quy định bắt buộc các doanh nghiệp kết nối mạng máy tính của doanh nghiệp với cơ quan quản lý Nhà nước, chưa quy định về việc khai thác trên mạng số liệu thông tin liên quan đến hoạt động sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp, chưa xây dựng hệ thống các tiêu chí chuẩn về doanh nghiệp để áp dụng quản lý doanh nghiệp thông qua hệ thống máy tính. Do đó, việc áp dụng hệ thống quản lý thuế trên máy tính chưa phát huy hết hiệu quả. Do chính sách phân cấp quản lý thu của trung ương còn chưa phù hợp, việc phải quản lý tất cả các ĐTNT tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ trên địa bàn rộng lớn toàn Quận đã gây không ít khó khăn cho công tác quản lý của Chi cục. Việc thanh toán trong mua, bán hàng hoá vẫn chủ yếu thực hiện bằng tiền mặt và ngân phiếu đang là một thách thức lớn đối với công tác kiểm tra các hoạt động kinh tế, hạn chế công tác quản lý thuế. Hiện nay, Nhà nước chỉ mới quy định các doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu nếu muốn được hoàn thuế thì phải thực hiện thanh toán qua ngân hàng, còn lại các doanh nghiệp chủ yếu vẫn đang duy trì việc thanh toán bằng tiền mặt. Công tác quản lý Nhà nước trên máy tính chưa cao, chưa toàn diện. Việc kết nối hệ thống thông tin giữa các cơ quan quản lý Nhà nước chưa được thực hiện nên việc phối hợp chưa được tốt. Đặc biệt là sự phối hợp giữa cơ quan thuế và kho bạc, cơ quan thuế quản lý số thuế ĐTNT phải nộp, còn kho bạc quản lý số thuế ĐTNT đã nộp, do đó nếu hệ thống thông tin được kết nối thì cơ quan thuế mới có thể phát hiện và kiểm soát kịp thời các hành vi chây ỳ, trốn thuế. Đội ngũ kế toán tại các doanh nghiệp chưa được đào tạo tốt, đặc biệt như trong các doanh nghiệp tư nhân, việc hạch toán, kế toán vẫn còn chưa đúng quy định, sản xuất, kinh doanh còn mang tính gia đình. Có trường hợp chồng làm chủ doanh nghiệp, vợ vừa làm kế toán vừa làm thủ quỹ, thậm chí chưa được đào tạo qua trường lớp nào, do đó công tác hạch toán, kế toán dễ xảy ra sai sót, gây khó khăn cho công tác quản lý thuế. Sự phối hợp của các cơ quan quản lý Nhà nước chưa hiệu quả. Do việc ngân hàng phải đảm bảo bí mật về thông tin và quyền lợi của khách hàng nên sự phối hợp giữa cơ quan thuế và ngân hàng trong việc thực hiện cưỡng chế để đảm bảo thu đủ số tiền thuế vào ngân sách Nhà nước chưa thực hiện được. Do chưa kết nối hệ thống thông tin giữa các cơ quan quản lý Nhà nước nên sự phối hợp trong công tác quản lý việc nộp thuế của các ĐTNT chưa được tốt, chưa kịp thời. Việc xử lý vi phạm của các cơ quan chức năng còn chậm và chưa nghiêm dẫn đến tình trạng chiếm dụng tiền thuế ngày càng tăng. Một số trường hợp được hoàn thuế GTGT đã bị cơ quan thuế và công an phát hiện có sự gian lận nhưng vẫn chưa được xử lý dứt điểm hoặc chỉ bị xử phạt nhẹ, không có tác dụng răn đe, giáo dục. Luật thuế GTGT và các văn bản hướng dẫn thực hiện luật thuế GTGT còn nhiều hạn chế. Qua hơn 12 năm thực hiện, do việc giải quyết những “giải pháp tình thế” bằng các văn bản dưới luật nên cho đến nay hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT đã rơi vào tình trạng chồng chéo, chắp vá đến mức không thể chấp nhận được. Đã có hàng trăm văn bản hướng dẫn thi hành luật thuế GTGT và đều có hiệu lực thi hành như nhau, gây nhiều khó khăn, phức tạp trong điều hành, tổ chức và quản lý thuế. Chưa nói đến giữa các văn bản lại phát sinh những vấn đề mâu thuẫn, không nhất quán, gây khó khăn khi thực hiện. Đồng thời do những nguyên nhân chủ quan và khách quan, bản thân luật thuế GTGT cũng đã bộc lộ nhiều nhược điểm, làm ảnh hưởng tới công tác quản lý, một số ĐTNT đã lợi dụng một số quy định chưa chặt chẽ của Luật thuế GTGT để gian lận, trốn tránh thuế. Việc thực hiện khấu trừ thuế GTGT đầu vào theo tỷ lệ mặc dù đã được sửa đổi, bổ sung liên tục nhưng vẫn chưa hợp lý, gây nên rất nhiều khó khăn cho cơ quan thuế. Việc thi hành chủ trương khuyến khích xuất khẩu đã giải quyết hoàn thuế nhanh chóng và tương đối thông thoáng cho doanh nghiệp nên nhiều doanh nghiệp cố tình lợi dụng để vi phạm chiếm đoạt tiền thuế GTGT của ngân sách. Hoàn thuế là một thuộc tính ưu việt của thuế GTGT, để khuyến khích xuất khẩu, Nhà nước đã cho áp dụng cơ chế hậu kiểm (hoàn thuế trước, kiểm tra sau) tương đối thông thoáng. Nhưng cũng do tính thông thoáng, thủ tục đơn giản nên đã xảy ra nhiều hiện tượng gian lận trong việc xin hoàn thuế, tạo cơ hội cho kẻ gian lợi dụng để chiếm đoạt ngân sách Nhà nước. Do chủ trương hoàn thuế trước kiểm tra sau làm cho một số cán bộ thuế sợ liên đới chịu trách nhiệm nên rất cầu toàn trong việc thẩm định hồ sơ, làm chậm trễ đến công tác hoàn thuế GTGT. Việc tồn tại nhiều mức thuế suất không những làm cho công tác hoạch định chính sách thêm phức tạp, mà còn làm cho việc xác định thuế phải nộp cũng gặp khó khăn. Việc chọn các tiêu thức để phân định các loại hàng hoá, dịch vụ chịu thuế theo từng mức thuế suất là rất khó. Với nhiều mức thuế suất khác nhau, khối lượng thuế hoàn và truy thu cũng tăng lên một cách không đáng có, làm tiêu hao công sức và của cải của xã hội. Tạo điều kiện cho đối tượng xấu lợi dụng để gian lận, chiếm dụng thuế. Sự tồn tại song song 2 phương pháp xác định thuế GTGT, là phương pháp trực tiếp và phương pháp khấu trừ, tương ứng với nó là hai loại hoá đơn, đã làm mất tính thống nhất của luật thuế GTGT và ở chừng mực nhất định đã làm giảm tính ưu việt của thuế GTGT trong thực tế, gây khó khăn trong việc tổ chức thực hiện. Với hai phương pháp tính thuế khác nhau thì giá tính thuế cũng khác nhau, dẫn đến mức thuế GTGT phải nộp cũng khác nhau. Từ kết quả trên đây, để đáp ứng yêu cầu quản lý thuế trong thời kỳ công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và hội nhập kinh tế, đặc biệt là trong công cuộc cải cách và hiện hoá hệ thống thuế, đòi hỏi bộ máy ngành thuế phải tiếp tục được đổi mới và hoàn thiện có thể khẳng định, mặc dù không thể tránh khỏi vẫn còn một số hạn chế song ngành thuế Quận 2 nói chung và Chi cục Quận 2 thuế nói riêng đã hoàn thành toàn diện nhiệm vụ chỉ đạo và quản lý thu ngân sách của Nhà nước. Tuy tổng số nguồn thu động viên vào ngân sách Nhà nước của Quận 2 còn thấp so với tình hình chung của cả nước, đạt khoảng 10%/GDP, nhưng là năm có tốc độ tăng thu cao nhất trong các năm gần đây. Chương III: GIẢI PHÁP HOÀN THIỆN CÔNG TÁC QUẢN LÝ THUẾ GTGT TẠI CHI CỤC THUẾ QUẬN 2 Phương hường, nhiệm vụ của Chi cục thuế Quận 2 trong thời gian tới. Để đáp ứng nhu cầu chi tiêu ngày càng cao của Nhà nước và đảm bảo hoàn thành nhiệm vụ ngày càng khó khăn trong thời gian tới, Chi cục thuế Quận 2 đã đề ra phương hướng hoạt động cụ thể và có những nhiệm vụ chính sau: Đảm bảo tăng thu nhằm giải quyết vấn đề thâm hụt ngân sách, phấn đấu tăng tỷ lệ huy động ngân sách lên khoảng 15% GDP, trong đó thuế GTGT là nguồn thu quan trọng nhất. Tăng cường công tác chỉ đạo và quản lý thu thuế, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vượt mức dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2011 đã được Bộ Tài chính, Cục thuế, HĐND, UBND Quận giao cho và kế hoạch phấn đấu đã đăng ký với Cục thuế. Tăng cường công tác quản lý thuế nhằm tập trung, huy động đầy đủ, kịp thời số thu cho ngân sách Nhà nước, bao quát hết nguồn thu. Chú trọng bồi dưỡng, phát triển nguồn thu ngân sách nói chung và thuế GTGT nói riêng. Đôn đốc các doanh nghiệp nộp các loại tờ khai, báo cáo quyết toán thuế GTGT đúng thời hạn. Tổ chức phân loại số thuế GTGT nợ đọng, tập trung thu dứt điểm, hạn chế nợ đọng thuế phát sinh. Tập trung kiểm tra quyết toán thuế năm 2010. Yêu cầu doanh nghiệp thực hiện đầy đủ, nghiêm chỉnh chế độ kế toán, chế độ lập hoá đơn, chứng từ theo quy định. Tiến hành tổng kiểm tra và quản lý thu thuế đối với các hoạt động còn tình trạng thất thu và nợ đọng thuế lớn. Phát huy tốt nhất vai trò của thuế trong nền kinh tế. Thuế phải góp phần điều chỉnh cơ cấu kinh tế theo hướng khuyến khích xuất khẩu, thúc đẩy kinh tế phát triển, đảm bảo bình đẳng, công bằng giữa các thành phần kinh tế khác nhau, đảm bảo tính rõ ràng, đơn giản, ổn định, dễ thực hiện, dễ kiểm tra, nâng cao tính hiện đại hóa của hệ thống thuế đối với các doanh nghiệp và người tiêu dùng. Triển khai và thực hiện một cách nghiêm túc các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính, UBND Quận, Cục thuế TP.HCM và Tổng cục thuế. Tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt các quy trình quản lý, nghiệp vụ thuế. Tiếp tục cải cách quản lý hành chính thuế, cải tiến quy trình nghiệp vụ thu theo hướng tôn trọng và đề cao trách nhiệm trước pháp luật của ĐTNT. Xây dựng, cũng cố và hoàn thiện bộ máy ngành thuế từ văn phòng Chi cục đến các đội thuế. Thực hiện tốt kế hoạch tinh giảm biên chế, luân chuyển cán bộ, tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ về nghiệp vụ và bản lĩnh chính trị cho cán bộ thuế để đáp ứng được tình hình, nhiệm vụ mới. Chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật đối với cán bộ trong ngành. Nâng cao năng lực bộ máy quản lý thuế và hoàn thiện quy trình, thủ tục hành chính thuế cho phù hợp với yêu cầu của công tác quản lý thuế trong thời đại mới nhằm tăng cường sự chấp hành nghĩa vụ của ĐTNT đối với ngân sách Nhà nước. Tiếp tục xây dựng và phát triển hệ thống tin học nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thuế. Đảm bảo nguyên tắc tập trung dân chủ, công khai, tiết kiệm, hiệu quả, hiện đại. Tham mưu cho UBND Quận ban hành các chỉ thị, chính sách có liên quan đến thuế nhằm khuyến khích đầu tư, ổn định phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo môi trường bình đẳng trong cạnh tranh, và tạo điều kiện để phát triển nguồn thu cho ngân sách Nhà nước. Tập trung lực lượng cán bộ thuế để đẩy mạnh công tác kiểm tra nhằm kịp thời phát hiện và ngăn chặn các gian lận về thuế, chống thất thu ngân sách, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế. Tăng cường kiểm tra khai thác nguồn thu, làm cho thuế GTGT thực sự đi vào cuộc sống. Tăng cường công tác quản lý hoá đơn, ấn chỉ góp phần lành mạnh hoá thị trường, chống gian lận thương mại và tăng thu cho ngân sách Nhà nước. Đẩy mạnh công tác thi đua tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn chính sách thuế, phí và lệ phí cho mọi tầng lớp nhân dân và phát triển dịch vụ hỗ trợ đối tượng nộp thuế, dịch vụ tư vấn thuế. Làm tốt hơn nữa công tác xây dựng và phân bổ dự toán, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện dự toán thu ngân sách Nhà nước đã được giao. Chuẩn bị điều kiện để xây dựng dự toán thu ngân sách Nhà nước các năm tiếp theo. Quản lý, kiểm tra tốt nguồn kinh phí được cấp, thực hiện tốt khoán chi năm 2011 theo Quyết định hướng dẫn của Tổng cục thuế. Các giải pháp Trong thời gian qua ngành thuế đã có những bước tiến vượt bậc trong quá trình cải cách quy trình nghiệp vụ, thủ tục hành chính thuế nhờ vào chính sách tự kê khai, tự tính thuế... nhưng bên cạnh đó vẫn còn những hạn chế cần khắc phục. Do đó, cần phải tiếp tục nghiên cứu cải cách nhằm đẩy mạnh công tác quản lý thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai, từng bước hiện đại hoá, kịp thời hướng dẫn và chỉ đạo để các cơ quan thuế địa phương thực hiện tốt hơn nhiệm vụ được giao. Từ thực trạng công tác quản lý thuế GTGT của Chi cục thuế Quận 2, dựa vào phương hướng, nhiệm vụ của Chi cục trong thời gian trước mắt, đưa ra một số giải pháp, kiến nghị nhằm góp phần hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế Quận 2 như sau: 3.2.1 Tăng cường cải cách quy trình quản lý thuế GTGT Thực hiện liên tục, thường xuyên việc cải cách hành chính thuế, cải cách nghiệp vụ quản lý thuế theo hướng đơn giản, rõ ràng, công khai, từng bước hiện đại hoá, vi tính hoá, tôn trọng và đề cao trách nhiệm trước pháp luật của ĐTNT. Quy trình quản lý thuế mới phải là nâng cao tính tự giác thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT thông qua việc thực hiện phương pháp tự tính, tự kê khai thuế. Phát huy chức năng, quyền hạn của cơ quan thuế trong việc thu theo đúng chức năng Nhà nước quy định. Xoá bỏ chế độ cán bộ thuế chuyên quản ĐTNT (dễ dẫn đến tình trạng thông đồng gian lận trốn thuế). Áp dụng các biện pháp xử lý nghiêm minh đối với những trường hợp vi phạm, khai man, trốn lậu thuế. Việc thực hiện quy trình quản lý hiện hành vẫn duy trì việc cơ quan thuế in và phát hành thông báo thuế và quy định các doanh nghiệp phải nộp thuế theo số thuế và thời hạn trong thông báo thuế của cơ quan thuế không tạo tính chủ động nộp thuế cho ĐTNT, nên nhiều trường hợp vẫn còn nộp chậm thuế làm cho công tác thu ngân sách chậm, chưa nâng cao được ý thức tự giác của ĐTNT. Vì vậy cần nâng cao ý thức tự giác, chủ động trong việc thực hiện nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT. Tổ chức chỉ đạo thực hiện tốt các quy trình quản lý nghiệp vụ, các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính, Cục thuế TP.HCM, Tổng cục thuế và UBND Quận. Tham mưu cho UBND Quận ban hành các chỉ thị, chính sách có liên quan đến thuế GTGT nhằm khuyến khích đầu tư, ổn định phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo môi trường bình đẳng trong cạnh tranh. Tiếp tục tổ chức triển khai thật đầy đủ, kịp thời và chặt chẽ những chủ trương, chính sách thuế GTGT mới được bổ sung, sửa đổi. Cần xây dựng sổ tay nghiệp vụ thuế đối với từng loại nghiệp vụ thuế, từng đối tượng thuế tạo điều kiện cho cán bộ thuế có cẩm nang để thực thi công vụ tốt hơn. Tăng cường hiệu quả công tác hoàn thuế GTGT. Kiểm tra chặt chẽ hồ sơ xin hoàn thuế GTGT, có chế độ khen thưởng thoả đáng cho những người phát hiện, tố giác các trường hợp vi phạm hoàn thuế và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm đó. 3.2.2 Tăng cường công tác quản lý thu thuế GTGT Tăng cường công tác chỉ đạo và quản lý thu thuế, phấn đấu hoàn thành và hoàn thành vợt mức dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2011 đã được Bộ Tài chính, HĐND, UBND Quận giao cho và kế hoạch phấn đấu đã đăng ký với Cục thuế TP.HCM. Căn cứ vào chỉ tiêu thu ngân sách Nhà nước nói chung và thu thuế GTGT nói riêng được giao, trên cơ sở phân tích, đánh giá tình hình sản xuất, kinh doanh trên từng lĩnh vực, địa bàn để đề ra các biện pháp thiết thực, có hiệu quả nhằm khai thác nguồn thu, chống thất thu cho ngân sách, đảm bảo hoàn thành vượt mức dự toán được giao. Triển khai và thực hiện một cách nghiêm túc các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Chính phủ, Bộ Tài chính, UBND Quận và Cục thuế TP.HCM. Đôn đốc doanh nghiệp nộp tờ khai thuế, nộp báo cáo quyết toán, đảm bảo đúng hạn và hạn chế sai sót. Nếu có sai sót thì phải tiến hành chỉnh sửa kịp thời. Hàng tháng kiểm tra và phát hiện kịp thời các trường hợp cố tình vi phạm và có biện pháp xử lý nghiêm minh. Các phòng quản lý thu có trách nhiệm đôn đốc doanh nghiệp nộp thuế đúng hạn, đảm bảo thu đủ số thuế phát sinh. Kịp thời báo cáo những khó khăn vướng mắc cho lãnh đạo để có giải pháp khắc phục. Tiếp tục thực hiện tốt hơn nữa công tác động viên, khai thác triệt để nguồn lực sẵn có trong Quận vào ngân sách Nhà nước. Điều tra quản lý đạt tỷ lệ tối đa việc thực hiện nộp thuế vào ngân sách của các ĐTNT. Tiếp tục thực hiện tốt công tác quản lý và thu thuế đối với các hoạt động kinh doanh vận tải, xây dựng cơ bản, môi giới BĐS… Tổ chức phân loại số thuế GTGT nợ đọng, tập trung thu dứt điểm, hạn chế nợ đọng thuế phát sinh. Tập trung kiểm tra quyết toán thuế năm 2010. Phối hợp với HĐTV thuế và các ngành để điều tra, rà soát toàn bộ cơ sở hoạt động sản xuất, kinh doanh trên địa bàn đảm bảo 100% đối tượng có hoạt động sản xuất, kinh doanh đều phải quản lý thu thuế, đặc biệt là hoạt động cho thuê văn phòng, kho bãi, dịch vụ du lịch... Phải bám sát tình hình cấp giấy phép kinh doanh của Sở Kế Hoạch và Đầu Tư để nắm một số doanh nghiệp đã được cấp đăng ký, thông báo kịp thời cho doanh nghiệp đến cơ quan thuế đăng ký xin cấp mã số thuế, định kỳ phòng quản lý thu và các Chi cục phải giải trình đầy đủ số lượng doanh nghiệp thực tế có kê khai nộp thuế, các doanh nghiệp đã ngừng hoạt động, các doanh nghiệp đã có quyết định thu hồi đăng ký kinh doanh, số doanh nghiệp đã di chuyển địa bàn hoặc bỏ kinh doanh. Làm tốt hơn nữa công tác xây dựng và phân bổ dự toán, hướng dẫn và kiểm tra việc thực hiện dự toán thu ngân sách Nhà nước đã được giao. Chuẩn bị điều kiện để xây dựng dự toán thu ngân sách Nhà nước năm 2011. Quản lý, sử dụng tốt nguồn kinh phí được cấp, thực hiện tốt khoán chi năm 2011 theo Quyết định hướng dẫn của Cục thuế. Tìm hiểu những mặt hạn chế, yếu kém và những nguyên nhân, khó khăn của mình để trình lên cơ quan Nhà nước cấp trên xin ý kiến chỉ đạo, hoặc đưa ra các kiến nghị với cơ quan quản lý Nhà nước cấp trên để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho hoạt động của cơ quan mình. Đồng thời tăng cường đối thoại với các doanh nghiệp, phân tích, điều tra xem ĐTNT có những vướng mắc gì, từ đó tổ chức giải quyết kịp thời, đảm bảo cho các ĐTNT hiểu thấu đáo chính sách thuế, biết ghi chép, kê khai, tính thuế, quyết toán thuế. Cần coi trọng công tác thống kê, khai thác thông tin KT-XH để nắm rõ hơn, sát hơn tình hình sản xuất, kinh doanh của các ĐTNT, từ đó có cơ sở kiểm tra, đối chiếu các hành vi sai phạm. Phân tích những ảnh hưởng của điều kiện KT-XH đến công tác quản lý thuế GTGT của cơ quan thuế để xây dựng hoạch định chính sách kinh tế và xây dựng dự toán thu thuế GTGT cho phù hợp với địa phương mình. 3.2.3 Tăng cường công tác quản lý ấn chỉ, hoá đơn, chứng từ Quản lý chặt chẽ công tác ấn chỉ, sử dụng hoá đơn, chứng từ. Tăng cường công tác hạch toán, kế toán để phù hợp với việc quản lý trên máy tính. Hướng dẫn, chỉ đạo các ĐTNT thực hiện tốt chế độ sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ theo quy định để đảm bảo thực hiện tốt quy trình tự tính, tự kê khai nộp thuế. Đây chính là căn cứ và cơ sở để xác minh việc tự tính, tự kê khai thuế của ĐTNT khi cơ quan thuế tiến hành kiểm tra. Tiếp tục triển khai, củng cố duy trì và nâng cao chất lượng lập và ghi chép sổ sách kế toán, hoá đơn, chứng từ, kê khai thuế của ĐTNT. Thường xuyên kiểm tra việc thực hiện chế độ hạch toán, kế toán, quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ, công tác ấn chỉ thuế, kịp thời phát hiện và xử lý ngay những trường hợp vi phạm. Tăng cường việc xác minh tính hiện thực của doanh nghiệp trước khi cấp giấy phép kinh doanh để hạn chế việc thành lập doanh nghiệp “ma” chiếm dụng tiền thuế của Nhà nước. Khi doanh nghiệp đến mua hoá đơn, yêu cầu phải có đầu đủ các giấy tờ cần thiết kèm theo như: giấy phép đăng ký kinh doanh, giấy chứng nhận đăng ký thuế, các giấy tờ liên quan để xác định trụ sở, sự tồn tại thực tế của doanh nghiệp. Đối với ĐTNT mới đến mua hoá đơn lần đầu hoặc doanh nghiệp mới thành lập thì chỉ nên bán với số lượng hạn chế và phải kiểm tra ngay tờ khai thuế tháng đầu. Tiếp tục khuyến khích các doanh nghiệp sử dụng hoá đơn tự in nhưng phải có quy định chặt chẽ hơn. Đối với những doanh nghiệp tạm nghỉ kinh doanh hoặc bỏ kinh doanh phải kiểm tra tình hình sử dụng hoá đơn để thu hồi những hoá đơn chưa sử dụng. Tăng cường công tác quản lý hoá đơn, ấn chỉ góp phần lành mạnh hoá thị trường, chống gian lận thương mại và tăng thu cho ngân sách Nhà nước. 3.2.4 Tăng cường công tác kiểm tra Công tác kiểm tra có vai trò rất lớn trong công tác quản lý thuế GTGT. Công tác kiểm tra của các cơ quan Nhà nước có vai trò đảm bảo công bằng trong xã hội và sự công minh của pháp luật. Nó làm tăng ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT cũng như ý thức trách nhiệm của cán bộ thuế, góp phần ngăn chặn tình trạng tiêu cực, gian lận. Do đó, Nhà nước cần xây dựng kế hoạch kiểm tra trình lãnh đạo phê duyệt theo đúng quy định, kiểm tra quyết toán thuế, hoàn thuế năm trước, tiếp tục xử lý nghiêm các trường hợp dây dưa, nợ đọng, trốn thuế. Tăng cường kiểm tra và xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm, nhằm không ngừng nâng cao trình độ quản lý thuế ở văn phòng Cục và các Chi cục thuế cũng như ý thức chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT. Việc xử lý nghiêm những trường hợp vi phạm sẽ góp phần phát huy tinh thần tự chủ, giám chịu trách nhiệm trước pháp luật của cán bộ thuế cũng như doanh nghiệp trong việc chấp hành thực hiện luật thuế GTGT. Duy trì và đẩy mạnh công tác kiểm tra nội bộ ngành về việc chấp hành kỷ cương, kỷ luật và thực hiện các quy trình nghiệp vụ trong công tác quản lý thuế GTGT, thực hiện đồng bộ, nghiêm túc các biện pháp kinh tế, hành chính trong công tác thu thuế. Việc gian lận trốn lậu thuế luôn luôn là vấn đề bức xúc trong công tác quản lý thuế và đang ngày càng gia tăng, việc thực hiện quy trình tự kê khai, tự tính thuế tạo điều kiện cho các đối tượng xấu gian lận. Do đó cần tập trung lực lượng cán bộ thuế để đẩy mạnh công tác kiểm tra ĐTNT nhằm chặn đứng các gian lận về thuế, chống thất thu ngân sách, đảm bảo công bằng về nghĩa vụ thuế giữa các thành phần kinh tế. Tiến hành tổng kiểm tra và tập trung quản lý thu thuế đối với các hoạt động còn thất thu: kinh doanh xăng dầu, cho thuê văn phòng làm việc, quầy ốt kinh doanh, kinh doanh tân dược, xây dựng cơ bản, kinh doanh nhà hàng, khách sạn. Tăng cường kiểm tra, khai thác nguồn thu, làm cho các chính sách thuế GTGT thực sự đi vào cuộc sống. 3.2.5 Tăng cường phối hợp với các ngành chức năng Tăng cường phối hợp với các ngành chức năng trong việc quản lý đối tượng nộp thuế. Ngoài việc chấp hành sự chỉ đạo của cơ quan chuyên môn, Chi cục thuế nhất thiết phải tranh thủ sự lãnh đạo, phối hợp giúp đỡ của chính quyền các cấp, các ban, ngành. Ngành thuế cần tăng cường phối hợp chặt chẽ với các ngành chức năng có liên quan như hải quan, công an, quản lý thị trường, chính quyền địa phương và hội đồng tư vấn thuế các cấp để tạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm nâng cao hiệu quả trong công tác quản lý, thu nộp thuế. Vừa đẩy mạnh công tác kiểm tra, thanh tra, chống các hiện tượng gian lận, trốn, tránh thuế, vừa tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho phát triển sản xuất, kinh doanh, thực hiện công bằng trong chính sách động viên của ngân sách Nhà nước. 3.2.6 Tăng cường việc áp dụng tin học vào công tác quản lý thuế GTGT Tiếp tục xây dựng và phát triển hệ thống tin học nhằm đáp ứng yêu cầu của công tác quản lý thuế GTGT trên máy tính. Việc tăng cường phát triển hệ thống tin học phải được thực hiện đồng thời với việc tăng cường đào tạo trình độ tin học cho cán bộ ngành thuế, có như vậy thì chất lượng công tác mới được nâng cao. Kết nối hệ thống thông tin giữa cơ quan thuế với các cơ quan quản lý Nhà nước và ĐTNT nhằm tăng cường công tác quản lý thuế. Phát triển công tác quản lý trên mạng máy tính, triển khai tích cực và có hiệu quả chương trình quản lý ấn chỉ trên mạng, đưa lên mạng thông tin về những đối tượng gian lận, bỏ trốn và các hoá đơn sai phạm. Tập trung tin học hoá các lĩnh vực như thanh tra, xử lý và cung cấp thông tin, các dịch vụ phục vụ ĐTNT, đặc biệt là trong việc xử lý tờ khai và quản lý tình hình sử dụng hoá đơn, chứng từ. Để ngăn chặn việc lợi dụng hoá đơn không hợp pháp thì cơ quan thuế cần kiểm tra đối chiếu và thông báo các số hoá đơn không còn giá trị, bị mất… trên phạm vi cả nước. Muốn thực hiện tốt việc này thì hệ thống thông tin nối mạng trên phạm vi cả nước phải phát triển và cơ quan thuế phải thực hiện tốt việc xử lý và cung cấp thông tin lên máy tính. 3.2.7 Tăng cường công tác đào tạo và nâng cao trình độ cho đội ngũ cán bộ Xây dựng, củng cố và hoàn thiện bộ máy ngành thuế từ văn phòng Chi cục đến các đội thuế để phù hợp với tình hình mới. Cải tiến bộ máy tổ chức ngành thuế cho phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của mỗi bộ phận, giảm thiểu các đầu mối quản lý, tăng cường cán bộ kiểm tra, phát triển tin học và các công tác quản lý thuế trọng tâm khác, tạo điều kiện từng bước hiện đại hoá công tác quản lý thuế. Xoá bỏ chế độ chuyên quản, hạn chế đến mức thấp nhất các hiện tượng tiêu cực trong công tác quản lý thuế. Tăng cường sự phối hợp giữa các phòng ban trong công tác quản lý thuế, cần xây dựng các quy chế cụ thể, chặt chẽ để việc phối hợp giữa các phòng, ban đạt hiệu quả cao. Tăng cường công tác đào tạo, bồi dưỡng chuyên môn, nghiệp vụ lẫn đạo đức và bản lĩnh chính trị cho cán bộ thuế, khuyến khích học đại học và trên đại học, học ngoại ngữ, tin học. Chấn chỉnh kỷ cương, kỷ luật đối với cán bộ trong ngành, nâng cao ý thức trách nhiệm của cơ quan thuế và cán bộ quản lý, kiên quyết xử lý nghiêm các cán bộ không thực hiện đúng quy trình quản lý thuế, bỏ sót hộ kinh doanh, doanh thu và số thuế phải nộp. Phát động phong trào thi đua trong toàn ngành để hoàn thành tốt các nhiệm vụ trọng tâm, kịp thời biểu dương các cá nhân, tập thể có thành tích tốt cũng như xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm. Xây dựng khối đoàn kết thống nhất trong nội bộ ngành, rà soát và kiện toàn lại đội ngũ lãnh đạo ngành thuế. Cụ thể hoá chế độ, tăng cường trách nhiệm của lãnh đạo đối với việc thực hiện nhiệm vụ quản lý thuế GTGT, quản lý đội ngũ cán bộ trên địa bàn. Tăng cường luân chuyển cán bộ thuế để điều hoà số lượng và chất lượng cán bộ trong toàn ngành tạo điều kiện, môi trường thuận lợi cho cán bộ phấn đấu. 3.2.8 Tăng cường công tác tuyên truyền, tư vấn thuế GTGT Xây dựng kế hoạch phát triển công tác tuyên truyền, xây dựng đội ngũ cán bộ làm công tác tuyên truyền chất lượng cao. Tăng cường công tác tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn, giải thích các chính sách, quy trình, thủ tục và nghĩa vụ nộp thuế GTGT cho mọi tầng lớp nhân dân và phát triển dịch vụ hỗ trợ ĐTNT. Phải phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng để tuyên truyền, đảm bảo cho ĐTNT hiểu rõ về chính sách thuế GTGT, biết ghi chép kê khai, tính thuế, quyết toán thuế đúng quy định và thực hiện đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế cho Nhà nước. Người nộp thuế GTGT là những người sản xuất, kinh doanh hàng hoá, dịch vụ nhưng họ chỉ là người nộp hộ số thuế mà người tiêu dùng đã nộp thông qua giá cả. Vì vậy, việc có quản lý và thu đủ số thuế GTGT hay không liên quan đến ý thức đòi hỏi hoá đơn hợp pháp của người mua hàng. Nếu người mua hàng không lấy hóa đơn hoặc không quan tâm đến tính hợp pháp, hợp lệ của hoá đơn thì sẽ không thể kiểm soát được người bán hàng gian lận trong việc sử dụng hoá đơn, gây thất thu cho ngân sách Nhà nước. Do đó, cần phải tăng cường công tác tuyên truyền, giáo dục về chính sách thuế về các quy định trong quản lý, sử dụng hoá đơn, chứng từ, nhằm nâng cao ý thức cho nhân dân phải đòi hỏi hoá đơn khi mua hàng hoá, hạn chế tình trạng gian lận trong việc sử dụng hoá đơn, chứng từ. Tiếp tục phát triển công tác tư vấn thuế cho ĐTNT. Công tác tư vấn thuế là một chức năng cơ bản của cơ quan thuế nhằm nâng cao trình độ hiểu biết về chính sách, quy trình, thủ tục quản lý, thu nộp thuế, tăng cường ý thức tự giác tự nguyện chấp hành nghĩa vụ nộp thuế của ĐTNT. Do đó thúc đẩy tư vấn thuế trong điều kiện hiện nay là một yêu cầu bức thiết, đòi hỏi phải có những biện pháp đồng bộ nhằm khuyến khích và có cơ chế ưu đãi phát triển các HĐTV thuế, hỗ trợ đào tạo, nâng cao năng lực cho những cán bộ làm công tác tư vấn thuế. Chi cục thuế phải kịp thời biểu dương, khen thưởng đối với các đối tượng thực hiện tốt nghĩa vụ nộp thuế, người có công phát hiện, tố giác các trường hợp vi phạm pháp luật thuế và có biện pháp xử lý nghiêm minh, kịp thời các trường hợp vi phạm, chống phá công tác quản lý thuế GTGT. 3.2.9 Góp phần hoàn thiện luật thuế GTGT Đồng thời, Cục thuế cũng phải nghiên cứu báo cáo trình Quốc Hội bổ sung, sửa đổi luật thuế GTGT, các hình thức xử lý vi phạm. Phát hiện các nội dung không phù hợp trong các văn bản pháp quy về thuế GTGT với thực tiễn đời sống, KT-XH của đất nước, những điểm không hợp lý về công tác tổ chức hệ thống bộ máy ngành thuế, về các quy trình nghiệp vụ trong công tác quản lý thuế… cũng như những khó khăn của mình từ đó kiến nghị các cơ quan chức năng sửa đổi, bổ sung và có biện pháp giúp đỡ kịp thời để không ngừng hoàn thiện hệ thống thuế trên cả nước và tăng cường công tác quản lý thuế. 3.3 Kiến nghị Ngoài những nguyên nhân chủ quan dẫn đến hạn chế, yếu kém trong công tác quản lý thuế GTGT mà cơ quan thuế có thể nghiên cứu tìm giải pháp để khắc phục thì còn có những nguyên nhân khách quan mà cơ quan thuế không đủ thẩm quyền hoặc không thể tự mình giải quyết được. Để khắc phục những nguyên nhân khách quan đó, không có cách nào hơn là kiến nghị lên các cơ quan quản lý Nhà nước có thẩm quyền và có khả năng đề nghị xem xét, giúp đỡ. Để hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế Quận 2, em mạnh dạn đề xuất một số kiến nghị sau: 3.3.1 Các cơ quan hữu quan cần phối hợp giúp đỡ cơ quan thuế Công tác quản lý thu thuế không chỉ là trách nhiệm của riêng ngành thuế mà có phần trách nhiệm của tất cả các cấp, các ngành. Do đó để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý thuế, đòi hỏi các cơ quan hữu quan phải phối hợp chặt chẽ với cơ quan thuế, tạo mọi điều kiện thuận lợi cho cơ quan thuế hoàn thành nhiệm vụ huy động nguồn thu cho ngân sách. UBND Quận cần cải thiện môi trường kinh doanh, có chính sách phát triển sản xuất, kinh doanh, thu hút đầu tư nước ngoài, thay đổi cơ cấu kinh tế, bảo hộ và khuyến khích tiêu dùng hàng sản xuất trong Quận một cách phù hợp… để phát triển nguồn thu trên địa bàn Quận cũng như thu hút nguồn thu ngoài địa bàn, đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp của Quận đưa các nguồn thu do kinh doanh ở địa phương khác về trong Quận. Nhà nước cần có sự phân cấp quản lý ĐTNT phù hợp hơn. Hiện nay, tất cả các ĐTNT thực hiện tính thuế GTGT theo phương pháp khấu trừ đều do Cục thuế quản lý, điều đó góp phần tập trung quản lý thống nhất tại Cục thuế, tuy nhiên do địa bàn quản lý rộng lớn nên Cục khó có thể quản lý tốt mọi đối tượng. Có một số nguồn thu phát sinh trên địa bàn Quận nhưng Chi cục thuế không được quản lý thu, đồng thời Chi cục thuế lại phải quản lý thu một số khoản thu phát sinh ngoài địa bàn Quận gây khó khăn cho công tác quản lý thuế. 3.3.2 Cải thiện môi trường pháp lý Nhà nước cần xem xét sửa đổi, bổ sung các chính sách thuế và các luật khác để tạo một môi trường pháp lý đồng nhất, nhằm tạo môi trường kinh tế thuận lợi để khuyến khích phát triển sản xuất, kinh doanh, tạo sự bình đẳng và công bằng giữa các thành phần kinh tế. Nhà nước cần xem xét lại các quy định về thẩm quyền kiểm tra, thanh tra của cơ quan thuế để công tác kiểm tra, thanh tra phát huy hết hiệu quả, đồng thời Nhà nước cần có quy định cụ thể về các hành vi vi phạm, các biện pháp xử lý và thực hiện xử lý nghiêm các trường hợp vi phạm về thuế GTGT. Công tác kiểm tra, thanh tra có vai trò rất lớn trong công tác quản lý thuế GTGT. Tuy nhiên sau khi kiểm tra phát hiện các trường hợp vi phạm mà không xử lý kịp thời, nghiêm minh thì cũng không có tác dụng răn đe, giáo dục các đối tượng vi phạm. Do đó, việc có các quy định xử lý vi phạm và chế độ thi đua, khen thưởng thích hợp sẽ góp phần tích cực nâng cao hiệu quả cho công tác quản lý thuế. 3.3.3 Tăng cường công tác quản lý trên máy tính Phát triển hệ thống mạng vi tính trong ngành thuế trên phạm vi toàn quốc và tăng cường công tác quản lý thuế GTGT trên máy tính. Xây dựng hệ thống máy tính nối mạng giữa các cơ quan quản lý Nhà nước, giữa cơ quan thuế và các doanh nghiệp để đối chiếu, kiểm tra chéo hoá đơn, chứng từ nộp thuế GTGT cũng như kiểm tra, giám sát tình hình sản xuất, kinh doanh và số liệu về doanh thu, chi phí của doanh nghiệp. Phát triển việc nối mạng toàn quốc theo hệ thống mã số thuế góp phần chống trùng lặp, dễ kiểm soát việc hoàn thuế, cập nhật hoá kịp thời nguồn thuế động viên vào ngân sách, trên cơ sở đó mà có chính sách điều tiết mọi hoạt động thu, chi của ngân sách Nhà nước. Thực tế khối lượng công việc của cơ quan thuế rất nhiều, đặc biệt là việc quản lý kiểm tra đối chiếu hoá đơn. Việc xác minh hoá đơn liên quan đến nhiều địa phương hoặc ở địa phương khác rất phức tạp, tốn thời gian. Để tạo điều kiện thuận lợi cho việc kiểm tra, đối chiếu hoá đơn thì phải phát triển công tác quản lý trên mạng máy tính. Nhà nước cần quy định bắt buộc các doanh nghiệp phải ứng dụng công nghệ tin học vào quản lý sản xuất, kinh doanh, hạch toán, kế toán và phải kết nối mạng vi tính của doanh nghiệp với cơ quan quản lý Nhà nước. Quy định các nguyên tắc khai thác trên mạng về dữ liệu của các doanh nghiệp đối với các cơ quan quản lý Nhà nước, quy định các tiêu chí chuẩn về doanh nghiệp để cơ quan quản lý áp dụng quản lý doanh nghiệp thông qua hệ thống máy tính. Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung chế độ kế toán cho phù hợp với việc quản lý thuế trên máy tính. Chương trình quản lý trên máy tính đã được triển khai nhưng chế độ kế toán chưa xây dựng được các tiêu chuẩn để quản lý trên máy tính thì không thể đạt hiệu quả cao. 3.3.4 Kiến nghị thay đổi 1 số vấn đề về luật thuế GTGT Hệ thống thuế có tác dụng ờ thời kỳ này nhưng ở thời kỳ khác, giai đoạn khác nó có thể sẽ bộc lộ sự lỗi thời, lạc hậu kìm hãm sự phát triển kinh tế - xã hội. Do vậy khi xây dựng cũng như khi thực hiện chính sách thuế GTGT cần xác định và nắm vững mục tiêu, nhiệm vụ mà hệ thống thuế sẽ đảm nhiệm có phù hợp với sự phát triển của cơ chế thị trường và xu hướng hội nhập của nền kinh tế hay không. Qua nhiều lần sửa đổi bổ sung đến nay Việt Nam đã xây dựng cho mình một cấu trúc cơ bản của hệ thống thuế hiện đại. Tuy nhiên công tác chuẩn bị trước khi ban hành như việc tuyên truyền, hướng dẫn, triển khai thực hiện… sau khi ban hành lại chưa đồng bộ, kịp thời dẫn đến tình trạng vừa mới ban hành lại phải sửa đổi và bổ sung làm cho số lượng quy định, thông tư, hướng dẫn… ngày càng nhiều gây khó khăn trong việc áp dụng đối với cả NNT và cơ quan quản lý. Văn bàn pháp lệnh về thuế phần lớn có hiệu lực kể từ ngày ký nhưng ngành thuế lại nhận được sau ngày ký một thời gian chính vì vậy một số văn bản có hiệu lực hồi tố đã gây nhiều sự lúng túng, khó khăn cho NNT và cơ quan chấp hành. Hiện nay hệ thống thuế nước ta có một số sắc thuế được ban hành dưới dạng luật còn lại một số thì dưới dạng pháp lệnh làm cho việc xây dựng các văn bản về chính sách thuế thiếu đồng bộ, chưa thống nhất và chưa thật đầy đủ, cụ thể còn mang tính chủ quan và áp đặt. Chính vì vậy cần sửa đổi và ban hành các văn bản sắc thuế đưới dạng luật từ đó tạo điều kiện thuận lợi trong công tác quản lý thuế cũng như tạo sự ổn định và bình đẳng giữa các pháp nhân và thể nhân hoạt động trong nền kinh tế thị trường. Đối với luật thuế GTGT quy định 2 phương pháp tính thuế trước mắt đã tạo ra hạn chế trong quá trình SX-KD giữa các thành phần kinh tế trong khu vực. Đặc biệt là hoà nhập vào nền kinh tế chung của thế giới. Cần giảm bớt tình trạng nhầm lẫn và áp dụng sai thuế suất khi tính thuế và cần thực hiện đồng bộ trong việc sử dụng hoá đơn tự in trong thời gian tới KẾT LUẬN Việc trển khai thực hiện luật thuế GTGT đến nay đã được 12 năm, trong thời gian đầu thực hiện, luật thuế GTGT còn gặp nhiều khó khăn, vướng mắc cần tiếp tục giải quyết. Những khó khăn, vướng mắc đó vừa ở ngay trong chính bản thân luật thuế, vừa do công tác quản lý, triển khai thực hiện luật thuế còn yếu kém, ngoài ra còn do tác động của các điều kiện khách quan. Những khó khăn đó đòi hỏi phải tiếp tục nghiên cứu để tìm ra các giải pháp thích hợp nhằm ngày càng hoàn thiện luật thuế, tăng cường hiệu quả cho công tác quản lý thuế và tạo điều kiện KT-XH thuận lợi để luật thuế phát huy tốt hơn vai trò, tác dụng của mình. Tuy bước đầu còn gặp nhiều khó khăn, nhưng dưới sự chỉ đạo sát sao của Nhà nước, chính quyền các cấp, sự phối hợp, giúp đỡ của các ban, ngành, cơ quan hữu quan, sự cố găng nỗ lực phấn đấu của cán bộ Chi cục thuế Quận 2, cùng với sự hưởng ứng, chấp hành đầy đủ nghĩa vụ nộp thuế đối với ngân sách Nhà nước của các ĐTNT nên luật thuế GTGT đã thực sự đi vào cuộc sống, việc áp dụng luật thuế GTGT đã đạt được những thành công to lớn, phát huy vai trò tích cực trên các mặt của đời sống KT-XH, đảm bảo được yêu cầu, nhiệm vụ và mục tiêu mà Nhà nước đề ra. Qua thời gian thực tập tại Chi cục thuế Quận, tôi đã nghiên cứu và phân tích, đánh giá thực trạng công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế Quận 2. Nhìn chung, công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế Quận 2 đã được thực hiện tương đối tốt, đã đạt được những kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên trong quá trình thực hiện vẫn còn một số hạn chế, yếu kém. Công tác quản lý vẫn còn lúng túng, hiệu quả chưa cao, kết quả thu thuế GTGT trong những năm qua vẫn chưa tương xứng với mức độ và quy mô phát triển sản xuất, kinh doanh của Quận. Với trình độ nhận thức và năng lực phân tích, đánh giá còn hạn chế, nên việc nhận định trong luận văn này có thể chưa được toàn diện, sâu sắc. Nhưng xuất phát từ niềm tin của mình trong thời gian thực tập, bản thân tôi hy vọng với những ý kiến trong luận văn sẽ góp một phần nhỏ bé nhằm hoàn thiện công tác quản lý thuế GTGT tại Chi cục thuế Quận 2. Đề tài này là một vấn đề cũng rất phức tạp, hơn nữa với thời gian nghiên cứu, thực tập có hạn và với trình độ lý luận, thực tiễn còn nhiều hạn chế nên luận văn không tránh khỏi có những thiếu sót, chất lượng chưa cao. Vì vậy, kính mong nhận được sự đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cán bộ thuế và những người quan tâm để tôi có thêm kiến thức chuyên môn khi ra trường và để luận văn này được hoàn thiện hơn, có tính khả thi hơn. Kính mong Cô giáo, TS. Phan Mỹ Hạnh giúp đỡ, chỉ bảo thêm để tôi có thể hoàn thành tốt luận văn này. TÀI LIỆU THAM KHẢO Luật thuế GTGT số 13/2008/QH12 ngày 03/06/2008 áp dụng từ ngày 01/01/2009 Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 Quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT Thông tư số 129/2008/TT-BTC ngày 26/12/2008 Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật thuế GTGT và hướng dẫn thi hành Nghị định số 123/2008/NĐ-CP ngày 08/12/2008 Quy định chi tiết hướng dẫn thi hành ột số của Luật thuế GTGT Thông Tư số 60 /2007/TT-BTC ngày 14 tháng 6 năm 2007 Hướng dẫn thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế và hướng dẫn thi hành Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/5/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế Luật quản lý thuế số 78/2006/QH11 ngày 29/11/2006 Nghị định số 106/2010/NĐ-CP ngày 28/10/2010 của Chính phủ về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 85/2007/NĐ-CP ngày 25/05/2007 của Chính phủ quy định chi tiết thi hành một số điều của Luật Quản lý thuế. Quyết định 477/Q Đ-TCT năm 2008 về quy trình quản lý thu nợ thuế do Tổng cục Trưởng Tổng cục thuế ban hành ngày 15/05/2008. Báo cáo tổng kết công tác quản lý thuế GTGT năm 2008, 2009, 2010 của Chi cục thuế Quận 2 Trang Web tham khảo: - Tổng cục thuế : www.gdt.gov.vn - Cục thuế TP.HCM : www.hcmtax.gov.vn Tạp chí thuế Nhà nước năm 2008, 2009, 2010 Tập chí thông tin Tài chính năm 2008, 2009, 2010

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docNOI DUNG KHOA LUAN.doc
  • docBIA.doc
  • pdfKHOA LUAN TOT NGHIEP_CHAU THANH TRUC.pdf
  • docLOI CAM DOAN.doc
  • docLOI CAM ON.doc
  • docMUC LUC.doc
  • docPHIEU GIAO DE TAI.doc
Tài liệu liên quan