Khóa luận Đánh giá khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam

Từ rất lâu trên thế giới ngành công nghiệp dệt- may đã được hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình công nghiệp hoá từ rất sớm ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Italia cho đến các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore ngành dệt- may luôn chiếm một vị trí quan trọng. Thế giới đã từng chứng kiến làn sóng di chuyển ngành dệt- may từ các nước phát triển sang các nước công nghiệp mới diễn ra vào những năm 70 và 80 của thế kỷ XX. Bước sang thế kỷ XXI có lẽ các nước đang phát triển lại trở thành những nước xuất khẩu dệt- may chủ yếu. Đây chính là thời điểm cho Việt Nam thúc đẩy ngành dệt- may trong nước phát triển, góp phần phục vụ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa . Trong những năm qua, ngành dệt- may Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, Thị trường không ngừng được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Ngay cả trong tình trạng cuộc khủng hoảng tiền tệ kéo dài hai năm thì xuất khẩu hàng dệt- may vẫn giữ được mức tăng trưởng khá cao khoảng 25% . Điều quan trọng hơn là ngành đã góp phần tích cực giải quyết công việc làm cho hàng triệu lao động trên mọi miền của đất nước trong tình trạng chúng ta thiếu vốn thừa lao dộng. Tuy nhiên trong công tác xuất khẩu hàng dệt- may vẫn tồn tại nhiều thực trạng cần giải quyết. Hoạt động xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức gia công nên phần giá trị gia tăng đem lại cho đất nước không nhiều, hiệu quả xuất khẩu chưa cao, và xét trong chừng mực nào đó chúng ta đã để lãng phí nguồn tài lực của đất nước.

doc76 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1638 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đánh giá khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lệ tăng trưởng cao so với nhiều ngành khác. 1.2 Thị trường nước ngoài. Việc nghiên cứu thị trường nước ngoài đòi hỏi phải nắm chắc được sở thích riêng biệt của mỗi thị trường về loại sản phẩm dệt- may nào đó. Như vậy sẽ tạo điều kiện tăng tỷ trọng xuất khẩu phù hợp từng loại thị trường, giúp cho nhà xuất khẩu tận dụng được lợi thế thương mại. 1.2.1 Thị trường EU. Khi xuất khẩu sang thị trường EU, ta cần tìm hiểu một số nét đặc trưng trong chính sách thương mại chung của khối. Để trợ giúp cho các nước đang phát triển xuất khẩu vào thị trường EU, từ năm 1971 Liên hiệp Châu Âu (EU) đã áp dụng hệ thống ưu đãi thuế quan phổ cập (GSP) đối với chủng loại sản phẩm nông nghiệp và công nghiệp của các nước có tên trong quy chế (tuân theo quy định và xuất xứ hàng hoá và phải xuất trình giấy chứng nhận xuất xứ from A). EU tiến hành thông qua các quy chế áp dụng cho từng thời kỳ. EU sẽ bỏ dần việc giới hạn số lượng sản phẩm nhập khẩu vào EU (chế độ hạn ngạch) cũng như số lượng sản phẩm được ưu đãi về thuế, đồng thời hủy bỏ hầu như toàn bộ mức thuế bằng 0% và thay bằng các mức thuế khác nhau dành cho từng nhóm hàng có độ nhạy cảm khác nhau. Việt Nam và EU đã thoả thuận tăng 50 - 75% hạn ngạch cho các mặt hàng dệt- may nhạy cảm của Việt Nam xuất khẩu vào thị trường này (đựoc ký kết sau 4 ngày đàm phán từ ngày 12-15/2/2003). Ngoài ra từ năm 1998 EU áp dụng thêm điều khoản ưu đãi về xã hội và môi trường cho phép các sản phẩm xuất khẩu vào EU được giảm thuế theo tỷ lệ nhất định nếu chứng tỏ được sự tôn trọng các điều khoản quốc tế. 1.2.2 Thị trường Nhật Bản: Nhật Bản là thị trường phi hạn ngạch nhưng khách hàng Nhật Bản lại đòi hỏi rất cao đối với chất lượng sản phẩm nhập khẩu nhất là sản phẩm dệt- may. Để mở rộng thị trường này chúng ta cần phải nỗ lực nâng cao chất lượng sản phẩm, có giá thành hạ, doanh nghiệp Việt Nam sẽ có cơ hội lớn để xuất khẩu vào thị trường Nhật Bản. Mặc dù có những khó khăn trong hiện tại, nhưng cơ hội mở ra cho các doanh nghiệp không phải là nhỏ, Chính phủ Nhật Bản khẳng định sẽ áp dụng những chính sách thích hợp để khôi phục và phát triển nền kinh tế. Điều này có nghĩa là nhu cầu nhập khẩu sẽ được khôi phục và tiếp tục tăng trưởng. Hàng năm để đáp ứng cho thị trường nội địa, Nhật sẽ nhập 90% nhu cầu hàng dệt- may. Cánh cửa đã mở ra nhưng việc nắm bắt được cơ hội này không đơn giản bởi Nhật Bản là một thị trường khó tính và có những yêu cầu về kiểm tra chất lượng rất chặt chẽ. Trong khi một số doanh nghiệp Việt Nam vẫn chưa thể đưa ra được các chiến lược đầu tư nâng cao công nghệ nhằm cải thiện khả năng cạnh tranh của sản phẩm. Việc ký kết hợp đồng với Nhật Bản đã khó nhưng việc duy trì hợp đồng còn khó hơn nhiều. Yêu cầu chung cho các doanh nghiệp Việt Nam trong điều kiện cạnh tranh khốc liệt hiện nay là phải nỗ lực tạo ra những sản phẩm có chất lượng, mầu sắc hợp thị hiếu, áp dụng những biện pháp quảng cáo giới thiệu mặt hàng mới với giá khả thi để củng cố và thâm nhập thị trường truyền thống này. 1.2.3 Thị trường Mỹ: Trong những năm trước đây sự phân biệt đối xử của thị trường Mỹ là trở ngại lớn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi tiếp cận và thâm nhập thị trường này. Thuế nhập khẩu đối với nhiều loài hàng may mặc cao gấp 10 lần so với mức thuế khi có tới huệ quốc. Ví dụ mức thuế không có tối huệ quốc đối với một số đồ may mặc thể thao và trượt tuyết là 90% trong khi mức thuế theo ưu đãi tối huệ quốc chỉ có 8,5%. Ngày 10/12/2001, một cơ hội vàng cho các doanh nghiệp Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu vào thị trường nhập khẩu hàng đầu thế giới đó là Hiệp định thương mại Việt Nam - Hoa Kỳ có hiệu lực. Trong thời gian tới, một thách thức mới đối với các doanh nghiệp dệt may Việt Nam là hiệp định thương mại hàng dệt- may Việt Nam- Hoa Kỳ có hiệu lực, trong đó 38 chủng loại hàng dệt- may xuất khẩu sang Mỹ bị áp đặt hạn ngạch. Con đường xuất khẩu dệt- may nước ta trước mắt sẽ gặp nhiều thách thức. Hạn ngạch trên khiến khả năng tăng trưởng xuất khẩu của các doanh nghiệp dệt- may bị hạn chế một cách nghiêm trọng, làm giảm tốc độ phát triển cũng như kim ngạch xuất khẩu của toàn ngành. Có một thực tế là trong tổng số 38 mặt hàng dệt- may của Việt Nam bị áp dụng hạn ngạch thì tình trạng thiếu hạn ngạch chỉ diễn ra ở một số chủng loại hàng “nóng” (theo cách gọi của giới chuyên môn) còn một số chủng loại hàng “nguội” vì doanh nghiệp Việt Nam chưa khai thác hết nên kim ngạch xuất khẩu sang Mỹ có thể không đạt hạn ngạch được phân bổ. Trước tình hình trên, để tránh rối loạn, các doanh nghiệp phải kịp thời điều chỉnh kế hoạch sản xuất, kế hoạch giao hàng, tuyển dụng lao động, đầu tư trang thiết bị đồng thời đánh giá, điều chỉnh lại các thị trường khác như EU Nhật Bản …, không nên tập trung quá nhiều vào thị trường Mỹ. Một thách thức nữa được đặt ra: Mỹ là thị trường tiệu thụ hàng dệt- may lớn nhất trên thế giới, các hợp đồng đặt hàng với thị trường này thường có số lượng lớn, thời gian giao hàng ngắn. Một doanh nghiệp Việt Nam không thể đáp ứng được ngay về số lượng. Vì thế, vấn đề mở rộng quy mô, tăng năng lực sản xuất và liên kết các doanh nghiệp được đặt ra cấp bách. Trong số 120 chủng loại hàng dệt- may thì chỉ có 38 mặt hàng bị áp dụng hạn ngạch, do đó doanh nghiệp phải chủ động tìm khách hàng mua những mặt hàng không bị khống chế bởi hạn ngạch để khai thác. Mặt khác phía Mỹ chỉ không chế về số lượng chứ không khống chế về doanh số nên các doanh nghiệp cần tìm cách để nâng giá trị của hàng lên. Mặt khác, Hiệp định mới này cho phép hải quan Mỹ được kiểm tra các nhà máy của Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp dệt- may khi xuất khẩu sang Mỹ phải tuân thủ một cách nghiêm ngặt các quy trình thủ tục của nước để tránh tình trạng phía Mỹ có cớ áp đặt hạn ngạch chặt chẽ hơn hoặc phạt hạn ngạch. Qua so sánh giá trị xuất khẩu hiện nay của Việt Nam vào Châu Âu và Nhật Bản và Mỹ ta có thể tìm thấy nhiều câu trả lời cần thiết cho việc dự báo một mô hình buôn bán trong tương lai giữa Việt Nam và Mỹ đó là phải gia tăng xuất khẩu mạnh mẽ các sản phẩm may mặc dệt kim thông thường phù hợp với thị hiếu của tầng lớp dân chúng có thu nhập trung bình của Mỹ. Hàng năm tỷ trọng hàng dệt kim tiêu thụ ở Mỹ chiếm 50% so với tổng lượng tiêu thụ hàng dệt- may của con người. Đối với thị trường này cần lưu ý lựa chọn cỡ thiết bị phải phù hợp với cỡ áo vì nguời Mỹ thường sử dụng các loại áo dệt kim liền sườn. III- Những khó khăn và thách thức hiện nay của hàng dệt may việt nam trong việc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. Trong những năm qua, sản xuất của ngành dệt- may so với năng lực mới chỉ đạt 50-60%. Muốn nâng cao năng lực sản xuất thực tế không có cách nào khác là phải tăng khối lượng hàng xuất khẩu thông qua việc mở rộng thị trường. Nhưng muốn mở rộng thị trường thì phải tạo cho hàng hoá sức cạnh tranh. Tuy nhiên, hiện nay các doanh nghiệp, đặc biệt là các doanh nghiệp dệt- may Việt Nam khi tham gia vào thị trường thế giới phải chịu nhiều khó khăn và sức ép, bao gồm cả những yếu tố bên ngoài cũng như những tồn tại trong cơ cấu sản xuất. 1- Ưu thế của các nước tham gia vào thị trường quốc tế. So với các nước khác thì ưu thế của Việt Nam là giá lao động rẻ. Ta hãy xem bảng sau: Bảng 11: Chỉ số về lương lao động dệt may của một số nước trên thế giới Nước Lương lao động dệt- may USD/h Việt Nam 0,18 TháI Lan 0,87 Indonexia 0,23 Singapo 3,16 Đài Loan 5 Trung Quốc 0,34 Nhật Bản 16,37 Mỹ 10,33 Anh 10,16 Pháp 12,63 Nguồn: (Quy hoạch phát triển dệt- may Việt Nam đến năm 2010- Tổng công ty dệt- may Việt Nam) Giá nhân công rẻ là một điều kiện để hàng dệt- may Việt Nam có giá thành sản xuất thấp hơn. Tuy nhiên trên thực tế cho thấy ưu thế này không đem lại nhiều lợi thế cho Việt Nam khi mà chúng ta so với các quốc gia khác có hàng loạt bất lợi: - Hiện nay, ngành dệt- may trên thế giới đang phát triển như vũ bão, ngày càng được công nghiệp hóa và tự động hoá. Nền công nghiệp dệt- may Việt Nam cách rất xa các nước có trình độ công nghệ khổng lồ như Mỹ, Nhật Bản và Châu Âu và ngay cả với các nước trong khu vực hay trong khối ASEAN trình độ thiết bị công nghệ của ta vẫn chưa ngang tầm. - Việt Nam mới thực sự tham gia vào thị trường thế giới từ năm 1993, do đó các doanh nghiệp chưa có nhiều kinh nghiệm về tiếp cận thị trường, cách tiêu thụ sản phẩm… - Tuy đã thành lập Viện mẫu thời trang FADIN (trực thuộc Tổng Công ty - Dệt may Việt Nam) nhưng thiết kế mẫu vẫn là khâu yếu của ngành dệt may. Do vậy, không những thua kém các nước trong khối ASEAN về khả năng thiết kế mẫu mã, mà so với những nước hàng dệt- may từ lâu đã có thế mạnh trên thị trường như Hàn Quốc, Hồng Kông, Đài Loan, Trung Quốc… chúng ta càng ở thế bất lợi. 2- Sự phụ thuộc vào sự bảo hộ của Nhà nước và ít cố gắng vươn lên trong cạnh tranh. Nghiên cứu chính sách định hướng sản xuất kinh doanh ngành dệt- may các nước tư bản phát triển, các nước công nghiệp mới và một số nước đang phát triển thời điểm những năm 60, người ta thấy đa số các nước này định hướng theo ba bước sau: - Giai đoạn đầu: sản xuất thay thế nhập khẩu. Tuỳ theo điều kiện từng nước mà giai đoạn này kèo dài hay ngắn, thông thường là 10 năm. - Giai đoạn hai: Xuất khẩu một phần để có ngoại tệ mua nguyên vật liệu, phụ tùng, thiết bị không tự sản xuất được trong nước. Giai đoạn này kéo dài khoảng 10-15 năm. - Giai đoạn 3: Xuất khẩu hàng loạt (hướng ngoại mạnh mẽ). Nếu Việt Nam cũng phát triển ngành dệt- may theo hướng như trên thì phải 15-20 năm nữa chúng ta mới có thể hướng mạnh về xuất khẩu. Tuy nhiên, hiện nay với các nước đi sau như Việt Nam ngành dệt- may có thể đi ngay vào phát triển bằng con đường hướng mạnh về xuất khẩu nếu chúng ta có đủ các đáp ứng về vốn và công nghệ… Chính vì vậy Tổng công ty dệt- may Việt Nam đã đề ra chủ trương công nghiệp hoá, hiện đại hoá trong ngành dệt- may hướng về xuất khẩu. Nhưng hiện nay, việc bố trí dây chuyền sản xuất, công nghệ, quản lý, đào tạo lao động… vẫn là cơ cấu nặng về gia công (trên 60%) và thay thế hàng nhập khẩu (10%). Một cơ cấu như vậy không thể tạo cho doanh nghiệp thế lực cạnh tranh trên thương trường, do đó khó có thể hướng mạnh về xuất khẩu: - Nếu các doanh nghiệp chỉ bằng lòng với việc gia công xuất khẩu, không chịu huy động vốn để tự đầu tư thì doanh nghiệp sẽ mất đi sự chủ động trong tiếp cận thị trường, sản phẩm không có nhãn mác riêng nên không có tên tuổi trên thị trường, không tạo được uy tín đối với người tiêu dùng. Gia công quốc tế không đem lại nhiều hiệu quả kinh tế, doanh nghiệp không có vốn để đầu tư công nghệ, thiết bị mới, do đó ngày càng tụt hậu trong việc sản xuất ra sản phẩm có chất lượng cao. - Các doanh nghiệp nếu chỉ hướng vào thay thế nhập khẩu thì đều đòi hỏi sự bảo hộ của Nhà nước, do đó ít cố gắng vươn lên trong cạnh tranh. Như vậy doanh nghiệp muốn chiếm lĩnh thị trường nội địa đã khó khăn còn việc len chân được vào thị trường thế giới lại càng nan giải. Quả thực, một cơ cấu nặng về gia công và thay thế nhập khẩu như vậy phần nào làm mất đi sự gắn kết của doanh nghiệp với thị trường tiêu dùng thế giới, khiến cho doanh nghiệp khó xác định được những chiến lược sát hợp với khả năng tham gia cạnh tranh vào thị trường quốc tế. 3- Chưa xây dựng được chiến lược thị trường. Tiến trình thực hiện chiến lược kinh tế hướng về xuất khẩu đòi hỏi các doanh nghiệp dệt- may phải lấy nhu cầu thị trường thế giới như EU, Nhật, ASEAN, Mỹ… là mục tiêu cho sản xuất ra được các sản phẩm có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Những sản phẩm đó không chỉ là hàng xuất khẩu mà mọi sản phẩm sản xuất ra đều phải đáp ứng yêu cầu cạnh tranh. Trong khi các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Đài Loan, Trung Quốc, Hồng Công, Nhật Bản từ thập kỷ 60 - 70 hay các nước ASEAN trong thập kỷ 70-80 đã thực hiện thành công chiến lược này thì chúng ta vẫn chưa xây dựng được chiến lược thị trường xuất khẩu hàng dệt- may. Điều đó đã khiến: - Hàng hoá sản xuất chưa phù hợp với nhu cầu, thị hiếu của thị trường quốc tế. - Mẫu mã hàng hoá thường sản xuất theo mẫu của khách hàng. - Việc tổ chức mạng lưới thông tin tiếp thị ở nước ngoài chưa triển khai thống nhất. - Chưa có sự hiểu biết về thủ tục, tập quán và luật lệ của các nước và khu vực trên thế giới. Rốt cục hậu quả đem lại là thị trường xuất khẩu đặc biệt là thị trường phi hạn ngạch không ổn định việc mở rộng thị trường không được vững chắc khi doanh nghiệp phụ thuộc vào sự phân bố hạn ngạch của Nhà nước và lúng túng khi có hạn ngạch xuất khẩu. 4. Hội nhập quốc tế đòi hỏi sự cải tiến mạnh mẽ trong cơ cấu sản xuất kinh doanh. Khó khăn, thách thức đối với ngành dệt may Việt Nam là không nhỏ khi tham gia vào tiến trình cắt giảm thuế quan CEPT, diễn đàn khu vực mậu dịch tự do AFTA. tham gia diễn đàn hợp tác khu vực Châu á Thái bình dương (APEC) và chuẩn bị gia nhập tổ chức thương mại thể giới (WTO) trong tương lai. Đó là Việt Nam còn thua kém các nước trên thế giới ở năng lực sản xuất, chất lượng sản phẩm, thiết bị công nghệ… Do vậy cùng với quá trình hội nhập quốc tế, một đòi hỏi bức thiết đối với ngành dệt- may là phải tổ chức lại sản xuất, đổi mới quản lý, thiết bị công nghệ… Hơn nữa, việc xây một ngành dệt may theo chính sách hướng mạnh về xuất khẩu không phải là dễ dàng. Nó đòi hỏi phải có những cán bộ tinh thông về nghiệp vụ ngoại thương, trang bị công nghệ phải đúng hướng, mặt hàng phải đủ sức cạnh tranh, có những biện pháp để thu hút vốn đầu tư… Chương III những giải pháp để nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may trên thị trường thế giới I. sự cần thiết phảI nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may việt nam trên thị trường thế giới. Đặc điểm của ngành dệt may là thu hút nhiều lao động với kỹ năng không cao lắm, vốn đầu tư ban đầu cho một cơ sở sản xuất không lớn, sản phẩm dệt- may gắn liền với nhu cầu của con người nên có điều kiện để mở rộng thương mại quốc tế. Dù nền khoa học thế giới đã phát triển cao với quá trình điện tử hóa, Computer hóa và robot hoá thì công nghiệp dệt- may vẫn là ngành cần nhiều lao động với giá nhân công rẻ. Đây chính là điểm thuận lợi cho Việt Nam đẩy nhanh tốc độ phát triển ngành dệt may. Tuy nhiên, quy luật tất yếu hay thời cơ này có thể bị bỏ qua nếu chúng ta không nhanh chóng tạo cho hàng dệt- may năng lực canh tranh trên thị trường. Sức ép của tiến trình hội nhập kinh tế, cơ hội thị trường xuất khẩu đã rộng mở cho dệt- may Việt Nam như thị trường EU, Nhật Bản, Trung Đông, Châu á, Châu Mỹ, đặc biệt là Hoa Kỳ mà chúng ta vừa đạt được Hiệp định thương mại với họ. Đối thị trường Mỹ, trong thời gian đầu chưa có có hạn ngạch, dệt- may Việt Nam cần tranh thủ xuất vào tối đa. Đối với thị trường ASEAN, ngành dệt- may Việt Nam cần tăng sức cạnh tranh để đối phó với sản phẩm các nước trong khối này có điều kiện thâm nhập vào Việt Nam với thuế suất thấp sau năm 2005. Còn với thị trường EU, sẽ bãi bỏ hạn ngạch dệt- may cho các nước thành viên WTO sau năm 2004. Ngành dệt- may Việt Nam trong những năm qua đang dần củng cố được chỗ đứng của mình trên thị trường quốc tế. Tuy nhiên thị phần, giá trị xuất khẩu hàng dệt- may Việt Nam vào thị trường thế giới vẫn còn nhỏ so với tiềm năng của đất nước, so với các nước khác trong khu vực. Một trong những nguyên nhân của thực tế này là năng lực cạnh tranh của hàng dệt- may Việt Nam trên thị trường còn thấp. Chính vì vậy, việc nâng cao năng lực cạnh tranh của hàng dệt- may Việt nam trên thị trường là hết sức cần thiết. Để sản phẩm dệt- may Việt Nam đứng vững trên thị trường thế giới, để đạt được mục tiêu ngành dệt- may đề ra là tăng tỷ trọng xuất khẩu FOB, tăng giá trị và lợi nhuận thông qua hình thức này (theo chiến lược “tăng tốc” tỷ trọng FOB sẽ nâng lên khoảng 50% vào năm 2005 và 75% vào năm 2010), không ngừng nâng cao kim ngạch xuất khẩu góp phần tăng tích lũy tư bản cho quá trình Công nghiệp hóa- Hiện đại hóa nền kinh tế đất nước. Khẳng định hàng dệt- may vẫn là mặt hàng xuất khẩu mũi nhọn trong chiến chiến lược tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu của Việt nam. II. các giảI pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may việt nam trên thị trường thế giới 1. Giải pháp về thị trường. Năng lực cạnh tranh của hàng hoá chính là khả năng thâm nhập vào thị trường mới hay khả năng tiêu thụ hàng hoá với số lượng lớn và tốc độ nhanh. Muốn nâng cao năng lực cạnh tranh, doanh nghiệp phải gắn các hoạt động của mình với thị trường từ khâu nghiên cứu thị trường, thiết kế sản phẩm, sản xuất đến tiêu thụ sản phẩm. Chính vì vậy một việc tối cần thiết giúp doanh nghiệp tạo thế chủ động trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh hàng hóa là phải xây dựng chiến lược thị trường phát triển toàn bộ trong đó bao gồm các chính sách về sản phẩm, giá cả, phân phối và xúc tiến hỗ trợ kinh doanh. 1.1 Về sản phẩm. Định hướng sản phẩm là vấn đề thiết yếu đối với mỗi doanh nghiệp. Sản phẩm là thứ mà ta định đem bán với chất lượng, mầu sắc và kích cỡ như thế nào chứ không chỉ là cái ta định sản xuất. Từ quan điểm sản xuất ra những thứ mà thị trường cần, việc đi đến quyết định sản xuất cái gì là kết quả của cả quá trình tìm hiểu khách hàng. Để khuyến khích xuất khẩu hàng dệt- may Việt Nam phải từng bước tạo cho mình những sản phẩm chủ lực. Theo kinh nghiệm của một số cường quốc về dệt- may thì sản phẩm dệt- may công nghiệp chỉ có chỗ đứng trên thị trường khi nó thỏa mãn tiêu chuẩn của thị trường này về tính thời trang, chất liệu vải, kiểu dáng, thoả mãn các thị hiếu chủ đạo và đạt chất lượng kỹ thuật cao cấp. Thông qua việc nghiên cứu nhu cầu của người tiêu dùng, nghiên cứu những mặt mạnh, mặt yếu của mình, doanh nghiệp xây dựng một danh mục sản phẩm tối ưu, xác định những sản phẩm mũi nhọn, sản phẩm chiến lược và thực hiện đa dạng hoá sản phẩm theo chiều sâu. Sản phẩm dệt may là sản phẩm gắn liền với các yếu tố như lứa tuổi, giới tính, văn hoá, tập quán… nên các doanh nghiệp cần có sự đáp ứng theo phân đoạn thị trường. Chính vì dệt may là mặt hàng rất có điều kiện để đa dạng hoá sản phẩm nên doanh nghiệp cần xem xét khả năng của mình về tài chính, công nghệ, quản lý để xây dựng mục hàng hoá không quá nông cũng không quá sâu. Mặt khác, ngành dệt- may cũng cần phải tăng số lượng mặt hàng chủ lực của mình để tránh phụ thuộc vào thị trường nước nhập khẩu, cũng như có thể ứng phó linh hoạt với những thay đổi về giá cả, nhu cầu của thị trường . Bên cạnh việc đa dạng hoá sẩn phẩm chủ lực, ngành dệt- may Việt Nam cũng cần không ngừng đa dạng hoá thị trường. Trên quan điểm đa phương hoá các mối quan hệ quốc tế, ngành dệt- may nói chung và mỗi doanh nghiệp nói riêng đều phải tích cực tìm kiếm thị trường tiêu thụ quốc tế thông qua các chuyến viếng thăm cấp chính phủ, các chuyến khảo sát, thu thập các thông tin về những quy định hạn ngạch nhập khẩu, thuế, phí buôn bán, các thủ tục và chính sách của thị trường quốc tế, khả năng tiêu thụ của thị trường để có những giải pháp kịp thời và thích hợp. 1.2 Về giá cả. Giá là một trong những yếu tố quan trọng trong việc nâng cao năng lực cạnh tranh. Giá doanh nghiệp đưa ra phải bù đắp các chi phí bỏ ra, tương xứng với chất lượng sản phẩm và để làm sao không cao hơn giá của đối thủ cạnh tranh trên cùng một phân đoạn thị trường. Do vậy việc định giá dựa trên giá của đối thủ cạnh tranh, dựa trên chi phí bỏ ra cũng như dựa trên mục tiêu của doanh nghiệp trong cạnh tranh. Để có thể chủ động trong việc xây dựng chính sách giá, có thể đưa ra nhiều mức giá khác nhau tuỳ thuộc vào tình hình thị trường, doanh nghiệp cần bằng mọi cách hạ thấp giá thành sản phẩm, loại bớt những chi phí không hợp lý. 1.3 Về phân phối. Việc thâm nhập thị trường thế giới thật không dễ dàng vì khả năng tiếp xúc trực tiếp bằng sản phẩm và con người với khách hàng mục tiêu trở nên khó khăn hơn khi gặp phải những hàng rào về ngôn ngữ và tập quán giao dịch… Vì vậy, nếu không đề ra một chính sách phân phối thì doanh nghiệp sẽ mất nhiều thời gian để đưa sản phẩm đến tay người tiêu dùng. Bán hàng trực tiếp ở nước ngoài cũng là một nhân tố quan trọng để khuyếch trương sản phẩm dệt- may. Hiện nay có một số thương nhân Việt Nam ở Đông Âu bán sản phẩm dệt- may Việt Nam nhưng lại gắn nhãn mác nước ngoài. Vì vậy các doanh nghiệp dệt- may Việt Nam đặc biệt là Hiệp hội dệt- may Việt Nam, Tổng công ty dệt- may Việt Nam cần liên kết với các thương nhân này để bán sản phẩm của doanh nghiệp với tên và nhãn hiệu đích thực của mình. Những doanh nghiệp lớn như Công ty may 10, Công ty may Việt Tiến, Công ty dệt kim Đồng Xuân… có thể thông qua các hãng lớn, đã có quan hệ lâu dài đưa sản phẩm của mình tới người tiêu dùng quốc tế. Ngoài ra, việc quan hệ với họ còn để học hỏi kinh nghiệm về phân phối sản phẩm. ấn Độ và Indonexia đã lập kho hàng xuất khẩu của mình ngay tại Cảng Châu Âu ( như cảng Rottexdam - Hà Lan) để bám sát lịch giao hàng. Hiện nay chúng ta mới có các kho hàng tại một số nước là khách hàng truyền thống như Đức, Nga… Như vậy, cần lập thêm các kho hàng ở các cảng lớn để việc giao nhận được kịp thời đảm bảo được uy tín với bạn hàng. 1.4 Về xúc tiến hỗ trợ kinh doanh. Thiết lập hệ thống mạng xúc tiến thương mại đối với các thị trường trọng điểm như EU, Nhật Bản và Hoa Kỳ … để làm được việc này, Hiệp hội dệt- may Việt Nam, Tổng công ty dệt- may Việt Nam và các doanh nghiệp cần tự mình đưa ra các cơ chế nhằm khai thác các nguồn lực thương mại khác nhau hiện đã có mặt tại các thị trường trọng yếu đó. Hệ thống mạng thương mại cần thiết phải đan xen lẫn nhau, nghĩa là cần coi trọng thiết lập nhiều đầu mối tại một thị trường, đồng thời chú trọng thiết lập nhiều đầu mối trên sân nhà của mình, đặc biệt sử dụng các công luật nước ngoài có mặt tại Việt Nam để làm tư vấn pháp luật cho hoạt động xuất khẩu. Cần đẩy mạnh việc quảng cáo cho sản phẩm và doanh nghiệp tại các thị trường mục tiêu như EU, Nhật Bản và Mỹ, ASEAN… Ngoài quảng cáo giới thiệu doanh nghiệp như trước đây, các doanh nghiệp dệt may phải quảng cáo sâu, chi tiếu về sản phẩm mũi nhọn, biểu trưng của doanh nghiệp. Tuỳ vào yêu cầu khuyếch trương sản phẩm và khả năng tài chính để chọn các hình thức và phương tiện quảng cáo phù hợp, từ các phương tiện nghe nhìn đến các ấn phẩm xuất bản như các tạp chí chuyên ngành, báo ảnh, lịch, các tờ rơi, các cataloge…,đặc biệt là phương pháp kinh doanh trên mạng, đặt các văn phòng đại diện, các gian hàng Việt Nam tại các siêu thị nước ngoài… Duy trì việc tham gia hội chợ quốc tế về hàng dệt- may trên thế giới cũng hết sức cần thiết, thông qua đó các doanh nghiệp có thể gặp gỡ khách hàng, hiểu biết thêm về nhu cầu của họ cũng như mở ra khả năng tìm kiếm thị trường mới. 2. Giải pháp về đầu tư. Đầu tư là một trong những giải pháp quan trọng nhất. Có đầu tư thì có đổi mới. Không đầu tư thì không bao giờ có đổi mới. Do vậy, chủ các doanh nghiệp dệt- may cần sớm xây dựng các dự án đầu tư, trình các cấp có thẩm quyền phê duyệt. Các dự án đã dược phê có thể được triển khai thực hiện bởi nhiều đối tác khác nhau, bằng nhiều nguồn vốn khác nhau, ngay cả việc kêu gọi đầu tư nước ngoài cũng cần dự án đã được phê duyệt. Đây cũng là một biện pháp để huy động mọi nguồn lực của mọi thành phần kinh tế. Chất lượng hàng hoá là yếu tố quyết định năng lực cạnh tranh của hàng hoá. Chính vì vậy, đầu tư vào máy móc thiết bị để nâng cao chất lượng hàng dệt- may là yêu cầu bức thiết của toàn ngành dệt- may Việt Nam nhất là trong điều kiện các thiết bị dệt- may, đặc biệt là thiết bị dệt phần lớn đã sử dụng quá thời hạn khấu hao cho phép. Tuy nhiên, trong đầu tư máy móc thiết bị, cần đổi mới được thiết bị nhưng cũng phải hạn chế được vốn đầu tư, khai thác được tiềm năng thiết bị đầu tư. Muốn vậy, cần thực hiện những việc sau: 1- Việc đầu tư không nên khép kín trong một doanh nghiệp mà cần phải kép kín trong nhóm sản phẩm ( như nhóm sản phẩm dệt thoi, dệt kim, đay, len…) để các doanh nghiệp có thể hỗ trợ phối hợp với nhau trong nhóm sản phẩm tránh đầu tư trùng lặp, đầu tư thừa công suất… mà vẫn có thể tạo ra sản phẩm với chất lượng cao. 2- Đầu tư phải theo định hướng, chiến lược toàn ngành, tránh sự tự do hóa trong đầu tư của các doanh nghiệp, không nên đa dạng hóa chủng loại thiết bị của các nước trên thế giới làm cho công tác quản lý thiết bị, nhập phụ tùng thay thế trong nước hết sức khó khăn. 3- Cần phải phát triển ngành cơ khí ngang tầm với sự phát triển của trang thiết bị đầu tư, như vậy mới duy trì được chất lượng thiết bị lâu dài. 4 - Cần phải xây dựng các xí nghiệp sản xuất phụ tùng chuyên dùng của ngành dệt như: vòng da, suốt, lược dệt, các loại khuyên… để đáp ứng được chiến lược về mặt hàng mới và chất lượng sản phẩm lâu dài. 5- Ngoài những chú trọng về đầu tư thiết bị, cũng phải chú trọng tới việc có chiến lược đầu tư lâu dài nguyên phụ liệu đầu vào (như bông, xơ, hoá chất chuyên dùng, thuốc nhuộm…) để chủ động được trong kế hoạch sản xuất và kế hoạch chất lượng. Hiện nay, ngành may mới sử dụng khoảng 20-25% nguyên phụ liệu trong nước và tốc độ phát triển nguyên phụ liệu vẫn chưa đáp ứng được sự phát triển của ngành xuất khẩu. Giá cả và chất lượng là yếu tố cơ bản khiến các doanh nghiệp may xuất khẩu nguyên liệu ngoại nhập. Với mức nhập nguyên phụ liệu như hiện nay thì sức cạnh tranh của ngành may trên thị trường bị giảm là lẽ đương nhiên. Vậy câu hỏi đặt ra là chẳng lẽ, với kim ngạch xuất khẩu đứng thứ 2 chỉ sau dầu thô mà ngành may xuất khẩu của Việt Nam chỉ là “xưởng” gia công cho nước ngoài?. Như vậy, nếu có được chiến lược đầu tư nguyên phụ liệu hợp lý, sẽ tạo ra được các nguyên phụ liệu cao cấp với tính năng sử dụng đa dạng, nhờ vậy sẽ nâng cao chất lượng và linh hoạt trong việc đề ra giá cả, nâng cao khả năng cạnh trạnh của hàng dệt- may Việt Nam trên thị trường. 6- Để nâng cao chất lượng vải cho xuất khẩu và may mặc xuất khẩu, phải đầu tư ngành dệt theo chiều sâu, đặc biệt đầu tư cho công nghệ, thiết bị dệt (hiện nay, thế giới đã chuyển sang kỷ nguyên của máy dệt không thoi như dệt kiếm, dệt thổi khí, dệt phun nước, dệt thoi kẹp. Đó là nững phương pháp dệt cho năng suất cao, chất lượng tuyệt hảo, linh hoạt. Cần tập trung đầu tư nhằm thay thế hết các máy dệt thoi cổ điển vào năm 2005), đầu tư cho khâu nhuộm hoàn tất ( đây là công đoạn có công nghệ khó khăn, phức tạp và khó làm chủ nhất và cũng là khâu quyết định nhiều nhất đến chất lượng và ngoại quan của vải thành phẩm. Chính vì vậy, nên ưu tiên lưa chọn thiết bị sản xuất từ Tây Âu hoặc Nhật Bản để đảm bảo chất lượng bền vững và ổn định lâu dài. Đối với ngành may, phải đầu tư các thiết bị chuyên dùng hiện đạt để tạo ra năng suất và chất lượng cao hơn. Ngoài ra, sản xuất các phụ liệu chính cho may như mex, khoá, khuy chỉ cũng cần đầu tư để nâng cao chất lượng, có thể phục vụ cho may xuất khẩu bán đứt. 7- Quy trình xét duyệt đầu tư cũng cần được đẩy nhanh tốc độ để không bỏ lỡ các cơ hội đầu tư (quy trình xét duyuệt đầu tư bao gồm xây dựng dự án, duyệt dự án, vay vốn ngân hàng và làm thủ tục giải ngân). 3. Giải pháp về vốn. Theo quy hoạch phát triển ngành dệt- may đến năm 2010 giá trị xuất khẩu sẽ đạt khoảng 7-8 tỷ USD, thoả mãn cả thị trường trong nước và nhu cầu xuất khẩu, ngành dệt- may cần huy động một lượng vốn khoảng 35.000 tỷ đồng từ nay cho đến năm 2005 và 30.000 tỷ đồng cho giai đoạn 2006-2010 cho đầu tư chiều sâu và đấu tư đổi mới thiết bị công nghệ ( 90% lượng vốn dành cho ngành dệt ) với cơ cấu đầu tư là 65% vốn nước ngoài và 35% vốn trong nước. Do đó nhà nước và ngành dệt- may phải có chính sách để thu hút và sử dụng vốn có hiệu quả. Bảng 12: Nhu cầu vốn đầu tư tăng tốc cho toàn ngành dệt may giai đoạn ( 2001-2005) và (2006-2010) Đơn vị tính: tỷ đồng Nhu cầu vốn đầu tư Toàn ngành 2001-2005 2006-2010 Tổng mức vốn đâu tư, trong đó: -Vốn đầu tư cho mở rộng: -Vốn đầu tư cho chiều sâu: Theo hình thức vốn, gồm có: -Vốn cho xây lắp: -Vốn cho thiết bị: -chi phí khác: -chi phí dự phòng: -Vốn lưu động: 35.000 23.200 11.800 3.000 20.5000 1.750 1.750 8.000 30.000 20.000 10.000 2.550 18.000 1.500 1.500 6.450 Nguồn: (Chiến lược tăng tốc phát triển ngành dệt may đến năm 2010- Tổng công ty dệt may Việt Nam) 3.1 Huy động vốn. Muốn câng cao chất lượng sản phẩm phải có vốn đầu tư, muốn thực hiện các hoạt động thị trường phải có tiềm lực về tài chính, muốn có đội ngũ cán bộ công nhân giỏi nghề phải tốn nhiều kinh phí đào tạo. Một trong những nguyên nhân khiến hàng gia công xuất khẩu chiếm phần lớn trong cơ cấu xuất khẩu (60 - 70%) và các doanh nghiệp bị thiếu vốn đầu tư, nếu vay ngân hàng thì lãi suất quá cao do đó xuất khẩu bán đứt lại không đem lai hiệu quả kinh tế bằng gia công xuất khẩu. Ngoài ra chi phí vốn vay quá cao cũng có thể khiến giá thành sản xuất bị đẩy lên cao, làm hàng hóa mất đi sức hấp dẫn với thị trường so với đối thủ cạnh tranh. Vì vậy, đề ra những giải pháp để nâng cao hiệu quả thu hút vốn và sử dụng vốn có ý nghĩa rất quan trọng trong nâng cao sức mạnh cạnh tranh của hàng hoá. Muốn có được chủ động trong huy động và sử dụng vốn các doanh nghiệp cần xây dựng một kế hoạch, trong đó đề ra sẽ huy động vốn từ những nguồn nào và sẽ sử dụng vào hoạt động gì. Do đó kế hoạch về vốn sẽ không tách rời các hoạt động khác mà phục vụ cho những hoạt động đó. Hiện nay tỷ lệ tiết kiệm của nước ta vào loại thấp trên thế giới, chiếm khoảng 7% GDP, nợ nước ngoài cao, điều đó nói lên khả năng vay vốn và thanh toán quốc tế của ta rất hạn chế. Muốn có được nguồn vốn dồi dào, cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn. Để thực hiện được mục tiêu phát triển không còn cách nào khác là phải tạo thêm nhiều ưu đãi để thu hút vốn đầu tư nước ngoài và các hình thức huy động vốn trong nước. Trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, nguồn vốn trong nước là quan trọng nhưng chúng ta dù có huy dộng tối đa cũng không thể đáp ứng được nhu cầu, do đó nguồn vốn nước ngoài bao gồm nhiều hình thức như ODA, FDI, vay vốn tín dụng ưu đãi, vay tín dụng trả chậm từ các nhà cung cấp, tưc các tổ chức tài chính, ngân hàng, thuê tài chính, vay thươnh mại… là những nguồn vốn cần thiết không thể thiếu. Đối với các hình thức này, các doanh nghiệp dệt- may rất cần được bảo lãnh của chính phủ. Có một hình thức huy động vốn của các doanh nghiệp trong thời gian qua rất hiệu quả là huy động vốn từ nội bộ, từ chính người quản lý và lao động của doanh nghiệp để đầu tư. Hình thức này là tiền đề cho việc phát hành cổ phiếu tiến tới việc cổ phần hoá các doanh nghiệp dệt- may đang thuộc quyền sở hữu của nhà nước. Ngoài ra cũng khuyến khích đầu tư bằng chính nguồn vốn tự tích lũy được hình thành từ các quỹ khấu hao và lợi nhuận để lại hay từ tiết kiệm chi tiêu của các doanh nghiệp. Xin phép được sử dụng vốn ngân sách cho các chương trình qui hoạch, như quy hoạch các vùng trồng bông, trồng dâu nuôi tằm hoặc qui hoạch các cụm công nghiệp dệt. Đây là việc làm cần thiết và cấp bách trong giai đoạn hiện nay bởi lẽ hàng năm ngành vẫn phải nhập khẩu một lượng lớn nguyên liệu thô như bông, tơ tằm, xơ sợi tổng hợp. Công nghiệp dệt cần phát triển thành từng cụm, nằm trong các khu công nghiệp nhằm tiết kiệm vốn đầu tư cho cơ sở hạ tầng, giải quyết vấn đề nước thải tập trung, lành mạnh hoá môi trường sinh thái. Có như vậy mới có thể hình thành các doanh nghiệp mới vừa và nhỏ. Trên cơ sở đó, mới tạo ra cơ hội để đưa các công nghệ hiện đại vào sản xuất và áp dụng các mô hình quản lý, điều hành tiên tiến của thế giới vào dệt- may Việt Nam. Công nghiệp may cần phát triển rộng khắp, đến tận các vùng nông thôn, miền núi nhằm huy động mọi nguồn vốn có trong nhân dân và của mọi thành phần kinh tế. Mặt khác, có như vậy mới thu hút được mọi nguồn lực lao động trên khắp mọi miền đất nước, đồng thời thực hiện thành công chủ trương Công nghiệp hoá, Hiện đại hoá vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa của Đảng và Nhà nước ta. Thu hút vốn đầu tư nước ngoài là một điển hình đối với doanh nghiệp Việt Nam. Tuy nhiên Việt Nam vẫn là một thị trường đầu tư kém hấp dẫn hơn so với các quốc gia trong khu vực như Thailan, Indonesia, Trung Quốc, … do các thủ tục đầu tư phức tạp đã tác động tiêu cực tới các nhà đầu tư nước ngoài. Hơn nữa, hệ thống cơ sở hạ tầng và nhiều dịch vụ khác không đầy đủ và chưa được quan tâm cải thiện. Quá trình xuất nhập khẩu nguyên vật liệu lại thường bị cản trở bởi những thủ tục không cần thiết … Trong bối cảnh như vậy các biện pháp cụ thể hóa cần thi hành nhằm thu hút vốn đó là: - Tiếp tục khuyến khích đầu tư bằng vốn tự tích lũy, khấu hao cơ bản, từ nguồn cổ phiếu, trái phiếu trong nước, nước ngoài. - Khuyến khích các thành phần kinh tế ngoài quốc doanh đầu tư vào các công trình dệt- may, phụ kiện may quy mô vừa và nhỏ. - Tiếp tục hoàn thiện chính sách gọi vốn đầu tư nước ngoài, cải cách hành chính nhằm đơn giản hóa thủ tục xin phép đầu tư. - Giảm thuế lợi tức cho các công trình đầu tư trong thời gian chưa trả xong nợ. 3.2 Sử dụng vốn. Đi liền với việc đẩy mạnh thu hút vốn việc tổ chức sử dụng vốn có hiệu quả cũng đang là đòi hỏi cấp bách. Việc sử dụng nguồn vốn huy động phải được phân bổ một cách hợp lý, phải tính đến hiệu quả tài chính là cơ sở để đánh giá quan trọng nhất kết hợp với hiệu quả lợi ích chung của toàn xã hội. Phải tạo được cơ cấu vốn đầu tư hợp lý giữa ngành dệt sản xuất đầu vào cho ngành may và lĩnh vực may xuất khẩu. Ngay trong nội bộ ngành cũng phải phân bổ sử dụng vốn hợp lý đầu tư cho nhiều hạng mục như đào tạo đội ngũ cán bộ công nhân lành nghề, mua sắm công nghệ trang thiết bị máy móc, nghiên cứu thị trường, thiết kế mẫu mã tạo ra sản phẩm mới… Đối với Việt Nam hiện nay một yêu cầu cấp bách để sử dụng vốn có hiệu quả là phải đầu tư theo chiều sâu. Đầu tư theo chiều sâu là đòi hỏi khách quan, là sự sống còn của ngành- dệt may vì: - Hàng dệt may có đặc điểm là tính linh động cao, chu kỳ sản phẩm ngắn, tính mốt thể hiện rõ, tính quốc tế cao. Do đó công nghệ phải đổi mới nhanh mới theo được thị trường đảm bảo tính cạnh tranh của sản phẩm. - Ngành dệt- may trên thế giới phát triển theo hướng chuyển dịch sản xuất, đầu tư từ các nước phát triển sang các nước trình dộ phát triển thấp hơn, điều đó đòi hỏi bản thân ngành dệt- may phải tự đổi mới công nghệ để hoà nhập với thế giới. - Lựa chọn đúng công nghệ cần đầu tư và quản lý, sử dụng tốt công nghệ sẽ nâng cao hiệu quả đầu tư, do đó đầu tư đổi mới công nghệ và vốn là hai mặt của một quá trình thống nhất, quan hệ mật thiết, ràng buộc, chi phối lẫn nhau. 4. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực. Muốn làm chủ được thiết bị và công nghệ mới thì song song với việc đầu tư vào máy móc, cũng phải xây dựng đội ngũ cán bộ khoa học kỹ thuật vững vàng về chuyên môn luôn được trang thiết bị những kiến thức mới nhất về khoa học công nghệ đủ khă năng điều hành và sử dụng hiệu quả cơ sở vật chất đầu tư. Hiện nay nhiều Công ty đặc biệt các Công ty dệt đang đứng trước tình trạng thiếu hụt một cách nghiêm trọng cán bộ khoa học kỹ thuật cả về số lượng và chất lượng, đặc biệt là thiếu các doanh nghiệp đầu đàn, những người vừa có tiềm năng trí tuệ vừa có kinh nghiệm điều hành và quản lý sản xuất, có khă năng tiếp nhận công nghệ mới, giỏi ngoại ngữ để có thể tham khảo, học tập những kinh nghiệm, bài học từ nước ngoài… Điều này khiến cho trong khi công nghệ và trang thiết bị mới được đầu tư hiện đại và đắt tiền, có thể tạo ra được mặt hàng cao cấp thì cán bộ được giao, sử dụng lại bất cập về trình độ chuyên môn chính vì vậy đầu tư không những lãng phí mà mất đi khả năng sản xuất và sản phẩm có chất lượng cao. Một hiện tượng khác khá phổ biến là đa số kỹ sư công nghệ (sợi, dệt, nhuộm) được đào tạo qua nhiều thời kỳ, từ nhiều nguồn khác như nhưng chủ yếu đào tạo trong nước, trong quá trình, công tác đã bị lạc hậu dần và tỏ ra đuối sức trước yêu cầu mới của sản xuất kinh doanh. Lý do chủ yếu là họ không được bồi dưỡng thường xuyên, vốn ngoại ngữ lại yếu nên không thể tự đào tạo, bồi dưỡng để vươn lên cho kịp với yêu cầu mới. Những cán bộ nêu trên cần được đào tạo lại, trang bị kiến thức mới để nâng cao trình độ và năng lực công tác. Đội ngũ kỹ sư đang công tác ở các Công ty dệt- may cũng đang có nhiều biến động. Hiện tượng phổ biển diễn ra là một số kỹ sư giỏi, đã tích lũy nhiều kinh nghiệm chuyên môn đang có xu hướng chuyển sang làm việc cho các thành phần kinh tế khác. Muốn giữ lại đội ngũ cán bộ này, doanh nghiệp cần có chế độ đúng đắn và hợp lý về thu nhập, bồi dưỡng, sử dụng… Công tác đào tạo kỹ sư công nghệ cung cấp cho ngành dệt- may cũng đang bị thu hẹp, số sinh viên ghi tên học ngành dệt ở trường Đại học Bách Khoa Hà Nội nơi đào tạo chủ yếu kỹ sư công nghệ các chuyên ngành kéo sợi, dệt và hóa nhuộm có xu hướng giảm. Điều này gây khó khăn về cán bộ, nhiều công ty đã phải thu nhận kỹ sư hoặc cử nhân tốt nghiệp trái ngành chuyên môn để bố trí công tác. Hiệp hội dệt- may Việt Nam, Tổng công ty dệt- may Việt Nam cần phải sớm cùng các cơ quan chức năng như các trường đại học, cao đẳng, Viện kinh tế kỹ thuật dệt may cần nghiên cứu để điều chỉnh lại việc tuyển sinh đào tạo kỹ sư cho ngành dệt- may cũng như đào tạo bổ xung, đào tạo ngành thứ 2 cho những cán bộ trái ngành nghề. Củng cố các trường đào tạo, trung tâm đào tạo, đầu tư cơ sở vật chất, thay đổi nội dung và trương trình đào tạo nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo để đáp ứng nhu cầu tăng vọt về cán bộ quản lý và kỹ thuật trong thời gian tới. ở Việt Nam đã bắt đầu có các cơ sở đào tạo các nhà thiết kế mẫu như khoa thời trang các trường Đại học Mỹ thuật Hà Nội và Đại học Mỹ thuật thành phố Hồ Chí Minh, trường Trung cấp may và thời trang I ( Gia Lâm) và II (Thủ Đức) của Tổng Công ty dệt- may Việt Nam … nhưng thiết kế mẫu vẫn là một khâu yếu kém ký do là những cơ sở này mới hình thành trong thời gian ngắn, đội ngũ cán bộ giảng dạy, giáo trình và chương trình đào tạo còn nhiều bất cập, việc đào tạo còn mang tính phổ cập đại trà. Ngành dệt- may cần có sự hỗ trợ của nhà nước để đưa những người có khả năng đi đào tạo ở nước ngoài. Những nơi có ngành thời trang phát triển để tạo ra đội ngũ các nhà thiết kế đầu ngành thì mới có cơ may bắt kịp trình độ thời trang thế giới. Bên cạnh đó, Hiệp hội dệt- may Việt Nam, Tổng công ty dệt- may Việt Nam nên hợp tác với các hãng thời trang quốc tế mở các trường đào tạo thời trang ngay tại Việt Nam dể giảm được chi phí đào tạo mà vẫn mở ra được nhiều cơ hội tiếp cận với "bên ngoài" Viện mẫu thời trang Việt Nam FaDin và các nhà thiết kế tạo các mẫu lớn quốc tế. Muốn công nghiệp thời trang phát triển và tạo đà cho hàng may mặc xâm nhập vào thị trường thế giới, những nhà thiết kế mẫu cũng cần có sự giao tiếp với ngành thời trang quốc tế, học hỏi những kinh nghiệm của họ, nắm bắt được những thay đổi và xu hướng thời trang thế giới trong tương lai. Thị trường dệt- may thế giới luôn có sự biến động về nhu cầu, sở thích… Ngoài ra, tập quán thương mại và ngôn ngữ giao dịch ở các thị trường khác nhau thì không đồng nhất. Do vậy, người làm công tác xuất khẩu phải linh hoạt, tinh thông nghiệp vụ, giỏi ngoại ngữ và có kiến thức về Marketing để luôn có sự ứng phó kịp thời đối với thị trường . Ngoài ra, cũng cần phải không ngừng nâng cao điều kiện làm việc cho người lao động. Đối với lao động trong nghành dệt do liên quan đến sự chuyển động tập trung của các cọc sợi, do sự hiện đại hóa, chương trình hóa mảng dệt quá đắt, chưa phù hợp với nguồn tài chính trong các doanh nghiệp nên khó có những biện pháp khắc phục về mặt kỹ thuật, công nghệ. Việc cải thiện điều kiện làm việc cho người lao động có thể thực hiện thông qua các chế độ về tiền lương, về phụ cấp độc hại, chế độ nghỉ ngơi. Đối với công nhân may nên trung hoà việc tổ chức lao dộng theo dây chuyền, tức là trung hòa giữa cái lợi ích quản lý với cái lợi ích của người công nhân. Nên nhanh chóng thay đổi quan điểm chia nhỏ công đoạn như hiện nay, dây chuyền sản xuất cần ít công đoạn hơn. Thông qua các tổ chức đoàn thể phát động phong trào thi đua, tuyên truyền giáo dục cán bộ công nhân viên, luôn chăm lo đến việc nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của cán bộ công nhân viên trên cơ sở phát triển sản xuất kinh doanh, coi đó là động lực phát triển kinh doanh và chất keo kết dính giữa người lao động với doanh nghiệp. 5. Giải pháp về quản lý. Quản lý có vai trò rất quan trọng trong sự phát triển của doanh nghiệp. Người quản lý không chỉ đề ra các chính sách, sắp xếp nhân sự mà còn là người khởi xướng và quyết định mỗi sự thay đổi cải tiến trong doanh nghiệp… Để nâng cao sức cạnh tranh của hàng dệt- may Việt Nam, cần đề ra những biện pháp về quản lý để nâng cao chất lượng, nâng cao uy tín, hạ giá thành sản phẩm. Con người là nhân tố quyết định sự thành bại của sản phẩm kinh doanh. Bởi vậy, mỗi người đứng đầu doanh nghiệp phải là những giám đốc năng động dám nghĩ, dám làm để họ có thể là người xứng đáng đứng đầu Công ty. Để nâng cao chất lượng sản phẩm, các doanh nghiệp cần đề ra chính sách chất lượng, đề ra các nguyên tắc trong quản lý chất lượng. Trong quản lý chất lượng phải coi trọng phòng ngừa hơn phát hiện khắc phục sai sót. Quản lý chất lượng cần được xây dựng một cách hệ thống, quản lý trên tất cả các khâu, nghiên cứu sản phẩm, thiết kế, chế tạo, và bán sản phẩm. Phấn đấu giảm mức tiêu hao vật tư, nhiên liệu trên một đơn vị sản phẩm hay giảm chi phí điện, nước, xăng dầu để hạ giá thành phẩm là những biện pháp nằm trong tầm tay của người quản lý doanh nghiệp. Các nhà quản lý cần rà soát, xây dựng hệ thống định mức tiêu hao nguyên vật liệu cho phù hợp với điều kiện máy móc thiết bị, đề ra những nguyên tắc để tiết kiệm điện, nước … Giá vật tư, nguyên liệu đầu vào cũng là một phạm vi thuộc sự điều tiết của người chủ doanh nghiệp. Trong cơ chế thị trường, giá cả luôn biến động, việc kiểm soát giá vật tư nguyên liệu… có nhiều bất cập do thiếu thông tin, việc quyết định giá không chớp đúng thời cơ, điều kiện mua không thuận lợi, mua chịu trả chậm, lúc thiếu mặt bằng giá chuẩn nên việc xác định giá vật tư, nguyên liệu đầu vào còn gây nhiều thua thiệt cho doanh nghiệp. Đã có trường hợp thị trường đang rớt giá thì ta mua vào với số lượng lớn để sau đó phải sản xuất với nguyên liệu giá cao, sản phẩm không tiêu thụ được hoặc giá thị trường đang xu hướng tăng mà cũng chưa tận dụng được nguyên liệu rẻ…Vì vậy, doanh nghiệp cần tổ chức bộ phận theo dõi thường xuyên biến động giá cả thị trường cũng như đề ra hình thức mua thích hợp để có thể mua vật tư, nguyên liệu đầu vào với giá hợp lý. 6. các giải pháp khác. Để hội nhập vào thị trường thế giới, ngành công nghiệp dệt may Việt Nam phải luôn nắm bắt được những thông tin, những biến động của thị trường. Cần đẩy nhanh quá trình thực hiện hệ thống quản lý chất lượng theo ISO 9000; ISO 14.000; SA 800. Đây sẽ là giấy thông hành để đưa hàng dệt- may Việt Nam vào thị trường thế giới. Hiện nay chế độ kiểm soát nhập khẩu hàng dệt- may bằng hạn ngạch từng bước được cắt giảm cho đến khi bãi bỏ hoàn toàn vào 31/12/2004 theo Hiệp định hàng dệt và may mặc (ATC) được tổ chức thương mại thế giới (WTO) xác định cho các nước thành viên của tổ chức, theo đó các nước công nghiệp đương nhiên sẽ tăng cường các loại hàng rào phi thuế quan để hạn chế nhập khẩu sản phẩm từ các nước đang phát triển như yêu cầu về nhãn mác và nhãn sinh thái yêu cầu về môi trường và điều kiện lao động, yêu cầu về chống phá giá… Đây cũng là vấn đề khó khăn cho các nhà sản xuất hàng dệt- may Việt Nam trong mối tương quan lực lượng thực lực với các nước xuất khẩu hàng dệt may đàn anh trong khu vực. Mặt khác, Vì môi trường chung của toàn thế giới, vì thế thế hệ tương lai toàn cầu đang đòi hỏi phải khai thác và sử dụng các nguồn lực một cách hợp lý không gây tác động xấu tới môi trường sống của trái đất, đòi hỏi phải có các biện pháp tích cực trong bảo vệ môi trường. Việt Nam đã ban hành luật môi trường và các tiêu chuẩn Nhà nước về môi trường nên việc đầu tư xử lý môi trường không chỉ là vấn đề chủ quan mà còn là một thực tế khách quan đối với các đơn vị của ngành dệt- may, sao cho đến năm 2005 tất cả mọi chất thải từ các nhà máy dệt cần được xử lý đúng theo tiêu chuẩn trước khi xả ra môi trường sinh thái xung quanh. Kết luận Từ rất lâu trên thế giới ngành công nghiệp dệt- may đã được hình thành và đi lên cùng với sự phát triển ban đầu của chủ nghĩa tư bản. Trong quá trình công nghiệp hoá từ rất sớm ở các nước phát triển như Anh, Pháp, Italia… cho đến các nước công nghiệp mới như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông, Singapore… ngành dệt- may luôn chiếm một vị trí quan trọng. Thế giới đã từng chứng kiến làn sóng di chuyển ngành dệt- may từ các nước phát triển sang các nước công nghiệp mới diễn ra vào những năm 70 và 80 của thế kỷ XX. Bước sang thế kỷ XXI có lẽ các nước đang phát triển lại trở thành những nước xuất khẩu dệt- may chủ yếu. Đây chính là thời điểm cho Việt Nam thúc đẩy ngành dệt- may trong nước phát triển, góp phần phục vụ quá trình công nghiệp hoá hiện đại hóa . Trong những năm qua, ngành dệt- may Việt Nam đã có những bước phát triển đáng kể, Thị trường không ngừng được mở rộng, kim ngạch xuất khẩu tăng nhanh. Ngay cả trong tình trạng cuộc khủng hoảng tiền tệ kéo dài hai năm thì xuất khẩu hàng dệt- may vẫn giữ được mức tăng trưởng khá cao khoảng 25% . Điều quan trọng hơn là ngành đã góp phần tích cực giải quyết công việc làm cho hàng triệu lao động trên mọi miền của đất nước trong tình trạng chúng ta thiếu vốn thừa lao dộng. Tuy nhiên trong công tác xuất khẩu hàng dệt- may vẫn tồn tại nhiều thực trạng cần giải quyết. Hoạt động xuất khẩu chủ yếu dưới hình thức gia công nên phần giá trị gia tăng đem lại cho đất nước không nhiều, hiệu quả xuất khẩu chưa cao, và xét trong chừng mực nào đó chúng ta đã để lãng phí nguồn tài lực của đất nước. Về tình hình sản xuất, máy móc của ngành phần lớn cần phải thay thế, nâng cấp, mặt hàng sản xuất trong nước chất lượng còn thấp chưa đáp ứng được tiêu dùng trong nước cũng như xuất khẩu. Ngành may hiện đang phải nhập khẩu một số lượng nguyên liệu đầu vào khá lớn do đó đã có ảnh hưởng không nhỏ đến khả năng cạnh tranh của hàng dệt- may Việt Nam trên thị trường . Doanh nghiệp có vai trò quyết định trong tạo thế cạnh tranh cho các sản phẩm mình sản xuất ra. Tuy nhiên việc nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt- may không chỉ đòi hỏi nỗ lực, cố gắng của từng doanh nghiệp dệt- may, toàn ngành dệt- may mà còn cần sự hỗ trợ của Nhà nước. Vì sự hạn hẹp về thời gian nghiên cứu, đề tài này mới chỉ đề cập tới một số giải pháp đứng về phía doanh nghiệp mà chưa đi sâu và nêu ra những kiến nghị, giải quyết về phía chính phủ. Rất mong rằng trong một thời gian nào đó em có thể quay lại đề tài này và khi đó hy vọng rằng sẽ đưa ra được nhiều giải pháp mang tính thực tế và khả thi hơn nữa. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn thầy giáo-PGS-TS Hoàng Ngọc Thiết, các cán bộ ở Tổng công ty dệt- may Việt Nam đã tận tình giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. Tài liệu tham khảo - Giáo trình thương mại quốc tế (PGS.-PTS Nguyễn Duy Bột ) - Giáo trình kinh tế ngoại thương (Bùi Xuân Lưu- NXB- giáo dục) - Kinh tế đối ngoại Việt Nam- nội dung- giải pháp- hiệu quả (NXB - Thống kê) - Cẩm nang thương mại dịch vụ (PTS Đặng Đình Đào- Hoàng Minh Đường) - Quy hoạch tổng thể phát triển ngành dệt may đến năm 2010 (Hiệp hội dệt may Việt Nam-Tổng Công ty dệt may Việt Nam, 10/2000) - Hỏi đáp về kỹ thuật thực hành kinh doanh XNK (PTS Võ Thanh Thư- NXB TP Hồ Chí Minh) - Mưu lược cạnh tranh thương mại (NXB TP Hồ Chí Minh) - Cạnh tranh bằng giảm phí tổn thương mại (NXB Thống Kê) - Tự do hoá thương mại, những xu hướng và chính sách (NXB Thống Kê, 2001) - Thương mại dịch vụ trong sự nghiệp Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá (NXB Thống kê, 1997) - Basic Marketing – J. Mc Carthy - Hướng phát triển thị trường xuất nhập khẩu 2001-2005 (NXB Thống kê, 2000) - Giáo trình nghiệp vụ quản trị kinh doanh thưong mại quốc tế (PGS.PTS Trần Chí Thành) - Tìm hiểu những quy định về hoạt động xuất nhập khẩu (NXB TP Hồ Chí Minh) - Niên giám thống kê (NXB Thống kê, 2002) - Viet Nam Textile and Apparel Association - 2003 - Một số tạp thương mại, Thời báo kinh tế, Tạp chí dệt may Việt Nam Mục lục Trang Lời nói đầu 1 Chương I. Khái quát về ngành dệt may Việt Nam - năng lực sản xuất hàng dệt may Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 4 I. Khái quát về ngành dệt may .Vị trí của ngành trong chiến lược tăng trưởng kinh tế hướng về xuất khẩu. 4 1. Quá trình hình thành và phát triển của ngành dệt may Việt Nam. 4 2. Vị trí của ngành dệt may Việt Nam trong chiến lược tăng trưởng hướng về xuất khẩu. 6 3. Vị trí của ngành công nghiệp dệt may Việt Nam trong hệ thống dệt may thế giới. 9 II. Năng lực sản xuất hàng dệt may Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. 15 1. Cơ sở vật chất kỹ thuật ngành 15 2. Lực lượng lao động 17 3. Năng lực quản lý 18 4. Nguyên phụ liệu 19 5. Sản phẩm dệt may 22 Chương II. Tình hình xuất khẩu hàng dệt may Việt Nam trong những năm qua. 25 I. Thực trạng về hoạt động xuất khẩu hàng dệt may. 25 1. Đánh giá chung. 25 2. Những mặt hàng xuất khẩu chính. 27 3. Các thị trường xuất khẩu chủ yếu. 30 3.1. Thị trường có hạn ngạch. 30 3.2. Thị trường phi hạn ngạch. 33 II. Dự báo về tình hình tiêu thụ sản phẩm dệt may trong tương lai. 40 1. Dự báo về thị trường. 40 1.1. Thị trường trong nước. 41 1.2. Thị trường nước ngoài. 41 1.2.1 Thị trường EU. 41 1.2.2 Thị trường Nhật Bản. 42 1.2.3 Thị trường Mỹ. 43 III. Những khó khăn và thách thức hiện nay của hàng dệt may Việt Nam trong việc cạnh tranh trên thị trường quốc tế. 45 1. Ưu thế của các nước cùng tham gia vào thị trường quốc tế. 45 2. Sự phụ thuộc vào bảo hộ của Nhà nước ít cố gắng vươn lên trong cạnh tranh. 47 3. Chưa xây dựng được chiến lược thị trường. 49 4. Hội nhập quốc tế đòi hỏi sự cải tiến mạnh mẽ trong cơ cấu sản xuất kinh doanh. 50 Chương III. Những giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. 51 I. Sự cần thiết phải nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. 51 II. Các giải pháp nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam trên thị trường thế giới. 52 1. Giải pháp về thị trường 52 2. Giải pháp về đầu tư 56 3. Giải pháp về vốn 59 4. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực 63 5. Giải pháp về quản lý 67 6. Các giải pháp khác 68 Kết luận 70 Tài liệu tham khảo 72 Trường đại học ngoại thương khoa kinh tế ngoại thương ----------------------------- Khoá luận tốt nghiệp Tên đề tài: Đánh giá khả năng cạnh tranh hàng dệt may Việt Nam Giáo viên hướng dẫn : PGS . TS Hoàng Ngọc Thiết Sinh viên thực hiện : Nguyễn Trần Quang Lớp : A2 - CN9 Hà Nội, 2003

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuang tot nghiep-hoanchinh.doc
Tài liệu liên quan