Khóa luận Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: Thực trạng và giải pháp

Là một trong những sản phẩm thiết yếu đối với cuộc sống nhân dân, nước sạch cũng là thước đo trình độ phát triển của một đô thị văn minh. Sản xuất và cung cấp nước sạch là một trong những lĩnh vực hạ tầng có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống dân sinh cũng như sự phát triển kinh tế xã hội và ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát trển bền vững của đô thị Hà Nội. Cấp nước đô thị Hà Nội không chỉ giải quyết vấn đề của người dân mà còn đóng góp phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ trên toàn thành phố. Tuy nhiên việc xây dựng hạ tầng cấp nước ở Hà Nội đòi hỏi sự tham gia không chỉ ngành nước, mà phải xa hội hóa cả khâu khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối nước và đầu tư phát triển hệ thống cấp nước để đảm bảo yêu cầu cấp nươc có hiệu quả và phát triển bền vững. Mặt khác khi môi trường đô thị hóa ngày càng trở nên ô nhiễm thì vấn đề an ninh nguồn nước càng trở nên bức xúc hơn. An ninh nguồn nước không chỉ là vấn đề chất lượng nước mà về lâu dài còn là sự bền vững của nguồn nước, của môi trường nước với phạm vi không chỉ Hà Nội nói riêng mà còn cả khu vực sông Hồng và vùng kinh tế miền Bắc nói chung

doc90 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1524 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ác dự án PPP thường có nét đặc trưng sau: - Có mối quan hệ tương đối lâu dài, việc hợp tác giữa đối tác công cộng và đối tác tư nhân được xây dựng dựa trên những khía cạnh khác nhau của một dự án đã được lập kế hoạch từ trước. - Xuât hiện các cơ cấu vốn, liên kết các nguồn vốn của khu vực tư nhân và công cộng. - Cơ quan vận hành đóng một vai trò quan trọng trong mỗi giai đoạn của dự án ( thiết kế, hoàn thiện, thực hiện, cấp vốn ). - Khi tham gia hợp tác với đối tác tư nhân thì đối tác công cộng thường chú trọng vào việc xác định các mục tiêu mà mình cần đạt được. Tùy theo cách thức hợp tác khác nhau mà các mục tiêu đó là khác nhau. - Khi hợp tác giữa nhà nước và tư nhân thì có sự phân chia rủi ro giữa các đối tác thuộc khu vực công cộng và các đối tác thuộc khu vực tư nhân. Những hình thức kết hợp khác nhau giữa khu vực nhà nước – tư nhân trong cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị hiện nay là : Xây dựng, sở hữu và điều hành BOO ( Build operate own): Là một sự hợp tác giữa Nhà nước và Tư nhân, khi một công ty tư nhân thông qua hình thức chìa khóa trao tay, có thể xây dựng, sở hữu và điều hành một cơ sở công cộng. Việc một hệ thống như vậy cho thấy khu vực tư nhân hài long với việc những rủi ro và lợi ích kinh tế có thể được điều hòa. Cổ phần hóa các doanh nghiệp cấp nước: là việc tạo ra loại hình doanh nghiệp vốn chỉ có một chủ sở hữu là Nhà nước thành ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu, trong đó có đông đảo người lao động và tư nhân tham gia. Mục tiêu của việc cổ phần hóa không phải là xóa bỏ DNNN, mà là để tạo ra một loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu nhằm vừa sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước vừa huy động thêm vốn của xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh; vừa tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho DNNN vừa phát huy vai trò làm chủ thật sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp, bảo đảm hài hòa lợi ích của Nhà nước, doanh nghiệp và người lao động. Thực trạng đầu tư tư nhân kết hợp với nhà nước vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị theo hình thức PPP là: Đối với mô hình đầu tư PPP thì tình hình thực hiện đầu tư tư nhân theo hình thức này mới chỉ là dự định, thực tế mô hình PPP vẫn còn rất mới ở Việt Nam. Tuy nhiên hợp tác Nhà nước và tư nhân sẽ tối ưu hóa hiệu quả đầu tư và giúp cung cấp được các dịch vụ chất lượng cao, sự hợp tác này ngòai việc tổng hợp nguồn vốn còn là sự chia sẻ vai trò, rủi ro trong đầu tư và đạt hiệu quả cao hơn nhờ mô hình quản lý ngắn gọn và tính cạnh tranh cao. Cho đến nay vẫn chưa có chuẩn mực nào để lựa chọn dự án áp dụng mô hình PPP mà tùy theo tính chất của dự án có thể phối hợp nguồn vốn công. Việc hợp tác này mới chỉ được thực hiện trong các mô hình thí điểm và một số dự án BOO. 1.4. Đánh giá 1.4.1. Kết quả và hiệu quả đạt được: 1.4.1.1. Kết quả: a) Năng lực cấp nước đô thị tăng thêm: Bảng 11 : Mức tăng công suất cấp nước đô thị tăng thêm giai đoạn 2002-2007 Chỉ tiêu Đơn vị 2002 2003 2004 2005 2006 2007 Công suất tăng thêm m3/đng 250000 190000 485000 780000 330000 700000 Tốc độ tăng định gốc % 163,16 100,00 410,53 721,05 247,37 636,84 Tốc độ tăng liên hoàn % 163,16 -24,00 155,26 60,82 -57,69 121,12 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị _ Bộ kế hoạch và đầu tư Kết qủa của các hoạt động đầu tư đã góp phần nâng cao năng lực họat động của các trạm bơm, các nhà máy nước cũng như các cơ sở kinh doanh nước sạch. Góp phần tăng thêm công suất hoạt động cho các nhà máy, từ đó tăng khả năng cung cấp dịch vụ nước. - Chất lượng hoạt động kinh doanh của ngành nước được cải thiện đáng kể : Năm 2007, với đóng góp 690 tỷ đồng của vốn đầu tư trong tổng số vốn 4600 tỷ đồng vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị năm 2007 mà có khoảng 80% dân số đô thị là được cung cấp nước sạch. Tỷ lệ thất thoát, thất thu còn khoảng 34%, tăng thêm khoảng 5% đô thị cấp huyện có hệ thống nước sạch đủ tiêu chuẩn. Công suất tăng thêm năm 2007 ước đạt khoảng 700.000 m3/đng. Kết quả đầu tư của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị được thể hiện thống qua mức tăng công suất cấp nước đô thị hàng năm như sau: - Tham gia của đầu tư tư nhân đóng góp một phần rất lớn vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, nó góp phần đáng kể trong việc nâng cao chất lượng hoạt động, khả năng cạnh tranh của các công ty cấp nước bởi các nhà quản lý tư nhân phải hướng tới mục tiêu giảm chi phí và tăng năng suất họat động nhằm mục đích thu lợi nhuận cho khoản đầu tư của mình. Do đó, sẽ làm lãng phí trong xây dựng, chi phí quản lý cũng giảm xuống, năng suất lao động của nhân viên sẽ tăng lên, các kỹ thuật và quy trình mới được áp dụng nhanh chóng hơn . - Sự tham gia của đầu tư tư nhân đã mang lại một số lượng việc làm nhất định cho xã hội nhằm phục vụ cho việc xây dựng nhà máy mới cũng như nâng cấp các nhà máy cũ, đầu tư tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị đã tạo điều kiện giải quyết công ăn việc làm cho người lao động với một số lượng không phải là nhỏ. b) Một số kết quả khác: Kể từ khi có quyết định 237/1998/QĐ-TTG của Thủ tướng Chính phủ phê duyệt Chương trình mục tiêu Quốc gia nước sạch và vệ sinh môi trường nông thôn, đến nay nước sạch nông thôn đã được cải tạo theo chiều hướng tích cực trong toàn quốc nói chung và vùng Hà Nội nói riêng. Bảng 12: Kết quả cấp nước đô thị Hà Nội TT Tên khu vực Nguồn nước Công suất khai thác (m3/ngđ) 1 Thành phố Hà Nội Ngầm 558.000 - Phía Nam sông Hồng Ngầm 488.000 - Phía Bắc sông Hồng Ngầm 70.000 2 Tỉnh Hà Tây Ngầm 40.000 - Hà Đông Ngầm 20.000 - Sơn Tây Ngầm 20.000 3 Tỉnh Bắc Ninh Ngầm 11.000 4 Tỉnh Hưng Yên Ngầm 10.600 5 Tỉnh Vĩnh Phúc Mặt + ngầm 32.200 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị _ Bộ kế hoạch và đầu tư Ngoài những khu vực dân cư được cấp nước bởi hệ thống cấp nước tập trung, người dân sống trong khu vực hầu hết đã khoan giếng, đào giếng để sử dụng làm nước sinh hoạt. Tuy nhiên các loại giếng khoan, giếng đào hầu hết chưa đúng quy cách kỹ thuật làm ảnh hưởng đến chất lượng nước khai thác. Ngoài ra dân các vùng nông thôn xây dựng bể chứa nước mưa để trữ nước phục vụ cho ăn uống, xây dựng hệ thống nước tự chảy. Khu vực Vùng Hà Nội có tầng chứa nước Qa gồm các thành phần cát hạt thô và sỏi. Ở các phần phía Tây Bắc của lưu vực, tầng chứa nước có chiều dày từ 10-15m và tầng dẫn về phía Đông Nam. Tại vùng lõm dọc theo sông Hồng, chiều dày tầng chứa nước thường là từ 40-50m. Độ dày lớn nhất quan sát được là hơn 80m. Đáy của tầng chứa nước được hình thành bởi hệ Neogene. Theo kết quả của các lần bơm thử thì tầng chứa nước có hệ số truyền dẫn từ 400-2000m3/ngày và hệ số trữ nước từ 10-3 đến 5.10-4. Bề mặt đường đẳng áp không đều vì do có nhiều giếng khai thác hút nước từ tầng chứa nước chính, ví dụ như ở khu vực Hạ Đình mực nước thuỷ áp tĩnh là -16m đến -18m dưới mực nước biển, tại Mai Dịch là -10 đến -12 nhưng tại Yên Phụ và Lương Yên chỉ từ 0 đến - 4 dưới mực nước biển. Tầng chứa nước này được bổ cập do dòng chảy thẳng đứng xuyên qua lớp sét nằm bên trên, chảy từ sông Hồng vào nguồn lưu lượng bổ cập. Miền thoát của tầng chứa nước chảy về phía nam, thẩm thấu trở lại sông Hồng và do sự khai thác ở các bãi giếng của chương trình cấp nước Hà Nội khoảng 330.000m3/ngđ và khai thác của các giếng riêng lẻ khoảng tổng cộng 75.000m3/ngày. Tầng chứa nước trong các lỗ hổng trầm tích đệ tứ Qa còn được phủ trên các khu vực Như Quỳnh, Văn Giang, Văn Lâm, Phố Nối (Hưng Yên) và Ngọc Liên, Cẩm Hưng, Cốm Giàng ở Hải Dương. Khu vực làng Hữu Chấp và huyện Từ Sơn ở Bắc Ninh, các khu vực thị xã Hà Đông, Sơn Tây (Hà Tây) xung quanh bãi sông Hồng, Hợp Thịnh (Vĩnh Phúc), thị xã Hoà Bình (tỉnh Hoà Bình) .v.v... Nguồn nước này đã và đang khai thác và có thể khai thác tiếp một phần để cấp cho sinh hoạt cũng như công nghiệp trong giai đoạn tới. Nguồn nước mặt : Hầu hết các tỉnh thuộc vùng Hà Nội nằm trong khu vực đồng bằng Sông Hồng hiện trạng khai thác sử dụng nguồn nước mặt là chủ yếu. Vùng Hà Nội nằm trong lưu vực sông Hồng và sông Thái Bình bao gồm các con sông lớn trong khu vực, đây là nguồn cấp nước tương đối phong phú. Nguồn nước mặt sông Hồng có trữ lượng lớn, chất lượng có thể sử dụng để cung cấp nước cho sinh hoạt, tuy nhiên với hàm lượng cặn (chất phù sa) rất lớn (về mùa lũ lớn hơn 2500mg/l, mùa khô từ 1200-1500mg/l) và mực nước chênh lệch về mùa lũ và mùa khô cũng rất lớn, nó sẽ làm tăng giá thành xử lý nước. Việc cấp nước sạch cho dân cư nông thôn trong cả nước nói chung và các tỉnh thuộc vùng Hà Nội nói riêng còn là một vấn đề đang bức xúc để đáp ứng sự gia tăng dân số, phát triển kinh tế và nhu cầu dùng nước ngày càng tăng. 1.4.1.2. Hiệu quả đạt được: Theo số liệu thống kê, toàn thành phố Hà Nội (Hà Nội sau khi đã sáp nhập) mới có 38,5% người dân được cấp nước bằng hệ thống cấp nước đô thị. Theo Công ty NSHN, tổng công suất khai thác sản xuất hiện có đạt 550.000 - 614.000m3/ngày-đêm. Trong năm 2009, khi hoàn thành dự án cải tạo trạm sản xuất nước Đông Anh (tăng 9.000 m3/ngày - đêm) và Nhà máy nước (NMN) Bắc Thăng Long (30.000 m3/ngày - đêm), nguồn cấp nước sẽ tăng thêm 39.000 m3/ngày - đêm, nâng tổng công suất khai thác sản xuất có thể đạt sản lượng từ 589.000 - 653.000 m3/ngày - đêm. Ngoài ra, Công ty đã phối hợp với Công ty VIWACO đưa nguồn nước sông Đà cấp cho khu vực Tây Nam thành phố, vì vậy sẽ có trên 60.000 m3/ngày - đêm được điều chuyển để cấp cho các khu vực khác. Như vậy, năm 2009, về nguồn sẽ có thêm 99.000 m3/ngày - đêm. Với tổng công suất như trên hoàn toàn có thể đáp ứng nhu cầu sử dụng nước của các khu vực quận, huyện trung tâm thành phố. Dự kiến, năm 2009 có khoảng 150.000 người dân các khu vực ngoại thành được sử dụng nước sạch. Theo nhận định của Công ty NSHN, trong hè 2009, tình hình cấp nước cho khu vực nội thành sẽ ổn định hơn và có nhiều khu vực mức độ dịch vụ cấp nước tăng nhiều hơn so với những năm trước Vấn đề nước sạch của Hà Nội sẽ được cải thiện đáng kể sau khi nguồn mới được hoà mạng. Công ty TNHH Nhà nước một thành viên nước sạch Hà Nội chính thức ký bàn giao hệ thống cấp nước phía Tây Nam thành phố cho Công ty CP đầu tư xây dựng và Kinh doanh nước sạch. Đây là phương thức xã hội hóa hệ thống cung cấp nước sạch đầu tiên được triển khai trên địa bàn Hà Nội. Tổng Giám đốc Công ty TNHH Nhà nước một thành viên nước sạch Hà Nội cho biết, khu vực Tây Nam thành phố là địa bàn cấp nước rất rộng với khoảng 60.000 hộ dân. Phạm vi khu vực bàn giao gồm phía Bắc giới hạn bởi đường 32, Phạm Hùng, Trần Duy Hưng và đường Láng, phía Bắc và Nam là ranh giới thành phố với tỉnh Hà Tây cũ. Các đơn vị hành chính gồm: Quận Thanh Xuân (các phường Thanh Xuân Bắc, Thanh Xuân Nam, Thanh Xuân Trung, Thượng Đình, Hạ Đình, Khương Đình, Khương Trung, Khương Mai, Kim Giang). Quận Cầu Giấy có phường Trung Hòa. Quận Hoàng Mai gồm các phường Phương Liệt, Thịnh Liệt, Định Công, Hoàng Mai, Đại Kim. Huyền Từ Liêm gồm thị trấn Cầu Diễn và xã Mỹ Đình. Phần nguồn nước gồm 3 trạm sản xuất nước là Khương Trung, Kim Giang và Giáp Bát với tổng công suất 6.000m3/ngày, đêm. Phần mạng đường ống gồm 49m đường ống truyền dẫn, 148.270m ống phân phối và 269.998m ống dịch vụ. Kbàn giao xong toàn bộ mạng Tây Nam cho Công ty Cổ phần đầu tư xây dựng và kinh doanh nước sạch quản lý và vận hành, mỗi ngày mạng cấp nước của công ty sẽ dôi ra khoảng 60.000m3/ngày, đêm. Toàn bộ lượng nước này sẽ được cấp bổ sung cho khu vực nội thành, đặc biệt là các khu vực khó khăn về nước tại các địa bàn quận Ba Đình và Đống Đa. Đồng thời công ty sẵn sàng ứng cứu, cấp bổ sung nước sạch cho mạng phía Tây Nam khi khu vực này xảy ra tình trạng thiếu nước. 1.4.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó: 1.4.2.1. Hạn chế: a) Kết quả hoạt động đầu tư chưa cao: Hạn chế lớn nhất trong đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô thị ở Hà Nội là hiệu quả của việc sử dụng vốn. Công suất sử dụng của các nhà máy nước còn thấp, đặc biệt tại các đô thị nhỏ lượng nước thất thoát vẫn cao khoảng 36% Tỷ lệ nhân lực trên mỗi đầu nối vẫn cao so với mức cần thiết của các hệ thống hoạt động có hiệu quả tại các nước đang phát triển. Chất lượng nhân lực cũng là vấn đề đáng phải bàn khi mà 59% số doanh nghiệp phàn nàn về thiếu những lao động có kỹ năng. Đầu tư phát triển cho hai nguồn vốn có mối quan hệ mật thiết là cấp nước và thoát nước có sự chênh lệch đáng kể. Hiện nay sự phát triển của ngành cấp nước đang vượt xa tốc độ của ngành thoát nước. Nếu tình hình còn như vậy ngành thoát nước không phát triển theo kịp sẽ gây ảnh hưởng lớn đến chất lượng nguồn nước cung cấp cho dân do ô nhiễm môi trường. Mặc dù 96% số hộ gia đình tại đô thị ở Hà Nội được lắp đồng hồ tuy nhiên chất lượng và mức độ chính xác của nó còn thấp. Hiện nay chủ yếu là cái hạ tầng chung và cái hệ thống cấp nước sạch nói riêng thì nó chưa đảm bảo được hết cho dân cư kể cả thành thị lẫn nông thôn và trong đó cái người ta chú trọng nhiều hơn là thành thị.  Phải nói đa số vùng đô thị thì vấn đề nước uống là vấn đề mang chất kỹ thuật nhiều hơn là cái nguồn nước.  Vấn đề chủ yếu là xử lý với phân phối.  Vấn đề xuất phát từ nguyên nhân là đô thị hoá diễn ra quá nhanh và hạ tầng không đáp ứng kịp.  Vấn đề xảy ra không phải đối với hệ thống cấp nước mà kể cả vấn đề thoát nước, kể cả vấn đề giao thông, kể cả y tế giáo dục; tất cả đều bị ảnh hưởng … nghĩa là dân số do di dân từ các nơi khác về thành phố nó nhanh hơn là tốc độ phát triển của hạ tầng đi theo. Hiện nay thiếu nước sạch trong thành phố chủ yếu là thiếu nguồn nước tập trung mà được kiểm soát bởi các nhà máy trong đó chất lượng nước mình có thể kiểm soát đưọc tiêu chuẩn của nó. Tỷ lệ lượng nước thất thoát trung bình vẫn cao: 36% so với 23% của các nước đang phát triển khác tuy nhiên vẫn ổn định trong những năm gần đây, lượng nước thất thoát của các tỉnh có sự chênh lệch rõ rệt từ 13,6% đến 75,5%. b) Bất cập trong việc thực hiện đầu tư: - Trong việc thực hiện các dự án đầu tư thì có rất nhiều bất cập diễn ra như việc chậm tiến độ là việc thường xuyên xảy ra, ví dụ như dự án cấp nước 1A Hà Nội, theo như trong kế hoạch thì dự án được khởi công vào năm 1997 và sẽ kết thúc vào năm 1999, nhưng trên thực tế cho đến năm 2003 thì dự án mới chỉ hoàn thành được 70% tiến độ; dự án đầu tư do chủ đầu tư là công ty Vinaconex dự tính dự án sẽ hoàn thành trong năm 2006, nhưng do trong quá trình thi công chậm họ đã đẩy lùi tiến độ và hòan thành vào năm 2007, điều này đã gây ảnh hưởng rất lớn đến việc cung cấp nước cho khu vực Tây- Tây Nam Hà Nội; , ngòai ra còn các dự án khác như dự án BOO ở Thủ Đức đã chậm đến nửa năm, chắc chắn sẽ gây thiệt hại lớn về kinh tế… Tuy nhiên, thiệt hại thấy rõ trước mắt mà không ai có thể đo đếm nổi là các hộ dân đến nay vẫn không có nước sử dụng. - Ngòai ra, mặc dù có những dự án đã hoàn thành rồi nhưng hoạt động chưa được hiệu quả, các sai phạm tiêu cực vẫn thường xuyên diễn ra trong quá trình đầu tư. c) Kết quả hoạt động đầu tư chưa đáp ứng được nhu cầu: Hầu hết dân đô thị như: thành phố Hà Nội, các thị xã Hà Đông, Sơn Tây, Bắc Ninh, Hưng Yên, Vĩnh Yên, Phúc Yên đã có hệ thống cấp nước sạch tập trung. Công suất khai thác còn hạn chế so với nhu cầu sử dụng của người dân, chỉ đạt 45% dân đô thị được cấp nước sạch với tiêu chuẩn cấp nước của toàn vùng từ 80-120lít/người/ngày. Hệ thống mạng lưới đường ống chưa được phủ đầy đủ đến các khu vực dân sinh sống. Về nguồn nước, hiện nay nguồn nước khai thác chủ yếu là nguồn nước ngầm, một số thị xã khai thác kết hợp nguồn nước ngầm và nước mặt. Chất lượng nước một số đô thị còn chưa được đảm bảo, có khu vực chưa được khử trùng trước khi phát vào mạng phân phối. Tỷ lệ nước bị hao hụt, rò rỉ còn khá cao ảnh hưởng đến hiệu quả cấp nước. d) Mất cân đối trong cơ cấu huy động vốn: So với năm 2001, năm 2002 tốc độ tăng là 278,26%, năm 2007 tốc độ tăng là 7986,95%. Tiếp đến là đến tốc độ tăng của vốn đầu tư tư nhân. So với năm 2001, thì năm 2002 tốc độ tăng là 206,98%, đến năm 2005 tốc độ tăng còn đạt đến 1411,63%. Sau đó là đến tốc độ tăng của vốn Ngân sách nhà nước và vốn ODA. Điều này cũng phản ánh đúng chủ trương, chính sách của Nhà nước trong việc đa dạng hóa và tăng cường thu hút các nguồn vốn đầu tư ngòai Ngân sách nhà nước cho cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị . Tuy nhiên bản chất nguồn vốn này là nguồn vốn vay và có thời hạn trả nợ nên chúng ta phải biết cách sử dụng sao cho hợp lý ,tránh đầu tư tràn lan lãng phí, trở thành gánh nặng cho thế hệ tương lai. e) Một số hạn chế khác: Đầu tư mạng lưới nhưng chưa đi kèm với giáo dục ý thức của người dân nên vẫn còn tình trạng người dân xây nhà đè lên đường ống gây vỡ đường ống rồi đục phá, đấu nối đường ống bất hợp pháp, dùng nhiều thủ thuật gây thất thoát ảnh hưởng đến hiệu quả đầu tư. Trách nhiệm đối với rủi ro trong vận hành và kinh doanh còn ít tản mạn gây ảnh hưởng đến tính bền vững của công trình. Trên thực tế trách nhiệm thực hiện vận hành và kinh doanh là không rõ ràng. 1.4.2.2. Nguyên nhân: Nguyên nhân đầu tiên kể đến là cơ chế chính sách chưa đầy đủ hợp lý và nghiêm chỉnh. Chúng ta mới chỉ định hướng phát triển dịch vụ cấp nước đô thị với những định hướng hết sức sơ lược, giải pháp thực hiện đưa ra một cách chung chung, chưa đi sâu đi sát từng bước thực hiện như thế nào. Do đó những hành động của chúng ta, những dự án đang triển khai vẫn còn chưa được điều chỉnh bởi quy hoạch tổng quan, chưa thực sự mang lại hiệu quả tương xứng với tiềm năng. Mức độ tự chủ trong kinh doanh và đầu tư của các doanh nghiệp kinh doanh nước sạch hiện còn quá thấp. Có 47% số các công ty cho biết họ có mức độ tự chủ thấp Do các doanh nghiệp kinh doanh nước sạch hiện nay phần lớn là các DNNN nên ít tính tự chủ, dựa nhiều vào nhà nước. Hiện nay giá nước ở một số nơi trên địa bàn Hà Nội còn thấp do trợ cấp của nhà nước chứ không phải do nỗ lực cắt giảm chi phí, nâng cao hiệu quả đầu tư cũng như hiệu quả quản lý của doanh nghiệp đó mang lại. Do cơ chế, chính sách của Nhà nước trong việc thu hút đầu tư tư nhân chưa thực sự hấp dẫn. Hình thức đầu trong lĩnh vực này chưa thực sự đa dạng và không có các thông tư, quyết định hướng dẫn cụ thể cho các hình thức này, vẫn còn cơ chế bao cấp trong hạch toán kinh doanh. Chính phủ vẫn chưa có một cơ chế pháp lý chi tiết để tạo môi trường thông thoáng cho tư nhân tham gia đầu tư vào ngành nước. Mặc dù hiện nay đã ban hành Luật đầu tư ( 2005) nhưng hệ thống pháp lý nước ta còn nhiều chồng chéo và còn thiếu các quyết định, nghị định, thông tư để hướng dẫn thi hành luật. Đặc thù của cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là mang nhiều tính công ích, thời gian thu hồi vốn của các dự án này thường chậm, mà vốn đầu tư ban đầu lại lớn do vậy hiệu quả quay vòng vốn chậm, nên chưa thu hút vốn đầu tư. Hiện nay việc tư nhân hóa mới chỉ phổ biến ở một số ngành nên kinh nghiệm quản lý của khu vực tư nhân trong lĩnh vực này còn non kém, bên cạnh đó do chính sách, cơ chế của nhà nước trong việc thu hút đầu tư vào lĩnh vực này chưa hấp dẫn, hình thức đầu tư tư nhân chưa thực sự đa dạng, hơn nữa nếu có thì các thông tư, quyết định hướng dẫn cụ thể cho các hình thức này, vì thế thường dẫn đến tâm lý e dè của các nhà đầu tư tư nhân khi đầu tư vào lĩnh vực này. Hơn nữa thì việc lập quy hoạch và điều phối cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị còn nhiều hạn chế và bất cập, điều này ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động đầu tư. Chúng ta là một nước đang phát triển vì vậy sự yếu kém trong hoạt động đầu tư cũng như yếu kém trong hệ thống cơ sở hạ tầng cấp nước là khó tránh khỏi. Hiện tượng thất thoát nước hiện tại có ba nguyên nhân chính là xuất phát từ dò rỉ trong mạng lưới phân phối chiếm 80%, trong đó đồng hồ đo sai chiếm 53% và do dùng nước trái phép chiếm 38%. Như vậy lượng nước thất thoát do rò rỉ trong mạng lưới chiếm tỷ trọng cao. Do đó giải pháp nâng cao hệ thống cơ sở hạ tầng tránh thất thoát nước là rất quan trọng. CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG CẤP NƯỚC ĐÔ THỊ TẠI HÀ NỘI 2.1. Phương hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 2.1.1. Phương hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: Phương hướng phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: Ngày 18/03/1998 Thủ tướng Chính Phủ đã phê duyệt Định hướng phát triển cấp nước đô thị quốc gia đến năm 2015 với các nội dung chủ yếu như sau: - Phát triển ngành cấp nước đô thị phục vụ sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước và có kế hoạch đầu tư phù hợp để phát triển hệ thống cấp nước các đô thị một cách ổn định và bền vững trong từng giai đoạn. - Điều tra, khảo sát, khai thác đi đôi với bảo vệ tài nguyên nước quôc gia; các nguồn nước mặt, nước dưới đất, sông ngòi, hồ chứa nước tự nhiên và nhân tạo tại các vùng khác nhau, chú ý tới các đô thị vùng ven biển, vùng khô hạn, vùng núi, cao nguyên và các vùng đặc trưng khác. - Nâng cao chất lượng phục vụ cấp nước cho sản xuất và dân sinh tại các vùng đô thị, tạo điều kiện giúp đỡ các công ty cấp nước tự chủ về tài chính, đồng thời thực hiện các nghĩa vụ công ích và chính sách xã hội. - Mục tiêu đến năm 2015 phấn đấu đạt chỉ tiêu cấp nước như sau: Đối với đô thị lớn : 100% dân số đô thị được cấp nước sạch với tiêu chuẩn 150 – 180 lit/ người/ ngày ; đối với các đô thị vừa và nhỏ: 120 – 150 lít/ người/ngày ; Các thị trấn, thị tứ phấn đấu 80% dân cư được cấp nước sạch với lượng nước 80-100lít/người/ngày đêm; đến năm 2010 dự kiến đạt khoảng 6,5 triệu m3/ngày và đến năm 2015 dự kiến đạt tổng công suất 13,5 triệu m3/ngày. Ngoài việc triển khai các chương trình, dự án cấp nước các thành phố lớn, các khu đô thị mới và khu công nghiệp cần khẩn trương tiến hành công tác chuẩn bị đầu tư, lập dự án, tìm nguồn tài trợ cho cấp nước các thị trấn, thị tứ. - Đào tạo cán bộ và đổi mới công tác quản lý phù hợp với đường lối công nghiệp hoá, hiện đại hoá của Đảng và nhà nước; tăng cường năng lực các công ty tư vấn đủ mạnh để có thể đảm đương được công tác lập dự án, thiết kế các hệ thống cấp nước. - Tăng cường ứng dụng công nghệ mới thông qua chuyển giao công nghệ, từng bước hiện đại hoá hệ thống cấp nước trong các đô thị. - Đẩy mạnh đầu tư cho sản xuất thiệt bị, vật tư, phụ tùng trong nước với chất lượng cao để thị trường quốc tế chấp nhận. - Áp dụng các tiêu chuẩn, quy phạm tiên tiến đưa ngành cấp nước Việt Nam hội nhập với các nước trong khu vực phù hợp với chính sách mở cửa và mở rộng hợp tác quốc tế của Đảng và Chính phủ - Giảm thất thoát, thất thu nước thêm 10% - Khai thác hợp lý các công trình cấp nước hiện có - Nâng cấp và đầu tư xây dựng mới các công trình phù hợp với sự phát triển của các đô thị - Tập trung thu hút nguồn vốn trong dân cư, nguồn vốn tư nhân để đầu tư phát triển mạng lưới, tránh dựa dẫm vào Ngân sách Nhà nước, vốn ODA. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị là giải pháp trực tiếp và gián tiếp giải quyết những vấn đề xã hội cấp bách trong quá trình phát triển, số lượng và chất lượng dịch vụ cấp nước phụ thuộc rất nhiều vào hiện trạng mạng lưới cấp nước hiện có chất lượng dịch vụ cấp nước chỉ có thể được nâng cao nếu có một hệ thống cơ sở hạ tầng cấp nước đạt tiêu chuẩn, đồng bộ và hiện đại. Do vậy phát triển cơ sở hạ tầng và thu hút vốn tư nhân vào cơ sở hạ tầng cấp nước là hai vấn đề có liên quan và tác động qua lại đáp ứng yêu cầu xã hội và dịch vụ cấp nước Vốn đầu tư vào cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phải được huy động từ nhiều nguồn và kết hợp với nhau để sử dụng một cách có hiệu quả. 2.1.2. Kế hoạch phát triển ngành cấp nước đô thị: Bảng 13 : Dự kiến nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị giai đoạn 2008-2015 Đơn vị:Tỷ USD 2008 2010 2015 Tổng vốn đầu tư 3,2 4.5 5,6 Tỷ trọng 100 100 100 1. Vốn NSNN - Quy mô 0,5 0,5 0,4 - Tỷ trọng 15,6 8,88 7,14 2. Vốn tín dụng ĐTPT - Quy mô 0,8 1,5 2,3 - Tỷ trọng 25 33,4 41,07 3. Vốn ODA - Quy mô 1,1 1,2 1,3 - Tỷ trọng 34,4 26,6 23,2 4. Vốn tư nhân - Quy mô 0,8 1,4 1,6 - Tỷ trọng 25 21,12 28,6 Nguồn : Vụ kết cấu hạ tầng và đô thị Theo bảng kế hoach nhu cầu vốn cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị ở trên cho thấy, với sự tăng quy mô và tỷ trọng các nguồn vốn ta thấy: đến năm 2015 nguồn vốn tư nhân cần cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị khoảng 1.6 tỷ USD, tăng 0.8 tỷ USD so với năm 2008, Qua bảng ta cũng thấy nguồn vốn đầu tư tư nhân cần cho đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng đến năm 2015 chiếm khoảng 28,6 % tổng số vốn, tức là chiếm vị trí thứ hai sau vốn tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước, điều đó cho thấy vai trò ngày càng quan trọng của nguồn vốn tư nhân trong đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị Ngoài ra một số kế hoạch khác cần thực hiện là : Đảm bảo cung cấp nước sạch cho 90% dân số đô thị Hà Nội với tiêu chuẩn trên l00 lít/người/ngày. Giảm tỉ lệ thất thoát,thất thu nước xuống còn dưới 34% Tăng them 10% đô thị cấp huyện có hệ thống cấp nước đủ tiêu chuẩn Tăng đầu tư các khu vực thiếu nước trầm trọng 2.2. Giải pháp chủ yếu thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 2.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến việc thu hút đầu tư tham gia phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. Đến nay, ngòai các văn bản quy phạm pháp luật có tính chất điều chỉnh chung thì hệ thống các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị như Thông tư 38/2005/TT – BTC của Bộ tài chính quy định về khung giá nước sinh hoạt của các đô thị, Nghị định 117 về sản xuất , kinh doanh và tiêu thụ nước sạch, ngày càng hoàn thiện hơn trước. Trong việc thu hút đầu tư tư nhân tham gia vào việc đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị thì các nhà đầu tư tư nhân thường quan tâm đặc biệt đến các khỏan thu từ đầu tư như cước phí sử dụng nước sạch, chính sách tính giá…Nếu các vấn đề này không mang lại lợi nhuận cho các nhà đầu tư tư nhân thì rất khó thu hút họ tham gia. Chính phủ vẫn chưa có một cơ sở pháp lý đầy đủ, cụ thể để tạo môi trường thông thoáng cho tư nhân tham gia đầu tư vào lĩnh vực này. Chính vì vậy một số cơ chế, chính sách cần được nghiên cứu làm rõ hơn, đó là : Chính sách giá nước: giá nước cần đảm bảo được hiệu quả kinh doanh của người dân. Để đạt được điều đó thì cần phải đánh giá lại tài sản cố định đã được đầu tư từ những khoảng thời gian, nguồn vốn khác nhau, căn cứ vào suất đầu tư để tính lại giá trị tài sản cố định và chi phí khấu hao vào giá thành.Giá nước không nên để UBND và HĐND quyết định như hiện nay.Nhà nước chỉ ban hành khung giá nước sạch cho từng vùng, giá bán cụ thể do thị trường và người sản xuất quyết định. Vấn đề mấu chốt cho sự thành công của ngành là giá nước phải cao hơn hiện tại nhưng phải khả thi và trong khả năng chi trả. Hướng dẫn và thực hiện một cơ chế tính giá chung cho toàn quốc là một bước đi đúng hướng. Thông tin cho dân chúng biết về chi phí cho dịch vụ cấp nước và nước thải, và đáp ứng đúng mong đợi của họ về dịch vụ thì chắc chắn sẽ có sự hỗ trợ từ cộng đồng. Rõ ràng là không thể nâng giá nước thường xuyên để đạt đến tình trạng thu hồi đầy đủ chi phí. Vì vậy, đối với tất cả đầu tư mới phải thu hồi tất cả chi phí, còn đối với những khách hàng hiện tại cũng phải phân định rõ thời gian bao cấp và thời gian tiếp cận đến thu hồi toàn bộ chi phí. Như vậy, mong đợi của khách hàng sẽ được xây dựng trên giá nước thực tế và họ cũng hiểu được sự bao cấp của chính phủ trong thời gian chuyển giao, mặc dù bao cấp này sẽ dần bị giảm và tiến tới thu hồi toàn bộ chi phí. Ngoài việc dàn xếp cho thời kỳ chuyển giao cần áp dụng chính sách điều chỉnh tự động theo chỉ số lạm phát. Hiện tại, khả năng chi trả và nguyện vọng đấu nối dường như không phải là vấn đề trong cấp nước. Tuy nhiên cũng giống như ở các quốc gia khác, khi giá nước được nâng lên thì nên tập trung bao cấp cho chi phí đấu nối cho các hộ gia đình nghèo. Tuy nhiên, do doanh nghiệp kinh doanh nước sạch hiện nay vẫn được coi là doanh nghiệp công ích, nhà nước cần ban hành những cơ chế hỗ trợ cho doanh nghiệp thuộc lĩnh vực cấp nước đô thị để doanh nghiệp có thể hoạt động và phát triển, mang lại hiệu quả kinh tế xã hội. Tuy nhiên những hỗ trợ đó cần phải dựa trên cơ sở đảm bảo những cam kết quốc tế mà Việt Nam đã ký. Nhà nước cần hoàn thiện những cơ chế chính sách pháp luật hiện nay liên quan đến đầu tư, tài chính và tín dụng để có thể tạo ra một thị trường vốn lành mạnh, có thể huy động vốn cho đầu tư phát triển hệ thống cấp thoát nước đô thị, khuyến khích được các thành phần kinh tế tham gia đầu tư. Một cơ chế khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư trong lĩnh vực cấp nước đô thị cũng cần được xây dựng để có thể huy động tối đa mọi nguồn lực xã hội cho cấp nước đô thị, khi mà các nguồn tài trợ cho lĩnh vực này đang có xu hướng giảm. Ngoài ra, sự thống nhất và hiệu lực áp dụng của khung pháp lý cũng như tốc độ thực thi những chiến lược ngành cần được cải thiện. Ví dụ, một khung pháp lý hỗ trợ chiến lược quốc gia về cấp nước đô thị là cần thiết, như những quy định cho phép các nhóm cộng đồng người sử dụng nước vay vốn và mở tài khoản. Ở các đô thị nhỏ, cần thiết có một khung thể chế thích hợp về đầu tư các dự án vừa và nhỏ cho cả phía chính quyền và cộng đồng tuân theo phân cấp việc ra quyết định đầu tư , tránh những chồng chéo về trách nhiệm giữa nhà đầu tư và cơ quan thực hiện đầu tư và đơn giản hóa quá trình chuẩn bị dự án. Cần có sự điều phối và kết hợp giữa các chương trình cấp nước đô thị và nông thôn để đảm bảo thống nhất với các chương trình quốc gia về chống ngập úng và bảo vệ môi trường cũng như chương trình xóa đói giảm nghèo. Vai trò và trách nhiệm các cơ quan trong ngành cần được chỉ ra rõ ràng . Bất kỳ một chính sách nào cũng cần phải toàn diện và có thể cân nhắc thành lập một cơ quan duy nhất quản lý và theo dõi dịch vụ cấp nước đô thị. 2.2.1.1. Xây dựng một chương trình, kế hoạch hoàn chỉnh cho cấp nước đô thị Nhà nước cần nhanh chóng thiết lập một chương trình hay kế hoạch hoàn chỉnh cho công tác cấp nước đô thị, để công tác đầu tư phát triển hệ thống câó nước đô thị có một lộ trình, một hướng đi rõ ràng và cụ thể, có như vậy, hoạt động đầu tư mới trở nên có bài bản và đạt hiệu quả phối hợp cao hơn. Đi kèm với đó, Nhà nước cần xây dựng một quy hoạch tổng thể về đầu tư xây dựng kết cấu hạ tầng đô thị, trong đó có quy hoạch hệ thống cấp nước đô thị, bao gồm việc xác định vốn và các nguồn lực trong nước, đồng thời phù hợp với các cam kết trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Quy hoạch này đồng thời phải tính tới điều kiện cụ thể của từng vùng, từng địa phương, đảm bảo phát huy tối đa lợi thế so sánh của mỗi vùng, thu hút được công nghệ mới, hiện đại cho hệ thống cấp nước đô thị. Một danh mục các dự án lớn cần triển khai và thu hút vốn đầu tư cần được xây dựng và giới thiệu rộng rãi để các nhà đầu tư quan tâm có thể tới tìm hiẻu cơ hội đầu tư, như vậy sẽ mang lại lợi ích cho cả nhà nước và nhà đầu tư. Có vậy nguồn lực huy động cho đầu tư phát triển hệ thống cấp nước cũng sẽ được huy động nhanh hiơn và đúng địa chỉ cần đầu tư. Trong các quy hoạch, chiến lược cần tập trung vào chính sách đầu tư và hỗ trợ mạnh mẽ việc phát triển hệ thống cấp nước ở các vùng ven đô thị, các khu vực dân cư nghèo đô thị, như vậy sẽ mang lại một hiệu quả kinh tế xã hội, tác động tới xóa đối giảm nghèo lớn hơn. 2.2.1.2. Cân đối lại và tăng cường huy động vốn từ các nguồn nhằm mở rộng hoạt động đầu tư Dựa trên các mục tiêu phát triển ngành cấp nước đô thị, NHTG và Chính phủ Việt Nam đã có những ước tính về nhu cầu nguồn vốn để đạt được các mục tiêu trên. Bảng 14: Dự kiến cấp nước đô thị Hà Nội Ước tính của NHTG Đơn vị 2000 2010 2020 Tổng dân số Ngàn người 19.000 32.000 46.000 Dân số đô thị có dịch vụ cấp nước năm 2000 Ngàn người 9.120 Dân số đô thị cần được cấp nước Ngàn người 9.888 22.880 36.880 Ước tính chi phí/đầu người theo giá năm 2000 Ngàn người 2,640 2,640 2,640 Nhu cầu vốn để đạt bao phủ 100% ở năm 2020 Ngàn người 26.083.200 60.403.200 97.363.200 Nguồn : Chiến lược phát triển cơ sở hạ tầng Việt Nam (Tỷ giá quy đổi : 1 USD = 16.000 VNĐ) Theo đó, trong giai đoạn 2004-2010, trung bình mỗi nguồn vốn cần thiết cho đầu tư để đạt được mục tiêu bao phủ 85% vào năm 2010 là 2560 tỷ đồng/ năm. So sánh với nguồn vốn đầu tư cấp nước đô thị qua các năm ta thấy, việc thực hiện kế hoạch nguồn vốn tương đối, song, do một số nguồn vốn đang có xu hướng giảm nên việc tìm ra các giải pháp thu hút nguồn vốn cho đầu tư phát triển vẫn là cần thiết. a. Duy trì nguồn vốn ODA Hiện nay nguồn vốn ODA đang có xu hướng giảm do chính phủ tập trung cấp nước cho nông thôn và vùng khó khăn, vì vậy để huy tốt nguồn vốn quan trọng này cần tập trung một số giải pháp. Chúng ta cần có cam kết rõ ràng về hiệu quả sử dụng nguồn vốn ODA từ phía chính phủ và các dơn vị sử dụng nguồn vốn này, điều này là rất quan trọng đối với đơn vị tài trợ. Song song với những cam kết là việc Chính phủ và các doanh nghiệp thực hiện tốt việc quản lý dự án , vận hành các kết quả đầu tư sao cho mang lại hiệu quả cao nhất. b. Tăng thu ngân sách Cùng với nguồn vốn ODA, nguồn ngân sách và tín dụng phát triển cho đầu tư phát triển hệ thống cấp nước đô thị có xu hướng giảm do Nhà nước tập trung vào cấp nước nông thôn. Do đó nguồn vốn cấp nước đô thị chỉ tăng khi nguồn thu ngân sách tăng . Vì vậy, chúng ta cần tập trung các biện pháp để tăng thu ngân sách. Tích cực thu đúng, thu đủ thuế, ngăn chặn tình trạng thất thoát, thất thu tiền thuế. Muốn làm được việc này, phải nâng cao ý thức của các tầng lớp nhân dân trong xã hội. Nhà nước phải ban hành các sắc thuế mới nhưng phải phù hợp với tình hình thực tế, việc này không có nghĩa là ban hành các sắc thuế mới mà không cần quan tâm đến nó có hợp lý hay không, có gây khó khăn cho dân hay không. Cổ phần hóa hoặc bán bớt cổ phần DNNN, giải tán các DNNN hoạt động không hiệu quả, thu hồi vốn để đầu tư là hoàn toàn có thể thực hiện được và hoàn toàn hợp lý, nhất là các doanh nghiệp hoạt động kinh doanh nước sạch. c. Nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp kinh doanh nước sạch Đầu tư phát triển của doanh nghiệp bao giờ cũng xuất phát từ hiệu quả kinh doanh, do đó, tăng hiệu quả SXKD của doanh nghiệp kinh doanh nước sạch đô thị chính là cách để tăng đầu tư phát triển cho cấp nước đô thị. Giải pháp cụ thể được nêu ở mục 2.2.2 dưới đây, ngoài ra còn có một số chính sách có thể đưa ra : Cạnh tranh để lấy thị trường.Trong trường hợp kết quả quản lý vận hành kém tại Cty cấp nước hiện có, UBND có thể giao xây dựng và vận hành hệ thống cấp nước khác. Cạnh tranh để có nguồn vốn ODA-Các nhà tài trợ cần cho vay dựa trên các kết quả vận hành d. Tiếp tục tăng cường thu hút vốn từ các nguồn khác các nguồn vốn được đề cập ở đây gồm 4 nguồn chính: từ dân cư; từ vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài; từ hệ thống ngân hàng thương mại và thị trường chứng khoán. - Vốn từ dân cư: Đối với vốn từ dân cư hiện nay, hiện nay vấn đề cấp nước đang được rất quan tâm, nguồn vốn đầu tư cho hệ thống cấp nước đô thị là hết sức tiềm năng. Ở các đô thị lớn nơi mức sống của người dân cao và có khả năng chi trả cho chi phí đầu tư ban đầu để được cấp nước sạch thì cơ chế này có thể áp dụng. - Vốn FDI : Cần có chính sách hỗ trợ cho doanh nghiệp với các hình thức đầu tư BOT, BOO, BTO ... - TTCK : Phát hành trái phiếu chính phủ, Địa phương, doanh nghiệp. Đối với các công ty đã cổ phần hóa thì thực hiện niêm yết trên TTCK. 2.2.1.3. Khắc phục sự mất cân đối theo cơ cấu đầu tư. Muốn vậy nhà nước cần yêu tinh tập trung các nguồn vốn nhà nước, vốn ODA, vồn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước vào các khu vực này.Đối với nguồn vốn tín dụng đầu tư phát triển của nhà nước khi đầu tư vào khu vực này cần có nhiều thành tố hổ trợ hơn, tức là với mức lãi xuất thấp hơn so với các khu vực khác. Đông thời có thể khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư vào cấp nước tại các khu vực đô thị nhỏ , vừa phù hợp với điều kiện của địa phương, vừa giảm tại gắn nặng cho nhà nước và vốn ODA. 2.2.2. Giải pháp khác: 2.2.2.1. Hoàn thiện cơ chế quản ký doanh nghiệp Cần tạo một cơ chế độc lập tự chủ cho các doanh nghiệp tham gia vào hệ thống cấp nước đô thị. Cần tách bạch cơ quan quản lý nhà nước về cấp nước ( các Sở giao thông công chính cấp tỉnh, các Bộ liên quan) với hoạt động của các doanh nghiệp này, xóa bỏ cơ chế Bộ chủ quản, có như vậy, các doanh nghiệp mới có động lực tự đứng vững trên đôi chân của mình, tất nhiên có sự hỗ trợ phần nào về phía nhà nước trong cơ chế chính sách. Nhưng chỉ khi doanh nghiệp có sự độc lập, doanh nghiệp mới có thể hết mình trong công tác cải tổ hoạt động, hướng đến một cơ cấu tổ chức, hoạt động một cách hiệu quả nhất. Trước tiên, cần có nghiên cứu, xem xét lại cơ cấu tổ chức quản lý cấp nước ở cấp quản lý cấp nhà nước. Trên cơ sở cơ cấu hiện nay, cần sắp xếp, tổ chức lại những điểm chưa hợp lý, từ các cơ quan chỉ đạo, quản lý ngành ở Trung Ương, nâng cao vai trò quản lý của các cấp chính quyền địa phương trong việc điều hành công tác cấp nước trên địa bàn của mình và đặc biệt là tăng cường năng lực của các công ty cấp nước. Theo đó, cần xác định lại một cách rõ ràng và cụ thể trách nhiệm và quyền hạn của các cơ quan nhà nước và địa phương trong quản lý cấp thoát nước. Trong công tác quản lý của Nhà nước thì trách nhiệm của Nhà nước cần được quy định theo đúng định hướng của Chính phủ sẽ thống nhất quản lý Nhà nước về hoạt động cấp nước trong phạm vi nhiệm vụ và quyền hạn của mình sẽ chịu trách nhiệm trong việc thực hiện quản lý Nhà nước vè hoạt động cấp nước trên địa bàn. Các công ty cấp nước sẽ phải có trách nhiệm phát triển và cung ứng các dịch vụ câp nước trong vùng phục vụ của mình theo nhu cầu phát triển dựa trên quyết định phê duyệt của cấp có thểm quyền về vùng phục vụ và kế hoạch cấp nước. UBND các cấp phải tổ chức giám sát việc thực hiện các dịch vụ cấp nước đã được ký giữa UBND hoặc cơ quan được ủy quyền với đơn vị cấp nước. Cùng với đó, Nhà nước cần tích cực hơn nữa trong công tác cổ phần hóa các doanh nghiệp Nhà nước, việc không những đem lại một nguồn vốn cho danh nghiệp ( thông qua bán bớt cổ phần ra bên ngoài) hơn nữa lại tạo ra một sức ép để doanh nghiệp hoạt động có hiệu quả, tự lực tự cường. 2.2.2.2. Cải tổ mô hình tổ chức của doanh nghiệp KDNS Việc đầu tư cần làm là xem xét lại mô hình tổ chức của doanh nghiệp sao cho hiệu quả. Cải cách phương pháp vận hành và quản lý công ty cấp nước cần kèm theo sự chuyển đổi các công ty cấp nước thành công ty TNHH 1 thành viên do chính quyền thành phố nắm giữ. Việc này sẽ giúp thực hiện việc cổ phần hóa sau này. Bước đầu tiên là hợp đồng kết quả vận hành giữa UBNN tỉnh với công ty cấp nước đã được ký kết dựa trên sự thống nhất đầu vào và đầu ra. Thiết thập mối quan hệ hợp đồng rỏ ràng sẽ tạo cho cả hai, ủy ban và công ty cấp nước những khuyến khích để có thể linh loạt và đáp ứng sự thay đổi môi trường kinh doanh và tăng nhu cầu. Một thỏa thuận thuê tài sản với công ty cấp nước và nhân tố thuế chấp để vay tài chính cũng được rõ ràng.Bộ xây dụng cần cân nhắc một khung chính sách thích hợp để cung cấp cho các công ty cấp nước những khuyến khích, thưởng phạt, sao cho ngành có thể phát triển theo hướng bền vững. Giống như hầu hết các DNNN khác của Việt Nam, các doanh nghiệp KDNS hiện nay có số lượng nhân viên còn lớn so với mức hiệu quả. Quan sát phụ lục 4, ta có số lượng nhân viên/1000 đấu nối của 3 công ty cấp nước lớn của Việt Nam bình quân là 6,2667 ,trong khi mức bình quan của 7 công ty cấp nước khác của các nước đang phát triển là 6,44 ,tức là con số này của Việt Nam là tốt hơn so với mức trung bình của các nước đang phát triển, tuy nhiên theo đánh giá của NHTG con số được coi là tốt của các đước đang phát triển là 5 nhân viên/1000 đầu nối như vậy Việt Nam vẫn ở dưới mức coi là tốt này.Vì vậy chúng ta cần phải đặt ra nhiệm vụ nâng cao năng suất lao động cho các công ty cấp nước hay cấp giảm bớt đội ngũ lao động dư thừa, cải tổ bộ máy tổ chức thì năng suất lao động mới được tăng lên 2.2.2.3. Giảm tỉ lệ thất thoát, thất thu nước Hiện tại, giải pháp để giảm tỉ lệ thất thoát, thất thu nước được đánh giá là giải pháp hết sức quan trọng để tăng hiệu quả làm việc của các công ty KDNS tại Việt Nam. Nếu chúng ta giải quyết tốt vấn đề này chúng ta sẽ hạn chế được đầu tư mới, nâng cấp cải tạo nhà máy nước với chi phí đầu tư cao. Nguyên nhân cơ bản của tình trạng này là do rò rỉ trên đường ống và quá trình xử lý nước; công tác thiết kế thi công đường ống chưa hợp lý, chất lượng của đường ống kém, vật liệu ống có nhiều chủng loại như gang, thép, bê tông, PVC cho nên các điểm đấu nối thường không tốt gây ra phì vỡ. Đặc biệt trong quá trình thi công xây dựng tình trạng ăn mòn của đất ít được chú ý đến cho nên các ống rất nhanh xuống cấp. Một nguyên nhân nữa làm cho tỉ lệ thấp thoát nước còn ở mức cao như hiện nay là ý thức sử dụng tiết kiệm nước của người dân còn kém. Nhiều nơi máy nước công cộng để mở tự do không ai sử dụng. Giải pháp kỹ thuật : Quan trọng nhất là chống rò rỉ trên mạng phân phối. Phương pháp tốt nhất là thay thế toàn bộ, tuy nhiên với điều kiện nguồn vốn còn hạn hẹp thì chỉ có thể thay thế dần dần. Cần tập trung thay thế theo khu vực, ưu tiên những khu vực xây dựng từ cũ đến mới. Song song cần triển khai công việc phát hiện và sửa chửa rò rỉ trên mạng. Sự dụng đường ống và phụ kiện cho chất lượng cao, thay thế ống gang xám không có xâm thực bên trong bằng ống gang dẻo, thay thế ông kém bằng ống PE để hạn chế rò rỉ. Cũng cần phân chia giữa mạng cũ và mới để điều chỉnh áp lực phù hợp. Việc kiểm tra, thay thế các đồng hồ đo nước không đạt tiêu chuẩn, lắp đặt đồng hồ mới vừa là biện pháp quản ly, vừa là biện pháp kỹ thuật quan trọng xét về phía cạnh kiểm tra thất thoát. Giải pháp để quản lý : Nguyên nhân thất thoát do quản lý thường gấp đôi thất thoát do kỹ thuật. Một số biện pháp cụ thể : - Xây dựng cơ chế khoán định mức thất thoát nước cho từng đơn vị, tổ đội…có chính sách thưởng, phạt nghiêm minh đối với cá nhân, đơn vị có thành tích tiết kiệm và lãng phí nước. - Tuyên truyền trên các phương tiện thông tin đại chúng cho người dân có ý thức sử dụng nước tiết kiệm, phát hiện và báo cáo cho đơn vị quản lý những nơi hư hỏng để xử lý kịp thời. - Có cơ chế quản lý thích hợp đối với các nhà máy nước công cộng, công viên, họng nước cứu hỏa Ngoài ra việc thất thoát do người dân đấu nối bất hợp pháp thì cần tập trung giải quyết theo các phương pháp : Thứ nhất, cần tích cực kiểm tra, kiểm soát hệ thống đường ống, nhanh chóng phát hiện các đường ống đấu nối trái phép và có biện pháp xử lý. Thứ hai, giáo dục ý thức cho người dân, giúp người dân hiểu và thực hiện nghiêm túc các quy định của công ty Thứ ba, giao một phần nhiệm vụ kiểm tra, kiểm soát cho người dân tự quản… Hiện nay giá nước đang được chính quyền địa phương quyết định, do đó mang tính chất trợ cấp khá lớn và còn thấp hơn nhiều so với chi phí thực. Do đó các công ty cấp nước và nhà nước cần xem xét đánh giá một cách hợp lý (xem phụ lục 3) 2.2.2.4. Phát triển nguồn nhân lực Đây là nhiệm vụ cần thiết của các công ty cấp nước các tỉnh nhằm nâng cao đội ngũ cán bộ, từ cán bộ lãnh đạo, quản lý, kỹ thuật, kinh tế tài chính, đến đội ngũ công nhân vận hành, bảo dưỡng hệ thống cấp nước. Cần phải mở rộng các cơ sở đào tạo về cấp nước đô thị tại các địa phương, như vậy sẽ có nguồn nhân lực sẵn có, lại được đào tạo phù hợp với từng điều kiện của từng địa phương Các hiệp hội cty cấp nước … cần xúc tiến tổ chức các chương trình bôì dưỡng nhân viên, cán bộ quản lý. Chương trình và nội dung đào tạo cần thiết kế cho phù hợp với thực tế hoạt động ngành, cùng với đó cần phù hợp với từng loại cán bộ công nhân viên. Cùng với đó, cần có sự phối hợp giữa cơ sở đào tạo và nơi sử dụng. Cần có chính sách thu hút và đãi ngộ hợp lý các công nhân viên, để họ yên tâm làm viêc, cống hiến hết mình và say mê làm viêc, sẵn sàng học hỏi, tiếp thu kiến thức mới để nâng cao chất lượng công việc. 2.2.2.5. Tăng cường hợp tác giữa các công ty kinh doanh nước sạch và hợp tác với các tổ chức quốc tế. Các hiệp hôi cấp thoát nước Việt Nam cần cung cấp nguồn lực về mặt kỹ thuật và quản lý cho các công ty cấp nước vì lợi ích chung của ngành. Đoàn kết là sức mạnh, vì vậy những hiệp hồi này cần tích cực thu hút nhiều hơn các công ty kinh doanh nước sạch cùng tham gia và hoạt động, từ đó đưa ra những chiến lược định hướng chung cho ngành, đưa hoạt động của ngành ngày càng phát triển. Hội CTNVN cần phải đóng vai trò quan trọng hơn trong việc xây dựng năng lực kỹ thuật và năng lực quản lý cho các bên cấp nước đô thị. Thông qua tiến hành các chương trình đào tạo quy mô quốc gia, nâng cao năng lực quản lý tài chính, năng lực quản lý hợp đồng và nhà thầu. Việc hợp tác với các tổ chức quốc tế sẽ đem đến nhiều cơ hội học hỏi trao đổi kinh nghiệm đầu tư, tìm hiểu các công nghệ mới xử lý nước, các tiêu chuẩn mới về vệ sinh nước sạch nhằm mục tiêu áp dụng vào Việt Nam, giúp nâng cao trình độ công nghệ và nâng cao chất lượng nước sạch cung cấp cho người dân. 2.2.2.6. Giáo dục ý thức của người dân Cần hoàn thiện lại các hợp đồng cung cấp nước sạch với người dân, trong đó nâng cao hơn trách nhiệm của người dân, trong trường hợp nếu có đấu nối bất hợp pháp thì cần có hình phạt nghiêm minh hơn. Người dân sẽ có ý thức tốt hơn và các hành vi như vậy sẽ giảm dần. Ngoài ra không chỉ giám sát các hành vi đấu nối trái phép, cần có cơ chế khuyến khích người dân tham gia giám sát các đơn vị trong qua trình thực hiện đầu tư, phát hiện các hành vi này giúp nâng cao hiệu quả đầu tư. KẾT LUẬN Là một trong những sản phẩm thiết yếu đối với cuộc sống nhân dân, nước sạch cũng là thước đo trình độ phát triển của một đô thị văn minh. Sản xuất và cung cấp nước sạch là một trong những lĩnh vực hạ tầng có ảnh hưởng quan trọng đến đời sống dân sinh cũng như sự phát triển kinh tế xã hội và ngày càng có vai trò quan trọng trong sự phát trển bền vững của đô thị Hà Nội. Cấp nước đô thị Hà Nội không chỉ giải quyết vấn đề của người dân mà còn đóng góp phát triển hệ thống hạ tầng kỹ thuật đồng bộ trên toàn thành phố. Tuy nhiên việc xây dựng hạ tầng cấp nước ở Hà Nội đòi hỏi sự tham gia không chỉ ngành nước, mà phải xa hội hóa cả khâu khai thác, sản xuất, truyền tải, phân phối nước và đầu tư phát triển hệ thống cấp nước để đảm bảo yêu cầu cấp nươc có hiệu quả và phát triển bền vững. Mặt khác khi môi trường đô thị hóa ngày càng trở nên ô nhiễm thì vấn đề an ninh nguồn nước càng trở nên bức xúc hơn. An ninh nguồn nước không chỉ là vấn đề chất lượng nước mà về lâu dài còn là sự bền vững của nguồn nước, của môi trường nước với phạm vi không chỉ Hà Nội nói riêng mà còn cả khu vực sông Hồng và vùng kinh tế miền Bắc nói chung Trên cơ sở như vậy. bài viết được hoàn thành. Tuy nhiên, phạm vi nghiên cứu của đề tài rất rộng, trình độ còn hạn chế nên không thể tránh khỏi những thiếu sót. Do vậy em rất mong nhận được sự đóng góp ý kiến của thầy cô. Em xin chân thành cảm ơn! TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Bộ Kế hoạch và Đầu tư (1997), Thực trạng cấp nước đô thị Hà Nội (1991- 2006) 2. Nguyễn Bạch Nguyệt (2005), “Giáo trình lập dự án đầu tư”, nhà xuất bản thống kê. 3. Ban quản lý Khu kinh tế Dung Quất (2005), Những giải pháp và kiến nghị để thực hiện mục tiêu đầu tư và phát triển CSHT cấp nước đô thị Hà Nội 2006 – 2010. 4. Cấp nước sạch Hà Nội (2007), Báo cáo tình hình thực hiện chỉ tiêu thực hiện kế hoạch nhà nước năm 2006. 5. Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương (2007), “Giáo trình Kinh tế đầu tư”, nhà xuất bản đại học Kinh tế quốc dân. 6. Vụ Kết cấu hạ tầng và đô thị (2008), Báo cáo tình hình thực hiện chỉ tiêu thực hiện kế hoạch nhà nước năm 2007. 7. Vụ Kết cấu hạ tầng và đô thị (2009), Báo cáo tình hình thực hiện chỉ tiêu thực hiện kế hoạch nhà nước năm 2008. 8. Các trang web: www.mpi.gov.vn vietnamnet.vn vietbao.vn dantri.com.vn www.tongcucthongke.com.vn LỜI NÓI ĐẦU DANH MỤC BẢNG, BIỂU CÁC CHỮ CÁI VIẾT TẮT CHƯƠNG 1: THỰC TRẠNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG CẤP NƯỚC ĐÔ THỊ TẠI HÀ NỘI 1.1. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị, vai trò và mô hình cung cấp nước đô thị điển hình: 1.1.1. Khái niệm cơ sở hạ tầng và cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: 1.1.1.1. Cơ sở hạ tầng: 1.1.1.2. Cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: 1.1.2. Khái niệm và vai trò của việc đầu tư phát triển cơ sở hạ cấp nước đô thị: 1.1.3. Mô hình cung cấp đô thị điển hình: 1.2. Sự cần thiết phải đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị: 1.2.1. Tốc độ tăng trưởng dân số của người dân Hà Nội trong những năm qua: 1.2.2. Tiêu chuẩn dùng nước, cấp nước và nhu cầu dùng nước của người dân Hà Nội: 1.2.3. Tình hình cung cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.3. Thực trạng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.3.1. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 1.3.2. Tình hình thực hiện các dự án đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.3.3. Nguồn vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 1.3.4. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phân theo nội dung đầu tư: 1.3.5. Tình hình thực hiện vốn đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị phân theo hình thức đầu tư: 1.4. Đánh giá 1.4.1. Kết quả và hiệu quả đạt được: 1.4.1.1. Kết quả: 1.4.1.2. Hiệu quả đạt được: 1.4.2. Hạn chế và nguyên nhân của hạn chế đó: 1.4.2.1. Hạn chế: 1.4.2.2. Nguyên nhân: CHƯƠNG 2: MỘT SỐ GIẢI PHÁP TĂNG CƯỜNG ĐẦU TƯ PHÁT TRIỂN CƠ SỞ HẠ TẦNG CẤP NƯỚC ĐÔ THỊ TẠI HÀ NỘI 2.1. Phương hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 2.1.1. Phương hướng đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị tại Hà Nội: 2.1.2. Kế hoạch phát triển ngành cấp nước đô thị: 2.2. Giải pháp chủ yếu thu hút đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị 2.2.1. Hoàn thiện cơ chế, chính sách liên quan đến việc thu hút đầu tư tham gia phát triển cơ sở hạ tầng cấp nước đô thị. 2.2.1.1. Xây dựng một chương trình, kế hoạch hoàn chỉnh cho cấp nước đô thị 2.2.1.2. Cân đối lại và tăng cường huy động vốn từ các nguồn nhằm mở rộng hoạt động đầu tư 2.2.1.3. Khắc phục sự mất cân đối theo cơ cấu đầu tư. 2.2.2. Giải pháp khác: 2.2.2.1. Hoàn thiện cơ chế quản ký doanh nghiệp 2.2.2.2. Cải tổ mô hình tổ chức của doanh nghiệp KDNS 2.2.2.3. Giảm tỉ lệ thất thoát, thất thu nước 2.2.2.4. Phát triển nguồn nhân lực 2.2.2.5. Tăng cường hợp tác giữa các công ty kinh doanh nước sạch và hợp tác với các tổ chức quốc tế. 2.2.2.6. Giáo dục ý thức của người dân KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21270.doc
Tài liệu liên quan