Khóa luận Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2008:Thực trạng và giải pháp

Hoàn thiện cơ chế đầu thầu và tăng cường quản lý công tác đấu thầu: trong thời gian qua công tác đấu thầu đã bộc lộ nhiều yếu kém làm ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ của dự án do quy chế đầu thầu chưa hoàn thiện và thiếu thông tin nên trước tiên để đảm bảo tính công khai minh bạch thì bộ giao thông, bộ kế hoạch và đầu tu, bộ tài chính cần lập kế hoạch đầu thầu dự án rộng rãi dưới hình thức cạnh tranh rộng rãi để có thể lựa chọn được các nhà thầu phù hợp, quản lý đầu thầu cần phải thực hiện xuyên suốt từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức đầu thầu, đánh giá sơ bộ dự thầu, lựa chọn nhà thầu và kí kết hợp đồng; cần công khai hoá công tác đầu thầu trên những tờ báo có uy tín hay trên mạng để nhà thầu tiện theo dõi. Thực hiện các giải pháp tăng cường đầu tư giao thông đô thị và giao thông nông thôn.Trước tiên là các giải pháp về giao thông đô thị như hạn chế các phương tiện vận tải các nhân như ô tô, xe máy bằng cách tăng mức phí đăng ký mới với các phương tiện, thắt chặt các điều kiện đăng ký xe; xây dựng và phê duyệt chi tiết phát triển mạng lưới giao thông tránh sự chồng chéo giữa các dự án; tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông, xử phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm an toàn giao thông.Còn đối với giao thông nông thôn thì cần phải tiếp tục khuyến khích người dân cùng nhà nước tham gia đầu tư, điều này không những giúp cho vốn NSNN đạt được hiệu quả cao hơn mà còn nâng cao được trách nhiệm của người dân. Cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là huyết mạch của nền kinh tế và của đất nước do vậy trong quá trình phát triển của bất cứ quốc gia nào giao thông đường bộ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt và ở Việt Nam cũng vậy hàng năm vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng GTĐB luôn có tỷ trọng cao so với các ngành khác.Trong thời gian tới khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giời WTO thì vốn NSNN vẫn là nguồn vốn chủ đạo và nó tập trung vào phát triển cơ sỏ hạ tầng đường hộ theo tiêu chuẩn quốc tế và ngày càng hiện đại để đáp ứng được tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế trong những năm tới.

doc98 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1646 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ giai đoạn 2003-2008:Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
trình lập kế hoạch cần tính đến các yếu tố ảnh hưởng, rủi ro hay xảy ra như giá nguyên vật liêu, sắt, thép, xi măng…Các yếu tố này là rất quan trong tránh tình trạng như năm 2008 khi mà giá sắt thép được đẩy lên cao ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả của các công trình. 2.2.Các giải pháp về chính sách tạo vốn NSNN phát triển giao thông đường bộ. Trong thời gian qua tỷ trọng các nguồn vốn trong nước và ngoài nước liên tục tăng cao trong lĩnh vực đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB tuy nhiên nguồn vốn NSNN vẫn chiếm một tỷ trọng đáng kể và là nguồn vốn cơ bản, tạo tiền đề phát triển quan trọng cho mạng lưới GTĐB.Tuy nhiên do nền kinh tế phát triển nhanh cùng với đó là nhu cầu đi lại của người dân tăng cao, số phương tiện giao thông xuất hiện ngày càng nhiều khiến cho vốn NSNN không thể đáp ứng được tốc độ phát triển đó đặc biệt là tình trạng thiếu vốn xảy ra ở nhiều dự án, để các công trình đường bộ được thực hiện từ nguồn vốn NSNN đạt hiệu quả thì cần phải có những giải pháp nhằm nâng cao khả năng huy động vốn như: -Thu phí các đối tượng sử dụng trực tiếp kết cấu hạ tầng giao thông đường bộ trên cơ sở quy hoạch mạng lưới trạm thu phí giao thông, tiến hành quy định mức lệ phí hợp lý thống nhất cho từng đối tượng tham gia giao thông. Đây là nguồn thu quan trọng để nhà nước có thể thu hồi vốn đầu tư và đầu tư vào các công trình khác. -Phụ thu qua giá xăng dầu, thu phí các xe có trọng tải nặng: điều này là hoàn toàn hợp lý đảm bảo công bằng xã hội, phương tiện nào sử dụng hạ tầng đường bộ càng nhiều thì càng tốn xăng, phương tiện có trọng tải nặng ảnh hưởng lớn đến chất lượng các con đường do đó đánh phí vào các đối tượng này sẽ đem lại cho NSNN một khoản lớn.Tuy nhiên lưu ý khi tiến hành thu phí xăng dầu cần tính toán hợp lý sao cho vẫn có thể thu được phí mà vẫn đảm bảo sự ổn định của giá xăng dầu. -Tiến hành thu phí theo các phương tiện giao thông: cần quản lý tốt hơn nữa công việc này, khi các phương tiện mới được đưa vào lưu hành cần phải thu một khoản phí nhất định.Cần phải có mức lệ phí hợp lý đặc biệt là đối với các phương tiện vận tải ô tô, sự phát triển quá nhanh của ô tô trong thời gian qua là nguyên nhân dẫn đến tình trạng xuống cấp của hệ thống hạ tầng đường bộ cũng như tình trạng tắc đường ở những thành phố lớn. -Tiến hành xây dựng các quỹ đường bộ để quản lý tốt nguồn vốn, quỹ này có tác dụng quản lý quá trình sử dụng vốn, tiến hành quản lý quá trình tạo vốn từ NSNN chỉ phục vụ cho phát triển đường bộ, có thể đem nguồn vốn ra đầu tư khi nhàn rỗi nhằm nâng cao khối lượng vốn đầu tư cho đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng GTĐB.Ngoài ra quỹ này cũng có thể trực tiếp phát hành trái phiếu công trình đối với nhưng công trình có nhiều lợi ích cao, tiến hành thu phí hưởng lợi từ các cơ sở kinh tế, doanh nghiệp…do tuyến đường giao thông đi qua nên phải trả những khoản lệ phí nhất định hàng năm. -Thực hiện đa dạng hoá các hình thức đầu tư để huy động vốn: +Đầu tư khai thác và chuyển giao (BOT). +Đầu tư và chuyển giao. +Đầu tư và thu phí hoàn trả -Xây dựng các khu vực có thể có lãi bên cạnh những công trình giao thông đường bộ được xây dựng như xây dựng các cơ sở kinh doanh bên cạnh các con đường mới, đây là một nguồn thu đáng kể đóng góp vào NSNN hạn hẹp. 2.3.Các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước. -Nghiên cứu sắp xếp lại các đơn vị quản lý sao cho thống nhất tránh tình trạng chồng chéo giữa các bộ, ngành và các địa phương, nghiên cứu sắp xếp lại các đơn vị quản lý nhà nước sao cho phân công, phân cấp một cách hợp lý để bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả, phân định rõ những công việc mà mỗi cơ quan được toàn quyền quyết định và những công việc mà mỗi cơ quan quản lý phải chuyển lên cấp trên,tăng cường trách nhiệm của các địa phương, tạo điều kiện cho mỗi địa phương có toàn quyền quyết định tuy nhiên cũng cần phải có những báo cáo rõ ràng đối với các dự án phức tạp có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển của cả nước. -Về công tác điều hành, các cơ quan quản lý nhà nước về đầu tư cần rà soát lại hệ thống văn bản từ khâu tạm ứng, thanh toán đến quyết toán vốn đầu tư nhằm không ngừng nâng cao hiệu quả quản lý vốn đầu tư, đẩy mạnh công tác đôn đốc, kiểm tra,thanh tra các bộ, ngành, địa phương trong việc chấp hành các quy định về công tác quản lý đầu tư. -Mỗi bộ, ngành, địa phương cần có tổ chức bộ máy thanh tra quyết toán vốn đầu tư bảo đảm cả số lượng và chất lượng.Thực hiện công tác này tốt sẽ tránh được tình trạng lãng phí, và thất thoát vốn của nhà nước. -Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn định mức kinh tế- kỹ thuật, đơn giá hợp lý về xây dựng và sửa chữa công trình giao thông đường bộ. +Bộ xây dựng và bộ giao thông vận tải cần ban hành hệ thống các định mức sử dụng các loại nguyên vật liệu, máy móc thiết bị thi công, phương pháp xác định định mức, đơn giá tổng dự toán… +Bộ tài chính cần ban hành các quy định về quy trình thẩm định và phê duyệt quyết toán vốn đầu tư dự án hoàn thành để có thể hướng dẫn thống nhất cho từng ban quản lý dự án, từng địa phương. -Tăng cường trách nhiệm của các ban quản lý dự án: +Xác định rõ trách nhiệm của các thành viên trong ban quản lý dự án trong đó có cán bộ kĩ thuật, cán bộ tài chính,…đảm bảo sao cho công trình được quản lý tốt nhất và gắn trách nhiệm của ban quản lý dự án với vốn được sử dụng và tiến độ cũng như chất lượng của công trình. +Đảm bảo quản lý công trình theo giá dự toán công trình, thời gian xây dựng công trình phải hoàn thành theo thời gian đã được phê duyệt, xây dựng các quy chế hợp lý nhằm khen thưởng cũng như cảnh cáo đúng thời điểm với các ban quản lý dự án. -Thực hiện tốt nguyên tắc quản lý theo ngành và lãnh thổ: xuất phát từ đặc điểm địa lý của nước ta nên áp dụng nguyên tắc quản lý theo ngành và vùng lãnh thổ là rất quan trọng nhằm đảm bảo cho mỗi ngành và mỗi vùng phát huy toàn diện thế mạnh của mỗi vùng và ngành trong sự phát triển chung. -Luôn luôn tiến hành cân đối nguồn vốn NSNN nhằm tiến hành phân bổ và cấp phát vốn một cách hợp lý dựa trên nhu cầu thực tế của từng vùng, từng địa phương, tăng cường đầu tư vào các khu vực nông thôn và các vùng khó khăn do các vùng này ít thu hút được các nguồn vốn khác vào đầu tư, xây dựng các con đường bê tông nối liền các vùng nhằm thực hiện tốt các chương trình xoá đói giảm nghèo của chính phủ. -Tạo lập một môi trường cạnh tranh lành mạnh, bình đẳng đối với mọi thành phần kinh tế tham gia đầu tư vào phát triển hạ tầng giao thông đường bộ: các thành phần tham gia đầu tư phải đảm bảo các tiêu chuẩn kĩ thuật về an toàn lao động, bảo vệ môi trường và các tiêu chuẩn về chất lượng công trình, đảm bảo các nguồn thông tin là minh bạch và đến được với mọi thành phần kinh tế.Làm tốt công tác này không chỉ giúp cho tốc độ phát triển hạ tầng giao thông đường bộ ngày càng nhanh hơn, ngày càng giảm gánh nặng cho nhà nước hơn mà qua đó ngày càng nâng cao các tiêu chuẩn kĩ thuật nâng cao được chất lượng nguồn nhân lực từ đó mà vốn NSNN nhà nước được sử dụng để đầu tư vào hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ có hiệu quả hơn. 2.4. Tăng cường công tác giám sát chất lượng, tiến độ xây dựng và thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các dự án đường bộ. Đây là công tác đặc biệt quan trọng và có tác dụng trực tiếp trong việc thất thoát, lãng phí từ các công trình giao thông.Việc sử dụng tiết kiêm, đúng mức mục đích vốn NSNN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn NSNN cũng như chất lượng công trình là một tiêu chí quan trọng biểu hiện hiệu quả sử dụng vốn NSNN.Một công trình nếu như xây dựng không đảm bảo chất lượng sẽ phải phá đi làm lại hay chi phí sửa chữa nó sẽ là rất lớn dẫn đến lãng phí vốn nghiêm trọng nên để đảm bảo chất lượng công trình và thực hiện đúng tiến độ của dự án thì công trình phải được tham gia giám sát chất lượng, đánh giá, thanh tra và kiểm tra thường xuyên. Việc kiểm soát chặt chẽ, thanh toán vốn đầu tư đúng mục đích, đúng khối lượng hoàn thành sẽ góp phần tránh thất thoát lãng phí và cần phải có những giải pháp cụ thể: -Thực hiện kiểm toán công trình giao thông đường bộ, nâng cao vai trò và tác dụng của công tác kiểm toán đối với quyết toán chính xác công trình giao thông. -Hoàn thiện hệ thống tiêu chuẩn, định mức kĩ thuật, đơn giá xây dựng và sửa chữa công trình giao thông. Công tác thanh tra tài chính cũng giữ một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, chống lãng phí thất thoát, phòng chống tham nhũng khi sử dụng vốn NSNN trong phát triển hạ tầng giao thông đường bộ. -Tổ chức theo dõi thường xuyên việc theo dõi, nắm tình hình các dự án đầu tư công trình giao thông có vốn NSNN cũng như tình hình đầu tư xây dựng của các bộ, ngành, địa phương trong đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ.Việc theo dõi, nắm tình hình thực hiện từ xa đảm bảo thông tin kịp thời cho việc lập kế hoạch thanh tra hoặc tiến hành thanh tra đột xuất với các công trình thấy xuất hiện nhiều sai phạm.Việc thu thập, cập nhật thông tin thường xuyên từ các dự án nhằm tạo ra một kho thông tin, dữ liệu về tình hình thực hiện các dự án của nhà nước, khắc phục tình trạng bị động nhằm chủ động trong công tác thay đổi kế hoạch thanh tra hàng năm cũng như trong việc thực hiện kế hoạch thanh tra.Vì vậy các cơ quan thanh tra của nhà nước cần có các phương pháp nắm tình hình thực tế của các dự án nhằm bảo đảm nguồn thông tin đồng bộ và hệ hông,cần bố trí cán bộ nắm những thông tin của từng dự án để có thể phối hợp giữa các bộ ngành, và các địa phương với nhau như ở Bộ kế hoạch đầu tư (vụ thẩm định và giám sát đầu tư,vụ quản lý đấu thầu…), bộ tài chính(vụ ngân sách, vụ đầu tư,kho bạc nhà nước), và bộ giao thông đường bộ, cục quản lý đường bộ… -Tiến hành rà soát, kiểm tra lại danh mục đầu tư ở tất cả các bộ, ngành, địa phương đảm bảo các dự án có hiệu quả, nếu dự án đầu tư không còn khả thi nữa thì có thể loại bỏ tránh lãng phí vốn đầu tư của nhà nước. -Đổi mới khâu kế hoạch thanh tra theo hướng vừa chủ động vừa linh hoạt và thường xuyên tiến hành các cuộc thanh tra đột xuất.Lập kế hoạch hàng năm thanh tra vào các dự án trọng điểm để đảm bảo mục tiêu phát triển chung nhưng cũng không quên tiến hành thanh tra đột xuất các dự án nhỏ nhằm đảm bảo nguồn vốn của NSNN được thực hiện đúng dự án, đúng kế hoạch. -Tiến hành thanh tra đúng nội dung cần thanh tra và đúng dự án cần phải thanh tra: khi tiến hành thanh tra cần xác định rõ nội dung thanh tra, đối tượng thanh tra, thời kỳ thanh tra, thời hạn thanh tra… tránh thanh tra dàn trải, thanh tra nhiều vào các nội dung không cần thiết, trên cơ sở đó xây dựng các phương án tổ chức thanh tra khoa học và bố trí lực lượng hợp lý để tiến hành thanh có hiệu quả và đúng mục đích thanh tra.Các công trình giao thông đường bộ là các dự án tương đối phức tạp nên nhiệm vụ thanh tra là rất nặng nề, phức tạp do đó nếu không chuẩn bị kĩ càng thì sẽ rất khó có thể tiến hành thanh tra có hiệu quả. -Sau khi tiến hành thanh tra cần phải đưa ra được những kết luận và kiến nghị thanh tra chính xác, chặt chẽ, rõ ràng tránh tình trạng nể nang, tham nhũng vốn đầu tư của NSNN.Làm tốt công tác này có thể đưa ra được những quyết định và những giải pháp thích hợp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và nâng cao chất lượng công trình. 2.5.Các giải pháp làm tăng hiệu quả công tác giải phóng mặt bằng. Công tác giải phóng mặt bằng đang là một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất trong công cuộc đầu tư phát triển hệ thống hạ tầng GTĐB ngay cả khi đã có những chính sách về giải phóng mặt bằng nhưng nguyên nhân chủ yếu là sự phối hợp giữa ban quản lý dự án với chính quyền địa phương.Trong thời gian qua công tác giải phóng mặt bằng nhằm tạo quỹ đất cho các công trình giao thông đường bộ gặp nhiều khó khăn và ảnh hưởng lớn đến tiến độ thi công của nhiều dự án và ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch cũng như chiến lược đầu tư của nhà nước, thực tế cho thấy nhiều công trình đã bị chậm trễ vài năm. Nguyên nhân dẫn đến tình trạng trên là: -Sự buông lỏng trong công tác quản lý đất đai nói chung và đất dành cho xây dựng nói chung, nhiều khu vực đã được cắm mốc để xây dựng đường cầu nhưng người dân vẫn cố tình xây dựng trái quy định, lấn chiếm trái phép khiến cho khi thực hiện dự án gây ra rất nhiều khó khăn và làm tăng chi phí giải phóng mặt bằng. -Việc cắm mốc chỉ giới các tuyến đường trong tương lai không được thực hiện trước một thời gian dài do vậy khi xây dựng mới và mở rộng các tuyến đường cũ phải bỏ ra rất nhiều chi phí giải phóng mặt bằng, nhiều công trình thì chi phí này còn lớn hơn nhiều chi phí xây dựng công trình. -Chính sách, đơn giá đền bù cho người dân chưa thoả đáng, đặc biệt là người dân ở các vùng nông thôn.Nhiều công trình khi xây dựng trên ruộng của người dân nhưng khi lấy thì nhà nước lại không chuẩn bị kịp thời nơi ở mới cho người dân cũng như chuẩn bị việc làm cho người dân khi họ không có ruộng. Để giải quyết những vấn đề trên thì trong thời gian tới cần phải có những giải pháp kịp thời để thực hiện tốt công tác giải phóng mặt bằng: -Xây dựng quy hoạch trung hạn và dài hạn một cách chi tiết để xây dựng hạ tầng đường bộ, trên cơ sở đó lập quy hoạch quỹ đất và có những chính sách thu hồi đất hợp lý với những cột mốc chỉ giới ổn định. -Công bố rỗng rãi quy hoạch đất đai cả quỹ đất cho xây dựng đường và quỹ đất hành lang bảo vệ đường để nhân dân có thể nắm được chủ trương của nhà nước trong phát triển hệ thống hạ tầng GTNT đồng thời tăng cường tuyên truyền, giáo dục trên các phương tiện thông tin đại chúng nhằm nâng cao ý thức tự giác của người dân. -Điều chỉnh giá đền bù hợp lý với giá trị đất đai của từng địa bàn và trong từng thời kỳ nhất định vì đây là một vấn đề tác động lớn nhất đến việc chấp thuận di dời của người dân.Khi mà lợi ích của ngừơi dân được đảm bảo, đủ bù đắp thiệt hại cho người dân thì sẽ có thể đẩy nhanh được công tác đền bù và giải phóng mặt bằng, tiết kiệm được thời gian và chi phí, tăng hiệu quả sử dụng vốn NSNN. Có các biện pháp xử lý nghiêm khắc đối với các trường hợp vi phạm quỹ đất đã được cắm mốc chỉ giới để xây dựng hay vi phạm hành lang bảo vệ đường bộ.Cần có các biện pháp xử phạt về kinh tế mạnh mẽ, kết hợp với hệ thống pháp luật đối với các trường hợp vi phạm. 2.6.Các giải pháp về bảo vệ môi trường. Bảo vệ môi trường là mục tiêu phát triển chung của bất cứ quốc gia nào khi tiến tời mục tiêu phát triển bền vững, và Việt Nam cũng không nằm ngoài mục tiêu đó. Đầu tư phát triện hệ thống hạ tầng GTĐB có ảnh hưởng rất nhiều đến chất lượng môi trường, như khi xây dựng các công trình giao thông sẽ sinh ra rất nhiều bụi gây ô nhiễm đến môi trường xung quanh, hay sự lưu thông của các phương tiện vận tải lạc hậu cũng sẽ gây ô nhiễm môi trường nghiêm trọng…Chính vì vậy để thúc đẩy đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB cần phải có những giải pháp cụ thể nhằm đạt được mục tiêu về môi trường: -Xây dựng các biểu phí xử phạt đánh vào các phương tiện vận tải cũ hay những phương tiện vận tải gây ô nhiễm môi trường, buộc các chủ phương tiện phải nộp các khoản phí cho việc xả thải khí ô nhiễm ra môi trường xung quanh.Với việc thu phí như vậy sẽ đóng góp đáng kể vào NSNN hàng năm phục vụ cho đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ. -Xây dựng chương trình khuyến khích cho các dự án không gây ô nhiễm môi trường và xử phạt với các dự án tiến hành đầu tư không đạt các tiêu chuẩn về môi trường, điều này sẽ nâng cao ý thức làm việc của người lao động cũng như nâng cao được hiệu quả đầu tư ở các công trình giao thông vận tải nói chung và giao thông đường bộ nói riêng. 2.7.Các giải pháp về phát triển nguồn nhân lực. Để phát huy được hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong phát triển kinh tế- xã hội nói chung và trong đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng thì cần phải chuẩn bị tốt nguồn nhân lực.Vì vậy cần phải có những giải pháp để nhằm nâng cao cả số lượng và chất lượng của nguồn nhân lực. Trước tiên cần xây dựng những chiến lược phát triển giáo dục và đào tạo nguồn nhân lực thực hiện trong hoạt động đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ, cần phải xây dựng và triển khai thực hiện chương trình đào tạo đồng bộ từ cán bộ lãnh đạo, quản lý, cán bộ phụ trách khoa học kỹ thuật đến đội ngũ công nhân…và đặc biệt chú tâm vào kỹ năng xây dựng, đánh giá quản lý dự án, nâng cấp năng lực tiếp nhận và đánh giá thông tin. +Thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá trong phương thức và cách thức đào tạo cán bộ quản lý và thực hiện dự án, sử dụng bao gồm cả hình thức đào tạo trong nước, cử đi học nước ngoài nếu thấy cần thiết, học chính quy trong các chương trình đào tạo tại các trường đại học trong nước, học bán chính quy, tại chức, tập huần, tu nghiệp…Mở rộng hợp tác với nước ngoài đặc biệt là các nước có nhiều kinh nghiệm trong quản lý và đầu tư.Mời chuyên gia giảng dạy, hướng dẫn chuyển giao kỹ thuật công nghệ, tổ chức hội thảo thường xuyên giữa các đơn vị để có thể nâng cao trình độ tay nghề, khuyến khích hình thức đào tạo tự túc kết hợp giữa các nhân với nhà nước về kinh phí đào tạo,khuyến khích cán bộ có nguyện vọng đi học… +Tăng cường đạo tạo về luật pháp, chính sách sử dụng vốn NSNN, quản lý đầu tư xây dựng, quy trình thanh toán vốn dự án, kiến thức tin học để thuận tiện cho công tác thu thập và xử lý thông tin, cách thức nâng cao khả năng huy động vốn của NSNN… +Thực hiện chế độ tuyển dụng cán bộ thông qua thi tuyển, kiểm tra chặt chẽ, đào tạo bồi dưỡng cán bộ lãnh đạo.Thi tuyển thường xuyên để có thể sàng lọc và thay thế những cán bộ không đủ năng lực, tìm thêm những nguồn nhân lực mới, chú trọng đào tạo cán bộ giỏi và là chuyên gia cho ngành. +Có những chính sách thưởng phạt một cách hợp lý để khuyến khích người lao động và đội ngũ cán bộ làm việc hiệu quả, có những chính sách khuyến khích đối với những cán bộ làm việc ở các vùng sâu vùng xa, làm việc trong môi trường nặng nhọc. 2.8.Các giải pháp về đầu tư phát triển khoa học công nghệ. Khoa học công nghệ ngày càng đóng vai trò quan trọng trong việc phát triển của nền kinh tế cũng như trong đầu tư vào phát triển hạ tầng GTĐB, áp dụng công nghệ cao hiện đại sẽ rút ngắn được thời gian xây dựng các công trình xây dựng hay có thể xây dựng được những công trình hiện đại mà nếu chỉ vào sức người sẽ không thể xây dựng được như hầm đường bộ qua đèo Hải Vân, đường cao tốc Láng Hoà Lạc… Vì vậy phát triển khoa học công nghệ không chỉ là mục tiêu hàng đầu của quốc gia mà nó còn là mục tiêu hàng đầu của ngành giao thông đường bộ, để nâng cao khả năng công nghệ của ngành thì cần phải có những giải pháp sau: -Tăng cường công tác nghiên cứu và ứng dụng các thành tựu của khoa học công nghệ vào trong quản lý cũng như trong thi công các công trình đường bộ, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật của quốc tế phù hợp với các tiêu chuẩn của Việt Nam nhằm tạo ra một hệ thống công nghệ đồng bộ. -Sử dụng các công nghệ, dây chuyền hiện đại được nhập khẩu từ các nước tiên tiến trên thế giới đồng thời tiến hành đào tạo và đào tạo lại đội ngũ cán bộ kỹ thuật để có thể đáp ứng được các dây chuyền công nghệ đó. -Có những hình thức khuyến khích đầu tư vào các dự án áp dụng các công nghệ hiện đại như sẽ tạo điều kiện phân bổ vốn đầu từ trước, đáp ứng tối đa nhu cầu vốn của dự án…Khen thưởng và khuyến khích các cá nhân tham gia nghiên cứu công nghệ và có khả năng ứng dụng các công nghệ mới trong quá trình đầu tư và xây dựng. -Khuyến khích các dự án sử dụng các công nghệ có thể tận dụng được các nguồn nguyên vật liệu tại chỗ tuy nhiên vẫn phải chú trọng đến chất lượng công trình theo những tiêu chuẩn hiện đại. -Hạn chế việc nhập khẩu các công nghệ cũ như đánh thuế cao đối với các công nghệ này, áp dụng công nghệ thông tin vào trong điều hành và quản lý quá trình đầu tư. -Không ngừng nâng cao và hợp tác với các quốc gia có trình độ công nghệ tiên tiến trên thế giới, không ngừng học hỏi kinh nghiệm của các nước phát triển trước và ứng dụng các kinh nghiệm đó vào điều kiện cụ thể của nước ta. 2.9.Hoàn thiện cơ chế đầu thầu và tăng cường quản lý công tác đấu thầu. Trong thời gian qua, công tác đấu thầu đã bộc lộ nhiều yếu kém làm ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ của dự án do quy chế đấu thầu chưa hoàn thiện và thiếu thông tin vì vậy các nhà quản lý cần hoàn thiện cơ chế đấu thầu để chấm dứt tình trạng trên, phát huy tối đa hiệu quả của vốn NSNN. Để đảm bảo tính công khai minh trong công tác đấu thầu thì bộ giao thông, bộ kế hoạch và bộ tài chính cần lập kế hoạch đầu thầu dự án rộng rãi dưới hình thức cạnh tranh rộng rãi để có thể lựa chọn được các nhà thầu phù hợp đảm bảo chất lượng và tiến độ của dự án, không nên chia công trình ra làm nhiều gói thầu quá nhỏ để tránh tình trạng lãng phí, không đảm bảo tính tổng thể hơn nữa gói thầu quá nhỏ sẽ không khuyến khích được các nhà thầu tham gia đấu thầu, gây khó khăn cho quản lý. Quản lý đấu thầu phải thực hiện xuyên suốt từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức đầu thầu, đánh giá sơ bộ dự thầu, lựa chọn nhà thầu, kí kết hợp đồng.Tránh trường hợp nhà thầu trúng thầu có tên trong hợp đồng nhưng khi thực hiện gói thầu lại là nhà thầu khác.Nghiêm minh xử lý các trường hợp móc nối với nhà quản lý để làm thất thoát vốn của nhà nước. Cần công khai hoá công tác đấu thầu bằng cách thông tin đấu thầu trên các tờ báo có uy tín, trên mạng Internet để nhà thầu có thể tiện theo dõi, đánh giá hoạt động của ban quản lý dự án, hơn nữa đưa đầy đủ thông tin về dự án để các nhà thầu có những phương án dự thầu hợp lý tránh tình trạng đưa ra những phương án thiếu khả thi khó thực hiện. 2.10.Các giải pháp về tăng cường đầu tư giao thông đô thị và giao thông nông thôn. Trước hết là các giải pháp về đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đô thị, đây được coi là đề tài rất quan trọng ở các thành phố lớn như Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh trong thời gian qua,vốn đầu tư từ NSNN được sử dụng để nâng cao hạ tầng giao thông đường bộ ở các thành phố này trong thời gian qua là tương đối lớn nhưng trên thực tế nó vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu ở những nơi này, chưa đáp ứng được nhu cầu của người dân cũng như tiềm năng phát triển của các thành phố này.Do đó cần phải có những biện pháp sau để nâng cao khả năng phục vụ của hệ thống hạ tầng GTĐB: -Hạn chế các phương tiện vận tải cá nhân như xe máy và ô tô ở các thành phố lớn, đây được coi là một biện pháp hữu hiệu. Để có thể hạn chế được các phương tiện tham gia giao thông có thể tiến hành các biện pháp như tăng mức phí đăng ký mới phương tiện, thắt chặt các điều kiện cấp đăng ký xe máy, ô tô các nhân như bắt buộc phải có đủ điều kiện sức khoẻ, phải có bằng lái mới được đăng ký sử dụng xe; tăng phí nhập khẩu ô tô, xe máy không phục vụ cho công tác xã hội; mở rộng các tuyến đường cấm xe máy và ô tô cá nhân. Áp dụng giải pháp này không chỉ tăng được nguồn vốn NSNN mà nó cũng kìm hãm được sự xuống cấp của hệ thống GTĐB ở các thành phố lớn. -Xây dựng và phê duyệt quy hoạch chi tiết phát triển mạng lưới giao thông đường bộ nói riêng và của toàn thành phố nói chung tránh tình trạng chồng chéo trong thời gian qua như khi xây dựng đường xong mới xây dựng đường nước…do đó ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng công trình. -Tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông,xử phạt nghiêm khắc với các hành phi vi phạm an toàn giao thông, đây là một trong những nguồn thu đáng kể để tái đầu tư hơn nữa có thể nâng cao được ý thức của các thành viên tham gia giao thông trong việc bảo vệ mạng lưới giao thông đường bộ. Giao thông nông thôn cũng là một trong những khu vực đầu tư rất quan trọng nhằm đảm bảo cho đất nước phát triển cân bằng, để nâng cao công tác đầu tư vào phát triển hạ tầng giao thông nông thôn có thể tiến hành các giải pháp như: -Tiếp tục thực hiện các biện pháp khuyến khích người dân cùng với nhà nước tham gia đầu tư, điều này không chỉ tranh thủ được các nguồn lực trong dân mà còn nâng cao được trách nhiệm của người dân trong công tác bảo vệ và nâng cao hạ tầng giao thông hơn nữa có thể tiết kiệm được chi phí xây dựng công trình giúp nhà nước có điều kiện đầu tư vào các vùng khác. KẾT LUẬN Cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là huyết mạch của nền kinh tế và của đất nước do vậy trong quá trình phát triển của bất cứ quốc gia nào giao thông đường bộ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt và ở Việt Nam cũng vậy hàng năm vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng giao thông đường bộ nói riêng và hạ tầng giao thông vận tải nói chung luôn có được sự quan tâm đặc biệt và thường được quan tâm trước một bước cũng như tỷ trọng vốn từ NSNN luôn giữ ở mức cao. Đó là điều kiện cần thiết tạo động lực cho sự tăng trưởng nhanh của hạ tầng giao thông đường bộ cũng như tạo ra bàn đạp lớn cho sự phát triển chung của đất nước. Trong thời gian tới khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giới WTO và chúng ta ngày càng hội nhập sâu vào nền kinh tế toàn cầu thì vấn đề đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đưòng bộ càng mang ý nghĩa chiến lược và lâu dài.Trong giai đoạn tới nguồn vốn NSNN vẫn sẽ là nguồn vốn chủ đạo và nó sẽ tập trung vào phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng đường bộ theo tiêu chuẩn thế giới và ngày càng hiện đại để có thể đáp ứng được tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế trong những năm tới.Cùng với những nghiên cứu các số liệu trong thời gian qua về tình hình sử dụng vốn NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ, em hi vọng những giải pháp của em sẽ có thể có ích phần nào trong việc giải quyết những tồn tại, khó khăn trong thời gian qua. Em xin chân thành cảm ơn cô giáo hướng dẫn cùng với các cô chú trong Vụ đầu tư-Bộ tài chính đã giúp đỡ em hoàn thành đề tài này. TÀI LIỆU THAM KHẢO A. TÀI LIỆU VÀ GIÁO TRÌNH PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt, TS. Từ Quang Phương (2007), giáo trình Kinh tế đầu tư, NXB Đại học kinh tế quốc dân, Hà Nội. PGS.TS. Nguyễn Bạch Nguyệt (2005), giáo trình lập dự án đầu tư, NXB Thống kê, Hà Nội. TS. Đinh Đào Ánh Thủy (2008), bài giảng đầu tư nước ngoài và chuyển giao công nghệ, Hà Nội. Bộ luật dân sự năm 2005. B. INTERNET www.saga.com.vn www.mof.gov.vn www.vnexpress.net www.dantri.com.vn TÓM TẮT Giao thông đường bộ là bộ phận quan trọng của giao thông vận tải nói riêng và của hệ thống kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội nói chung và nó có vai trò rất quan trọng trong phát triển kinh tế-xã hội, đóng góp lớn vào nhu cầu đi lại của nhân dân, nâng cao khả năng giao lưu giữa các vùng, xoá đi khoảng cách về địa lý, chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng hợp lý phát huy lợi thế của từng vùng và của từng địa phương, từng ngành, góp phần xây dựng công tác xoá đói giảm nghèo, củng cố an ninh quốc phòng…Thấy được tầm quan trọng của hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ thì trong thời gian qua chính phủ đã rất cố gắng xây dựng các chiến lược cũng như thực hiện nhiều biện pháp để thu hút mọi nguồn vốn vào đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB trong đó có thể nhận thấy tầm quan trọng của nguồn vốn ngân sách nhà nước trong lĩnh vực này.Trong thời gian qua vốn ngân sách nhà nước dành cho phát triển hạ tầng giao thông đường bộ luôn chiếm tỷ trọng cao so với các ngành khác và nguồn vốn này đã phát huy được những hiệu quả nhất định và vẫn luôn là nguồn vốn quan trọng nhất trong đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB tuy nhiên trong thời gian qua công tác huy động và sử dụng vốn cho đầu tư kết cấu đường bộ vẫn còn bộc lộ nhiều hạn chết cần phải khắc phục nhằm tránh lãng phí nguồn vốn ngân sách nhà nước trong điều kiện nước ta còn là một nước đang phát triển và còn rất nhiều mục tiêu cần phải phấn đấu do đó nguồn vốn ngân sách nhà nước cũng tương đối hạn hẹp. Với sự ưu tiên của vốn NSNN trong thời gian qua, đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB đã có những bước phát triển nhanh chóng và mạnh mẽ.Hầu hết các tuyến đường quốc lộ đã được xây dựng mới hoặc được nâng cấp sửa chữa như tuyến đường Hà Nội-Lạng Sơn, Hà Nội- Bắc Cạn…đã làm cho khoảng cách giữa các tỉnh, địa phương được thu hẹp đáng kể, năng lực vận tải cũng được nâng cao, số vụ tai nạn giao thông trên các tuyến quốc lộ cũng như các điểm đen ngày càng giảm.Giao thông đô thị và nông thôn ngày càng được cải thiện, đặc biệt là ở các thành phố lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh thì tình trạng ùn tắc cũng đã được giảm đáng kể mà tiêu biểu là một số dự án như cầu Ngã Tư Sở, xây dựng đường Kim Liên mới …góp phần quan trọng đổi mới bộ mặt đô thị của Việt Nam.Giao thông nông thôn cũng phát triển đáng kể,số xã không có đường bê tông ngày càng giảm đã góp phần đáng kể vào công cuộc xoá đói giảm nghèo của các vùng nông thôn Việt Nam.Không chỉ tập trung phát triển về mặt số lượng mà lượng vốn NSNN trong thời gian qua cũng tập trung xây dựng các tuyến đường,cầu đạt tiêu chuẩn quốc tế và đáp ứng ngày càng cao của nền kinh tế như tuyến đường Bắc Thăng Long-Nội Bài, đường cao tốc Pháp Vân, hoàn thành xây dựng hầm đường bộ qua đèo Hải Vân…hay một số dự án đang tiến hành triển khai như đường Láng Hoà Lạc, tuyến đường Hồ Chí Minh…Mặc dù đã có những kết quả vượt bậc trong thời gian qua song hệ thống đường bộ của nước ta vẫn còn nhiều hạn chế.Hiện nay Việt Nam có tổng chiều dài mạng lưới đường bộ tương đối lớn với khoảng 222.179 km và được bố trí tương đối hợp lý nhưng nhìn chung chất lượng các con đường còn kém, phần lớn các con đường của nước ta còn hẹp chỉ có khoảng 570 km đường quốc lộ có 4 làn đường trở lên, loại đường bề rộng 2 làn xe trở lên chỉ chiếm khoảng 62%. Hệ thống giao thông đường bộ của nước ta vẫn còn chậm phát triển, vừa thiếu lại vừa yếu, hầu hết các con đường chưa đạt tiêu chuẩn kĩ thuật, chưa có đường cao tốc chuẩn, một số con đường đạt tiêu chuẩn của Việt Nam như Nội Bài, Nam Thăng Long nhưng chỉ tương ứng với tiêu chuẩn B(Expressway) so với tiêu chuẩn quốc tế.Nhiều con đường chưa thể thông xe suốt cả năm nhất là vào mùa mưa nhiều con đường không thể sử dụng được.Ngoài ra số lượng đường chưa được trải mặt còn rất lớn. Chính vì vậy đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ là nhu cầu tất yếu, muốn vậy thì khâu huy động vốn là rất quan trọng.Trong thời gian qua công tác huy động vốn cho đầu tư phát triển GTĐB được thực hiện gắn liền với cơ chế và chính sách huy động vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển nói chung và phụ thuộc vào nhu cầu vốn đầu tư cũng như vào thực trạng phát triển của nền kinh tế-xã hội trong từng giai đoạn phát triển.Thực hiện điều đó chính phủ đã thực hiện chính sách huy động tiết kiệm triệt để và sử dụng có hiệu quả bằng cách: tăng thu cho NSNN bằng nhiều nguồn như thuế, phí sử dụng cầu đường…cùng với tăng thu là phải sử dụng tiết kiệm đặc biệt là trong chi tiêu dùng của ngân sách.Chỉ khi NSNN có tích luỹ thặng dư và tích luỹ ngày càng tăng thì mới có thể nâng cao được nguồn vốn cho các hoạt động đầu tư phát triển vốn đã rất tốn kém.Có thể thấy rằng kể từ khi tiến hành cải cách nền kinh tế theo cơ chế thị trường,xoá bỏ chế độ bao cấp thì tích luỹ NSNN ngày càng tăng:35% vào năm 2000 tăng lên 39% vào năm 2005 và có thể tăng lên đến 45% vào năm 2010.Do đặc điểm của các công trình giao thông đường bộ là các công trình đòi hỏi vốn đầu tư rất lớn do đó cần phải có những biện pháp khai thác trực tiếp như quản lý phí đánh vào người sử dụng cầu đường, thuế trước bạ ô tô xe máy, thuế xăng dầu…Đây được coi là một trong những nguồn vốn quan trọng để tái đầu tư vào các ông trình giao thông khác. Vốn đã hạn hẹp do đó vấn đề sử dụng vốn NSNN đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB càng được đặt lên hàng đầu, vấn đề đuợc đặt ra là làm thế nào để sử dụng vốn NSNN một cách hiệu quả nhất.Tham gia vào quản lý quá trình sử dụng vốn NSNN bao gồm các cơ quan trung ương là chính phủ, bộ tài chính, bộ kế hoạch và đầu tư, bộ giao thông vận tải, kho bạc nhà nước trung ương và ở các địa phương là sở kế hoạch và đầu tư, sở tài chính các tỉnh(thành phố) và các cơ quan kho bạc của mỗi địa phương. Để thực hiện tốt nhất công tác quản lý thì đã có những quy định về trách nhiệm cụ thể đối với từng cơ quan quản lý và được thực hiện theo quy trình quản lý và cấp vốn đầu tư, điều đó sẽ giúp cho vốn đầu tư NSNN cho các công trình giao thông đường bộ đạt được hiệu quả cao nhất. Được sự quan tâm đặc biệt trong quá trình phát triển của nền kinh tế nên vốn NSNN đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB chiếm một tỉ lện cao so với vốn đầu tư phát triển GTVT hàng năm và đuợc ưu tiên so với các ngành như đường sắt, đường hàng không, đường thuỷ…thường chiếm khoảng trên 30% so với tổng vốn NSNN hàng năm dành cho ngành GTVT.Và nó cũng chiếm một tỉ trọng khá cao so với tổng vốn NSNN hàng năm của đất nước chi cho đầu tư XDCB(chiếm khoảng trên 6.5%). Nguồn vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB đựơc chia theo các tiêu chí khác nhau: đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo chu kì của dự án, đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo lĩnh vực đầu tư, đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo khu vực đầu tư, đầu tư vào hạ tầng GTĐB theo vùng lãnh thổ. Đầu tư và phát triển GTĐB phân theo lĩnh vực đầu tư bao gồm đầu tư và xây dựng mới đường bộ trong đó các dự án đầu tư và xây dựng mới chiếm phần lớn vốn đầu tư tổng số vốn từ NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB. Điều này là dễ hiểu do thực trạng hạ tầng GTĐB của nước ta vừa thiếu lại vừa yếu và không thể đáp ứng được nhu cầu của xã hội trong thời gian tới nên cần phải chú tâm đầu tư mới hệ thống hạ tầng GTĐB đặc biệt là các dự án chất lượng cao.Tỷ lệ vốn đầu tư xây dựng mới thường chiếm tỷ trọng trung bình khoảng 61.4% trong tổng vốn NSNN cho GTĐB và đang ngày càng tăng để đáp ứng được nhu cầu phát triển mạng mẽ của đất nước trong thời gian tới.Trong khi đó vốn đầu tư nâng cấp và duy tu bảo dưỡng đường bộ cũng đóng vai trò quan trọng không kém do nguồn vốn từ NSNN còn hạn chế không thể đầu tư mới nhiều dự án ngay được nên biện phảm duy tu bảo dưỡng là biện pháp trước mắt nhằm duy trì năng lực vận tải của GTĐB.Vốn này chiếm một lượng nhỏ trong tổng số vốn NSNN hàng năm chi cho GTĐB. Đầu tư phát triển GTĐB phân theo khu vực nông thôn và thành thị: Với 76.5% dân số và 73% lực lượng xã hội của cả nước ở nông thôn nên việc phát triển giao thông nông thôn sẽ góp phần tích cực rút ngắn khoảng cách giữa thành thị và nông thôn, giữa miền núi với đồng bằng đồng thời tạo điều kiện cho lưu thông hàng hoá, xoá đói giảm nghèo.Việc đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ được thực hiện theo phương châm “Nhà nước và nhân dân cùng làm, dân làm là chính, có sự hướng dẫn hỗ trợ của nhà nước”.Vốn đầu tư phát triển hạ tầng giao thông nông thôn trong giai đoạn vừa qua tăng hơn so với các giai đoạn trước cho thấy sự quan tâm của chính phủ đến vùng nông thôn,và mong muốn đất nước phát triển đều ở tất cả các vùng. Đầu tư vào phát triển hạ tầng giao thông đô thị cũng chiếm một tỷ trọng lớn trong tổng vốn đầu tư, tốc độ đô thị hoá của Việt Nam ngày càng nhanh vì vậy để có thể đáp ứng yêu cầu được nhu cầu đi lại ngày càng cao của cư dân đô thị cũng như theo kịp tốc độ phát triển của các đô thị lớn thì đầu tư vào hạ tầng giao thông đường bộ cần phải đi trước một bước.Nguồn vốn NSNN hàng năm tập trung vào giải quyết tình trạng xuống cấp của bề mặt đường, tình trạng ngập lụt mỗi khi mùa mưa đến, tình trạng tắc đường tại các nút giao thông mỗi khi vào giờ cao điểm ở các nút giao thông chính.Một số dự án trọng điểm đã được hoàn thành như nút giao thông Ngã Tư Sở, xây dựng đường Kim Liên mới…đã làm giảm đáng kể tình trạng tắc đường và cũng đang bắt đầu triển khai một số dự án lớn đạt tiêu chuẩn với tổng mức đầu tư lớn. Đầu tư phát triển giao thông đường bộ theo vùng lãnh thổ: lãnh thổ nước ta được chia thành 7 vùng lãnh thổ bao gồm vùng trung du và miền núi phía bắc, vùng đồng bằng sông Hồng, vùng Bắc trung bộ, vùng Duyên Hải miền trung, vùng tây nguyên, vùng đông nam bộ và vùng đồng bằng sông Cửu Long.Vốn đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB tập trung vào hai vùng lãnh thổ đó là vùng đồng bằng sông Hồng và vùng vùng đông nam bộ, điều này là dễ hiểu vì đó là 2 khu vực có 2 thành phố lớn nhất cả nước là thành phố Hà Nội ở vùng đồng bằng sông Hồng và thành phố Hồ Chí Minh ở vùng đông nam bộ.Các vùng kinh tế kém phát triển hơn như vùng tây nguyên hay vùng trung du và miền núi phía bắc chiếm tỷ trọng thấp đòi hỏi trong thời gian tới cần có chính sách quan tâm đến các vùng này để đảm bảo sự công bằng trong phát triển.Tỷ trọng các vùng kém phát này thường chiếm nhỏ hơn 10% so với tổng số vốn hàng năm như vùng trung du và miền núi phía bắc trong giai đoạn 2003-2008 thì vốn năm chiếm tỷ trọng cao nhất là 2004 nhưng cũng chỉ chiếm 9.64 % tổng số vốn đầu tư từ NSNN. Nhờ có vốn đầu tư từ NSNN kết hợp với các nguồn vốn đầu tư khác mà hạ tầng giao thông đường bộ trong thời gian qua đã đạt những kết quả và hiệu quả nhất định.Trước hết là những kết quả đã đạt được: hệ thống mạng lưới đường bộ không ngừng tăng lên cả về chất lượng và số lượng, đến năm 2000 cả nước mới chỉ có khoảng 172479 km đường bộ nhưng đến hết năm 2008 con số này đã tăng lên là 222179 km đường bộ(tăng 49700 km so với năm 2000).Về chất lượng tốc độ phát triển hạ tầng GTĐB đang tăng theo cùng tốc độ đô thị hoá của đất nước, nếu như năm 2000 đường đô thị mới có 3211 km thì đến năm 2008 đã là 6654 km(gấp hơn 2 lần sau 8 năm phát triển),các con đường xã dần biến mất và được nâng cấp lên thành các con đường huyện, tỉnh, và đường quốc lộ.Số lượng cầu mới cũng tăng vọt,tính đến nay toàn hệ thống có khoảng 28161 cây cầu với chiều dài khoảng 642606 m trong đó có rất nhiều cây cầu đạt tiêu chuẩn quốc tế như cầu dây văng dài nhất Việt Nam đang được khởi công xây dựng là cầu Nhật Tân hay một số cây cầu đã hoàn thành và đi vào hoạt động như cầu Thanh Trì,cầu Bắc Giang… Do tính chất của nguồn vốn NSNN và đặc điểm của đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB nói riêng và GTVT nói chung nên hiệu quả của hoạt đọng đầu tư hạ tầng GTĐB không được tính trực tiếp mà nó được thông qua các ngành và các lĩnh vực khác: trước hết hiệu quả được thể hiện ở khối lượng hành khách và hàng hoá được vận chuyển qua đường bộ.Khối lượng hành khách và hàng hoá được vận chuyển cũng như luân chuyển qua hệ thống hạ tầng giao thông đường bộ không ngừng tăng lên và nhiều hơn hẳn so với các loại đường khác.Hiệu quả thứ hai được xem xét đến là tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm.Hiệu quả của đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB đã gián tiếp làm tăng tốc độ phát triển kinh tế của Việt Nam trong thời gian qua,nhờ có hạ tầng GTĐB tốt mà thời gian giao lưu buôn bán và đi lại giữa các vùng được dễ dàng, hàng hoá được sản xuất ra dễ dàng đến tay người tiêu dùng, đóng góp lớn vào GDP hàng năm và cũng nhờ có hạ tầng GTĐB phát triển mà ngành du lịch cũng phát triển đây là ngành đang dần chiếm tỷ trọng lớn trong tổng sản phẩm quốc nội, và cũng nhờ nó mà trong thời gian qua các nguồn vốn trong nước và ngoài nước đang liên tục được đầu tư vào Việt Nam giúp Việt Nam thoát khỏi cái vòng luẩn quẩn của sự phát triển.Hiệu quả của đầu tư phát triển hạ tầng giao thông đường bộ cũng được thể hiện qua mức sống của người dân ngày càng tăng,mạng lưới đường bộ ngày càng hoàn chỉnh sẽ tạo điều kiện để người dân ở các tỉnh vùng sâu vùng xa lên các đô thị kiếm việc làm,cải thiện mức sống…điều này làm giảm tỉ lệ thất nghiệp, đây là một trong những giải pháp tốt để giải quyết các vấn đề xã hội. Bên cạnh những kết quả và hiệu quả đạt được, đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB vẫn còn nhiều điểm chưa tích cực cả trong khâu huy động và sử dụng vốn.Trước tiên là trong khâu huy động vốn: các chế tài nhằm nâng cao công tác huy động vốn chưa được rõ ràng cũng như chưa có biện pháp nghiêm ngặt để có thể huy động vốn tối đa cho đầu tư phát triển như công tác thu phí cầu đường hay các chi phí lưu hành…, chưa có các kế hoạch huy động vốn dài hạn. Đầu tư phát triển GTĐB cũng bộc lộ những tồn tại trong khâu quản lý và sử dụng vốn như: tình trạng đầu tư dàn trải, phân tán thể hiện qua việc bố trí vốn đầu tư, công tác quy hoạch, chuẩn bị đầu tư, thực hiện đầu tư còn nhiều bất cập,nhiều dự án được phân bổ vốn nhưng chưa có quyết định đầu tư…; công tác đấu thầu cũng có một số vấn đề như tình trạng một số nhà thầu tham gia bỏ thầu ở mức thấp để giành được gói thầu nhưng khi thực hiện lại không thể làm được nên gây ảnh hưởng đến tiến độ thi công và chất lượng công trình; công tác lập quy hoạch, khảo sát thiết kế chưa cao còn nhiều sai sót; tình trạng nợ đọng vốn thanh toán cũng xảy ra tương đối phổ biến. Vẫn còn những tồn tại như trên là do một số nguyên nhân cơ bản như:Các nguyên nhân khách quan chủ yếu là do nhu cầu vốn đầu tư phát triển GTĐB luôn cần số lượng lớn trong khi hạ tầng đường bộ lại xuống cấp nhanh chóng nên nhu cầu vốn lại càng cao mà điều kiện NSNN có hạn nên ảnh hưởng lớn đến công tác lập kế hoạch hay do nền kinh tế có tốc độ tăng trưởng cao nhưng tổng sản phẩm quốc nội vẫn thấp nên tích luỹ cho đầu tư vẫn thấp ảnh hưởng trực tiếp đến nguồn vốn huy động cho đầu tư, thị trường vốn của nước ta mới hình thành và phát triển trong thời gian ngắn nên các công cụ vốn chưa linh hoạt ảnh hưởng đến quá trình huy động vốn và do các phương tiện vận tải của nước ta tăng trưởng quá nhanh nên vốn NSNN đầu tư phát triển hạ tầng đường bộ không đáp ứng được tốc độ tăng trưởng đó.Bên cạnh những nguyên nhân khách quan là những nguyên nhân chủ quan đòi hỏi cần phải có những giải pháp khắc phục trong thời gian tới để nâng cao hiệu quả sử dụng vốn NSNN cho đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB như:công tác xây dựng kế hoạch huy động vốn còn chưa cao; sự phối hợp giữa các bộ ngành ở trung ương cũng như địa phương còn chưa có sự thống nhất chặt chẽ; công tác kiểm soát thanh tra và thanh toán vốn đầu tư còn nhiều hạn chế gây nên tình trạng lãng phí, thất thoát; cơ chế chính sách liên quan đến huy động quản lý và sử dụng vốn NSNN cũng chưa đồng bộ, hoàn chỉnh; hay do tình trạng chuyên môn và tay nghề của đội ngũ cán bộ còn thấp chưa đáp ứng được yêu cầu của các công việc đặt ra… Quan điểm đầu tư phát triển giao thông đường bộ đến 2020 là: GTĐB là một bộ phận quan trọng trong kết cấu kinh tế-xã hội nói chung và kết cấu hạ tầng giao thông nói riêng; coi trọng việc duy trì, củng cố, nâng cấp để tận dụng tối đa năng lực kết cấu hạ tầng giao thông hiện có đồng thời với việc xây dựng công trình mới thực sự có nhu cầu, tăng năng lực hạ tầng giao thông đường bộ; phát triển giao thông đường bộ một cách hợp lý , đồng bộ trong một quy hoạch thống nhất có sự phân công, phân cấp hợp tác liên kết giữa các phương thức vận tải phù hợp với điều kiện địa lý, tạo thành mạng lưới giao thông xuyên suốt và có hiệu quả trên phạm vi toàn quốc; phát huy tối đa lợi thế địa lý của đất nước, phát triển hệ thống GTĐB phục vụ phát triển kinh tế đối ngoại, hội nhập khu vực và quốc tế; phát triển giao thông nông thôn đặc biệt là giao thông ở vùng núi, vùng sâu, vùng xa, vùng căn cứ cách mạng, vùng biên giới, hỗ trợ đắc lực các chương trình xoá đói giảm nghèo, phát triển kinh tế- xã hội tại các vùng này; đẩy mạnh việc ứng dụng các tiến bộ khoa học kỹ thuật, vật liệu mới công nghệ mới vào các lĩnh vực thiết kế, xây dựng, khai thác GTĐB; phát huy nội lực, thực hiện các giải pháp tạo nguồn vốn để đầu tư. Để thực hiện theo những quan điểm đó và theo theo quy hoạch phát triển của ngành GTĐB nói riêng và quy hoạch phát triển Kinh tế-xã hội của đất nước thì cần phải thực hiện một số giải pháp như: Hoàn thiện công tác lập quy hoạch, kế hoạch phát triển GTĐB:Quy hoạch và kế hoạch có ý nghĩa quan trọng, quyết định đến chất lượng và hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển vào hạ tầng GTĐB.Về nguyên tắc thì công tác lập quy hoạch phải đi trước một bước tuy nhiên công tác quy hoạch của nước ta còn nhiều hạn chế, không rõ ràng, cụ thể khiến cho hiệu quả của hoạt động đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB bằng nguồn vốn NSNN trong thời gian qua còn bộc lộ nhiều hạn chế. Xây dựng các giải pháp về chính sách tạo vốn NSNN như tiến hành thu phí các đối tượng sử dụng trực tiếp kết cấu hạ tầng GTĐB trên cớ ở quy hoạch mạng lưới trạm thu phí giao thông, tiến hành quy định mức lệ phí hợp lý thống nhất cho từng đối tượng tham gia giao thông; tiến hành phụ thu qua giá xăng dầu, thu phí các xe có trọng tải nặng; tiến hành thu phí các phương tiện giao thông hay xây dựng các quỹ đường bộ để quản lý tốt nguồn vốn… Thực hiện các giải pháp tăng cường hiệu quả công tác quản lý nhà nước: nghiên cứu sắp xếp lại các đơn vị quản lý sao cho thống nhất tránh tình trạng chồng chéo giữa các bộ, ngành và các địa phương, sắp xếp lại các đơn vị quản lý sao cho bộ máy quản lý gọn nhẹ, hoạt động có hiệu quả; về công tác điều hành thì các cơ quan quản lý nhà nước cũng càn rà soát lại hệ thống văn bản từ khâu tạm ứng đến thanh toán và quyết toán vốn đầu tư; hoàn thiện các tiêu chuẩn định mức kinh tế-kỹ thuật, đơn giá hợp lý cề xây dựng và sửa chữa các công trình đường bộ; tăng cường trách nhiệm của các ban quản lý dự án, thực hiện tốt nguyên tắc quản lý theo ngành và lãnh thổ. Tăng cường công tác giám sát chất lượng, tiến độ xây dựng và thanh tra, kiểm tra tài chính đối với các dự án đường bộ: đây là công việc đặc biệt quan trọng và có tác dụng trực tiếp trong việc thất thoát, lãng phí từ các công trình giao thông; việc sử dụng tiết kiệm đúng mục đích vốn NSNN sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả sử dụng vốn NSNN cũng như chất lượng các công trình đường bộ.Tổ chức theo dõi thường xuyên việc theo dõi, nắm tình hình các dự án đầu tư công trình giao thông có vốn NSNN cũng như tình hình đầu tư xây dựng của các bộ, ngành, địa phương; việc theo dõi, nắm bắt tình hình đảm bảo thông tin kịp thời cho việc lập kế hoạch thanh tra hoặc tiến hành thanh tra đột xuất với các công trình thấy xuất hiện nhiều sai phạm.Sau khi tiến hành thanh tra phải đưa ra các kết luận và kiến nghị thanh tra chính xác, chặt chẽ, rõ ràng tránh tình trạng nể nang, tham nhũng vốn đầu tư của NSNN.Làm tốt công tác này sẽ đưa ra được các quyết định thích hợp và những giải pháp nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn và chất lượng công trình. Thực hiện các giải pháp làm tăng hiệu quả công tác giải phóng mặt bằng vì đây đang là một trong những vấn đề đáng quan tâm nhất trong công cuộc đầu tư phát triển hạ tầng GTĐB do công tác giải phóng mặt bằng ảnh hưởng lớn tiến độ thi công của nhiều dự án cũng như ảnh hưởng trực tiếp đến quy hoạch cũng như chiến lược đầu tư của nhà nước mà thực tế cho thấy nhiều công trình đã bị chậm trễ vài năm.Một số giải pháp cần phải thực hiện như xây dựng quy hoạch trung và dài hạn một cách chi tiết, công bố rộng rãi quy hoạch đất đâu cả quỹ đất cho xây dựng đường và quỹ đất hành lang bảo vệ đường, điều chỉnh giá đền bù hợp lý với giá trị đất đai của từng địa phương và địa bàn trong từng thời kỳ nhất định… Bảo vệ môi trường là mục tiêu phát triển chung của bất cứ quốc gia nào khi tiến tới mục tiêu phát triển bền vững và Việt Nam cũng không nằm ngoài mục tiêu đó chính vì vậy cần phải thực hiện các giải pháp cụ thể nhằm đạt được các mục tiêu về môi trường: Xây dựng các biểu phí xử phạt đánh vào các phương tiện vận tải cũ hay những phương tiện vận tải gây ô nhiễm môi trường, buộc các chủ phương tiện nộp các khoản phí cho việc xả thải khí ô nhiễm ra môi trường xung quanh; xây dựng các chương trình khuyến khích cho các dự án không gây ô nhiễm môi trường và tiến hành xử phạt các sự án tiền hành đầu tư không đạt các tiêu chuẩn về môi trường. Để phát huy được hiệu quả sử dụng vốn NSNN trong phát triển kinh tế xã hội nói chung cũng như đầu tư phát triển GTĐB nói riêng thì chất lượng nguồn nhân lực cần phải được ưu tiên hàng đầu.Trước hết cần xây dựng những chiến lược phát triển giáo dục đào tạo nguồn nhân lực thực hiện các chương trình đào tạo đồng bộ đặc biệt chú tâm vào kỹ năng quản lý dự án, kỹ năng xây dựng; thực hiện đa phương hoá, đa dạng hoá các phương thức và cách thức đào tạo, mở rộng hợp tác đào tạo với nước ngoài đặc biệt là các nước có kinh nghiệm trong quản lý và đầu tư xây dựng giao thông đường bộ; tăng cường đào tạo về luật pháp, chính sách sử dụng vốn nhà nước; thực hiện chế độ tuyển dụng cán bộ thông qua thi tuyển và kiểm tra chặt chẽ nhằm chọn được những cán bộ tốt nhất tuy nhiên cũng cần có những chính sách khuyến khích và thưởng phạt một cách hợp lý nhằm kích thích tinh thần làm việc của các cán bộ. Xây dựng và thực hiện các giải pháp về đầu tư phát triển khoa học công nghệ như tăng cường công tác nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào trong quản lý cũng như trong thi công các công trình đường bộ, áp dụng các tiêu chuẩn kỹ thuật quốc tế phù hợp với điều kiện của Việt Nam; sử dụng các công nghệ và dây chuyền hiện đại được nhập khẩu từ các nước tiên tiến; khuyến khích đầu tư vào các dự án áp dụng các công nghệ hiện đại. Hoàn thiện cơ chế đầu thầu và tăng cường quản lý công tác đấu thầu: trong thời gian qua công tác đấu thầu đã bộc lộ nhiều yếu kém làm ảnh hưởng đến chất lượng, tiến độ của dự án do quy chế đầu thầu chưa hoàn thiện và thiếu thông tin nên trước tiên để đảm bảo tính công khai minh bạch thì bộ giao thông, bộ kế hoạch và đầu tu, bộ tài chính cần lập kế hoạch đầu thầu dự án rộng rãi dưới hình thức cạnh tranh rộng rãi để có thể lựa chọn được các nhà thầu phù hợp, quản lý đầu thầu cần phải thực hiện xuyên suốt từ khâu chuẩn bị đến khâu tổ chức đầu thầu, đánh giá sơ bộ dự thầu, lựa chọn nhà thầu và kí kết hợp đồng; cần công khai hoá công tác đầu thầu trên những tờ báo có uy tín hay trên mạng để nhà thầu tiện theo dõi. Thực hiện các giải pháp tăng cường đầu tư giao thông đô thị và giao thông nông thôn.Trước tiên là các giải pháp về giao thông đô thị như hạn chế các phương tiện vận tải các nhân như ô tô, xe máy bằng cách tăng mức phí đăng ký mới với các phương tiện, thắt chặt các điều kiện đăng ký xe; xây dựng và phê duyệt chi tiết phát triển mạng lưới giao thông tránh sự chồng chéo giữa các dự án; tăng cường quản lý trật tự an toàn giao thông, xử phạt nghiêm khắc các hành vi vi phạm an toàn giao thông.Còn đối với giao thông nông thôn thì cần phải tiếp tục khuyến khích người dân cùng nhà nước tham gia đầu tư, điều này không những giúp cho vốn NSNN đạt được hiệu quả cao hơn mà còn nâng cao được trách nhiệm của người dân. Cơ sở hạ tầng giao thông đường bộ là huyết mạch của nền kinh tế và của đất nước do vậy trong quá trình phát triển của bất cứ quốc gia nào giao thông đường bộ luôn nhận được sự quan tâm đặc biệt và ở Việt Nam cũng vậy hàng năm vốn đầu tư cho phát triển hạ tầng GTĐB luôn có tỷ trọng cao so với các ngành khác.Trong thời gian tới khi Việt Nam đã chính thức trở thành thành viên của tổ chức thương mại thế giời WTO thì vốn NSNN vẫn là nguồn vốn chủ đạo và nó tập trung vào phát triển cơ sỏ hạ tầng đường hộ theo tiêu chuẩn quốc tế và ngày càng hiện đại để đáp ứng được tốc độ phát triển nhanh của nền kinh tế trong những năm tới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21319.doc
Tài liệu liên quan