Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp

Hiện nay, do thiếu vốn đầu tư và khả năng vận động đầu tư nên chúng ta chủ động kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào xây dựng hạ tầng KCN. Đây là cách làm riêng biệt mang tính đặc thù được áp dụng ở nước ta. Hình thức này có ưu điểm là tranh thủ được nguồn vốn đầu tư và khả năng vận động đầu tư của chủ đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, do xuất phát từ lợi ích kinh tế thuần tuý, nên trong việc xây dựng hạ tầng KCN các nhà đầu tư hay quan tâm đến khả năng thu lợi nhuận, khả năng thu hồi vốn và khả năng cho thuê hạ tầng mà có thể bỏ qua các tác động đến môi truờng sinh thái và điều kiện làm việc của người lao động cũng như chất lượng chung của cả KCN. Vì vậy, xét về mục tiêu thành lập KCN không phải lúc nào cũng có sự thành lập giữa Nhà nước và chủ đầu tư xây dựng hạ tầng, có khi tạo ra sự đối lập về quyền lợi giữa hai phía. Do vậy, khi lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài xây dựng hạ tầng KCN cần tập trung vào các đối tượng sau: - Các tập đoàn mạnh, có khả năng về tài chính và công nghệ cao đủ các yêu cầu xây dựng hạ tầng KCN, đặc biệt là các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn của Tây Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ. - Các đối tượng có đủ năng lực, kinh nghiệm quản lý điều hành KCN để vừa đảm bảo sự thành công cao của các khu, vừa tạo điều kiện cho các đối tác Việt nam học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh và tiếp thị đầu tư của họ. - Các đối tác có uy tín, có năng lực vân động, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào KCN.

doc82 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1448 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài và các khu công nghiệp, khu chế xuất ở Việt Nam: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
dân sử dụng tiền đền bù để lập nghiệp, tạo điều kiện cho những người dân chuyển đi được hưởng những qui chế dễ dàng thì đó là bài toán chưa có lời giải cuối cùng. - Về môi trường môi sinh các KCN và bên ngoài KCN: Việc phê duyệt, cấp giấy phép xây dựng, thành lập và giấy phép hoạt động cho các KCN và các doanh nghiệp KCN hiện nay nhiều khi chưa chú trọng đến vấn đề xử lý chất thải, bảo vệ môi trường, gắn phát triển công nghiệp với kiểm soát và xử lý chất thải nên môi trường môi sinh ở rất nhiều KCN hiện nay đang bị ô nhiễm nặng nề, ảnh hưởng đến sức khoẻ của người lao động và vùng dân cư sống xung quanh bên ngoài các KCN. Qua những phân tích trên ta thấy, dù có nhiều nỗ lực trong việc cải thiện môi trường đầu tư để thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư nước ngoài nhưng chúng ta vẫn còn khá nhiều vấn đề cần giải quyết. Do vậy, trong thời gian tới, một trong những nhiệm vụ trọng tâm đối với công tác quản lý Nhà nước là các cấp quản lý cần nhanh chóng có những phương hướng, giải pháp nhằm tháo gỡ những khó khăn, tồn tại trên để tạo ra môi trường đầu tư vào các KCN hấp dẫn hơn, mang lại hiệu quả kinh tế cao hơn cho chủ đầu tư đồng thời đạt được những mục tiêu kinh tế xã hội đề ra. 3. Một số KCN điển hình. 3.1. KCN Việt Nam - Singapore Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore (VSIP) là dự án được sự hỗ trợ của hai chính phủ Việt Nam và Sigapore cùng với sự góp vốn liên kết đầu tư của các đối tác Việt Nam và Siagapore là những tập đoàn có kinh nghiệm và uy tín trong lĩnh vực xây dựng cơ sở hạ tầng và bất động sản như SemCorp Industries, Singapore và Becamex (Việt Nam). Quan điểm đầu tư của VSIP là thiết kế và xây dựng một Khu công nghiệp có cơ sở hạ tầng và các dịch vụ hoàn chỉnh, đạt tiêu chuẩn quốc tế nhằm thu hút các ngành công nghiệp sạch và công nghệ cao như điện, điện tử, cơ khí chính xác, dược, thực phẩm, công nghiệp nhẹ, hàng tiêu dùng…phục vụ xuất khẩu và tiêu thụ trong nước. Khu công nghiệp Việt Nam - Singapore là KCN có vị trí thuận lợi. VSIP được chính thức khởi công xây dựng năm 1996 với quy mô 500ha tại Thuận An, tỉnh Bình Dương và nằm trong khu vực thuộc tứ giác kinh tế trọng điểm phía Nam. KCN này có một vị trí thuân lợi vì nó cách Thành phố HCM 17km, cách hệ thống cảng biển, sân bay quốc tế và các trung tâm dịch vụ thương mại tại Thành phố HCM khoảng 20-22km, tiếp giáp với quốc lộ 13 và trục đường tỉnh lộ DT 743 nối VSIP với các tỉnh lân cận và các trung tâm kinh tế khác, hơn nữa KCN này còn nằm tại giao điểm của các đơn vị hành chính quan trọng, điều này tạo thuân lợi cho việc tuyển dụng một lực lượng lao động tốt nhất phục vụ cho nhu cầu sản xuất của doanh nghiệp. VSIP có cơ sở hạ tầng hiện đại và hoàn chỉnh. 100% diện tích giai đoạn I (100ha) và 80% diện tích giai đoạn II (200ha) đã được xây dựng cơ sở hạ tầng hoàn chỉnh. Bên cạnh đó, KCN còn có các tiện ích khác như: ngân hàng, dịch vụ giao nhận, trung tâm y tế, bưu điện rất hữu ích. VSIP còn được sự hỗ trợ của hai Chính phủ Việt Nam và Singapore để xây dựng các công trình khác phục vụ hoạt động của Khu công nghiệp. Tính đến nay, VSIP đã cho thuê trên 90% diện tích đất đai và nhà xưởng giai đoạn I (100ha) và 50% diện tích đất giai đoạn II (200ha). Có 84 dự án đến từ 20 quốc gia, trong đó có 55 dự án đã chính thức đi vào hoạt động sản xuất như Nitto Denko, Uchiyama, Konica, Kurabe, Rohto (Nhật), ICA Pharma (Việt Nam), Korea United Pharma (Hàn Quốc), Roche (Pháp), Kimberly Clark (Mỹ), New Toyo (Singapore). Số lao động mà Khu công nghiệp này đã thu hút là 14.000 lao động. Từ khi thành lập đến nay, KCN Việt Nam - Singapore được coi là một trong những Khu công nghiệp thành công nhất và đã đóng góp vào sự phát triển chung của toàn xã hội cũng như là sự phát triển của các KCN. 3.2. KCX Tân Thuận và Linh Trung. Trong số 3 KCX được thành lập trên cả nước, Tân Thuận và Linh Trung được đánh giá là 2 KCX đã phát triển đúng tiến độ, bước đầu đạt được 5 mục tiêu đề ra cho KCX (thu hút vốn đầu tư nước ngoài; tạo việc làm cho người lao động; tạo nguồn hàng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới; du nhập kỹ thuật và công nghệ mới; tăng nguồn thu ngoại tệ, góp phần cải thiện cán cân ngoại thương) tại Thông tư số 1126-HTĐT - PC (ngày 20/8/1992 của Uỷ ban Nhà nước về hợp tác và đầu tư hướng dẫn thi hành Quy chế KCX). Thành công trong việc xây dựng và phát triển 2 KCX trước hết là thu hút vốn đầu tư nước ngoài. Tính đến ngày 30/6/2002, 2 KCX có 173 giấy phép đầu tư 100% vốn nước ngoài với tổng số vốn đăng kí là 847 triệu USD, chiếm 24,7% tổng số vốn đầu tư trực tiếp vào thành phố. Các chỉ tiêu sử dụng đất ở 2 KCX đạt cao hơn hẳn các KCN của cả nước, bình quân 1ha cho thuê ở KCX thu hút được 5,6 triệu USD vốn đầu tư, tạo việc làm cho 520 lao động, tạo kim ngạch xuất khẩu hàng năm 5,4 triệu USD (năm 2001). Có 140 doanh nghiệp đã đi vào sản xuất ở 2 KCX giải quyết việc làm cho hơn 78.000 lao động của thành phố và nhiều tỉnh khác, phần lớn là thanh niên. Tỷ lệ lao động nữ khoảng 75%, tỷ lệ lao động từ khu vực nông thôn khoảng 50%. Con em của nhiều gia đình di dời để giao đất xây dựng KCX đã có việc làm trong các doanh nghiệp các KCX, góp phần ổn định đời sống gia đình. Hàng hoá do các doanh nghiệp KCX sản xuất rất đa dạng. Năm 2001, sản phẩm của 2 KCX đã xuất đi trên 50 nước, trong đó kim ngạch xuất khẩu đi Nhật chiếm 45%, EU chiếm 24%, Đài Loan chiếm 9,8%, đi Asean chiếm 3,6%, đi Trung Quốc 2,8%, đi Mỹ 2,5%. Kim ngạch xuất khẩu hàng năm tăng lên nhanh chóng và tăng liên tục, đến năm 2001 đã đạt 812 triệu USD, chiếm 13% tổng kim ngạch xuất khẩu trên địa bàn thành phố và chiếm 67% tổng kim ngạch xuất khẩu của các doanh nghiệp có vốn nước ngoài ở thành phố. Cộng dồn từ ngày thành lập đến nay, kim ngạch xuất khẩu đạt trên 3,3 tỷ USD. Đặc biệt từ năm 1998 đến nay, 2 KCX liên tục xuất siêu, năm sau cao hơn năm trước. Năm 2001 xuất siêu 160,65 triệu USD ( trong khi tính chung khối doanh nghiệp vốn nước ngoài ở Thành phố năm 2000 vẫn là nhập siêu. Lúc đầu, 2 KCX thu hút chủ yếu là ngành dệt may, lắp ráp điện tử. Sau đó các ngành và các sản phẩm trong 2 KCX ngày càng phong phú trong đó ngành điện, điện tư, cơ khí có vốn đầu tư và kim ngạch xuất khẩu chiếm tỷ lệ lớn nhất. ở KCX đã có những doanh nghiệp đúc chính xác, sản xuất phụ ting hộp số tự động của ô tô, sản xuất cáp điện linh kiện điện tử, kể cả sản xuất “chíp”. Sự thành công của 2 KCX đã và đang thúc đẩy cả vùng kinh tế nội địa phát triển. Chương III Phương hướng, giảI pháp nhằm thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài để phát triển các Khu công nghiệp trong thời gian tới. I. Phương hướng xây dựng và phát triển các Khu công nghiệp đối với việc thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới. 1. Định hướng quy hoạch và phát triển KCN. 1.1 Gắn việc hình thành và phát triển các KCN với quy hoạch tổ chức sản xuất công nghiệp và thu hút vốn FDI trên các vùng lãnh thổ. Theo quy hoạch đến năm 2010, cả nước sẽ có 110 KCN phân bổ khắp 3 miền; Miền Bắc sẽ có 31 khu, các tỉnh duyên hải miền Trung sẽ có 20 khu và miền Nam có 59 khu với tổng diện tích là 38547 ha. Các trung tâm công nghiệp lớn như Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương sẽ chỉ có một số ít các KCN, đặc biệt là KCN vừa và nhỏ ở các vùng nông thôn. Đây là một phần trong chiến lược thu hút vốn FDI theo chiều rộng. Các KCN này sẽ là đầu mối thúc đẩy công nghiệp hoá nông thôn, tận dụng nguyên vật liệu sẵn có tại địa phương, thu hẹp khoảng cách giữa nông thôn với thành thị, đồng thời tạo thêm có hội cho các nhà đầu tư trong và ngoài nước lựa chọn các dự án đầu tư với phương thức và quy mô khác nhau. Việc xây dựng các KCN cần gắn liền giữa điều kiện hạ tầng, điều kiện sản xuất và khả năng thu hút vốn đầu tư. Ngoài hệ thống hạ tầng trong KCN như hệ thống nhà xưởng, kho bãi, đường xá, điện nước, thông tin liên lạc, cần phát triển hệ thống hạ tầng ngoài KCN đảm bảo các mặt giao thông vận tải thuận lợi, đưa điện, nước và các dịch vụ khác đến tận chân KCN. Do đó, để tránh tình trạng lãng phí không cần thiết, khi thành lập các KCN cần xem xét đến công tác quy hoạch sắp xếp lại các loại hình tổ chức sản xuất công nghiệp trên phạm vi cả nước, tính tới các xu thế phát triển ngành kinh tế và công nghệ trên phạm vi của thế giới và đặc điểm riêng biệt của Việt Nam. Quy hoạch các KCN còn phải thể hiện được thế mạnh, tiềm năng của vùng, sử dụng lợi thế so sánh để xác định các sản phẩm chuyên môn hoá đồng thời phù hợp với chiến lược phát triển của vùng, tạo ra sự đa dạng các loại hình KCN. Ví dụ như các KCN tại các đô thị lớn sẽ phát triển các ngành công nghiệp hiện đại, đòi hỏi trình độ tay nghề và công nghệ cao như điện tử, tin học, công nghệ sinh học, hoá chất làm hạt nhân phát triển cung cho toàn ngành công nghiệp, đây là hình thức KCN tổng hợp. Tại các vùng có thể tận dụng nguồn nguyên liệu, nhân công sẵn có hoặc địa thế đặc biệt thì có thể tập trung xây dựng các KCN chuyên ngành (điều này thường thấy ở các KCN của Đài Loan) như các KCN chuyên ngành chế biến nông sản, thực phẩm ở đồng bằng Sông Cửu Long, các KCN chế biến lâm sản, cây công nghiệp tại Tây Nguyên. Các KCN này cần được xây dựng với quy mô thích hợp, nên là dạng vừa và nhỏ (15-20ha) để có điều kiện tập trung vốn phát triển hạ tầng nhưng cũng cần đặt vị trí mà có thể mở rộng KCN khi cần thiết. 1.2. Lấy hiệu quả kinh tế làm cơ sở để xây dựng và phát triển KCN. Cũng như các loại hình kinh doanh khác, xây dựng KCN cũng là một hình thức kinh doanh hạ tầng mà chủ đầu tư là các công ty phát triển hạ tầng KCN có thể là doanh nghiệp nhà nước, các công ty cổ phần hoặc các nhà đầu tư nước ngoài. Sự hoạt động có hiệu quả của các công ty kinh doanh hạ tầng sẽ là cơ sở để thu hút các nguồn vốn đầu tư. Do đó, trong thời gian tới, để các KCN được xây dựng và phát triển có hiệu quả, cần tập trung giải quyết các vấn đề sau: - Tập trung phối hợp với các công ty kinh doanh hạ tầng xúc tiến đầu tư trong và ngoài nước để nhanh chóng lấp đầy các KCN hiện có theo quy hoạch chi tiết của các KCN. Đến nay, cả nước đã có hơn 11399 ha đất tại các KCN dành để thu hút các doanh nghiệp nhưng mới có 20,88% diện tích có doanh nghiệp hoạt động, còn lại gần 4/5 diện tích cần phải phấn đấu lấp đầy trong thời gian tới. Theo tính toán sơ bộ để lấp đầy các KCN đã được thành lập, phải có khoảng hơn 6000 doanh nghiệp được thành lập với tổng số vốn đầu tư 20 - 25 tỷ USD. Vì vậy trong những năm tới phải thu hút thêm khoảng 5450 doanh nghiệp mới thành lập với tổng số vốn đầu tư đăng kí khoảng 18-23 tỷ USD, trong đó chủ yếu là nguồn vốn FDI. Với tốc độ thu hút FDI của cả nước trong các năm qua, nếu tập trung tất cả các dự án FDI vào các KCN mới cần xét tới thực tế hoạt động của các KCN tránh tình trạng cạnh tranh bất lợi của các KCN và làm lãng phí các nguồn vốn đầu tư xây dựng KCN. Đối với những tỉnh, thành như thành phố Hồ Chí Minh, Hà Nội, Bình Dương, Đồng Nai thì chỉ cho phép thành lập các KCN mới khi lấp kín được 50% diện tích đất của các KCN đã thành lập. - Tăng cường công tác quản lý rà soát lại các KCN đã được cấp giấy phép nhưng chưa triển khai chậm. Hay mới bắt đầu phát triển hạ tầng nhưng phương án thu hút vốn đầu tư chưa rõ, một số trường hợp cần thiết thì có thể rút giấy phép đầu tư. Trong thời gian gần đây, do cuộc khủng hoảng kinh tế trong khu vực nên tình hình đầu tư nước ngoài có xu hướng xấu đi và có thể còn tiếp tục trong thời gian tới. Do đó, đối với các KCN đã được cấp giấy phép nhưng chưa rõ giải pháp huy động vốn xây dựng hạ tầng, công tác đền bù giải phóng mặt bằng gặp khó khăn và hạ tầng hàng rào yếu kém, khả năng thu hút vốn đầu tư thấp thì tạm thời giảm tiến độ xây dựng. Đối với các KCN đã chuẩn bị được mặt bằng, thu hút được vốn để phát triển hạ tầng và đã có các nhà đầu tư đăng kí thuê đất thì Nhà nước nên có các biện pháp hỗ trợ để thúc đẩy các KCN này phát triển theo kiểu cuốn chiếu, nhanh chóng tạo mặt bằng cho sản xuất kinh doanh, đồng thời tranh thủ cơ hội gọi vốn đầu tư. Đối với các KCN có vị trí chiến lược trong phát triển kinh tế, nằm trong danh mục các KCN ưu tiên phát triển đến năm 2010 đang được các địa phương chỉ đạo lập báo cáo khả thi thì cần hướng dẫn các chủ đầu tư lập quy mô diện tích vừa phải khoảng 100 ha (quy mô trung bình của các KCN ở các nước đang phát triển) có phương án khả thi xây dựng hạ tầng và phương án thu hút vốn đầu tư, đảm bảo hạ tầng cho phép các doanh nghiệp đã có và tiếp tục thu hút các doanh nghiệp mới. Nguồn vốn xây dựng phải được cung ứng cho phù hợp với đòi hỏi phát triển hạ tầng, nâng cao sức cạnh tranh (theo số liệu thống kê của các nước đang phát triển thì các KCN phát triển hiệu quả nhất có diện tích trung bình khoảng 100 ha, có số vốn phát triển hạ tầng khoảng 50 triệu USD). Ngoài hiệu quả kinh tế của các KCN, việc phát triển các KCN cũng cần quan tâm đến hiệu quả kinh tế - xã hội mà các KCN mang lại. Trong thực tế, hình thành và phát triển các KCN ở nước ta nói riêng và việc tiếp nhận nguồn vốn đầu tư nước ngoài nói chung, có lúc, có nơi do xuất phát từ lợi ích cục bộ của địa phương mà buông lỏng quản lý Nhà nước, chỉ chú ý đến mục tiêu thuần tuý của KCN mà không chú ý đến yêu cầu xây dựng và phát triển chung của cả nền kinh tế, đến các vấn đề an ninh quốc phòng, ô nhiễm môi trường, cân bằng sinh thái hoặc làm cạn kiệt nguồn tài nguyên. 1.3. Phát triển KCN trở thành một mô hình năng động, linh hoạt với cơ chế thị trường. Một khó khăn chung đối với hoạt động FDI là tình trạng “cha chung không ai khóc”, làm việc cứng nhắc, quy tắc hoặc quá thả nổi sau khi cấp giấy phép của các cơ quan quản lý Nhà nước dẫn đến những vướng mắc không đáng có cho các nhà đầu tư. Tại các KCN tình hình này có được cải thiện nhưng để các nhà đầu tư thấy được tính ưu việt thì cần hoàn thiện hơn nữa cơ chế quản lý để biến các KCN biến thành các hình mẫu thực sự linh hoạt và năng động với cơ chế thị trường. Quá trình phát triển các KCN trên thế giới cho thấy, đối với giai đoạn đầu phát triển KCN thì thích hợp với các ngành công nghiệp đòi hỏi vốn đầu tư ít và không đòi hỏi kỹ thuật cao. Sau đó, từng bước đa dạng hoá các lĩnh vực đầu tư từ ngành công nghiệp có kỹ thuật tinh vi, hiện đại. Cần chủ động thu hút các nguồn đầu tư, chủ yếu là thu hút đầu tư nước ngoài từ các doanh nghiệp vừa và nhỏ, đây cũng chính là mô hình hoạt động của các KCN hiện nay trên thế giới. Mặt khác, cần đa dạng hoá các loại đầu tư trong KCN, có quy chế hoạt động giống như một KCX thu nhỏ hoặc hình thành các KCN cao trong các KCN. Điều này vừa phát huy được hạ tầng của các KCN vừa tận dụng được những lợi thế của các hình thức KCX và KCN cao. Ngoài ra, để các KCN phát huy được tính chủ động, linh hoạt trong hoạt động sản xuất kinh doanh, quy hoạch các KCN cần gắn liền với quy hoạch các cụm dân cư và cụm đô thị xung quanh, các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội, các ngành dịch vụ khác. 2. Nhu cầu vốn FDI cho các KCN trong thời gian tới. Với xu thế phát triển các ngành công nghiệp của đất nước, thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá hiện đại hoá nền kinh tế của nước ta, từ nay đến năm 2010 đòi hỏi phải có các KCN tập trung tiếp tục ra đời ở những nơi có điều kiện. Vì vậy dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển KCN Việt Nam trong những năm tới sẽ là: Bảng 14: Dự báo nhu cầu vốn đầu tư cho phát triển các KCN, KCX Việt Nam đến năm 2010 Stt Chỉ tiêu Đơn vị 2001 2010 1 Số KCN Khu 69 110 2 Tổng diện tích Tr. USD 11399 38547 3 Vốn phát triển hạ tầng Trong đó: Vốn FDI Vốn trong nước Tr.USD Tr. USD Tr.USD 3850 2350 1500 5100 2500 2600 4 Tỷ trọng FDI/ tổng vốn % 44,44 49 5 Vốn ĐTCSHT/Khu Tr. USD/Khu 35,745 46,36 (Nguồn: Bộ Kế hoạch và đầu tư) Với tốc độ phát triển các KCN như những năm gần đây và dựa vào quy hoạch tổng thể phát triển KCN đã được Thủ tướng Chính Phủ phê duyệt đến năm 2010, cả nước sẽ có 110 KCN, thu hút một lượng vốn đầu tư rất lớn khoảng 5100 triệu USD, gấp 2,96 lần so với giai đoạn 1991- 1999, trong đó vốn FDI là: 2500 triệu USD, chiếm khoảng 49% tổng vốn đầu tư và gấp 3,52 lần so với năm giai đoạn 1991 - 1999. Như vậy chúng ta cần đẩy mạnh thu hút đầu tư vào KCN để nhanh chóng lấp đầy diện tích các KCN. Nếu không có biện pháp thu hút vốn hiệu quả sẽ xảy ra tình trạng đất đai sử dụng vốn đầu tư kém hiệu quả. Khi đã ý thức được đầy đủ hệ quả trên chúng ta cần đặt vấn đề thu hút đầu tư vào KCN một cách kiên quyết hơn. Không chỉ là khuyến khích kêu gọi mà phải có định hướng bằng biện pháp kinh tế. Ví dụ như trước mắt cần có chính sách ưu đãi hơn cho các nhà đầu tư trong KCN hay buộc các nhà đầu tư phải vào các KCN nếu ở đây đáp ứng được yêu cầu của các nhà đầu tư như ngoài KCN. II. Kiến nghị một số giải pháp chủ yếu nhằm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tại các Khu công nghiệp hiệu quả hơn. 1. Xác định các điều kiện cần thiết để xây dựng các KCN. Từ kinh nghiệm các KCN trên thế giới và thực tiễn xây dựng, phát triển các KCN Việt Nam cho thấy công tác quản lý Nhà nước cần phải thực hiện tốt ngay từ khâu quy hoạch xây dựng các KCN, làm cơ sở để thu hút các nguồn vốn đầu tư. Việc xây dựng KCN và thu hút các nguồn vốn muốn thành công phải hội tụ các điều kiện sau đây: - Có vị trí địa lý và điều kiện tự nhiên thuận lợi, trước hết là điều kiện thuận lợi về giao thông, lưu chuyển hàng hoá tốt với các khu vực nội địa và với thế giới. - Có khả năng đền bù, di dân và giải toả mặt bằng xây dựng nhanh chóng với chi phí hợp lý. Quy mô KCN và quy mô xí nghiệp phải phù hợp với đặc điểm công nghiệp chính gắn với điều kiện kết cấu hạ tầng. - Có khả năng xây dựng kết cấu hạ tầng thuận lợi, có hiệu quả, có đất để mở rộng và liên kết thành các cụm công nghiệp (nếu có thể). - Có khả năng cung cấp nguyên liệu trong nước hoặc nhập khẩu tương đối thuận tiện, có cự ly vận tải thích hợp. Có khả năng cung cấp điện nước ổn định và có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu sản xuất kinh doanh. - Đảm bảo các điều kiện kết cấu hạ tầng cả trong và ngoài KCN. Điều kiện hạ tầng ngoài hàng rào phải tốt hơn so các vùng khác, bao gồm hệ thống đường xá, sân bay, bến cảng, thông tin liên lạc và các cơ sở hạ tầng khác thuận tiện. - Có khả năng đáp ứng nhu cầu về lao động cả về số lượng và chất lượng thích ứng với các ngành kinh doanh trong KCN với chi phí tiền lương thích hợp. - Tạo cơ sở pháp lý đầy đủ và thông thoáng cho mọi hoạt động đầu tư sản xuất và kinh doanh trong KCN. Tạo lập chính sách thuế ưư đãi và các chi phí về giá thuê đất, dịch vụ hợp lý. - Các thủ tục hành chính đơn giản, thuận lợi cho các nhà đầu tư. - Kết hợp chặt chẽ quy hoạch phát triển các KCN với quy hoạch đô thị và phân bố dân cư. - Các công ty kinh doanh hạ tầng KCN cần phải có đủ khả năng về tài chính và uy tín đối với khách hàng. 2. Những kiến nghị về quy hoạch tổng thể các KCN để tạo lập cơ sở cho kế hoạch thu hút và sử dụng nguồn vốn FDI. Một vấn đề mà các nhầ đầu tư nước ngoài rất quan tâm khi đầu tư vào KCN là vị trí xây dựng của KCN, quy hoạch và chiến lược phát triển KCN (ngành ,nghề, lĩnh vực khuyến khích đầu tư). Do đó, trong công tác quản lý quy hoạch tổng thể các KCN cần quan tâm đến các vấn đề sau: 2.1. Lựa chọn vị trí xây dựng KCN. Trong thời gian tới, mỗi tỉnh và thành phố muốn xây dựng KCN thì cơ quan quản lý Nhà Nước ở Trung ương (TW) và địa phương đều phải xem xét tới những điều kiện để thành lập KCN, phương hướng thu hút vốn đầu tư, trên cơ sở đó đi đến lựa chọn và quyết định vị trí, địa điểm xây dựng KCN. Bởi từ kinh nghiệm các nước trên thế giới và thực tiễn Việt Nam cho thấy vị trí, địa điểm xây dựng được coi là một yếu tố quyết định thành công của KCN. Công tác quyết định chọn vị trí, địa điểm xây dựng KCN hoàn toàn phụ thuộc vào các cơ quan quản lý Nhà nước từ địa phương đến Trung ương. Nếu lựa chọn vị trí không thích hợp thì có thể dẫn đến thất bại trong việc hình thành và phát triển KCN. ở đây, cần tránh làm đơn giản, coi nhẹ những điều kiện cần thiết mà cần làm một cách nghiêm túc, thận trọng xem xét khả năng thoả mãn tối đa những điều kiện để hình thành KCN với địa điểm được chọn xây dựng. 2.2. Tạo sự hài hoà trong tổng thể phát triển KCN. Mục tiêu chủ yếu của các KCN vẫn là thu hút vốn FDI, tạo ra môi trường hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Do đó, việc phát triển các KCN phải phù hợp với tình hình phát triển kinh tế cũng như tình hình đầu tư nước ngoài. Trước mắt, cần tập trung ưu tiên phát triển các KCN đã có một số doanh nghiệp hoạt động và có khả năng thu hút đầu tư, sau đó mới xây dựng mới các KCN phục vụ cho việc chỉnh trang đô thị, quy hoạch lại việc phát triển công nghiệp trên địa bàn, phù hợp với phương hướng Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá, phù hợp với khả năng thu hút đầu tư, ngành nghề ưu tiên đầu tư của địa phương đồng thời phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế và thu hút đầu tư của cả nước. Việc phát triển các KCN cũng như số lượng và chất lượng nguồn lao động phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh và lưu chuyển hàng hoá của các doanh nghiệp. Để hoạt động FDI tại các KCN đi theo đúng định hướng, Nhà nước cần định hướng cơ cấu ngành nghề sản xuất, kinh doanh của các doanh nghiệp phù hợp với các lợi thế của địa phương nơi có KCN. Những doanh nghiệp này thuộc nhiều thành phần công nghiệp khác nhau đầu tư vào KCN, mục đích của các nhà quản lý là các doanh nghiệp phải mang lại sự phát triển cho địa phương nói riêng và sự phát triển của đất nước nói chung, tăng cường xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, góp phần giải quyết việc làm, tiếp thu kỹ thuật và kinh nghiệm tiên tiến, đồng thời nâng cao năng lực sản xuất thông qua sự kết hợp giữa các doanh nghiệp trong KCN và các doanh nghiệp ngoài KCN. 3. Tiếp tục tạo môi truờng đầu tư thuận lợi, khuyến khích đầu tư vào các KCN. Hoàn chỉnh khung pháp lý cho hoạt động của KCN. Trong thời gian tới, cần sớm ban hành một khung pháp lý tương đối hoàn chỉnh, đồng bộ ở tầm cao hơn các quy định hiện hành để điều chỉnh các hoạt động của các KCN, tạo sự thuận lợi trong hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp. Đó chính là việc sớm xây dựng và hoàn thiện Luật KCN, KCX ở Việt Nam. Quy chế quản lý doanh nghiệp và các nhà đầu tư trong KCN cần được thể chế hoá thành điều lệ quản lý, tạo điều kiện cho việc thực hiện giấy phép của các doanh nghiệp, đồng thời cũng tạo điều kiện cho quá trình từ xây lắp đến sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp được tiến hành thuận lợi. Nước ta đã có những quy định thông thoáng hơn về thuế, vốn, đất và các ưu đãi khác trong hoạt động sản xuất kinh doanh nhưng so với các nước trong khu vực thì nhìn chung ưu đãi của ta còn đựơc hấp dẫn. Bên cạnh đó, còn có sự phân biệt giữa doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI. Trong thời gian tới, cần có những sửa đổi với những ưu đãi hấp dẫn hơn, đồng thời tạo sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau. Trong khi chờ Luật KCN, KCX được ban hành và các điều luật khác đối với KCN, KCX được sửa đổi chúng ta cần tiến hành sửa đổi và bổ xung một số vấn đề trong Quy chế KCN, KCX, cụ thể như: - Quy định rõ và cụ thể việc phát triển các công trình hạ tầng kỹ thuật và xã hội ngoài hàng rào phục vụ hoạt động sản xuất kinh doanh của KCN. - Thực hiện cơ chế đăng ký thủ tục hành chính đơn giản thay thế cho chế độ xét duyệt, xem xét từng trường hợp cấp giấy phép như hiện nay. - Cần có các ưu đãi, khuyến khích hơn nữa các ngành sử dụng nguyên vật liệu trong nước, đổi mới công nghệ. - Có các chính sách ưu đãi hơn cho các KCN tại các vùng khuyến khích đầu tư như vùng sâu, vùng xa, vùng có nhiều khó khăn. - Xem xét cho các doanh nghiệp KCN được hưởng 5 quyền: chuyển đổi, chuyển nhượng, cho thuê lại, thế chấp và thừa kế đất tại KCN; tiếp tục thực hiện chính sách các doanh nghiệp được quyền dùng tiền bán tài sản và chuyển nhượng quyền sử dụng mặt bằng sản xuất cũ ngoài KCN để lấy vốn đầu tư xây dựng mới tại KCN. 3.2. Mở thêm một số quy định thông thoáng hơn về vốn, thuế và đất. - Về huy động vốn: để có thêm vốn đầu tư cho phát triển KCN, ngoài những nguồn vốn chính như vốn ngân sách, vốn FDI, cần mở rộng thêm các hình thái vốn khác, huy động mọi thành phần kinh tế tham gia phát triển KCN. Chúng ta có thể xúc tiến tìm nguồn vốn ODA cho phát triển hạ tầng KCN; cho phép các ngân hàng nước ngoài, đặc biệt là các ngân hàng công nghiệp được mở chi nhánh trong KCN; áp dụng rộng rãi chính sách cho các doanh nghiệp thuộc dạng di dời được sử dụng tiền bán tài sản và thuế chuyển quyền sử dụng đất đang sử dụng để tái lập doanh nghiệp trong KCN ( hiện nay mới có quy định áp dụng cho Hà Nội và TP Hồ Chí Minh)…Ngoài ra, chúng ta nên quy định bắt buộc các công ty phát triển hạ tầng phải tập trung nguồn vốn, nguồn lực phát triển hạ tầng, trường hợp Công ty phát triển hạ tầng chưa đủ các năng lực triển khai theo quyêt định đã được phê duyệt thì cần có giải pháp gọi thêm doanh nghiệp tham gia phát triển hạ tầng để đảm bảo tiến độ xây dựng hạ tầng; đối với KCN đã có hạ tầng nhưng có khó khăn thu hút vốn đầu tư thì thực hiện cho thuê lại hoặc cho thuê công ty quản lý để gọi vốn đầu tư. Bên cạnh đó cần đa dạng hoá các hình thức huy động vốn để phát triển các công trình hạ tầng bên ngoài hàng rào KCN như mở rộng hình thức đầu tư theo hình thức BOT, phát hành trái phiếu doanh nghiệp, thành lập Quỹ hỗ trợ đầu tư, tín dụng đầu tư từ Quỹ đầu tư phát triển đô thị. - Về thuế: Nhằm thu hút FDI vào các KCN, Nhà nước ta ngày càng có nhiều quy định ưu ái hơn về thuế đối với hoạt động sản xuất kinh doanh trong các KCN, nhưng nhìn chung vấn đề chưa thật hấp dẫn nếu so với các nước khác và chưa có sự bình đẳng giữa các doanh nghiệp trong nước và doanh nghiệp có vốn FDI. Chúng ta cần có những quy định thông thoáng hơn như mở rộng phạm vi các khoản chi phí được trừ khi xác định lợi tức chịu thuế…tạo sự bình đẳng hơn nữa cho mọi loại hình doanh nghiệp được ưu đãi miễn, giảm thuế. - Về đất: Việc xây dựng hạ tầng KCN nhằm tạo điều kiện để thu hút đầu tư, mà việc thu hút đầu tư “lấp đầy” mới là mục tiêu cơ bản của phát triển KCN. Do đó, Nhà nước cần cho thuê đất với giá ưu đãi nhất, thậm chí chỉ thu tượng trưng để phát triển hạ tầng KCN. Có thể coi đất phát triển KCN là phạm trù riêng, khác hẳn với đất dành cho phát triển đô thị và kinh doanh các bất động sản khác thì mới tạo ra điều kiện thuận lợi cho thu hút vốn đầu tư, đặc biệt là FDI, để “lấp đầy” các KCN. Và cần thực hiện tốt chức năng quản lý Nhà nước trong việc thoả thuận với các Công ty phát triển hạ tầng, cho thuê đất với giá cho thuê hợp lý bảo đảm cạnh tranh lành mạnh giữa các KCN trong cả nước, linh hoạt trong phương thức thu hút đầu tư. Phải coi việc giải phóng mặt bằng để làm KCN thuộc loại đất sử dụng vào mục đích công cộng vì lợi ích quốc gia để có chính sách đền bù giải phóng mặt bằng cho KCN thoả đáng. Các ban Quản lý KCN- KCX cấp tỉnh và các Công ty phát triển hạ tầng cần phối hợp chặt chẽ và xin ý kiến chỉ đạo thường xuyên của các cơ quan chính quyền địa phương các cấp trong giải phóng mặt bằng và giải quyêt các đề nghị của dân. 3.3. Cải tiến mô hình Công ty phát triển hạ tầng KCN. Theo quy định hiện hành, KCN chưa có một tổ chức được luật hoá để làm tất cả các công việc từ khâu quy hoạch, xây dựng và phát triển KCN một cách toàn diện và tổng thể gắn liền với kết quả hoạt động của KCN (trừ một số KCN do nước ngoài bỏ vốn xây dựng mới chỉ dừng lại ở mức kinh doanh hạ tầng). Trong khi đó, hiên nay nhiều KCN có sức sản xuất tương đương, thậm chí lớn hơn một tổng công ty của Nhà nước. Với mức như vậy, KCN xứng đáng có một tổ chức kinh doanh chăm lo hoạt động của nó để góp phần biến nó thành một thực thể kinh doanh độc lập. Hiên nay, Quy chế KCN, KCX chỉ cho phép thành lập loại hình công ty phát triển hạ tầng KCN hoạt động trong lĩnh vực đầu tư, xây dựng và kinh doanh kết cấu hạ tầng KCN chưa đề cập đến loại hình phát triển toàn diện KCN. Vì vậy, để tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN được đưa lên một tầm cao mới toàn diện hơn, cần có quy đinh chuyển công ty phát triển hạ tầng KCN thành Công ty hoặc Tổng công ty phát triển KCN, sau khi được cấp có thẩm quyền phê duyệt sẽ tổ chức phát triển KCN để đạt được mục tiêu đề ra. Công ty phát triển KCN không can thiệp vào quyền tự chủ sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mà có các chức năng bao gồm: công tác kinh doanh cơ sở hạ tầng, cung cấp các dịch vụ cho các doanh nghiệp KCN theo yêu cầu thông qua các hợp đồng kinh tế và là đầu mối phát triển hạ tầng ngoài hàng rào KCN, gằn liền hoạt động kinh doanh của KCN với hiệu quả của công ty. Các nước Indonesia, Trung quốc và Thái lan đã phát triển theo mô hình Công ty phát triển KCN Biên Hoà (SONADEZI) là tổ chức duy nhất thực hiện theo mô hình này và đã đạt được những thành công nhất định. Trong thời gian tới, mô hình này cần được xem xét, nghiên cứu và cần được luật hoá để trở thành mô hình kinh doanh chính cho quá trình xây dựng, phát triển các KCN cũng như thu hút và sử dụng có hiệu quả các nguồn vốn đầu tư. 3.4. Chủ động vận động và tiếp thị đầu tư vào KCN. Để đẩy mạnh công tác vận động đầu tư và tiếp thị đầu tư vào KCN, Ban quản lý KCN - KCX Việt Nam cần chủ động phối hợp với các cơ quan có chức năng như Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Phòng thương mại và Công nghiệp Việt Nam (VCCI), Ban quản lý các KCN- KCX cấp tỉnh… tổ chức giới thiệu các KCN Việt Nam với các nhà đầu tư nước ngoài. Đồng thời có kế hoạch tổ chức mời các đoàn doanh nghiệp có tiềm năng của nước ngoài vào thăm các KCN của Việt Nam, hướng dẫn, tạo điều kiện cho các nhà đầu tư tìm hiểu kĩ các vấn đề liên quan đến đầu tư vào KCN, từ đó giúp họ hình thành phương án khả thi đầu tư vào KCN. Các Ban quản lý các KCN - KCX cấp tỉnh cũng cần phối hợp với công ty phát triển hạ tầng KCN tập trung sức vào việc vận động đầu tư vào KCN dưới các hình thức như hội thảo, họp mặt, tổ chức các buổi giới thiệu về môi trường đầu tư, các ưu đãi khác của từng khu vực. Và một vấn đề nữa là cần cung cấp thông tin đầy đủ cho các nhà đầu tư nước ngoài. Để chủ động vận động đầu tư, tiếp thị đầu tư vào các KCN, Việt Nam cần sớm đặt đại diện của mình tại các tổ chức quốc tế như tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO), Hiệp hội KCX Thế giới (WEPZA) và các tổ chức xúc tiến mậu dịch và đầu tư ở một số khu vực quan trọng như Bắc Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản, Singapore để các nhà đầu tư dễ dàng nắm được các điều kiện và môi trường đầu tư vào các KCN của Việt Nam. Về phía các công ty phát triển hạ tầng KCN, song song với việc tập trung xây dựng tốt cơ sở hạ tầng, phải đặc biệt quan tâm đến công tác nghiên cứu thị trường, nghiên cứu nhu cầu đầu tư để xây dựng cho mình chiến lược marketing hữu hiệu. ở các công ty phát triển hạ tầng, nên tổ chức riêng phòng tiếp thị chuyên làm công tác nghiên cứu và thu hút các nhà đầu tư vào KCN. Nội dung chủ yếu của những công việc cần nghiên cứu trong marketing KCN cần thực hiện là: - Nghiên cứu thị trường: gồm thị trường trong nước, ngoài nước, nắm rõ nhu cầu, đòi hỏi của thị trường để xây dựng, sửa đổi cơ sở hạ tầng KCN phù hợp với các ngành nghề có xu hướng phát triển. - Nghiên cứu các nhà đầu tư: cần nghiên cứu để biết nhà đầu tư nào sẽ đến với mình, họ thích sản phẩm nào, giá cả ra sao, tại sao họ đầu tư vào KCN này mà không đầu tư vào KCN khác. - Nghiên cứu động cơ đầu tư: nhà đầu tư đến với ta để thuê đất xây dựng nhà xưởng để sản xuất kinh doanh, xuất phát từ động cơ, nhu cầu nào. - Phân tích, kiểm tra hoạt động tiếp thị vận động đầu tư: nghiên cứu, phân tích xem hiệu quả của công tác tiếp thị vận động đầu tư của công ty, xem xét xem có cần thông qua mạng lưới đại diện ở trong và ngoài nước cùng vận động, xúc tiến, giao dịch, giới thiệu đầu tư hoặc có cần thuê các tổ chức tiếp thị đầu tư hay không. - Nghiên cứu sản phẩm: luôn luôn phải xem lại tầng KCN đã đáp ứng được nhu cầu sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đang và sẽ hoạt động trong KCN. 4. Cải tiến cơ chế , tổ chức bộ máy và các thủ tục hành chính trong quản lý Nhà nước đối với các KCN. 4.1. Về cơ chế quản lý Cơ chế quản lý “một cửa”, “một đầu mối” đối với các KCN đã được quy định từ lâu. Tuy nhiên, trong thời gian tới chúng ta cần tiếp tục cải tiến cơ chế quản lý này để tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp thực hiện quyền tự chủ hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ của pháp luật, giảm bớt các thủ tục hành chính “xin cho”, đồng thời đảm bảo sự quản lý của Nhà nước đối với hoạt động sản xuất kinh doanh, hạn chế bớt phiền hà, quan liêu trong thực thi quyền quản lý của Nhà nước. Việc thực hiện cơ chế quản lý “một cửa”, một đầu mối hiên nay được thực hiện thông qua cơ chế uỷ quyền của các Bộ, Ngành TW và UBND tỉnh, thành phố cho Ban quản lý KCN - KCX cấp tỉnh thực hện một số nhiệm vụ quản lý Nhà nước về đầu tư, xây dựng, thương mại, lao động. Song với việc uỷ quyền, các cơ quan quản lý Nhà nước cần chuyển mạnh sang tập trung làm tốt công tác quy hoạch ngành, vùng và lãnh thổ, xây dựng các công trình, quy phạm, các định mức kinh tế - kỹ thuật, tăng cường công tác hướng dẫn, tổ chức tập huấn, sơ kết, tổng kết rút kinh nghiệm và giám sát các Ban quản lý các KCN - KCX cấp tỉnh thực hiện tốt các chức năng quản lý Nhà nước được uỷ quyền. 4.2. Về mô hình tổ chức quản lý. Hiện nay, hệ thống tổ chức bộ máy quản lý Nhà nước các KCN ở nước ta được tổ chức như sơ đồ dưới đây: Thủ tuớng chính phủ Văn phòng thủ tướng Ban quản lý KCN cấp tỉnh Các Bộ, Ngành TW UBND tỉnh, TP có KCN, KCX Các Ban quản lý KCN, KCX cấp tỉnh Bộ kế hoạch và đầu tư Vụ quản lý KCN - KCX Vụ quản lý KCN -KCX Chú thích: ____________ Quan hệ chỉ đạo trực tiếp Quan hệ chỉ đạo uỷ quyền Quan hệ chỉ đạo phối hợp Mô hình tổ chức quản lý các KCN hiện nay ở nước ta còn nhiều bất cập. Để KCN phục vụ tích cực hơn cho hoạt động sản xuất kinh doanh, từ kinh nghiệm của các nước và thực tế tại nước ta trong những năm qua, chúng ta cần nghiên cứu cải tiến lại mô hình tổ chức quản lý KCN. Đối với các KCN quy mô lớn, có ý nghĩa quan trọng đối với nền kinh tế quốc gia, có thể tổ chức quản lý theo nguyên tắc tổ chức thống nhất từ TW đến địa phương. Mô hình này có thể được một tổ chức ở TW là một cơ quan chuyên quản (do Chính Phủ quy định), ở cấp tỉnh có một cơ quan quản lý KCN cấp tỉnh, tương tự như mô hình của Thái Lan và Philippin. Để làm tốt công tác của mình, cơ quan quản lý KCN cấp tỉnh phải kết hợp với UBND cấp tỉnh để giải quyết các công việc liên quan, trưởng ban quản lý các KCN - KCX cấp tỉnh nên được cân nhắc thêm vai trò phó chủ tịch UBND tỉnh. Theo quan điểm này thì số lượng các KCN của ta sẽ phải sắp xếp lại và thuộc TW quản lý trực tiếp tới vài chục khu bao gồm có khu hiện có và khu thành lập mới tập trung ở các vùng kinh tế trọng điểm. Đối với các KCN nhờ gắn liền với vùng nguyên liệu nông, lâm, ngư nghiệp thì có thể giao cho địa phương có KCN trực tiếp quản lý. Cơ quan quản lý đó có thể là cơ quan riêng ngang với Sở hoặc giao cho sở công nghiệp các tỉnh quản lý, tuỳ theo số lượng và quy mô của từng KCN (sẽ được cụ thể trong quy định của Chính Phủ). Mô hình quản lý nói trên cần được quy định cụ thể trong Luật KCN, các cơ quan quản lý KCN theo hệ thống này là những cơ quan có thẩm quyền. Cơ quan quản lý ở TW là cơ quan chủ quản, quản lý trực tiếp các cơ quan quản lý KCN cấp tỉnh đối với các KCN có quy mô lớn và đồng thời là cơ quan quản lý ngành đối với KCN có quy mô nhỏ. 4.3. Về thủ tục hành chính. Theo quy định hiện hành thì thủ tục thành lập doanh nghiệp đã có cải tiến. Các nhà đầu tư nước ngoài nếu xuất khẩu trên 80% sản phẩm của mình thì chỉ cần đăng kí theo mẫu hướng dẫn và nếu được chấp thuận thì sẽ được cấp giấy phép đầu tư. Thời hạn xem xét giấy phép rút xuống còn 15 ngày thay vì 60 ngày. Nhưng các thủ tục hành chính sau giấy phép vẫn là vấn đề phức tạp, rắc rối. Các nhà đầu tư cho rằng các ưu đãi về thuế ở Việt Nam là hấp dẫn, nhưng để được hưởng ưu đãi này thì phải tổ chức được sản xuất kinh doanh nhưng chính khâu tổ chức sản xuất kinh doanh sau khi cấp giấy phép lại gặp rất nhiều khó khăn. Các nhà đầu tư phải làm thủ tục hành chính tại các cơ quan chức năng theo quy định của từng cơ quan này, giấy tờ thì nhiều không có mẫu để kê khai, thời gian xem xét kéo dài. Do vậy, trong thời gian tới cần cải tiến thủ tục theo hướng đơn giản hoá, những khâu không cần thiết thì cần phải loại bỏ như thủ tục phê duyệt kế hoạch xuất, nhập khẩu, cần bỏ hình thức xin cấp giấy phép đầu tư mà thay vào đó là đăng kí kinh doanh. Những thủ tục cần thiết phải có sự quản lý của Nhà nước cần có hướng dần rõ để các doanh nghiệp biết cách lập hồ sơ theo mẫu, quy định rõ thời hạn xem xét, quyết định và giải quyết kịp thời, nhanh chóng theo cơ chế, cần tạo ra sự phân cấp mạnh mẽ hơn nữa cho các Ban quản lý các KCN - KCX cấp tỉnh quản lý các hoạt động của các doanh nghiệp. Công tác kiểm tra, gửi báo cáo cũng cần đuợc xem xét, giải quyết theo hướng đơn giản, tránh trùng lặp, gây khó khăn cho hoạt động của các doanh nghiệp. Trong thời gian chờ Quốc hội thông qua Luật KCN, chúng ta cần tiếp tục nghiên cứu một số vấn đề đang còn vướng mắc, đó là quyền lợi và nghĩa vụ của các doanh nghiệp trong KCN đã có trong khuôn viên KCN trước khi có quyết định thành lập KCN; chính sách đối với các doanh nghiệp thuộc diện di dời, chính sách hỗ trợ tài chính cho các nhà đầu tư, tiếp tục hoàn thiện cơ chế “một cửa” trong đó có vấn đề uỷ quyền cho Ban quản lý các KCN cấp tỉnh giải quyết các hoạt động sản xuất kinh doanh, xuất nhập khẩu, quản lý lao động. 5. Tăng cường quản lý Nhà nước đối với một số công tác, hoạt động còn nhiều tồn tại trong các KCN. 5.1. Quản lý công tác xây dựng. Để các KCN được xây dựng và phát triển theo đúng quy hoạch, trong quá trình hoạt động của nó, Nhà nước cần quan tâm làm tốt việc quản lý xây dựng toàn khu và của từng doanh nghiệp theo đúng quy hoạch tổng thể và quy hoạch chi tiết của KCN đã được cấp có thẩm quyền phê duyệt. Đồng thời hướng dẫn các nhà đầu tư, các nhà thầu xây dựng thực hiện đúng theo quy định của Nhà nước về xây dựng cơ bản nhằm đảm bảo quản lý sử dụng tốt đất đai trong KCN, không gây ô nhiễm môi trường ách tắc giao thông, không ảnh hưởng đến công trình công cộng, đảm bảo sử lý tốt chất thải, đảm bảo an toàn lao động, chất lượng công trình, phòng chống cháy nổ. Muốn vậy tại mỗi KCN Ban quản lý KCN- KCX phải căn cứ vào những quy định của Nhà nước trong lĩnh vực xây dựng cơ bản, căn cứ vào quy hoạch của từng KCN để xây dựng “Điều lệ quản lý xây dựng theo quy hoạch” để trình cấp có thẩm quyền phê duyệt quy hoạch KCN, cấp đó sẽ phê duyệt “Điều lệ xây dựng theo quy hoạch” của KCN đó. 5.2. Quản lý Nhà nước về lao động. Tính đến hết 10/2002, 69 KCN trong cả nước đã thu hút được 25 vạn lao động. Đây là nguồn lao động đáng kể có vai trò ngày càng to lớn đối với phát triển kinh tế - xã hội của đất nước. Tuy nhiên vấn đề lao động tại các KCN cần được Nhà nước quản lý. Mặc dù Nhà nước đã ban hành Bộ Luật lao động, đã có những Quy định liên quan đến việc sử dụng lao động, song vấn đề sử dụng lao động trong các doanh nghiệp có vốn FDI vẫn đang còn nhiều vấn đề quan tâm như việc trả lương không phù hợp với ngành nghề, bậc đào tạo của công nhân, không thực hiện nghiêm túc việc kí kết hợp đồng lao động và thoả ước lao động tập thể, đặc biệt là hiện tượng đánh đập, lăng mạ, xỉ nhục lao động Việt Nam. Về phía lao động Việt Nam cũng gặp phải vấn đề như trình độ chuyên môn, tay nghề, khả năng thích ứng với công việc mới, trình độ ngoại ngữ, khả năng giao tiếp, phong cách lao động công nghiệp, ý thức tổ chức kỉ luật còn nhiều hạn chế chưa đáp ứng được với yêu cầu. Tình hình đó đòi hỏi các Ban quản lý KCN- KCX các Tỉnh tăng cường kiểm tra đôn đốc các chủ doanh nghiệp nghiêm túc thực hiện Bộ Luật lao động và các Quy định của Nhà nước về sử dụng lao động, mặt khác là tốt công việc tổ chức đăng kí lao động làm việc tại các KCN, hướng dẫn các tập thể lao động ký kết thoả ước lao động tập thể với chủ doanh nghiệp, nhằm vừa đảm bảo quyền lợi của người lao động vừa giúp chủ doanh nghiệp sử dụng lao động có hiệu quả và gắn bó với người lao động. Vấn đề đáng lo ngại nữa là Việt Nam hiện tồn tại một nghịch lý giữa nhu cầu lao động và chất lượng lao động. Thực tế cho thấy nguồn lao động của nước ta tương đối dồi dào (nếu không nói là thừa) nhưng các doanh nghiệp FDI trong các KCN lại gặp rất nhiều khó khăn trong việc tuyển dụng lao động Việt Nam. Các chính sách của Nhà nước thường cố gắng giải quyết lao động cho KCN ngay tại địa phương nơi có KCN nhưng thường thì các lao động này chưa đáp ứng được những điều kiện của doanh nghiệp về học vấn, trình độ tay nghề, khả năng thích ứng với công nghệ mới, nhất là lao động kĩ thuật, công nhân lành nghề và cả những địa phương như Hà Nội hoặc thành phố Hồ Chí Minh, tình trạng này cũng xảy ra. Cho đến nay, nước ta có trên 40 triệu lao động, gần 25% tập trung ở thành thị, số còn lại ở các vùng nông thôn. Số lao động có tay nghề rất ít, chỉ hơn 10% lại tập trung chủ yếu ở các trung tâm công nghiệp. Theo tính toán hiện nay thì cần có 20% lao động có tay nghề thì mới đáp ứng được nhu cầu phát triển, tức là phải đào tạo thêm 6 triệu lao động. Nhưng các trường dạy nghề mỗi năm chỉ có thể đào tạo được khoảng 500 ngàn lao động. Do đó, đây sẽ là một nguồn hạn chế FDI đổ vào các KCN Việt Nam. Cùng với sự phát triển của các KCN, nhu cầu về lao động cho các doanh nghiệp hoạt động trong các KCN cũng ngày càng lớn và đòi hỏi chất lượng ngày càng cao. Nên để đảm bảo chất lượng lao động cho các hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN, cần xác định lại cơ cấu trong toàn bộ hệ thống đào tạo, mở rộng, đa dạng hoá các loại hình dạy nghề, gắn thị trường lao động với các cơ sở đào tạo, với doanh nghiệp để giáo dục và sản xuất kinh doanh thành một chu kì khép kín. Bên cạnh đó cần khuyến khích các doanh nghiệp đào tạo dạy nghề tại cơ sở sản xuất, vừa học vừa làm, đồng thời khuyến khích người lao động tự nâng cao trình độ cho bản thân mình. Trước mắt việc đào tạo lao động cần tập trung vào các ngành cơ khí chính xác, vận hành, lắp ráp, điện tử, công nghiệp da giầy, dệt, may mặc, chế biến thực phẩm. Bài học kinh nghiệm các nước đã và đang tiến hành quá trình công nghiệp hoá cho thấy các nước nay đang xuất hiện những mất cân đối về lao động đặc biệt là lao động cho các doanh nghiệp nước ngoài nói chung và các KCN nói riêng. Hiện nay, một số nước trong khối ASEAN như Indonesia, Thái Lan, Malaisia cũng đã xảy ra tình trạng mất cân đối nguồn lao động, làm giảm tính cạnh tranh trong thu hút FDI. Chính vì vậy, các quốc gia này bị mất nhiều cơ hội thu hút đầu tư hoặc phải thuê lao động có trình độ chuyên môn từ nước ngoài. Và kinh nghiệm của Hàn Quốc về đầu tư và phát triển nguồn lao động có chất lượng cao đã mang lại những thành công vượt bậc về phát triển công nghiệp là bài học đáng để cho Việt Nam học hỏi trong chiến lược đào tạo lao động phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá nói chung và phát triển các KCN nói riêng. 5.3. Đào tạo đội ngũ quản lý KCN. Vấn đề nhân lực trong KCN không chỉ có ở chất lượng đội ngũ lao động mà còn gặp rất nhiều khó khăn trong việc đào tạo cán bộ quản lý. Như chúng ta đã biết, KCN là một mô hình quản lý còn mới mẻ đối với nước ta (thực sự phổ biển từ năm 1994). Đội ngũ quản lý các KCN hiện nay chủ yếu được điều động từ các nhà kinh tế, kỹ thuật, luật sư đang làm quản lý tại các môi trường khác. Trên thực tế, chưa có một loại hình bồi dưỡng đào tạo nào một cách chính quy cho cán bộ quản lý KCN. 6. Một số vấn đề khác cần được quan tâm. 6.1. Đảm bảo sự hài hoà giữa nội tiêu và ngoại tiêu. Hiện nay, ta đang nhấn mạnh về chiến lược hướng về xuất khẩu nhưng không có nghĩa là coi nhẹ thị truờng nội địa. Các nhà đầu tư vào các KCN không chỉ quan tâm đến xây dựng mà họ còn rất quan tâm đến thị trường gần 80 triệu dân, có tiềm năng phát triển trong tương lai như nước ta. Sản phẩm làm ra tại các KCN phải có sức cạnh tranh không chỉ để xuất khẩu mà còn phục vụ nhu cầu trong nước. Do đó, cần đảm bảo sự hài hoà giữa hàng hoá để xuất khẩu với hàng hoá để cung cấp cho thị trường nội địa. Cần tạo ra các ngành nghề hoạt động có hiệu quả, có sức cạnh tranh đồng thời khuyến khích các doanh nghiệp nâng cao tỉ lệ nội địa hoá, hạn chế dẫn đến các hình thức đơn thuần gia công. Điều này có ý nghĩa quan trọng, hơn nữa để tạo ra tính cạnh tranh cao của hàng hoá sản xuất tại Việt Nam, hạn chế bớt các thua thiệt và tăng khả năng hội nhập khi chúng ta bắt đầu thực hiện các quy định của Khu vực mậu dịch tự do ASEAN (AFTA), Hiệp hội Kinh tế Châu á - Thái Bình Duơng (APEC) và khi trở thành thành viên của tổ chức mậu dịch thế giới (WTO). 6.2. Lựa chọn đối tác xây dựng và kinh doanh cơ sở hạ tầng. Hiện nay, do thiếu vốn đầu tư và khả năng vận động đầu tư nên chúng ta chủ động kêu gọi các nhà đầu tư nước ngoài vào xây dựng hạ tầng KCN. Đây là cách làm riêng biệt mang tính đặc thù được áp dụng ở nước ta. Hình thức này có ưu điểm là tranh thủ được nguồn vốn đầu tư và khả năng vận động đầu tư của chủ đầu tư nước ngoài. Tuy nhiên, do xuất phát từ lợi ích kinh tế thuần tuý, nên trong việc xây dựng hạ tầng KCN các nhà đầu tư hay quan tâm đến khả năng thu lợi nhuận, khả năng thu hồi vốn và khả năng cho thuê hạ tầng mà có thể bỏ qua các tác động đến môi truờng sinh thái và điều kiện làm việc của người lao động cũng như chất lượng chung của cả KCN. Vì vậy, xét về mục tiêu thành lập KCN không phải lúc nào cũng có sự thành lập giữa Nhà nước và chủ đầu tư xây dựng hạ tầng, có khi tạo ra sự đối lập về quyền lợi giữa hai phía. Do vậy, khi lựa chọn đối tác đầu tư nước ngoài xây dựng hạ tầng KCN cần tập trung vào các đối tượng sau: - Các tập đoàn mạnh, có khả năng về tài chính và công nghệ cao đủ các yêu cầu xây dựng hạ tầng KCN, đặc biệt là các công ty đa quốc gia, các tập đoàn kinh tế lớn của Tây Âu, Nhật Bản, Bắc Mỹ. - Các đối tượng có đủ năng lực, kinh nghiệm quản lý điều hành KCN để vừa đảm bảo sự thành công cao của các khu, vừa tạo điều kiện cho các đối tác Việt nam học tập kinh nghiệm quản lý, kinh doanh và tiếp thị đầu tư của họ. - Các đối tác có uy tín, có năng lực vân động, thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào KCN. 6.3. Nghiên cứu thành lập các nhà kinh doanh KCN. Để tránh rủi ro và nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh trong KCN cần nghiên cứu thành lập “Hiệp hội các nhà kinh doanh KCN” nhằm tránh các hiên tượng cạnh tranh không lành mạnh dẫn đến thiệt hại không đáng có cho các KCN và các doanh nghiệp trong KCN phá vỡ sự cân đối của kế hoạch phát triển kinh tế. Hiêp hội này sẽ là đầu mối để các nhà đầu tư KCN và các doanh nghiệp KCN hỗ trợ nhau, cung cấp thông tin, trao đổi kinh nghiệm thu hút và quản lý hoạt động đầu tư để đảm bảo sự phát triển có hiệu quả nhất của KCN, hình thức các cụm KCN bổ sung, hỗ trợ lẫn nhau trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiệp hội này có thể bao gồm các công ty phát triển hạ tầng KCN và các doanh nghiệp trong và ngoài nước sản xuất kinh doanh tại các KCN hoặc các tổ chức có nhu cầu kinh doanh và các KCN. Kết luận Như chúng ta đã phân tích thì thu hút FDI vào các KCN Việt Nam là một tất yếu khách quan. FDI vào các KCN Việt Nam trong thời gian qua đã có những đóng góp to lớn vào sự phát triển của các KCN Việt Nam nói riêng và đối với sự phát triển nền kinh tế nói chung. Dòng FDI vào các KCN đã góp phần tích cực vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế của nước ta theo hướng Công nghiệp hoá- Hiện đại hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán; tạo công ăn việc làm cho hàng vạn lao động, đem lại kỹ thuật, công nghệ hiện đại và phương thức quản lý tiên tiến, nâng cao trình độ tay nghề của công nhân. FDI thực sự đã khẳng định được vai trò không thể thiếu của nó trong công cuộc phát triển các KCN Việt Nam nói riêng cũng như công cuộc công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước nói chung. Tuy nhiên vẫn còn nhiều vấn đề, tồn tại và vướng mắc trong vấn đề thu hút và sử dụng FDI vào các KCN, làm giảm sự quan tâm và nhiệt tình đầu tư của các nhà đầu tư nước ngoài. Để dòng FDI “chảy” vào các KCN Việt Nam ngày càng nhiều và hiệu quả sử dụng chúng cao hơn, chúng ta cần phải giải quyết khó khăn, vướng mắc đó và các giải pháp cơ bản là: - Xác định rõ những điều kiện cần thiết để xây dựng các KCN. - Có một quy hoạch tổng thể phát triển các KCN gắn liền với việc thu hút FDI vào các KCN. - Tiếp tục hoàn chỉnh khung pháp lý cho hoạt động của KCN, sớm cho ra đời Luật KCN, KCX; cải tiến mô hình phát triển công ty phát triển hạ tầng KCN, và chủ động vận động tiếp thị đầu tư các KCN. - Tăng cường quản lý Nhà nước đối với các hoạt động trong KCN và đào tạo một đội ngũ cán bộ quản lý, tổ chức bộ máy và đơn giản hơn nữa thủ tục hành chính. - Đảm bảo sự hài hoà giữa nội tiêu và ngoại tiêu, nghiên cứu thành lập hiệp hội các nhà kinh doanh KCN. Tuy nhiên, thực hiện được những giải pháp này không chỉ trong một sớm một chiều. Muốn tạo được môi trường đầu tư thuận lợi, thông thoáng hơn nữa để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài vào các KCN Việt Nam, chúng ta cần phải kiên định thực hiện chúng. Để đạt được những thành công mới ta sẽ phải vượt qua nhiều khó khăn, đòi hỏi sự phối hợp giữa các ngành các cấp cùng nhau tháo gỡ. Nhưng chúng ta tin rằng KCN sẽ thực sự trở thành một mô hình phát triển kinh tế với đầy đủ vai trò, ý nghĩa của nó trong công cuộc Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước và trong đó, FDI sẽ góp phần ngày càng lớn hơn đối với sự phát triển của các KCN Việt Nam. TàI liệu tham khảo 1. Báo cáo tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài vào Việt Nam năm 2001 và giai đoạn 1988- 2000, Vụ đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch và Đầu tư. 2. Báo cáo tình hình hoạt động của các KCN, KCX Việt Nam năm 2001 -Vụ quản lý KCN - KCX; Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 3. Báo cáo tình hình phát triển một số ngành, lĩnh vực trong các KCN, KCX tại vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ, Nam Bộ, Trung Bộ năm 2001, Vụ quản lý KCN - KCX; Bộ Kế hoạch và Đầu tư. 4. Báo cáo tình hình và phương hướng đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam- Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội, 27/12/2000 5. Giáo trình đầu tư nước ngoài - Vũ Chí Lộc, NXB Giáo Dục - Hà Nội, 11/1997 6. Hướng dẫn đầu tư vào các KCN, KCX, KCNC ở Việt Nam - Nguyễn Mạnh Đức, NXB Thống Kê - Hà Nội,1/1998 7. Quy hoạch tổng thể phát triển công nghiệp và kế cấu hạ tầng thời kì 1996 -2010, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Hà Nội, 11/1999 8. Tạp chí thông tin KCN Việt Nam các số năm 2001 và 2001 - Ban quản lý các KCN - KCX Việt Nam. 9. Thời báo kinh tế Việt Nam các số năm 2001 và 2002. 10. Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế các số năm 2001 và 2002.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc19436.doc
Tài liệu liên quan