Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam

Quốc tế hóa đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt, đầu tư nước ngoài hiện là hoạt động cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần tích cực trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. Ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở những kết quả thống kê về mức sản lượng, doanh thu, giá trị kim ngạch xuất khẩu tỷ lệ đóng góp vào GDP, số chỗ làm việc tạo ra.mà điều quan trọng là từ một “cú hích” ban đầu, ĐTTTNN đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn, tránh nguy cơ tụt hậu phát triển so với các nước và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Tất nhiên bên cạnh những ưu điểm của ĐTTTNN cũng còn nhiều vấn đề còn phải bàn như hiện tượng chảy máu chất xám, ô nhiễm môi trường, vi phạm quyền lợi của người lao động cả về vật chất lẫn phẩm giá và lòng tự trọng dân tộc.Mặc dù vậy, không thể chối cãi một điều là ĐTTTNN đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách kinh tế, mỗi biến động tài chính tiền tệ, mỗi chiến lược phát triển đều có bóng dáng của ĐTTTNN. Đảng và Nhà nước ta xác định sự thành đạt của các nhà đầu tư gắn liền với sự thành công của Việt Nam , mọi mất mát rủi ro của nhà đầu tư cũng là rủi ro mất mát của Việt Nam và đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, thông thoáng nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn tại Việt Nam nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta cần nghiên cứu và giải quyết một cách triệt để những vấn đề đang đặt ra và hoàn thiện các chính sách đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, phát huy tốt nhất những mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt tiêu cực của FDI . Hy vọng rằng cùng với tiến trình phát triển của đất nước, các doanh nghiệp FDI không ngừng hoàn thiện, phát triển và khẳng định mình, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam bước lên tầm cao mới.

doc95 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1349 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Đầu tư trực tiếp nước ngoài với tăng trưởng và phát triển kinh tế Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
500 Malaixia 8763 25.1 1000 Thái Lan 6870 37.6 700 Philippin 3690 14.7 240 Inđônêxia 2800 8.3 226 Tổng 4666 Nguồn : asiaweek, 7-6-1996 và Việt Nam Economic Times 12-1996 Phân tích trên cho phép có thêm một nhận định nữa là mức độ dư thừa tư bản có lẽ cũng là một yếu tố quan trọng nữa xác định mức độ đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam. Do thiếu số liệu về dự trữ ngoại tệ của các nước nên chúng ta không kiểm tra được nhận định này trong những năm gần đây. Tuy nhiên, nhận định về vai trò của trình độ phát triển kinh tế trong việc đầu tư ra nước ngoài của các nước ASEAN vẫn đúng với số liệu các năm gần đây. b. Yếu tố xác định lĩnh vực đầu tư Để nghiên cứu lĩnh vực ưu tiên đầu tư, ta cần xem xét phân bố đầu tư theo ngành của từng nước ASEAN tại Việt Nam. Các dự án của Singapore tập trung nhiều nhất vào lĩnh vực xây dựng - khách sạn - du lịch (trên 50% số vốn đầu tư) và các dự án lớn nhất của Singapore cũng ở lĩnh vực này. Singapore có ngành du lịch - dịch vụ rất phát triển, song tiền công lao động tăng cao và sự khan hiếm đất đai buộc đảo quốc nhỏ bé này mở rộng đầu tư ra nước ngoài ở lĩnh vực này. Trong khi đó, các dự án lớn của cả Malaixia và Inđônêxia thì đều ở lĩnh vực khai thác dầu khí. Cả hai nước này đều là những nước khai thác và xuất khẩu dầu khí lớn. Còn Thái Lan tập trung đầu tư vào lĩnh vực chế biến và khai khoáng, cũng là lĩnh vực mà nước này có trình độ chuyên môn hóa cao. Như vậy, có thể nêu nhận định là lĩnh vực ưu tiên đầu tư của các nước ASEAN vào Việt Nam là lĩnh vực mà từng nước có chuyên môn hóa cao. 4.3. Hạn chế của các nước chủ đầu tư Những hạn chế của Việt Nam - nước tiếp nhận đầu tư, đã được nêu nhiều trong các tài liệu của cả Việt Nam và nước ngoài. Có thể tóm tắt lại một số điểm chủ yếu là: hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh và luôn luôn thay đổi, cơ sở hạ tầng yếu kém, thủ tục hành chính rắc rối và nạn tham nhũng khá nặng nề, sự yếu kém về năng lực quản lý điều hành của các cán bộ Việt Nam trong liên doanh...Song, cho đến nay, những hạn chế của các nước đầu tư còn được nêu lên rất ít và hầu như chưa được phân tích và đánh giá một cách thoả đáng. Trên thế giới hiện nay, đối với mỗi nước đều có hai dòng đầu tư : từ ngoài vào và từ trong ra. Xu hướng chung là các nước càng phát triển cao thì càng có xu hướng đầu tư ra ngoài nhiều hơn. Điều đó cho thấy trong các nước tham gia thực hiện đầu tư FDI, có rất nhiều nước còn bị hạn chế về trình độ phát triển kinh tế , trình độ công nghệ. Các chủ đầu tư cũng bị ràng buộc bởi nhiều yếu tố như hạn chế về vốn, trình độ phát triển kinh tế , hạn chế do sự giống nhau về lợi thế so sánh, luật pháp của nước chủ đầu tư, quan hệ giữa nước có chủ đầu tư và nước nhận đầu tư ...Dưới đây ta tập trung xem xét đối với các nhà đầu tư ASEAN tại Việt Nam. Đầu tư của các nước ASEAN tại Việt Nam bị hạn chế bởi những yếu tố cơ bản sau: a. Hạn chế về vốn Nếu so với Việt Nam thì có thể nói các nước ASEAN có lượng dự trữ ngoại tệ khá dồi dào. Song nếu so với các nước công nghiệp phát triển chẳng hạn như Mỹ, Nhật, các nước EC, hay thậm chí so với các nước công nghiệp mới-NICs, thì hầu hết các nước ASEAN (chỉ trừ Singapore cũng là một NICs) đều đang còn là các nước đang phát triển và chưa có nhiều vốn để đầu tư ra nước ngoài. Bản thân các nước ASEAN, kể cả Singapore hiện vẫn đang là những nước nhận đầu tư lớn, chủ yếu từ các nước công nghiệp phát triển và các nước NICs. Do vậy họ cũng đang cạnh tranh lẫn nhau và với các nước đang phát triển khác, trong đó có Việt Nam để thu hút luồng đầu tư này. Tất nhiên, cũng cần lưu ý là, đối với mỗi nước đều có 2 dòng đầu tư: từ ngoài vào và từ trong ra. Xu hướng chung là các nước càng phát triển cao thì càng có xu hướng đầu tư ra ngoài nhiều hơn, trong khi các nước kém phát triển hơn thì thường nhận đầu tư vào nhiều hơn. Các nước ASEAN (trừ Singapore) hiện tại vẫn tiếp nhận đầu tư từ bên ngoài nhiều hơn là phát triển đầu tư ra nước ngoài. Singapore chiếm tới gần 69% đầu tư của ASEAN vào Việt Nam, song một phần khá lớn vốn đầu tư đó là của các công ty đa quốc gia có trụ sở tại Singapore đầu tư. b. Hạn chế về trình độ công nghệ Trừ Singapore , hiện tại các nước ASEAN khác cũng chỉ mới vừa hoàn thành giai đoạn đầu công nghiệp hóa, nên trình độ công nghệ của họ cũng tương đối hạn chế. Bản thân họ cũng đang tìm cách thu hút công nghệ cao từ các nước phát triển thông qua FDI vào nước họ. Do đó, các nước ASEAN khó có khả năng đầu tư ra nước ngoài vào các lĩnh vực sản xuất có hàm lượng công nghệ cao, chẳng hạn công nghiệp chế tạo điện tử, hóa chất, cơ khí chính xác. Các nước ASEAN hiện nay chủ yếu đầu tư vào các ngành không có hàm lượng công nghệ cao, như khách sạn, du lịch, lắp ráp, chế biến...Ngay cả Singapore là nước có trình độ phát triển cao nhất khu vực cũng chỉ đầu tư chủ yếu vào lĩnh vực xây dựng, khách sạn, du lịch (chiếm quá nửa tổng số vốn đầu tư). Do vậy, nếu coi công nghệ cao là một yếu tố quan trọng để đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế và tránh được nguy cơ tụt hậu, thì đầu tư của ASEAN không có hiệu quả kinh tế cao và khó có khả năng mang lại tính cạnh tranh cao cho hàng hóa. Điều mà ta mong đợi ở các dự án đầu tư của các nước ASEAN có lẽ chỉ là sự đóng góp nhất định vào tăng trưởng kinh tế trong thời gian hiện tại và tương lai trước mắt, chứ không phải là sự đóng góp trực tiếp vào hiện đại hóa đất nước và sự tăng trưởng dựa trên công nghệ cao. c. Hạn chế do sự giống nhau về lợi thế so sánh Điều thông thường là khi một nước có cùng lợi thế so sánh với một nước khác trong một ngành sản xuất nào đó thì nước thứ nhất sẽ tránh đầu tư vào ngành đó tại nước thứ hai, bởi nếu không thì sẽ có khả năng tạo ra đối thủ cạnh tranh cho chính mình trong lĩnh vực đó. Nghiên cứu về lợi thế so sánh của các nền kinh tế của các nước ASEAN một kết luận quan trọng là: trong các nước ASEAN, chỉ trừ nền kinh tế của Singapore và ở mức độ nhất định là nền kinh tế của Malaixia, là có tính bổ sung nhất định đối với kinh tế Việt Nam, còn các nước có trình độ phát triển thấp hơn của khối này như Thái Lan, Inđônêxia và Philippin hiện còn có nhiều ngành có lợi thế so sánh giống Việt Nam như sản xuất nông nghiệp, công nghiệp khai khoáng, một số ngành công nghiệp nhẹ...Một ví dụ điển hình là cả ba nước trên đều vẫn đang có lợi thế so sánh trong các ngành công nghiệp nhẹ sử dụng nhiều lao động như sản xuất dụng cụ thể thao-du lịch, may mặc, giày thể thao. Trong khi đây cũng là những ngành mà Việt Nam có lợi thế so sánh khá lớn. Do vậy, điều cũng dễ hiểu là các nước ASEAN sẽ không đầu tư vào các ngành đó trong giai đoạn hiện nay. Thực tế hiện nay, các nước NICs như Hàn Quốc, Đài Loan, Hồng Kông là những nước đầu tư nhiều nhất tại Việt Nam vào những ngành đó, là nơi họ đang mất dần lợi thế so sánh để chuyển sang các ngành công nghệ cao. Điều này hoàn toàn không mâu thuẫn với việc các nước đầu tư vào lĩnh vực mà nó chuyên môn hóa cao như đã nhận định ở phần trên vì đây là hai mặt của một vấn đề. Bởi vì thường một nước có trình độ chuyên môn hóa cao trong một lĩnh vực nào đó song đồng thời lại đang mất dần lợi thế so sánh trong lĩnh vực đó do chi phí và giá thành sản xuất trong nước tăng nhanh, sẽ có xu hướng đầu tư ra nước ngoài vào ngành đó. Đây cũng là một cách để nước đầu tư chuyển giao công nghệ tỏ ra không còn phù hợp, tạo điều kiện trang bị công nghệ mới. Kết quả xem xét đối với các nước đầu tư ASEAN đặt ra vấn đề là trong quá trình thu hút FDI, Việt Nam cần phải nắm được những điểm mạnh và cả những hạn chế từ phía các nhà đầu tư để có chiến lược và đối sách phù hợp. Việt Nam cần thu hút không chỉ lượng vốn đầu tư lớn hơn mà còn cả chất lượng đầu tư cao hơn từ Mỹ, Nhật Bản, các nước EC và các nước công nghiệp phát triển khác như úc, Canada...Những nước này, chỉ trừ Nhật Bản, hiện còn đầu tư một cách khá hạn chế vào Việt Nam. 5. các yếu tố xác định fdi vào Việt Nam FDI là một hoạt động kinh tế mà bản chất của nó là hoạt động đầu tư ra nước ngoài trên cơ sở khai thác lợi thế so sánh trong phân công lao động quốc tế nhằm tìm kiếm lợi nhuận cao ở phạm vi toàn cầu. Khối lượng FDI vào một nước phụ thuộc vào rất nhiều yếu tố trong đó có các yếu tố chủ quan và các yếu tố khách quan. Các yếu tố chủ quan là các lợi thế về tài nguyên thiên nhiên, nguyên nhiên vật liệu, sự phát triển của cơ sở hạ tầng, chi phí và hiệu quả lao động, quy mô và sự phát triển của thị trường, khả năng thu lợi nhuận, mức độ mở cửa của nền kinh tế, các chính sách đối với FDI của Chính phủ, sự ổn định môi trường kinh tế - chính trị của nước sở tại...Các nhân tố này có thể gọi là nhân tố “kéo” đối với FDI ở Việt Nam. Nước ta có vị trí địa lý chiến lược trong khu vực, thuận lợi cho các hoạt động kinh tế, trao đổi, buôn bán...Nguồn tài nguyên thiên nhiên của nước ta rất phong phú và đa dạng, bao gồm tài nguyên rừng, tài nguyên biển và khoáng sản. Trong những năm qua, nguồn thu từ xuất khẩu dầu khí đã là nguồn ngoại tệ quý báu của đất nước, chiếm tỷ lệ lớn trong tổng KNXK và có vai trò quan trọng đối với tăng trưởng kinh tế của nước ta. Chúng ta còn có nhiều nguồn tài nguyên chưa được khai thác và sử dụng có hiệu quả. Với dân số gần 80 triệu người, trong đó khoảng một nửa là trong độ tuổi lao động, Việt Nam có nguồn lao động tương đối dồi dào, chi phí về lao động rất thấp so với nhiều nước. Đồng thời, đây cũng là một thị trường lớn nhiều tiềm năng phát triển với sức mua ngày càng tăng. Chính sách đối với đầu tư nước ngoài của chúng ta ngày càng thông thoáng và cởi mở nhằm tạo mọi thuận lợi cho các nhà đầu tư nước vào hoạt động ở Việt Nam. Trong những năm qua, nước ta đã đảm bảo được một môi trường kinh tế - chính trị ổn định, tạo niềm tin cho các nhà đầu tư. Như vậy, các nhân tố “kéo” đã và đang giữ vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hút FDI vào Việt Nam. Kết quả điều tra 35 công ty australian đang hoạt động tại Việt Nam cho thấy triển vọng tăng trưởng cao và quy mô thị trường lớn là hai yếu tố quan trọng xác định FDI của australian. Kết quả này cũng ủng hộ quan điểm cho rằng chi phí lao động thấp và tài nguyên thiên nhiên phong phú là các nhân tố “kéo” có hiệu quả đối với FDI ở Việt Nam. Thang điểm được sử dụng là từ 1 đến 5, trong đó 1 là ít quan trọng và 5 là quan trọng nhất. Tuy nhiên, kết quả này mới chỉ là đánh giá của một nhà đầu tư, chúng ta có thể tham khảo để đưa ra các kết luận chung. Lý do đầu tư tại Việt Nam Điểm ***************************************************************************** Thiết lập sự có mặt lâu dài 4.6 Triển vọng tăng trưởng cao 4.2 Quy mô của thị trường Việt Nam 3.5 Sự vắng mặt các đối thủ cạnh tranh của Mỹ 3.1 Thiết lập cơ sở xuất khẩu sang các nước Châu á 2.6 Đi trước các đối thủ cạnh tranh 2.4 Chi phí lao động thấp 2.3 Tìm kiếm các nguồn nguyên liệu thô 2.3 Thiết lập cơ sở xuất khẩu sang Trung Quốc 1.4 Nguồn: Maitland, E., “Foreign Investors in VietNam: An Australian Case Study” Các nhân tố khách quan bao gồm các yếu tố thuộc về môi trường đầu tư quốc tế như tác động của quá trình phân công lao động quốc tế, tác động của cách mạng khoa học - kỹ thuật, xu thế nhất thể hóa nền kinh tế thế giới... và một yếu tố hết sức quan trọng, đó là năng lực và các quyết định của nhà đầu tư. Bên cạnh các ràng buộc về năng lực tài chính, trình độ công nghệ, việc đầu tư vào một quốc gia, một lĩnh vực phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm, tư duy kinh tế, khả năng nhìn nhận phán đoán và cách thức ra quyết định của các nhà đầu tư. Đây có thể xem như là các nhân tố "đẩy" đối với FDI vào Việt Nam. Trong bối cảnh quốc tế hiện nay, nước ta có được nhiều thuận lợi từ các nhân tố “đẩy” này. Dòng FDI đang ngày càng tăng lên một cách nhanh chóng trên toàn thế giới. Nước ta lại nằm trong khu vực kinh tế vào loại năng động nhất thế giới, thu hút được sự đầu tư mạnh mẽ của Nhật Bản, các nước công nghiệp mới Châu á và các nước ASEAN. Các mối quan hệ quốc tế ngày càng được mở rộng, cấm vận của Mỹ được bãi bỏ, nước ta tham gia ngày càng nhiều hơn vào các tổ chức kinh tế thế giới và hệ thống phân công lao động quốc tế . Các nhân tố “kéo” cũng như các nhân tố “đẩy” như phân tích ở trên hầu hết là các yếu tố không thể lượng hóa được do đó rất khó có thể đưa ra một phân tích định lượng về các yếu tố xác định khối lượng FDI vào một quốc gia nói chung và Việt Nam nói riêng. Ta sẽ đi phân tích cụ thể hơn về các nhân tố “đẩy”. Trong phần trên, ta đã phân tích và chỉ ra rằng, trình độ phát triển kinh tế (trong đó tiêu chí quan trọng là GDP/ người) và mức độ dư thừa tư bản (có thể đại diện bằng lượng dự trữ ngoại tệ) là những yếu tố có ảnh hưởng đến việc xác định khối lượng FDI của các nước ASEAN ở Việt Nam. Ta sẽ mở rộng sự xem xét cho một số nước chủ đầu tư ở các khu vực khác. Tuy nhiên, chúng ta không có được số liệu về mức dự trữ ngoại tệ của các nước, ta sẽ thay thế bằng số liệu về tổng lượng dự trữ. Ta thấy rằng phần lớn lượng FDI tại Việt Nam là của các nhà đầu tư Châu á. Trong tổng số vốn đầu tư của 12 nước đầu tư lớn nhất thì có tới trên 70% là thuộc các nước Châu á. Điều đó chứng tỏ môi trường đầu tư của Việt Nam hiện đang thu hút được sự quan tâm của các nhà đầu tư Châu á. Và trình độ, điều kiện, khả năng của các nhà đầu tư Châu á cũng phù hợp với điều kiện, yêu cầu phát triển của Việt Nam trong thời gian qua. Các nhà đầu tư Châu á còn có thuận lợi hơn các nhà đầu tư khác ở sự gần gũi về vị trí địa lý, sự tương đồng về các điều kiện tự nhiên, bản sắc văn hóa, phong cách kinh doanh..., do đó giảm được nhiều khoản chi phí trong hoạt động đầu tư. Như vậy, sẽ có sự khác biệt về khối lượng đầu tư vào Việt Nam giữa các nhà đầu tư Châu á với các nhà đầu tư khác. Để phân biệt trình độ phát triển kinh tế của các nước, ta sẽ chia các nhà đầu tư thành 3 nhóm theo sự phân chia của UNCTAD năm 1997: thu nhập cao, thu nhập trung bình, thu nhập thấp. Nước thu nhập cao là nước có GDP/ người trên 3500 USD, nước thu nhập trong bình là nước có GDP/ người trên 700 USD và dưới 3500 USD và nước có thu nhập thấp là nước có GDP/ người dưới 700 USD. Ngoài ra ta thấy lượng FDI vào Việt Nam của mỗi chủ đầu tư sẽ phụ thuộc chặt chẽ vào tổng lượng đầu tư ra bên ngoài của nước đó. Với các số liệu có được, ta đi xem xét mô hình sau: LnFDIi = a1 + a2.LnODIi + a3.D1i + a4.D2i + a5.D3i + a6.LnS + ei Trong đó : FDIi - Lượng FDI của nước đầu tư i tại Việt Nam. ODI - Lượng đầu tư ra ngoài của nước đầu tư i D1i - Biến giả, nhận giá trị bằng 1 nếu nước đầu tư ở Châu á D2i - Biến giả, nhận giá trị bằng 1 nếu nước đầu tư có thu nhập trung bình. D3i - Biến giả, nhận giá trị bằng 1 nếu nước đầu tư có thu nhập cao. Si - Tổng lượng dự trữ của nước đầu tư i. Do có nhiều hạn chế nên các số liệu sử dụng trong mô hình chỉ mới có đến năm 1995 và chỉ có của 28 nước. Qua hồi quy thử nghiệm ta thấy Si hầu như không có tác động đến biến FDIi, điều này có thể giải thích là do lượng dự trữ ngoại tệ và tổng lượng dự trữ có vai trò hoàn toàn khác nhau trong việc tác động đến khối lượng vốn đầu tư ra bên ngoài của một nước. Kết quả ước lượng mô hình cho ta phương trình hồi quy mẫu: LnFDI = -2,9714 + 0,55962 ´ LnODI + 2,6074 ´ D1 + 3,134 ´ D2 + 2,8936 ´ D3 Ta thấy, các kiểm định cho thấy kết quả ước lượng mô hình có thể chấp nhận được. Từ mô hình ta có nhận xét sau: dòng FDI vào Việt Nam tăng lên với tỷ lệ nhỏ hơn so với tỷ lệ trung bình trên toàn thế giới trong điều kiện các yếu tố khác không đổi, yếu tố vị trí địa lý dường như có ý nghĩa trong xác định FDI. Các nhà đầu tư sẽ đầu tư nhiều hơn ở những nơi họ có thể tối thiểu hóa các chi phí vận chuyển, giao dịch và tương đồng về văn hóa, phong tục tập quán...nếu các yếu tố khác là như nhau, có mối quan hệ giữa trình độ phát triển kinh tế với lượng vốn đầu tư ra nước ngoài. Các nước có thu nhập cao và thu nhập trung bình sẽ thực hiện đầu tư ra ngoài nhiều hơn so với các nước có thu nhập thấp. Tuy nhiên, ta cũng thấy rằng, do các nhân tố “đẩy” đối với FDI vào Việt Nam hầu hết là không thể lượng hóa, do đó các yếu tố trong mô hình mới chỉ giải thích được một phần sự khác nhau về lượng vốn đầu tư giữa các nhà đầu tư. Như vậy, trong những năm qua, cả nhân tố “đẩy” và nhân tố “kéo” đều có tác động rất tích cực đối với việc gia tăng dòng FDI vào Việt Nam. Chúng ta cần kết hợp khai thác cả hai nhóm nhân tố này để thu hút có hiệu quả hơn nguồn vốn FDI. Tuy nhiên, cũng cần phải thấy rằng các ưu thế về tài nguyên thiên nhiên, chi phí lao động sẽ dần mất đi. Do đó, chính phủ cần phải có các biện pháp chủ động hơn nữa trong việc tạo ra một môi trường đầu tư hấp dẫn để thu hút các nhà đầu tư nước ngoài, đáp ứng đủ nhu cầu về vốn cho nền kinh tế. Qua đây, ta cũng thấy rằng việc đưa ra một mô hình để từ đó có thể đánh giá được chính xác tầm quan trọng và mức độ ảnh hưởng của các yếu tố trong việc xác định khối lượng FDI vào Việt Nam là một việc hết sức khó khăn và khó có thể thực hiện được. Kết quả phân tích ở các phần trên chỉ ra một điều rằng, để lý giải cho sự biến động của dòng vốn FDI vào Việt Nam thì việc xem xét các yếu tố nội tại nền kinh tế và bối cảnh quốc tế chung là chưa đủ mà phải tìm nguyên nhân từ chính các nhà đầu tư, phải nắm được chiến lược và tình hình thực hiện đầu tư của nhà đầu tư ở các quốc gia khác nhau, ở các lĩnh vực khác nhau, bởi vì mục tiêu của các nhà đầu tư là tối đa hoá lợi nhuận và chiến lược của họ là chiến lược toàn cầu. Sự chững lại và suy giảm của dòng FDI vào Việt Nam những năm vừa qua đã làm cho rất nhiều các phân tích và dự báo trước đây mất đi tính thuyết phục và độ tin cậy. Điều đó nói lên rằng việc sử dụng các công cụ toán vào phân tích kinh tế cần phải hết sức thận trọng và đòi hỏi phải có tư duy kinh tế rất vững vàng, nhạy bén. Chương Iii Những giải pháp huy động vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài đáp ứng yêu cầu phát triển i. một số vướng mắc và yếu kém trong thu hút và sử dụng vốn FDI thời gian vừa qua Hoạt động của đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian qua đã thực sự có tác động tích cực, có vị trí quan trọng, góp phần làm chuyển biến nền kinh tế Việt Nam theo hướng công nghiệp hóa, hiện đại hóa. ảnh hưởng tích cực của loại hình hoạt động kinh tế này đang ngày càng rõ nét và lan rộng trên nhiều mặt của đời sống kinh tế xã hội nước ta. Tuy vậy, không thể bất cứ ở đâu, thời gian nào hoạt động đầu tư nước ngoài cũng đưa lại những kết quả như mong muốn và nếu so với mục tiêu mà chúng ta đề ra cho đầu tư trực tiếp nước thì đâu phải dự án nào cũng đạt được. Điều này là khó tránh khỏi đối với chúng ta trong giai đoạn đầu của lĩnh vực hoàn toàn mới mẻ, vừa làm vừa học này. Giai đoạn từ nay đến năm 2010 là thời kỳ mà nhu cầu thu hút vốn đầu tư nước ngoài cho tăng trưởng và phát triển kinh tế còn rất lớn. Do đó chúng ta cần nghiêm túc nhìn nhận thực trạng hiện nay của đầu tư trực tiếp nước ngoài, đánh giá đúng những mặt được và chưa được trong quá trình thu hút và sử dụng vốn FDI ở Việt Nam, từ đó rút ra những bài học kinh nghiệm cho giai đoạn tiếp theo. Những hạn chế của môi trường đầu tư đã được đề cập trong phần xem xét sự sụt giảm của dòng vốn FDI vào Việt Nam. ở đây ta chỉ khái quát lại một số vướng mắc và yếu kém còn tồn tại để làm cơ sở cho việc đề ra các giải pháp thu hút và sử dụng hiệu quả nguồn vốn FDI trong thời gian sắp tới. 1. Những vướng mắc về mặt cơ chế, chính sách Trên nhiều vấn đề cụ thể liên quan tới FDI còn sự khác nhau về đánh giá và cách xử lý: hình thức đầu tư, đối tác đầu tư, tỷ lệ góp vốn của doanh nghiệp Việt Nam, quy mô phát triển các khu công nghiệp, v.v...Điều đó, trong một số trường hợp dẫn tới lúng túng và chậm chễ trong cách xử lý, điều hành, làm bỏ lỡ cơ hội thu hút vốn đầu tư, làm xấu thêm môi trường đầu tư . Hệ thống luật pháp, chính sách chưa đảm bảo tính rõ ràng và dự đoán trước được. Việc thực thi luật pháp, chính sách không nhất quán, tuỳ tiện. Tính ổn định của luật pháp, chính sách chưa cao, nhiều trường hợp làm đảo lộn các phương án kinh doanh của nhà đầu tư. Việc áp dụng một số chính sách thuế gần đây làm tăng chi phí sản xuất của một số ngành hàng, tăng giá bán sản phẩm dẫn đến tiêu thụ giảm đi và thị trường bị co hẹp. Công tác quản lý Nhà nước đối với FDI còn nhiều bất cập, vừa buông lỏng, vừa gây phiền hà, can thiệp sâu vào hoạt động của doanh nghiệp. Trong lĩnh vực này phải nói rằng kiểm tra thì nhiều nhưng chất lượng không đạt yêu cầu vì cán bộ kiểm tra chưa đủ trình độ phát hiện những vi phạm của đơn vị, đặc biệt về lĩnh vực tài chính, về giá xuất nhập khẩu nguyên liệu, giá xuất khẩu thành phẩm đích thực. Trong một thời gian dài các cơ quan quản lý Nhà nước qua tập trung vào khâu cấp phép đầu tư, buông lỏng khâu quản lý sau giấy phép; chưa quan tâm đúng mức đến việc giải quyết dứt điểm và nhanh chóng các vấn dề phát sinh, tháo gỡ khó khăn cho doanh nghiệp. Việc quản lý giá đầu vào và đầu ra còn nhiều bất cập làm ảnh hưởng tới lợi ích của doanh nghiệp cũng như của Nhà nước Việt Nam. Sự phối hợp giữa các cơ quan quản lý Nhà nước còn chưa chặt chẽ, việc quản lý sau cấp phép chậm được cải tiến, nhất là đất đai, hải quan, xuất nhập khẩu, thủ tục hành chính còn phiền hà, cấp dưới thực thi pháp luật và các chính sách, chủ trương của Nhà nước thiếu nghiêm túc đã làm nản lòng các nhà đầu tư nước ngoài. 2. Yếu kém về công trình kết cấu hạ tầng Kinh nghiệm của các nước trong khu vực cho thấy, cơ sở hạ tầng có vai trò đặc biệt quan trọng trong việc thu hút FDI nhất là ở những nơi ít có lợi thế về vị trí địa lý, tài nguyên thiên nhiên, lao động. Đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng đòi hỏi nguồn vốn lớn. Đảng và Nhà nước ta đã giành 50-60% tổng vốn đầu tư và hầu hết nguồn vốn ODA để xây dựng cơ sở hạ tầng. Tuy nhiên, nhìn tổng thể, cơ sở hạ tầng kinh tế- kỹ thuật-xã hội và môi trường của Việt Nam còn thấp kém và lạc hậu. Mặc dù áp dụng chính sách ưu đãi về tiền thuê đất và thuế lợi tức nhưng do phải bỏ nhiều chi phí cho các công trình ngoài hàng rào, hoặc chi phí vận chuyển hàng xuất khẩu bằng container đến cảng cửa khẩu khá xa...nên vô hình trung đã triệt tiêu các ưu đãi này. Cơ sở hạ tầng yếu kém sẽ không tạo được sự hấp dẫn thu hút FDI trong thời gian tới. 3. Yếu kém về quy hoạch sử dụng đất, quy hoạch ngành kinh tế - kỹ thuật Hiện nay đã có nhiều KCN được thành lập. Tuy nhiên cả các KCN đã đi vào hoạt động hoặc đang tiến hành xây dựng, việc quy hoạch chi tiết rất chậm, khiến các nhà đầu tư nước ngoài rất bị động trong việc chọn địa điểm đầu tư. Cả nước cũng như từng ngành, từng địa phương thực sự chưa có quy hoạch cụ thể về hợp tác đầu tư nước ngoài trên cơ sở và trong khuôn khổ quy hoạch tổng thể. Do phạm vi lĩnh vực được khuyến khích đầu tư rộng nên có nơi có lúc cơ cấu đầu tư thiếu sự phù hợp với cơ cấu sản xuất và thị trường. Cơ cấu đầu tư còn thể hiện một mặt là sự manh mún, dàn trải của một số ngành trên nhiều địa phương với mục tiêu thúc đẩy CNH, mặt khác lại quá tập trung nhiều ngành, lĩnh vực vào một số địa phương. Các ngành, các địa phương, các cơ sở kinh doanh chưa có sự phối hợp chặt chẽ trong công tác vận động đầu tư dẫn tới tranh giành dự án hoặc triển khai quá nhiều dự án không có nhu cầu nhiều về số lượng, làm thị trường các sản phẩm này nhanh chóng bị bão hòa. Do quy hoạch và dự báo thiếu chuẩn xác nên đã cấp phép đầu tư sản xuất một số sản phẩm vượt quá nhu cầu như ô tô, khách sạn, bia, nước ngọt có ga..Việc cấp phép trong những năm đầu thiên về dự án thay thế nhập khẩu, tiêu thụ sản phẩm trong nước nên dẫn tới tình trạng cạnh tranh mạnh với sản phẩm của doanh nghiệp trong nước. 4. Yếu kém về cung ứng lao động cho các doanh nghiệp FDI Mặc dù Việt Nam có một lực lượng lao động dồi dào và có thể cung ứng cho các doanh nghiệp FDI và các doanh nghiệp khác đến 1,5 triệu người mỗi năm, nhưng đến nay, lực lượng lao động của ta vẫn bộc lộ nhiều yếu kém. Số công nhân lành nghề rất hiếm. Việc tuyển một công nhân có tay nghề cao tại địa bàn Hà Nội khó khăn hơn nhiều việc tuyển một sinh viên tốt nghiệp đại học. Có những doanh nghiệp FDI thuộc ngành cơ khí không tuyển nổi 1 công nhân kỹ thuật dưới 30 tuổi có tay nghề bậc 5. Hầu hết lao động trực tiếp của các doanh nghiệp FDI đều tuyển từ các vùng nông thôn, chưa qua đào tạo. Các nhà quản lý nước ngoài đều có đánh giá chung là lao động Việt Nam tuy chịu khó và cần cù nhưng kinh nghiệm nghề nghiệp ít, không có tác phong công nghiệp cho nên năng suất lao động rất thấp. 5. Khó khăn về cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI Ngân hàng Nhà nước chỉ cân đối ngoại tệ cho các doanh nghiệp FDI hoạt động trong lĩnh vực xây dựng và kinh doanh các công trình kết cấu hạ tầng hoặc sản xuất hàng thay thế hàng nhập khẩu thiết yếu. Trong điều kiện Nhà nước và doanh nghiệp đều thiếu ngoại tệ thì quy định trên là phù hợp với tình hình thực tiễn. Tuy nhiên, điều đó gây khó khăn cho các doanh nghiệp FDI cân đối ngoại tệ để nhập khẩu nguyên vật liệu, trả nợ gốc, lãi vay nước ngoài...không đảm bảo cho các doanh nghiệp hoạt động bình thường và cản trở việc tiếp tục huy động nguồn vốn FDI. Đi đôi với việc xem xét những mặt tồn tại, trong ta cũng cần phải chú ý học hỏi kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn FDI của các nước khác, đặc biệt là các nước trong khu vực. Trong xu thế liên kết và hòa nhập nền kinh tế thế giới thành một chỉnh thể thống nhất, hầu hết các nước trên thế giới đều tham gia ngày càng tích cực vào quá trình phân công lao động quốc tế. Trong số các hoạt động kinh tế đối ngoại, đầu tư trực tiếp nước ngoài là một hoạt động có vị trí và vai trò ngày càng lớn và được nhiều quốc gia sử dụng như một chính sách kinh tế quan trọng và lâu dài. Bằng các biện pháp và chính sách thích hợp, nhiều nước đang phát triển đã thu được những thành công to lớn trong việc khai thác và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài. Nghiên cứu những kinh nghiệm thu hút và sử dụng đầu tư trực tiếp nước ngoài của các nước trên thế giới, đặc biệt là các nước ở Đông Nam á và Nam á có ý nghĩa quan trọng đối với chúng ta. Tuy nhiên, kinh nghiệm thu hút và sử dụng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài xuất phát từ đặc thù của mỗi nước. Mỗi một hình thức sử dụng vốn bên ngoài có tác dụng hiệu quả đến mục tiêu tăng trưởng kinh tế và phù hợp với cách lựa chọn của mỗi nước. Không thể có sự sao chép và áp dụng máy móc phương pháp của một nước này cho một nước khác. Chúng ta phải bằng mọi cách khắc phục triệt để những tồn tại và hạn chế nêu trên thì mới có thể khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. iI. Xác định nhu cầu vốn FDI cho nền kinh tế Việt Nam giai đoạn từ nay đến năm 2005 1. Hiệu quả đầu tư và thực trạng hệ số ICOR ở nước ta ICOR là chỉ tiêu tổng hợp cho phép đánh giá hiệu quả đầu tư của một nền kinh tế, được tính toán trên cơ sở so sánh đầu tư với mức tăng trưởng kinh tế hàng năm. Theo cách tính thông thường và đơn giản nhất, ICOR bằng tỷ lệ đầu tư toàn xã hội so với GDP chia cho tốc độ tăng trưởng kinh tế hàng năm. Về phương diện lý thuyết, khi hệ số ICOR càng thấp, chứng tỏ nền kinh tế càng có hiệu quả, vốn đầu tư bỏ ra tuy ít nhưng tăng trưởng kinh tế đã đạt mức cao theo mong muốn. Tuy nhiên, trên thực tế, ICOR còn phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác như nền kinh tế đang ở giai đoạn phát triển nào, đã công nghiệp hóa chưa, đó là nền kinh tế “mở” hay “đóng”, mức độ tác động của bối cảnh quốc tế ra sao, chất lượng quản lý Nhà nướctrong đầu tư cao hay thấp, thực trạng tham nhũng trong đầu tư nhiều hay ít... Đối với những nền kinh tế đang ở giai đoạn CNH-HĐH, thông thường, một hệ số ICOR ở mức cao nhưng thấp hơn 10 phản ánh thực tế đã có sự tùy tiện trong khâu lựa chọn dự án và quyết định đầu tư, thiếu những tính toán cụ thể về khả năng sinh lời hoặc khả năng hoàn vốn của dự án, vấp phải các vấn đề về thị trường tiêu thụ sản phẩm đầu ra, nguyên vật liệu đầu vào, giá cả, sức cạnh tranh...Khi phê duyệt còn nặng về quy mô hình thức, thiên về lợi ích trước mắt, chưa quan tâm thực sự đến hiệu quả và lợi ích lâu dài của các dự án đầu tư. Khai thác hệ quả công thức tính ICOR, người ta có thể dự báo được tiềm năng tăng trưởng kinh tế và dự báo tổng mức vốn đầu tư cần thiết cho một giai đoạn phát triển. Tuy nhiên, khi dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư của nền kinh tế thông qua hệ số ICOR cần tôn trọng phép biện chứng và nguyên tắc thận trọng. Trong giai đoạn 2001-2005, với giả định hệ số ICOR bình quân từ 4 đến 4,5; để thực hiện được mục tiêu tăng trưởng kinh tế trên 7% năm, tổng vốn đầu tư cần thiết được tính bằng tích giữa ICOR (4 hoặc 4,5) với tốc độ tăng trưởng kinh tế (7%), đưa tỷ suất đầu tư bình quân đạt từ 28% đến 31,5% GDP. Tính ra, nhu cầu vốn đầu tư cần thiết cho cả 5 năm 2001-2005 dao động trong khoảng từ 765 nghìn tỷ đồng đến 860 nghìn tỷ đồng, tương đương khảng 55 đến 61 tỷ USD theo giá cố định năm 2000. Về mặt toán học, các tính toán này không sai nhưng xét về kinh tế học, dự báo tổng nhu cầu vốn đầu tư nói trên dựa trên cơ sở 2 số liệu dự báo sẽ chỉ cho ra kết quả đáng tin cậy khi các số liệu dự báo đó (ICOR và tăng trưởng kinh tế) có độ tin cậy cao. Hệ số ICOR của Việt Nam thời gian qua Năm 1991 1992 1993 1994 1995 1996 1997 1998 1999 2000 ICOR 3.0 2.6 3.7 3.4 3.1 3.1 3.8 4.7 5.5 4 Nguồn : Thời báo kinh tế Việt Nam 2000-2001 Tình hình đầu tư những năm qua cho thấy có một sự phù hợp khá chặt chẽ giữa đầu tư và kết quả tăng trưởng theo mô hình phát triển kinh tế theo chiều rộng, thiên về số lượng. Khi lựa chọn và quyết định đầu tư, hầu như ta chỉ tập trung vào các dự án lớn, vốn nhiều, ít chú ý đến khả năng sinh lời và khả năng hoàn trả vốn đầu tư của từng dự án, chưa coi trọng mức độ hiện đại của công nghệ, chưa quan tâm tới kết cấu ngành và kết cấu kỹ thuật của vốn đầu tư. Phân tích tác động của các yếu tố tới tăng trưởng kinh tế Việt Nam trong thời gian qua cho thấy nguồn vốn đóng vai trò chủ yếu, yếu tố tiến bộ khoa học công nghệ đóng góp vào tăng trưởng khoảng 1,1%-1,2%, bằng mức của Nhật Bản những năm 1960-1970, và giống như mức của Malaixia (1,1%), Singapore (1,2%), và Inđônêxia (1,25%) trong thập kỷ 80 và những năm đầu thập kỷ 90. Dưới đây là số liệu về tốc độ tăng trưởng các yếu tố của kinh tế Việt Nam giai đoạn 1987-1995 do tổ chức phát triển công nghiệp Liên hợp quốc (UNIDO) tính toán năm 1996: Năm Tốc độ tăng trưởng (%) GDP Lao động Vốn Năng suất 1987 2.4 2.1 3.1 -0.1 1988 6.0 1.8 2.5 3.9 1989 8.0 1.6 5.2 5.0 1990 5.1 4.7 3.5 0.9 1991 6.0 2.2 4.8 2.7 1992 8.7 2.7 8.0 3.8 1993 8.1 2.8 10.4 2.2 1994 8.9 2.9 16.3 0.5 1995 9.5 2.7 15.4 1.6 Đối với các nước khác nhau và ở các giai đoạn phát triển khác nhau, việc tăng trưởng của các yếu tố vốn, lao động, tiến bộ khoa học công nghệ có tác động đến tăng trưởng chung của nền kinh tế không giống nhau. Mô hình hóa mối quan hệ giữa tăng trưởng các yếu tố với tăng trưởng của nền kinh tế nước ta giai đoạn 1987-1995 ta được kết quả dưới đây: Gr(G) = - 0,003 + 0,593´ Gr(L) + 0,41´Gr(C) + 0,996 ´ Gr(P) Trong đó: Gr(G), Gr(L), Gr(C), Gr(P) lần lượt là tốc độ tăng trưởng GDP, lao động, vốn và năng suất lao động. Kết quả trên cho thấy trong giai đoạn 1987-1995, khi các yếu tố khác không đổi, lao động tăng 1% sẽ làm GDP tăng 0,593%; khi vốn tăng 1% thì GDP tăng 0,41% và khi năng suất lao động tăng lên 1% sẽ làm cho GDP tăng 0,996%. Ta thấy rằng khi cùng tăng lên 1% thì sự tăng lên của năng suất và lao động có ý nghĩa lớn hơn đối với tăng trưởng chung của nền kinh tế so với yếu tố vốn. Tuy nhiên, trong giai đoạn 1987-1995, sự tăng trưởng kinh tế chủ yếu là do sự tăng trưởng của vốn (45%), tăng năng suất lao động đóng góp 33% và tăng lao động đóng góp 22%. Vốn đầu tư tăng trưởng khá nhanh trong giai đoạn 1991-1997. Tính theo giá 1995, vốn đầu tư năm 1997 gấp 3,6 lần năm 1991, tăng bình quân 24% năm. Vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài tăng 10,5 lần trong cùng thời gian trên. Số liệu 1991-2000 cho một cơ cấu đầu tư toàn xã hội như sau: Đầu tư cho nông lâm ngư nghiệp : 10,37% tổng vốn đầu tư. Đầu tư cho công nghiệp, xây dựng : 41,85% tổng vốn đầu tư. Đầu tư cho dịch vụ : 47,78% tổng vốn đầu tư, trong đó 15,14% cho giao thông, bưu điện, kho bãi. Do việc đánh giá vốn đầu tư toàn xã hội khác nhau nên việc ước tính hệ số ICOR gặp nhiều khó khăn và có điểm chưa thống nhất. Tuy vậy, có thể thấy rằng những năm gần đây để làm thêm ra một đồng GDP số vốn đầu tư ngày càng nhiều lên, ước tính chung cho cả giai đoạn 1996-2000 con số này là trên bốn (tương ứng tỷ trọng đầu tư trên GDP ở mức bình quân 27,5% và nhịp tăng trưởng GDP là 6,8% bình quân năm), nghĩa là để tăng thêm một đồng GDP cần hơn 4 đồng vốn đầu tư. Thực trạng đầu tư, tăng trưởng và hệ số ICOR phản ánh sát thực mô hình kinh tế thiên về số lượng, cơ cấu kinh tế chứa đựng nhiều yếu tố không bền vững, mất cân đối, cần được xử lý; nền kinh tế đòi hỏi những biện pháp cụ thể, dứt khóat nhằm hạ thấp hệ số ICOR thông qua việc đổi mới thực sự cơ cấu đầu tư, tiến tới một sự chuyển dịch rõ nét trong cơ cấu kinh tế, đẩy mạnh tốc độ tăng trưởng của nền kinh tế. Mục tiêu phát triển kinh tế xã hội của Đảng và Nhà nướcta trong giai đoạn tới, làm sao trong giai đoạn chiến lược 2001-2010, ta chỉ cần khoảng 4 - 4,5 đồng vốn đầu tư để tạo ra 1 đồng tăng trưởng GDP. Đây là một hệ số hợp lý, có thể chấp nhận được, đảm bảo tăng trưởng nhanh và bền vững, tạo điều kiện thu hẹp khoảng cách tụt hậu so với thế giới. 2. Mục tiêu và định hướng phát triển của nền kinh tế Với những cách tiếp cận khác nhau, dưới những tiền đề khác nhau về điểm xuất phát năm 2000 của Việt Nam, mức tăng trưởng GDP bình quân năm của các giai đoạn 2001-2010 co giãn trong một khoảng khá rộng tùy thuộc vào các yếu tố nội lực và bối cảnh quốc tế. Để tính toán cho các nước đang phát triển, các chuyên gia quốc tế thường ước tính đối với các yếu tố đầu vào: vốn đóng vai trò lớn hơn, từ 60%-70%, lao động đóng góp 30-40%. Khảo sát tình hình tăng trưởng của các nước khu vực trong vòng 30 năm qua cho thấy có thể lấy mức đóng góp của lao động là 35%, của vốn 65% và TFP trong khoảng từ 2% đến 2,5% để mô phỏng cho Việt Nam. Kết quả mô phỏng cho thấy về trung bình mức tăng trưởng 7%-8% năm cho giai đoạn 2001-2010 đối với Việt Nam có thể coi là mức cơ sở. Dựa trên các kết quả phân tích, đánh giá đó Đảng và Nhà nước đã xác định phương án tăng trưởng cho nền kinh tế đến 2010 với giả thiết hết năm 2000 đất nước ta về cơ bản đã chặn được đà suy giảm tăng trưởng; trong giai đoạn đầu đến 2005 các yếu tố nội lực được phát huy tốt, các yếu tố ngoại lực ở mức trung bình (tương ứng với mức tăng trưởng vốn cố định khoảng 7% bình quân năm, thu hút lao động thêm vào các ngành kinh tế quốc dân khoảng 2,5% năm và đóng góp của khoa học công nghệ vào tăng trưởng khoảng 1,8%), việc thực hiện các thoả thuận AFTA vào năm 2006 có thể hạn chế mức tăng trưởng đến 2010. Nhờ chuyển dịch cơ cấu đầu tư nên hiệu quả vốn tăng dần. Theo phương án này, trong giai đoạn 2001-2005 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm ở mức 7,0%-7,5%. Trong đó, nông nghiệp 3,3%-3,6%, công nghiệp và xây dựng tăng 9%-10%, dịch vụ tăng 6,3%-6,7%. Giai đoạn 2006-2010 tốc độ tăng trưởng GDP bình quân năm đạt 7%-7,5%, trong đó, nông lâm ngư nghiệp tăng 3,2% - 3,4%, công nghiệp và xây dựng tăng 9,5%-10%, dịch vụ tăng 6,4%-6,8%. Với tốc độ tăng trưởng như trên, đến năm 2005 tỷ trọng các ngành nông lâm ngư nghiệp, công nghiệp và xây dựng, dịch vụ trong GDP tương ứng là 21% - 36,9% - 42,1% và đến 2010 là 17,3% - 39,6% - 43,2%. Để tăng gấp đôi GDP trong khoảng 10 năm đòi hỏi một nhịp tăng trưởng bình quân năm khoảng 7,2% trong cả giai đoạn 2001-2010. Để đạt được mục tiêu tăng trưởng đã đề ra, Đảng và Nhà nước ta xác định phải huy động được vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài khoảng 10-12 tỷ USD cho giai đoạn 2001-2005 và 14-16 tỷ USD giai đoạn 2006-2010. Đây là một nhiệm vụ hết sức khó khăn nhất là trong điều kiện nước ta đang phải chịu ảnh hưởng của khủng hoảng tài chính-tiền tệ khu vực và dòng vốn đầu tư nước ngoài có xu hướng giảm xuống trong những năm gần đây. Xét về mặt lâu dài, luồng FDI vào Châu á nói chung và vào Việt Nam nói riêng chịu ảnh hưởng của hai yếu tố: sự cạnh tranh của khu vực với bên ngoài và sự cạnh tranh giữa các nước trong khu vực. Với tư cách là nước nhận đầu tư, các nước ASEAN, Trung Quốc và Việt Nam là những đối thủ cạnh tranh nhau. Do có lợi thế so sánh gần giống nhau nên trong chiến lược phát triển kinh tế của mình, các nước này có xu hướng bố trí cơ cấu kinh tế giống nhau với các đặc trưng chủ yếu là các ngành có hàm lượng lao động sống và nguyên liệu cao (khai thác tài nguyên thiên nhiên, công nghiệp hàng tiêu dùng, lắp ráp điện tử...), vì vậy tính chất cạnh tranh trong thu hút đầu tư giữa các nước này là rất lớn, khả năng hấp dẫn đầu tư của các thành viên cộng đồng hoàn toàn tuỳ thuộc vào chính sách và môi trường đầu tư của từng nước. Những nước thu hút đầu tư lớn như Trung Quốc, ấn Độ, Inđônêxia và những nước mới bắt đầu tiếp nhận đầu tư như Mianma, Pakixtan...đang trở thành những đối thủ cạnh tranh gay gắt với Việt Nam trong thu hút FDI. Họ không ngừng cải thiện môi trường đầu tư để nâng cao khả năng cạnh tranh thu hút FDI, làm cho nguồn vốn này vốn dĩ đã không tăng, nay lại bị dàn trải nhiều hơn trong bản đồ FDI thế giới. Chính điều đó có ảnh hưởng rất lớn đối với việc thu hút FDI của Việt Nam trong những năm qua, và ắt hẳn sẽ còn tác động lâu dài trong những năm tới. Những xu hướng vận động của các luồng FDI và khả năng tận dụng cơ hội thu hút FDI của Việt Nam trong những năm tới đến mức nào trước hết phụ thuộc vào chính sách, môi trường kinh doanh của đất nước và bối cảnh phát triển hợp tác khu vực. Khó có thể có được dự báo chắc chắn về khả năng thu hút FDI của Việt Nam trong những năm tới. Từ những phân tích trên đây chỉ ra rằng một triển vọng khả quan về FDI khó có thể trở thành hiện thực nếu Việt Nam không nâng cao hiệu quả và sức cạnh tranh của nền kinh tế trước sức ép của những biến động kinh tế bất thường khu vực và thế giới. Tuy nhiên, nếu có những giải pháp đúng đắn và đồng bộ, chúng ta hoàn toàn có khả năng đạt được mục tiêu này. Sự ổn định chính trị - xã hội cùng với chính sách nhất quán và lâu dài của Việt Nam trong hội nhập với khu vực và thế giới và những lợi thế vốn có về tài nguyên, con người sẽ vẫn là những thế mạnh của môi trường đầu tư Việt Nam. IIi. Giải pháp huy động và sử dụng hiệu quả vốn fdi đáp ứng yêu cầu phát triển của nền kinh tế Trên cơ sở phân tích những thuận lợi, khó khăn và dựa vào kế hoạch phát triển kinh tế - xã hội 5 năm 2001-2005, các chuyên gia quản lý đầu tư nước dự kiến vốn thực hiện của các dự án đầu tư nước ngoài trong 5 năm tới sẽ có nhu cầu khoảng trên 11 tỷ USD (theo giá năm 2000), chiếm khoảng 18-20% vốn đầu tư toàn xã hội. Trong đó, vốn thực hiện từ các dự án đã cấp phép trước năm 2001 sẽ tiếp tục triển khai (khoảng 4-5 tỷ USD), từ các dự án hoạt động hiệu quả sẽ tăng vốn (khoảng 2 tỷ USD) và vốn thực hiện của các dự án cấp mới (khoảng 4-5 tỷ USD). Để thực hiện được nhiệm vụ này và nâng cao hiệu quả hoạt động trong lĩnh vực đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế lâu dài của đất nước theo hướng CNH-HĐH, từng bước hội nhập với khu vực và thế giới, cần phải nghiên cứu đề ra một hệ thống các giải pháp trước mắt và lâu dài đồng thời thực hiện các giải pháp đó một cách đồng bộ. Một trong những giải pháp hàng đầu đẩy mạnh công tác thu hút ĐTNN cho giai đoạn 2001-2005 là cần thống nhất nhận thức, xây dựng chiến lược là nâng cao chất lượng quy hoạch thu hút ĐTNN, coi việc quy hoạch ĐTNN như là một bộ phận trong quy hoạch tổng thể các nguồn lực nói chung của cả nước, gắn với quy hoạch ngành, lãnh thổ, từng sản phẩm, dịch vụ chủ yếu, kết hợp ngay từ đầu với an ninh, quốc phòng. Dưới đây sẽ xem xét cụ thể hơn: 1. Những giải pháp trước mắt Tiếp tục triển khai có hiệu quả Nghị định số 10/1998/NĐ-CP của Chính phủ về một số biện pháp khuyến khích và đảm bảo hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam vì trong nghị định này đã giải quyết nhiều vấn đề liên quan đến thủ tục triển khai dự án, cách đánh thuế XNK, thuế lợi tức, cụ thể hóa những ngành, những vùng ưu tiên, ưu đãi đầu tư...nhằm khuyến khích, tạo môi trường thuận lợi cho việc thu hút vốn FDI. Tạo mọi điều kiện thuận lợi để các dự án đã triển khai hoạt động mở rộng, tăng công suất hiện có, tránh cho phép đầu tư vào các ngành còn dư thừa năng lực Xử lý linh hoạt hơn nữa hình thức đầu tư, khuyến khích hình thức doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài đối với những dự án công nghệ cao, công nghệ mới; các dự án có quy mô vốn đầu tư lớn, thời gian hoàn vốn dài, độ rủi ro cao. Cho phép linh hoạt chuyển đổi hình thức đầu tư từ liên doanh thành doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài trong trường hợp thua lỗ kéo dài hoặc mâu thuẫn nghiêm trọng, có nguy cơ đổ vỡ hoặc đang hoạt động bình thường nhưng đối tác trong nước muốn rút vốn đầu tư vào dự án khác có hiệu quả hơn. Các văn bản pháp lý của Nhà nước liên quan đến hoạt động đầu tư FDI cần được dịch ra tiếng Anh ngay từ cấp ban hành và tổ chức thông tin công khai ở tất cả các cấp, các ngành, các đơn vị có liên quan để tránh sự diễn giải và áp dụng tùy tiện gây phiền nhiễu cho các nhà đầu tư nước ngoài. Tiếp tục thành lập các hiệp hội kinh doanh của giới doanh nhân các nước tại Việt Nam, duy trì thường xuyên các cuộc tiếp xúc, hội thảo giữa Chính phủ, cán bộ với các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài, xử lý kịp thời các vấn đề phát sinh trong quá trình sản xuất kinh doanh của họ. Thành lập một trung tâm đầu mối để giải quyết các vướng mắc có liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp có vốn FDI. Cần đổi mới và đẩy mạnh công tác vận động, xúc tiến đầu tư. Thực hiện giảm tiền thuê đất, đối với những vùng kinh tế khó khăn chỉ thu tiền thuê đất tượng trưng để giữ chủ quyền đất. Khuyến khích và ưu đãi hơn nữa các dự án đầu tư vào lĩnh vực nông-lâm-ngư nghiệp và đầu tư vào vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Cho phép các doanh nghiệp ngoài quốc doanh góp vốn liên doanh bằng quyền sử dụng đất. Tổ chức theo dõi, rà soát khâu tổ chức thực hiện luật như: hải quan, thuế, cơ quan quản lý đất.. chống quan liêu, cửa quyền, tránh sự phiền hà và chi phí cho các nhà đầu tư. Kiên quyết đấu tranh chống tham nhũng ở tất cả các khâu, các cấp. Xử lý nghiêm khắc những hiện tượng tham nhũng, làm trái với quy định pháp luật của các cán bộ thừa hành, góp phần làm trong sạch môi trường đầu tư. áp dụng các biện pháp mạnh mẽ, có hiệu quả để chống nạn buôn lậu, chống hàng giả, hàng nhái, chống gian lận thương mại... 2. Các biện pháp lâu dài Sớm xây dựng một hệ thống luật thống nhất và hoàn chỉnh, ban hành những luật còn thiếu, tạo môi trường pháp lý đầy đủ cho các nhà đầu tư hoạt động. Nghiên cứu tiến tới xây dựng một luật đầu tư chung cho cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Chính sách đầu tư cần ổn định và nhất quán, đặc biệt chính sách thuế vì nó ảnh hưởng trực tiếp đến lợi ích của nhà đầu tư nước ngoài. Khắc phục tình trạng chồng chéo, không thống nhất giữa các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động của các doanh nghiệp FDI. Ban hành quy chế tài chính riêng cho các doanh nghiệp FDI để quản lý và giám sát các doanh nghiệp này chặt chẽ hơn. Đồng thời cần có chính sách quy định về chống độc quyền, bán phá giá, chống gian lận thương mại để tránh hiện tượng chuyển giá nội bộ giữa các doanh nghiệp FDI. Đẩy mạnh khâu quy hoạch, nghiên cứu kinh nghiệm của các nước và điều kiện cụ thể của Việt Nam, sớm xây dựng và công bố công khai quy hoạch đầu tư dài hạn của Việt Nam, công bố rộng rãi, rõ ràng các danh mục ngành, lĩnh vực và dự án rất khuyến khích đầu tư, khuyến khích, không khuyến khích và không cho phép ĐTTTNN. Mở rộng hơn nữa các loại hình doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài để mở rộng cơ hội lựa chọn cho các nhà đầu tư. Tiếp tục hoàn thiện thủ tục đầu tư sao cho khoa học, đơn giản và thuận tiện. Bằng những quy định được công bố công khai và các hành động cụ thể tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư. Xét duyệt và công khai chính sách thuế XNK của Việt Nam khi buôn bán với các nước và với các nước AFTA từ đây đến năm 2006 khi Việt Nam thực hiện xong chương trình cắt giảm thuế CEPT. Việc này giúp các nhà đầu tư hoạch định chính sách sản phẩm của mình trong tương lai. Tiếp tục cải tổ khu vực doanh nghiệp nhà nước, tài chính nhân hàng, phát triển khu vực kinh tế tư nhân và phải coi đây là động lực thu hút đầu tư và phát triển. Cải cách hơn nữa nền kinh tế để có đủ điều kiện gia nhập các tổ chức WTO và APEC. Nhà nước cần quan tâm hơn nữa vào phát triển hạ tầng cơ sở vì kinh nghiệm cho thấy muốn thu hút được 1 đồng vốn nước ngoài thì nước chủ nhà phải bỏ ra hơn 2 đồng để phát triển cơ sở hạ tầng. ổn định hơn nữa môi trường kinh tế vĩ mô, giữ vững tốc độ tăng trưởng kinh tế, có chế độ tỷ giá hối đoái uyển chuyển và phù hợp, những chính sách bảo hộ thương mại hữu hiệu.. Hướng hoạt động của các doanh nghiệp FDI cho phù hợp với yêu cầu hội nhập vào khu vực và thế giới của Việt Nam. Đối với những ngành hàng ta có lợi thế so sánh cao như nông sản và các sản phẩm sử dụng nhiều lao động thì nên đầu tư nhiều hơn. Đối với nông nghiệp nên tập trung cho việc xây dựng cơ sở hạ tầng ở nông thôn và đặc biệt là chế biến nông sản, mở rộng đầu mối xuất khẩu nông sản. Đối với các sản phẩm sử dụng nhiều lao động như dệt may, da giày..thì điều quan trọng là thị trường, chất lượng và mẫu mã. Một số mặt hàng ta không có lợi thế so sánh cao thì không nên đầu tư xây dựng mới mà chỉ nên củng cố những dự án đã có để sử dụng hết công suất, đặc biệt là khâu cung ứng nguyên liệu. Các doanh nghiệp có vốn FDI phải hướng mạnh vào xuất khẩu hơn nữa vì sức mua của thị trường Việt Nam còn khá thấp, chưa là động lực tích cực để thúc đẩy hoạt động của các doanh nghiệp, đồng thời nó cũng đúng với kinh nghiệm thực tế của nhiều nước trong khu vực: tăng cường năng lực xuất khẩu phải là mục tiêu số một của các doanh nghiệp FDI. Muốn vậy, nhà nước cần tiếp tục có những hỗ trợ về thuế, giá cả, đơn giản hóa thủ tục xuất nhập khẩu. Chú trọng thu hút các nhà đầu tư mạnh, có những ưu đãi đặc biệt để thu hút đầu tư vào các ngành công nghệ cao, kỹ thuật hiện đại. Cần quan tâm hơn nữa đến đội ngũ trí thức trong và ngoài nước, khơi dậy và phát huy lòng yêu nước, tự hào dân tộc của lực lượng này bởi vì họ có thể làm cầu nối, lựa chọn công nghệ hiện đại và đưa các nhà đầu tư mạnh về Việt Nam. Chú trọng hơn nữa việc đào tạo đội ngũ các nhà quản trị giỏi cho nước nhà để làm đối tác với các nhà đầu tư mạnh. Cần đầu tư thích đáng và có cải cách triệt để trong hệ thống giáo dục và đào tạo. Xây dựng chương trình, cách dạy và cách học sao cho khoa học và phù hợp ở các cấp đặc biệt là các trường dạy nghề, công nhân kỹ thuật nhằm nâng cao chất lượng lao động Việt Nam. Trên đây chỉ là những giải pháp có tính định hướng cơ bản. Để thực hiện được mục tiêu thu hút và sử dụng có hiệu quả vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước, chúng ta cần phải cụ thể hóa những giải pháp định hướng trên nhằm quản lý và điều hành FDI một cách hữu hiệu, đảm bảo cân bằng giữa các ngành, các vùng cũng như các loại hình đầu tư, phù hợp với chiến lược phát triển kinh tế xã hội và đóng góp ngày càng nhiều vào sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Trong quá trình thực hiện phải thực sự sáng suốt, linh hoạt, đảm bảo các chính sách quy định luôn phù hợp với điều kiện cụ thể trong nước và bối cảnh quốc tế của từng giai đoạn, từng thời kỳ. Điều này đòi hỏi sự nỗ lực và quyết tâm của tất cả các cơ quan, bộ ngành, các doanh nghiệp và của mỗi cá nhân vì sự phát triển chung của đất nước Việt Nam. Các kiến nghị đối với ngành ngân hàng để thúc đẩy nguồn vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài Về mặt củng cố môi trường pháp lý, NHNN sẽ cụ thể hoá hai bộ Luật về ngân hàng... Trong thời gian tới NHNN sẽ tiếp...Đất nước kết luận Quốc tế hóa đời sống kinh tế là một xu hướng khách quan, là sự phát triển tất yếu của nền sản xuất xã hội, trên cơ sở sự phát triển mạnh mẽ của lực lượng sản xuất. Xu hướng này đã lôi kéo tất cả các nước trên thế giới, dù muốn hay không cũng phải từng bước hội nhập vào quỹ đạo của nền kinh tế thế giới. Trong quá trình quốc tế hóa đời sống kinh tế quốc tế, hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài có vị trí và vai trò ngày càng quan trọng, nó đã và đang là nhân tố cơ bản cấu thành và quy định xu hướng phát triển của các quan hệ kinh tế quốc tế. Một mặt, đầu tư nước ngoài hiện là hoạt động cơ bản của quan hệ kinh tế quốc tế, mặt khác nó là nhân tố đẩy nhanh quá trình hội nhập vào nền kinh tế thế giới của các nước đang phát triển. Đầu tư trực tiếp nước ngoài đã đóng góp một phần tích cực trong công cuộc đổi mới kinh tế của Việt Nam hơn 10 năm qua. ý nghĩa của nó không chỉ dừng lại ở những kết quả thống kê về mức sản lượng, doanh thu, giá trị kim ngạch xuất khẩu tỷ lệ đóng góp vào GDP, số chỗ làm việc tạo ra...mà điều quan trọng là từ một “cú hích” ban đầu, ĐTTTNN đã đẩy nhanh tốc độ tăng trưởng kinh tế của Việt Nam để có thể thoát ra khỏi cái vòng luẩn quẩn, tránh nguy cơ tụt hậu phát triển so với các nước và từng bước hội nhập với kinh tế khu vực và thế giới. Tất nhiên bên cạnh những ưu điểm của ĐTTTNN cũng còn nhiều vấn đề còn phải bàn như hiện tượng chảy máu chất xám, ô nhiễm môi trường, vi phạm quyền lợi của người lao động cả về vật chất lẫn phẩm giá và lòng tự trọng dân tộc...Mặc dù vậy, không thể chối cãi một điều là ĐTTTNN đã trở thành một bộ phận của nền kinh tế quốc dân. Mỗi chính sách kinh tế, mỗi biến động tài chính tiền tệ, mỗi chiến lược phát triển đều có bóng dáng của ĐTTTNN. Đảng và Nhà nước ta xác định sự thành đạt của các nhà đầu tư gắn liền với sự thành công của Việt Nam , mọi mất mát rủi ro của nhà đầu tư cũng là rủi ro mất mát của Việt Nam và đã tạo mọi điều kiện thuận lợi nhất, thông thoáng nhất cho các nhà đầu tư nước ngoài làm ăn tại Việt Nam nhằm khai thác và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn FDI phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế đất nước. Chúng ta cần nghiên cứu và giải quyết một cách triệt để những vấn đề đang đặt ra và hoàn thiện các chính sách đối với hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài để thu hút ngày càng nhiều vốn đầu tư nước ngoài, phát huy tốt nhất những mặt tích cực và hạn chế tối đa mặt tiêu cực của FDI . Hy vọng rằng cùng với tiến trình phát triển của đất nước, các doanh nghiệp FDI không ngừng hoàn thiện, phát triển và khẳng định mình, góp phần vào tăng trưởng kinh tế, thúc đẩy công cuộc đổi mới đất nước, đưa Việt Nam bước lên tầm cao mới.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docB0005.doc
Tài liệu liên quan