Khóa luận Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển tiền điện tử tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội

Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng là hệ thống trực tuyến online được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế do WB tài trợ cũng đã đi vào hoạt động từ 02/02/2002. Hệ thống bao gồm các trung tâm xử lý trung ương và 6 trung tâm xử lý tỉnh đặt tại sở giao dịch NHNN, NHNN TP Hải Phòng, NHNN thành phố HN, NHNN thành phố Đà Nẵng, NHNN thành phố HCM, NHNN tỉnh Cần Thơ. Hệ thống mới gồm 3 cấu phần: Luồng thanh toán giá trị cao, luồng thanh toán giá trị thấp, xử lý quyết toán. Trong thiết kế kỹ thuật của hệ thống đã đáp ứng được giải pháp mở cho phép xử lý tình trạng thiếu vốn trong thanh toán bằng cơ chế thấu chi, cho vay qua đêm theo lãi suất quy định của NHNN . Với những ưu việt trên hệ thống thanh toán điện tử liên hàng đã khẳng định được vai trò then chốt về cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin của NHNN trong lĩnh vực thanh toán của VN. Chính vì thế để phát triển hệ thống thanh toán của các ngân hàng VN, khai thác tối đa khả năng của hệ thống thanh toán này đồng thời mở rộng phạm vi thanh toán ra ngoài hệ thống của các NHTM, NHNN cần xem xét nạp thêm thành viên được tham gia hệ thống này. Để đảm bảo hệ thống an toàn, hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra do sự thiếu đồng bộ, NHNN cần sớm ban hành các văn bản quy chế hướng dẫn thực hiện chương trình thanh toán điện tử liên hàng một cách thông nhất, đảm bảo quy trình chương trình thanh toán của toàn hệ thống ngân hàng không bị ách tắc, chậm chễ như hiện nay. Bên cạnh đó NHNN cũng cần có những chính sách khuyến khích các NHTM sớm tham gia vào hệ thống như tiến hành hỗ trợ về vốn, trang bi máy móc thiết bị để mở rộng phạm vi hoạt động của hệ thống thanh toán điện tử liên hàng tới toàn hệ thống ngân hàng VN Trên đây là những kiến nghị chung đối với chính phủ, với NHNN nhằm tạo cơ sở tiền đề cho việc nâng cao chất lượng, mở rộng và phát triển Hoạt động CTĐT ở NHNo Nam HN. Tuy nhiên đay mới là điều kiện cần chứ chưa đủ . Ngân hàng cần có những biện pháp đã nêu trên nữa thì công tác thanh toán nói chung và CTĐT nói riêng mới nâng cao được chất lượng, phục vụ tốt nhất cho hoạt động kinhh doanh của ngân hàng.

doc62 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1296 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chuyển tiền điện tử tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hàng tháng 2.3. Thực trạng về chuyển tiền điện tử tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội 2.3.1. Tình hình thanh toán chung Trong giai đoạn đầu khi mới chuyển từ ngân hàng một cấp sang ngân hàng hai cấp, do chủ yếu sử dụng kỹ thuật thanh toán thủ công với cơ chế thanh toán cứng nhắc, thủ tục rườm rà gây phiền nhiễu cho khách hàng trong giao dịch với ngân hàng. Hơn nữa do mới chuyển sang cơ chế mới nên những thói quen cũ của một cơ chế tập trung quan liêu bao cấp vẫn chưa được xoá bỏ, bộ máy ngân hàng trong thời kỳ này còn cồng kềnh, cơ sở vật chất kỹ thuật còn lạc hậu nghèo nàn. Những nhân tố trên dẫn đến hệ thống thanh toán của ngân hàng hoạt động kém hiệu quả, thời gian thực hiện mọpt món thanh toán rất chậm, không đáp ứng kịp thời nhu câù phát triển của nền kinh tế. Trong giai đoạn này người dân chưa có thói quen sử dụng các dịch vụ thanh toán của ngân hàng mà khách hàng chủ yếu của ngân hàng đó là các tổ chức kinh tế và các doanh nghiệp. Do đó thanh toán bằng tiền mặt vẫn là hình thức phổ biến nhất trong dân cư Ngày 21/12/1994, thống đốc NHNN đã ký quyết định số 22/QĐ-NH1 ban hành thể lệ thanh toán không dùng tiền mặt, đâu là cơ sở pháp lý quan trọng cho các ngan hàng trong đó có NHNo&PTNT Nam Hà Nội phát triển các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, tổ chức hệ thống thanh toán của mình một cách phù hợp.Để tổ chức tốt hoạt động thanh toán thì việc ứng dụng tin học trong công tác tổ chức thanh toán của ngân hàng nói chung và NHNo&PTNT Nam HN nói riêng là điều hết sức cần thiết. NHận thức được điều này, lãnh đạo ngân hàng NHNo&PTNT Nam HN rất coi trọng công tác tin học, hiện đại hoá công nghệ ngân hàng.Tính đến cuối năm 2004, toàn hệ thống ngân hàng đã trang bị được 550 máy vi tính cùng các thiết bị đồng bộ thực hiện giao dịch trực tiếp với khách hàng ở các chi nhánh ngân hàng trên địa bàn trong mạng cục bộ. Bên cạnh đó, lãnh đạo ngân hàng còn rất quan tâm đến việc đào tạo các cán bộ đáp ứng được yêu cầu của việc tin học hoá các nghiệp vụ ngân hàng. Luôn tổ chưc bồi dưỡng các lớp nghiệp vụ về kế toán tín dụng kho quỹ. Nhìn chung, chất lượng đào tạo trong năm 2004 của chi nhánh tương đói tôt, các lớp do chi nhánh tổ chức đều mời giảng viên giảng dạy với chuyên môn cao có uy tín, thông qua việc đào tạo tập huấn nghiệp vụ đã giúp cho cán bộ nhân viên toàn ngân hàng nâng cao trình độ nghiệp vụ, tiếp thu được những kiến thức mới, từng bước đáp ứng nhu cầu kinh doanh. Thực hiện chương trình hiện đại hoá công tác thanh toán “WB”, chi nhánh đã triển khai tới 3 chi nhánh cấp 2 loại 4. Thực hiện thanh toán thẻ ATM trên máy ATM, nối mạng giao dịch với các khách hàng lớn. Đồng thời thường xuyên kiểm tra và giúp chi nhánh phòng giao dịch khai báo dữ liệu đúng và đầy đủ. Với hệ thống máy tính được trang bị hiện đại và đội ngũ cán bộ giỏi về tin học nghiệp vụ đáp ứng đựoc nhu cầu thanh toán nhanh chính xác, đảm bảo an toàn cho khách hàng, NHNo&PTNT Nam HN đã thu hút được một klhối lượng các doanh nghiệp và cá nhân mở tài khoản thanh toán qua ngân hàng. Nâng dần tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt, góp phần tiết giảm chi phí lưu thông, tăng tốc độ luân chuyển vốn Bảng: Tình hình thanh toán bằng tiền mặt và không dùng tiền mặt Đơn vị: triệu đồng Năm 2002 Tỷ trọng(%) Năm 2003 Tỷ trọng(%) Năm 2004 Tỷ trọng(%) TT bằng TM 1.789.213 1,4 1.214.670 0.78 1.026.143 0.51 TTKDTM 127.345.746 98,6 153.626.127 99.2 198.684.132 99.41 Tổng PTTT 129.134.959 100 154.840.797 100 199.710.275 100 (Nguồn: báo cáo phương tiện thanh toán năm 2002, 2003, 2004) Tỷ trọng thanh toán không dùng tiền mặt trong tổng phương tiện thanh toán ngày càng có xu hướng tăng và chiếm tỷ trọng lớn 99,41% năm 2004. Cụ thể năm 2004 là 198.684.132 triệu đồng tăng so với năm 2003 là 45.058.005 triệu đồng. Điều này cho thấy hoạt động thanh toán của ngân hàng ngày nay càng biến động theo hướng tích cực Đồng thời, để phục vụ cho hoạt động thanh toán sao cho có hiệu quả nhanh chong, chính xác đáp ứng một cách kịp thời nhu cầu thanh toán của khách hàng cùng với sự đổi mới, cải tiến cả về tổ chức, quản lýlẫn áp dụng khoa học công nghệ vào trong thanh toán, trong những năm gần đây Chi nhánh đã đưa vào áp dụng những hình thức thanh toán linh hoạt và đã thu hút được một khối lượng khách hàng đến giao dịch , thanh toán với Chi nhánh, đặc biệt là phương thức chuyển tiền điện tử Bằng việc thực hiện nối mạng vi tính với TW, trung tâm thanh toán và với các chi nhánh trong toàn quốc để tạo điều kiện cho Chi nhánh xử lý một cách nhanh chóng các món chuyển tiền đi, đến trong lưu thông, giúp phần rút ngắn thời gian thanh toán từ 2-3 ngày xuống còn7-9 phút, đồng thời hạn chế được những sai lầm trong thanh toán.Bình quân mỗi ngày tại Chi nhánh xử lý trên 200 món chuyển tiền đi, trên 300 chuyển tiền đến, với con số này cho thấy lợi thế của chuyển tiền điện tử trong thanh toán. Sự tiện ích mà CTĐT mang lại đã giúp cho chi nhánh thu hút được ngày càng nhiều khách hàng đén mở tài khoản và giao dịch thanh toán, góp phần tăng lợi nhuận cho chi nhánh đồng thời tăng thị phần của chi NH trong cạnh tranh. Điều này được thể hiện như sau: Bảng: Tình hình CTĐT tại ngân hàng Nam HN Đơn vị: Tỷ đồng Chỉ tiêu Năm 2003 Năm 2004 Tăng, Giảm Số tiền (%) Số tiền (%) +/- % Chuyển tiền đi 9219 65,14 27268 47,79 18049 195,8 Chuyển tiền đến 4927 34,81 29789 52,21 2462 504,6 Sai lầm 7,6 0,05 0,1 0,002 -7,5 -98,7 Thanh toán CT 14153,6 100 57057,1 100 42903,5 601,7 (Nguồn: báo cáo quyết toán năm 2003, 2004 của NHNo&PTNT Nam HN) Qua số liệu ở bảng trên ta thấy: tổng doanh số thanh toán CTĐT năm 2004 so với năm 2003 đã tăng một cách nhanh chóng. Năm 2003 dôanh số CTĐT là 14153,6 tỷ đồng, trong khi đó doanh số CTĐT năm 2004là 57057,1 tỷ đồng tương đương 601,7%. Doanh số Của CTĐT tăng do các nguyên nhân: - Doanh số chuyển tiền đi năm 2004 là 27268 tỷ đồng tăng 10849 tỷ so với năm 2003, tương đương 195,8% - Doanh số chuyển tiền đến năm 2004 là 29789 tỷ đồng, năm 2003 là 4927 tỷ đồng. Như vậy, doanh số chuyển tiền đến năm 2004 tăng so với năm 2003 là 24862 tỷ đông, tương đươnglà 504,6% - Bên cạnh đó, doanh số chuyển tiền sai lầm trong chuyển tiền điện tử năm 2004 so với năm 2003 giảm là 7,5 tỷ đồng, tương đương 98,7% Đồng thời hoạt động CTĐT trong 2 tháng đầu năm 2005 cũng đã đạt được những kết quả đáng kể: Trong tháng 1: số món chuyển tiền đi là 1,484 tương ứng với số tiền là 3,359,294 triệu đồng; chuyển tiền đến số món là 1,465 tương ưng với số tiền là 215,104 triệu đồng Sang đến tháng 2: số món chuyển tiền đi là 1,058 giảm 29% so với tháng 1 và số tiền là 523,916 triệu đồng giảm so với tháng 1 là 84% Kết quả trên đạt được là do tình hình tăng trưởng của cả nước nói chung, của thành phố nói riêng trong năm qua khá ổn định, đặc biệt trong năm qua do hoạt động kinh doanh trên địa bàn Hà nội diễn ra hết sức sôi động nên nhu cầu về thanh toán của khách hàng là rất cao. Mặt khác, chuyển tiền điện tử đã được áp dụng cho đến nay là một thời gian khá dài nên nó đã phát huy được sự tiện ích của nó là: nhanh chóng, chính xác, kịp thời đồng thời hạn chế được những sai lầm một cách tối thiểu trong thanh toán từ đó có thể giải phóng khách hàng một cách nhanh chóng, giúp cho quá trình trao đổi cũng như lưu thông hàng hoá diễn ra một cách kịp thời, phù hợp. Ngoài ra, với kết quả đạt được như trên cũng phải kể đến sự cố gắng của cán bộ ngân hàng,bởi lẽ họ là những nhân tố quan trọng đóng góp cho sự thành công của bất kỳ ngành nghề, lĩnh vực kinh doanh nào. Với việc áp dụng hệ thống CTĐT kết hợp với việc triển khai giao dịch một cửa thì các khâu của quy trình thanh toán gọn nhẹ rất nhiều. Điều đó đã tạo cho công tac thanh toán ngày càng nhanh chóng, chính xác tiết kiệm thưòi gian cho ngân hàng và khách hàng trong việc luân chuyển chứng từ.Cụ thể: + Tại NHA: khi chứng từ khách hàng nộp vào để thực hiện giao dịch thì không phải qua tay kế toán giao dịch nữa. Chứng từ được chuyển trực tiếp đến kế toán chuyển tiền để kiểm soát và lập lệnh chuuyển tiền luôn nếu chứng từ hợp lệ, hợp pháp. Sau đó người kiểm soat sẽ ký duyệt + Tại NHB: Khi nhận được lệnh chuyển tiền qua mạng vi tính kế toán chuyển tiền chỉ in 2 liên sau đó chuyển cho kiểm soát để lấy chữ kí. Cuối cùng kế toán chuyển tiền voác tách chứng từ lưu lại 1 liên ở ngân hàng và trả lại 1 liên cho khách hàng giữ rồi hạch toán ngay vào tài khoản của khách hàng. Vì các máy luôn đuợc on-line nên cuối ngày không phải thực hiện đối chiếu và kiểm soát đồng thời cũng không phải lập các báo cáo chuyển tiền. Mà thay vào đó bộ phận kế toán chỉ thực hiện chấm từng lệnh thanh toán, bảng kê chứng từ. Từ khi triển khai công tác hiện đại hoá ngân hàng thì tất cả các trục trặc xảy ra khi các giao dịch được thực hiện do lỗi kĩ thuật đều 469 và chờ ngày hôm sau chuyển tiếp đi. Hoặc nếu ngân hàng chót thực hiện giao dịch cho khách hàng mà khi chuyển đến TTTT đã hêt giờ làm việc thì ngân hàng phải huỷ giao dịch và chuyển trả lại tiền vào tài khoản khách hàng Cùng với quy trình thanh toán được rút gọn thì mức phí sử dụng trong CTĐT cũng rất thấp và có lợi cho khách hàng cụ thể: theo công văn số 37/NHNoVN phí dịch vụ thanh toán đối với các khách hàng có mở tài khoản tại ngân hàng được quy định như sau: Mức phí chuyển tiền áp dụng đối với khách hàng mở tài khoản tiền gửi trong hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam Mức chuyển tiền Mức phí tối đa Chuyển thường Chuyển khẩn Dưới 100 triệu VNĐ 60.000VNĐ/món 65.000VNĐ/món 100 triệu VNĐ<số tiền<2tỷVNĐ 0,06%/món 0,065/món Số tiền >=2tỷ 1.200.000VNĐ.món 1.300.000VNĐ/món (Nguồn: công văn số 37/NHNo-04/15/2002 của NHNo&PTNT VN qui định về thu phí dịch vụ thanh toán) Theo quy định này, đối với khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng thì mức thu phí tối thiểu khi khách hàng có nhu cầu trích tài khoản để chuyển đi thanh toán tại ngân hàng khác là 60.000đ/món, trong khi đó đối với khách hàng không có tài khoản tại ngân hàng thì mức thì tối thiểu là 20.000đ/món. Việc quy định như vậy khiến cho khách hàng có mở tài khoản tại ngân hàng muốn chuyển một số tiền nhỏ thì lại chịu mức phí cao quá so với các khách hàng không mở tài khoản tại ngân hàng, điều này khiến cho khách hàng cảm thấy thiệt thòi nếu mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng. Vì vậy không khuyến khích các khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng Nhìn sơ lược vào kết quả thanh toán năm 2004 có thể thấy hoạt động thanh toán của ngân hàng đã có những bước tiến triển tích cực nhất là từ khi triển khai giao dịch một cửa. Tuy nhiên để nâng cao chất lượng thanh toán trong ngân hàng thì cần có những biện pháp cụ thể để tăng thanh toán không dùng tiền mặt thông qua việc sử dụng các phương tiện thanh toán hiện đại 2.3.2. Đánh giá hoạt động CTĐT tại NHNo&PTNT Nam Hà Nội trong thời gian qua Cụ thể NHNo Nam Hà Nội đã đạt được những kết quả sau: a. Những kết quả đạt được - Bước đầu xây dựng được một nền tảng công nghệ thanh toán hiện đại, tăng cường thanh toán không dùng tiền mặt. Hệ thống chuyển tiền điện tử được triển khai tới 100% các ngân hàng loại 4 là một thành công lớn về mặt công nghệ vì nó được xây dựng trên nền tảng công nghệ hiện đại đảm bảo cho quá trình thanh toán được kịp thời, chính xác tăng khả năng cung ứng dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt của ngân hàng -Mở rộng khối lượng thanh toán và chất lượng thanh toán được nâng cao Hoạt đọng CTĐT của ngân hàng không chỉ được mở rộng và phát triển về mặt qui mô mà còn không ngừng được nâng cao về chất lượng thanh toán đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng.Các tài khoản tiền gửi thanh toán ngày càng tăng cả về số lượng lẫn số dư tài khoản tạo điều kiện thuận lợi cho ngân hàng mở rộng và phát triển thanh toán qua ngân hàng và hoạt động CTĐT nói riêng, giúp ngân hàng đưa các hình thức thanh toán hiện đại vào đời sống của người dân - Thu hút được khách hàng và tăng nguồn vốn huy động Nhờ có hoạt động CTĐT được áp dụng vào trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cho nên tổng nguồn vốn năm 2004 tăng với tốc độ 48% là mức độ tăng cao so với các NHTM trên cùng địa bàn, tổng dư nợ đã tăng trưởng 22,9%. Với việc áp dụng CTĐT, các dòng vốn được tập trung xử lý kịp thời, thanh quyết toán ngay trong ngày, sử dụng tối đa các dòng vốn nhàn rỗi mà trước đây bị phân tán ở các cơ sở - Nâng cao trình độ cán bộ ngân hàng về sử dụng công nghệ và kỹ thuật thanh toán hiện đại, tạo điều kiện nâng cao hiệu quả, tiếp thu thêm công nghệ thanh toán. Tóm lại: có được kết quả trên là sự cố gắng của tập thể chi nhánh Nam HN, sự chỉ đạo sáng suốt của ban giám đốc, những quyết tâm xây dựng và đổi mới toàn diện hoạt động ngân hàng trong đó trọng tâm là HĐH công nghệ ngân hàng. Tuy nhiên vẫn không còn ít những vấn đề còn tồn tại ảnh hưởng tới thanh toán nói chung và công tác CTĐT nói riêng cần phải có những biện pháp tháo gỡ kịp thời. b.Những tồn tại và nguyên nhân của những tồn tại đó - Khối lượng các khoản thanh toán còn ít, phạm vi áp dụng còn hạn chế, giá trị còn chưa cao - Cơ sở kĩ thuật công nghệ còn chưa hiện đại và đồng bộ CTĐT là phương thức thanh toán mới. Tuy khắc phục được những nhược điểm của các phương thúc thanh toán khác nhưng do được xây dựng trên nền tảng công nghệ hiện đại vẫn có những nhược điểm đặc thù nên ảnh hưởng không nhỏ tới hoạt động thanh toán của NHNo&PTNT VN. Hiện tại hệ thông CTĐT của NH đang sử dụng đường truyền qua kênh điện thoại và modem quay số của tổng công ty bưu chính viễn thông. Khi có nhu cầu kết nối modem tự động quay số kết nối với máy chủ tại TTTT, song không phải cuộc gọi nào cũng thực hiện kết nối thành công. Có những khi phải quay tới 4 - 5 lần và cũng không phải lúc cũng thực hiện việc truyền nhân được trọn vẹn, có những lúc đang thực hiện đường truyền mất tín hiệu, điều này hay xảy ra vào những giờ cao điểm khi toàn hệ thống thực hiện việc kiểm soát, đối chiếu và thanh toán cuối ngày. Hiện nay hệ thống máy tính của NHNo&PTNT Nam HN vẫn chưa được đổi mới hoàn toàn, phần lớn các máy tính đang sử dụng là được cải tạo và nâng cấp từ hệ thống máy tính cũ sử dụng trong thời kỳ thanh toán liên hàng qua mạng vi tính trước đây nên tốc độ xử lý chậm. Hơn nữa, chất lượng hệ thống mạng của ngân hàng chưa cao nên nhiều khi xảy ra hiện tượng máy chủchuyển tiền vẫn hoạt động bình thường, vẫn nhận được các lệnh chuyển tiền từ trung tâm kiểm soát nhưng do hệ thống mạng kém, mạng treo các máy trạm không truy cập được vào máy chủ, không thực hiện được việc kiểm soat và in lệnh để thanh toán gây nên sự chậm trễ không đáng có - Chất lượng công tác tự đào tạo chưa đáp ứng được với yêu cầu, năng lực cán bộ còn hạn chế, bộ phận nào cũng thiếu cán bộ làm được việc - Thủ tục còn rườm rà gây khó khăn cho khách hàng khi tiến hành giao dịch Mặc dù phí chuyển tiền qua ngân hàng là thấp hơn so với bưu điện nhưng hiện nay nhu cầu chuyển tiền cá nhân vẫn hầu như được thực hiện thông qua bưu điện. Tạị sao lại có tình trạng như vậy? đối với khách hàng mở tài khoản tại ngân hàng thì không nói làm gì vì khi phát sinh nhu cầu thanh toán chỉ cần sử dụng uỷ nhiệm chi để trích tài khoản tiền gửi của mình chi trả cho người thụ hưởng. Còn không khách hàng phải viết giấy nộp tiền, kê khai loại tiền và phải ký nhiều lần…điều này làm cho khách hàng cảm thấy lúng túngvà họ cảm thấy không thoải mái. Trong khi đó nếu sử dụng dịch vụ của bưu điện thì khách hàng chỉ phải nói địa chỉ, số tiền và ký vào lệnh chuyển tiền là xong. - Những tồn tại mang tính khách quan khiến cho hoạt động thanh toán nói chung và hoạt động CTĐT nói riêng của NH chưa thực sự khai thác triệt để Có một số văn bản pháp lý chưa đồng bộ và phù hợp dẫn đến giá trị pháp lý và tính khả thi chưa cao.Đặc biệt trước xu thế hội nhậpkinh tế với thế giới và sự phát triển của thương mại địên tử đòi hỏi phải có một hành kang pháp lý vững chấưc đảm bảo hoạt động thanh toán của toàn bộ nền kinh tế.Có những tồn tại về cơ sở vật chất của mạng lưới giao dịch đều đi thuê, không có điều kiện xây dựng kho tiền, cải tạo khang trang, ảnh hưởng rất nhiều đến khả năng thu hút khách hàng dan cư Nhìn nhận một cách tổng quan, có thể thấy việc đưa hệ thống CTĐT vào hoạt động NH đã mang kại những thành quả đáng ghi nhận. Tuy vậy vẫn tồn tại những bất cập vướng mắc phải có biện pháp tháo gỡ kịp thời nhằm không ngừng củng cố và nâng cao hơn nữa chất lượng của hoạt động CTĐT, đóng góp nhiều hơn nữa cho quá trình phát triển kinh tế xã hội của thủ đô, đồng thời cũng giúp cho hoạt động kinh doanh của NHNo Nam HN đạt hiệu quả cao hơn. Chương 3 Giải pháp và kiến nghị nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động ctđt 3.1. Định hướng phát triển hoạt động CTĐT của hệ thống NHNo&PTNT Việt Nam Là một ngân hàng thương mại quốc doanh, NHNo&PTNT Việt Nam xác định mục tiêu chiến lược lâu dài là chủ yếu phục vụ nông nghiệp, nông thôn và nông dân nhằm thực hiện thành công đường lối công nghiệp hoá hiện đại hoá nông nghiệp nông thôn của Đảng và Nhà nước. Dự thảo văn kiện đại hội IX của Đảng đã chỉ ra định hướng chiến lược phát triển Nông - Lâm - Ngư nghiệp và kinh tế nông thôn giai đoạn 2002- 2010 là “Công nghiệp hoá, hiện đại hoá nông nghiệp đẩy nhanh chuyển dịch cơ cấu ngành nghề, cơ cấu lao động, hình thành nền nông nghiệp hàng hoá lớn phù hợp với nhu cầu thị trường và điều kiện sinh thái, đưa nhanh tiến bộ khoa học và công nghệ vào sản xuấtnông nghiệp đạt mức trung bình tiên tiến trong khu vực về trình độ công nghệ và giá trị gia tăng trên một đơn vị diện tích, tăng năng suất lao động, nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm, mở thị trường tiêu thụ nông sản trong và ngoài nước tăng đáng kể thị phần các nông sản chủ lực trên thị trường thế giới” Tập trung mọi hoạt động của mình vào phục vụ thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển nói trên là nhiệm vụ chính trị quan trọng là định hướng phát triển lâu dài của NHNo&PTNT VN nói chung và NHNo&PTNT Nam Hà Nội nói riêng.Để có thể hội nhập và thắng trong môi trường cạnh tranh đòi hỏi NHNo&PTNT VN phải trở thành một NHTM hiện đại, chủ lực, hoạt động kinh doanh hiệu quả, tài chính lành mạnh, kỹ thuật công nghệ cao, thị phần tăng trưởng, nâng cao được vị thế ucả NH trong hệ thống tài chính VN Đồng thời thu hút mọi tầng lớp dân cư giao dịch với NH. Tuy nhiên để làm được điều này đòi hỏi NHNo&PTNT VN phải có những bước đi đúng đắn, phát triển hẹ thống ngân hàng bán lẻ, hoàn thiện hệ thống thanh toán cho khách hàng, phát triển hệ thông CTĐT đồng thời nghiên cứu xây dựng hệ thống TMĐT. Phấn đấu đến những năm tới công nghệ ngân hàng đạt được mục tiêu: + Tập trung hoá dữ liệu, trong đó hệ thống thông tin khách hàng và hệ thống sổ cái được quản lý tập trung tại TW + Thanh toán được thực hiện trực tuyến đa dạng va an toàn. Hệ thống ứng dụng trên cơ sở dữ liệu tiên tiến đáp ứng được yêu cầu quản lý và hoạt động của NHNo&PTNT + Chọn lựa hệ thống công nghệ thông tin hiện đại theo tiêu chuẩn quốc tế để phát triển các ứng dụng mới phục vụ cho hoạt động nghiệp vụ, kinh doanh và quản lý điều hành. Có khả năng tích hợp các dịch vụ ngân hàng mới đã được hoạch định và hoà nhập với cộng đồng quốc tế. + Hiện đại sản phẩm dịch vị truyền thống và những sản phẩm mới, ưu tiên triển khai trước khu cực đông dân cư, sau đó mở rộng ra các địa bàn khác phù hợp với khả năng HĐH và môi trường kinh doanh, tăng tính hiệu quả của hệ thống + Xây dựng một đội ngũ cán bộ kỹ thuật công nghệ thông tin đồng bộ chất lượng cao, được phân bổ cho toàn hệ thống. Chú trọng đào tạo bồi dưỡng đội ngũ kỹ thuật làm công nghệ mới, làm chủ công nghệ hiện đại và đủ năng lực phát triển hệ thống trong tương lai Định hướng phát triển công nghệ thông tin của NHNo&PTNT VN cũng là định hướng phát triển của mỗi ngân hàng trong hệ thống NHNo&PTNT. Tuy nhiên tuỳ từng điều kiện của mỗi ngân hàng sẽ xác định những bước đi cụ thể.Đói với NHNo&PTNT Nam Hà Nội, trong những năm tới ngân hàng sẽ tiếp tục đổi mới, tiếp tục trang bịtôt thiết bị vi tính và hoàn thiện các đường truyền mạng để cho công tác giao dịch một cửa đã đang và sẽ là một lựa chọn đúng đắn nhất của ngân hàng đồng thời cải cách thủ tục hành chính tạo thuận lợi cho khách hàng khi giao dịch với ngân hàng,chuẩn bị các điều kiện về cơ sở vật chất kỹ thuật, tổ chức tập huấn về quy trình nghiệp vụ cho đội ngũ cán bộ tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của NHNN. Thực hiện mục tiêu chung của toàn ngành “tiếp tục duy trì tăng trưởng hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời” 3.2. giải pháp nâng cao hiệu quả của hoạt động CTĐT 3.2.1. Mở rộng phạm vi thanh toán Để thu hút ngày càng nhiều khách hàng, tăng khối lượng thanh toán qua ngân hàng từ đó tăng thu dịch vụ cho ngân hàng, NHNo&PTNT Nam Hà Nội nên tạo điều kiện cho các phòng giao dịch và các quỹ tiết kiệm tham gia vào hệ thông CTĐT nhằm phục vụ tânj nơi cho khách hàng, tạo điều kiện cho khách hàng không mất thời gian đi lại từ các quỹ tiết kiệm và phòng giao dịch về các chi nhánh đảm bảo an toàn tài sản đồng thời phục vụ nhanh chóng khi khách hàng có nhu cầu thanh toán, chuyển tiền. Trước mắt với các phòng giao dịch và các quĩ tiết kiệm khi chưa trực tiếp lập chứng từ chuyển đi thì phòng giao dịch và các quỹ tiết kiệm có thể chuyển hoá chứng từ chuyển đi tính ký hiệu mật, mã hoá truyền về chi nhánh, chi nhánh giải mã và chuyển hoá thành chứng từ điện tử để chuyển đi. Như vậy thanh toán điện tử vẫn chỉ thực hiện ở các chi nhánh trực thuộc còn phòng giao dịch và các quỹ tiết kiệm chỉ là nơi nhận và chuyển chứng từ về chi nhánh. Về lâu dài ngân hàng cần chuẩn bị các điều kiện về trang bị, cơ sở vật chất kỹ thuật để kết nối giữa trung tâm thanh toán của chi nhánh với các phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm để phòng giao dịch và quỹ tiết kiệm có thể tham gia trực tiếp vào hệ thống CTĐT 3.2.2. Tăng cường đầu tư vào trang thiết bị cơ sở vật chất kỹ thuật công nghệ Hệ thống CTĐT được thiết kế và xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế dựa trên nền tảng công nghệ thông tin tiên tiến hiện đại. Để hệ thống vận hành và phát huy tối đa công suất thì cần phải có cơ sở vật chất kỹ thuật cùng với các trang thiết bị hiện đại tương xứng với tầm cỡ của nó. Tuy trong thời gian qua, NHNo&PTNT Nam Hà Nội đã đỏi mới các thiết bị vi tính cải tạo và nâng cấp hệ thống mạng để triển khai công tác giao dịch một cửa, tuy nhiên hệ thống này rất hiện đại vì thế ngân hàng phải có các biện pháp nhằm nâng cao tốc độ xử lý của các máy tính từ đó giảm thời gian thực hiện các món thanh toán, phục vụ nhanh nhất tốt nhất nhu cầu thanh toán của khách hàng. Việc đổi mới trang thiết bị là rất cần thiết nhưng bên cạnh đó NHNo&PTNT Nam HN cần tăng cường đầu tư vào cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đảm bảo khả năng hoạt động kinh doanh đồng thời nâng cao uy tín, hình ảnh và khả năng cạnh tranh của ngân hàng với các tổ chức tín dụng khác Cùng với sự phát triển của công nghệ thông tinhiện nay việc hiện đại háo công nghệ ngân hàng vừa là một xu thế tất yếu khách quan vừa là một đòi hỏi bức xúc của các ngân hàng. Đi đôi với việc công nghệ thông tin phát triển hàng loạt các dịch vụ ngân hàng hiẹn đại cũng ra đời đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của xã hội. Do vậy việc đầu tư vốn của ngân hàng vào đổi mới trang thiết bị không chỉ đáp ứng nhu cầu hiện tại mà còn đáp ứng nhu cầu phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại trong tương lai hội nhập với khu vực và quốc tế. Điều kiện cần thiết và có tính chất quyết định trong việc ứng dụng công nghệ thanh toán hiện đại, đổi mới và trang bị đầy đủ các phương tiện kỹ thuật hiện đại là vốn. Thực tế hiện nay các NHTM quốc doanh nói chung và NHNo&PTNT Nam HN nói riêng đang gặp rất nhiều khó khăn về vốn trong việc đầu tư mua sắm trang thiết bi, máy móc, kỹ thuật hiện đại cuãng như xây dựng cơ sở vật chất phục vụ cho hoạt động kinh doanh, bởi chi phí cho những công việc này là rất lớn.Tuy NH đã trang bị được hệ thống thanh toán thẻ ATM nhưng hiện tại trong quá trình vận hành hệ thống này vẫn còn gặp rất nhiều trục trặc về đường truyền. Vì thế, để hệ thống ngày càng hoàn hảo hơn thì ngân hàng nên tiếp cận với các nguồn tài trợ, vốn đầu tư của các tổ chức tín dụng khác cũng như tân dụng những nguồn đầu tư của các tổ chức nước ngoài. 3.2.3. Lựa chọn thị trường mục tiêu từ đó đưa ra những chính sách phù hợp Dịch vụ thanh toán nói chung cũng như hoạt động CTĐT nói riêng là một sản phẩm của nền kinh tế thị trường, biểu hiện của một nền công nghiệp hiện đại. Việt Nam là một nước đang phát triển với hơn 70% dân số sống ở nông thôn và gần 80% lao động trong nông nghiệp. Thu nhập của nhóm dân cư này đa phần là thấp không ổn định, đa phần là dân trí thấp họ còn chưa hiểu và hình dung ra việc áp dụnh các kĩ thuật hiện đại vào trong hệ thống ngân hàng có chăng họ chỉ biết ngân hàng là nơi có thể cho họ vay vốn khi cần thiết còn những tiện ích khác họ hoàn toàn không biết hoặc chỉ biết sơ qua. Thực hiện thanh toán, chuyển tiền qua hệ thống ngân hàng chủ yếu là những doanh nghiệp, những cá nhân có thu nhập cao, những cơ sở liên doanh đầu tư nước ngoài và họ thường xuyên có những chi phí lớn phát sinh. Chính vì thế ngân hàng cần xác định rõ đâu là đối tượng chủ yếu của mình để từ đó đưa ra các chính sách để tập trung khai thác có hiệu quả. 3.2.4. Cải tiến quy trình nghiệp vụ Các thủ tục, quy trình nghiệp vụ trong việc thực hiện thanh toán nói chung và CTĐT nói riêng vẫn còn rườm rà và gây ra nhiều điều không thuận lợi cho khách hàng. Chẳng hạn khi khách hàng có nhu cầu nộp tiền vào để chuyển đi, ngân hàng yêu cầu khách hàng phải viết vào giấy nộp tiền được in sẵn theo đúng mẫu quy định thống nhất, điều này khiến cho nhiều khách hàng tỏ ra lúng túng vì không biết viết như thế nào hoặc viết sai phải sửa đi sửa lại gây mất thời gian cho cả khách hàng và ngân hàng.Theo em, NHNo&PTNT Nam Hà Nội nên đề nghị với cấp trên xem xét sửa đổi lại một số thủ tục không cần thiết để kế toán viên nhập vào máy và in phiếu thu, khách hàng chỉ phải kiểm tra và kí tên vào phiếu thu. Trên cơ sở đó thanh toán viên có thể lập lệnh chuyển tiền và chuyển tiền đi ngay lập tức. Làm như vậy sẽ tạo ra một tâm lý thoải mái tin tưởng cho khách hàng, đồng thời giúp ngân hàng tăng khả năng cạnh tranh với dịch vụ chuyển tiền của bưu điện Hiện nay khi thực hiện chuyển tiền cho khách hàng, ngân hàng chưa có thông báo cho người thụ hưởng để họ biết và chủ động đến ngân hàng để nhận tiền như bưu điện đã làm, dẫn đến họ phải thường xuyên hỏi ngân hàng về các món chuyển tiền, có những món chuyển tiền mà khách hàng phải đến hỏi nhiều lần trong ngày buộc các nhân viên giao dịch phải tìm kiếm chứng từ. Chính vì vậy mà NHNo Nam HN nên mở thêm dịch vụ thông báo cho người thụ hưởng biết khi tiền của họ đã được chuyển đến. 3.2.5. Đào tạo nguồn nhân lực có kỹ năng, trình độ chuyên môn cao và tác phong phục vụ chuyên nghiệp Dịch vụ thanh toán điện tử là sản phẩm của nền công nghệ hiện đại nên một trong những yêu cầu quan trọng để triển khai, ứng dụng thành công cần phải có đội ngũ nhân viên giỏi, có trình độ chuyên môn tốt. Điều này đòi hỏi NHNo Nam HN phải có chiến lược phát triển con người để đáp ứng được những đòi hỏi mới về kinh doanh và cung ứng cho xã hội những sản phẩm dịch vụ hiện đại.Cụ thể là: + Đầu tư thích đáng cho công tác đào tạo, xây dựng kế hoạch đào tạo cán bộ ngay từ khi mới được tuyển dụng, chú trọng cả về chuyên môn, tác phong giao dịch và tư duy khách hàng. Ngân hàng hiện nay hoạt động khá đa dạng và cung cấp nhiều chủng loại sản phẩm, sử dụng nhiều phần mềm khác nhau. Do vậy ccần trang bị cho nhân viên những kiến thức cơ bản về nghiệp vụ, các sản phẩm chính và những định hướng lớn của ngân hàng. Từ đó giúp cho nhân viên có được cái nhìn bao quát và một động cơ rõ ràng trong công việc. Hơn nữa, trong việc hiện đại hoá ngân hàng thì hệ thống thanh toán luôn luôn được coi trọng và ưu tiên hàng đầu. Chính vì thế để vận dụng tốt hệ thống CTĐT, tham gia vào hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng và triển khai mô hình bán lẻ thì đào tạo đội ngũ cán bộ làm công tác kế toán thanh toán phải được ưu tiên hàng đầu. Yêu cầu của đội ngũ nhân viên ngân hàng nói chung và đội ngũ nhân viên làm công tác kế toán thanh toán nói riêng trong giai đoạn mới là không những phải giỏi về nghiệp vụ, tin học mà còn phải có phẩm chất đạo đức tốt, giao tiếp tốt, hiểu biết và mắm vững các quy định của pháp luật. Chính vì vậy NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần xây dựng một chiến lược đào tạo toàn diện đội ngũ công nhân viên ngân hàng, đặc biệt là những cán bộ làm công tác kế toán và thanh toán. + Đào tạo một số cán bộ chủ chốt am hiểu công nghệ thông tin và nghiệp vụ ngân hàng để làm hạt nhân nòng cốt trong các chương trình phát triển các sản phẩm và công nghệ mới. + Có kế hoạch đào tạo và đào tạo lại nhằm cập nhật các yêu cầu và nghiệp vụ mới, đào tạo tại chỗ kết hợp với việc cử đi đào tạo, đào tạo chuyên môn và đào tạo nhân tài. Những nhân viên củ chốt trong việc phát triển sản phẩm mới, đặc biệt là nhóm sản phẩm ngân hàng hiện đại cần được đào tạo bài bản và được cử đào tạo bài bản và được cử đi học tập, học hỏi kinh nghiệm ở các nước tiên tiến. + Gắn kết quả đào tạo với việc bố trí sử dụng cán bộ theo đúng người, đúng việc. Tích cức luân chuyển cán bộ để sắp áêp công việc phù hợp nhất với năng lực chuyên môn của từng người và tạo động lực phấn đấu cho các nhân viên; khuyến khích người lao động làm việc năng động sáng tạo thông qua các cơ chế lương, thưởng + Có kế hoạch thường xuyên phổ cập, cập nhật các xu hướng phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin trong các hoạt động tài chính ngân hàng, đặc biệt là cho các cấp quản lý và điều hành. + Để triển khai tốt các dịch vụ thanh toán điện tử cần tạo điều kiện cho nhân viên của ngân hàng có thể tiếp cận và làm quen với internet để nâng cao kỹ năng sử dụng mạng. Bên cạnh việc đào tạo về chuyên môn nghiệp vụ, ngân hàng cũng cần quan tâm bỗi dưỡng các kiến thức về pháp luật, tâm lý, marketing…nhằm nâng cao tinh thần trách nhiệm với công việc, luôn có thái độ cởi mở với khách hàng, phục vụ tận tình chu đáo, hướng dẫn các khách hàng thực hiện các thao tác cần thiết khi có nhu cầu thanh toán 3.2.6. Tăng cường công tác tuyên truyền quảng cáo nâng cao uy tín và hình ảnh của ngân hàng Hiện nay trên địa bàn Hà Nội có rất nhiều các Ngân hàng cũng như tổ chức tín dụng khác tham gia vào công tác cung cấp sản phẩm và dịch vụ như NHNo&PTNT Nam HN. Vì vậy đẻ thu hút được khách hàng sử dụng nhyững sản phẩm dịch vụ của mình thì ngân hàng cần phải có chính sách quan tâm đặc biệt tới khách hàng và phải lập một phòng chăm sóc khách hàng thật hoàn hảo Nhận thức được khách hàng là nhân tố quan trọng quyết định đến sực thành bại của ngân hàng, trong những năm qua NHNo&PTNT Nam HN luôn coi trọng công tác chăm sóc khách hàng, luôn tạo mọi điều kiện cho khách hàng khi tham gia giao dịch với ngân hàng. Trong quá trình hoạt động ngân hàng không ngừng tăng cường giáo dục đội ngũ cán bộ công nhân viên luôn luôn giữ gìn phẩm chất,thể hiện phong cách văn minh trong giao tiếp, tạo điều kiện thuận lợi và lòng tin từ phía khách hàng. Để tiếp tục giữ vững và phát huy những thành quả đạt được trong kinh doanh, nâng cao khả năng cạnh tranh với các ngân hàng và các tổ chức khác, từ đó thu hút được nhiều khách hàng đến với ngân hàng, NHNo&PTNT Nam Hà Nội cần có những chính sách quan tâm nhiều hơn nữa tới tiện ích của các khách hàng, ngày càng nâng cao uy tín và hình ảnh của ngân hàng trong lòng khách hàng. Ngân hàng cũng đã chăm lo đến mảng khách hàng đến giao dịch với ngân hàng, chính vì thế mà nhân viên ngân hàng đã có thái độ tận tình chu đáo với khách hàng. Bên cạnh đó ngân hàng cũng bố trí đầy đủ bònh nước, ghế ngồi và quạt mát phục vụ khách hàng khi họ đến giao dịch Bên cạnh những biện pháp chăm lo tới lợi ích khách hàng, lãnh đạo ngân hàng cũng cần dành nhiều sự quan tâm tới đội ngũ nhân viên ngân hàng bởi họ là những người trực tiếp tiếp xúc và giao dịch với các khách hàng, công việc của họ có ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng dịch vụ thanh toán mà ngân hàng cung cấp. Chính vì vậy mà ngân hàng cần có những biện pháp khuyến khíchđộng viên khen thưởng kịp thời đối với những cán bộh nhân viên làm tốt công tác của mình, đồng thời xử lý nghiêm minh các trường hợp vi phạm quy định, quy chế của ngân hàng tạo ra sự đoàn kết và sự hợp tác chặt chẽ cá nhân, các phòng ban với nhau trong công việc, giúp đỡ và hỗ trợ nhau hoàn thành tốt các nhiệm vụ được giao. Đồng thời ngân hàng cần phải tạo ra các cuộc giải trí để cho nhân viên ngân hàng có được môi trường làm việc thoải mái Để quảng bá hình ảnh của ngân hàng, lãnh đạo ngân hàng có thể cho đăng tải các dịch vụ mà ngân hàng có thể cung cấp cho khách hàng trên các báo chuyên ngành hoặc một hình thức quảng cáo mới mà hiện nay rất nhiều các doanh nghiệp sử dụng đó là thực hiện tài trợ cho một chương trình nào đó 3.2.7. Phát triển dịch vụ mới Nhằm tăng cường khả năng cạnh tranh với các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán khác, đáp ứng nhu cầu thanh toán tốt hơn của người dân Hà Nội, NHNo&PTNT cần thường xuyên tìm hiểu nhu cầu của khách hàng từ đó đưa ra các sản phẩm mới ngày càng hiện đại. Ngân hàng nông ngiệp Nam HN cần phải mở rộng dịch vụ để đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của dân chúng trong việc sử dụng thẻ thanh toán. Ngân hàng cần phải thực hiện đa dạng các loại thẻ.Trước hết phát triển mạnh khách hàng ATM; thông qua thẻ ATM khách hàng có thể kiểm tra số dư tài khoản của mình hoặc gửi một nơi rút tiền nhiều nơi, phục vụ chi tiêu cá nhân vừa thuận tiện, hiện đại, an toàn và hội nhập Bên cạnh đó, ngân hàng phát triển dịch vụ cho thêu két sắt. Dịch vụ này ở VN chưa phát triển, trên địa bàn Hà Nội chưa có tổ chức nào đảm bảo an toàn vật có giá. Đây là một trong những dịch vụ lâu đời nhất được các ngân hàng thương mại trên thế giới thực hiện. Tuy nhiên ở nước ta loại dịch vụ này còn chưa phổ biến. Với dịch vụ này khách hàng có thể yên tâm gửi ngân hàng những đồ vật quý giá như di chúc, vàng bạc, GTCG… mà không phải để ở nhà coi giữ và lo sợ 3.2.8. Cần có một đường truyền thêu bao riêng Để đảm bảo về tốc độ cũng như an toàn trong thanh toán, tách việc ách tắc đường truyền, mất tín hiệu liên lạc và mất các file dữ liệu khi thực hiện truyền nhận thông tin thì NHNo Nam HN cần thêu bao một đường truyền riêng với tổng công ty bưu chính viễn thông. Vì hiện nay NHNo&PTNT VN còn sử dụng đường truyền modem điện thoại của tổng công ty bưu chính viễn thông, đường truyền này không phải là đường truyền được sử dụng riêng cho việc truyền nhận thông tin của ngân hàng mà nó còn được dùng chung với việc truyền tải thông tin của công ty bưu chính, vì vậy rất dễ bị tắc nghẽn nhất là trong các giờ cao điểm như thực hiện đối chiếu quyết toán cuối ngày, làm cho nhiều khi việc thanh quyết toán cuối ngày không thể thực hiện được ngay trong ngày mà phải chờ đến ngày hôm sau. Nên việc thêu bao một đường truyền riêngphục vụ cho hoạt động của toàn hệ thống NHNo&PTNT VN là hết sức cần thiết bởi nó không chỉ phục vụ cho hoạt động CTĐT mà còn phục vụ cho toàn bộ các hoạt động khác của ngân hàng đồng thời tạo điều kiện cho các chi nhánh của NHNo&PTNT VN tham gia vào hệ thống điện tử liên ngân hàng của NHNN VN và là điều kiện cần thiết để NHNo&PTNT VN phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại 3.2.9. Phải hoàn thiện chương trình CTĐT Chương trình CTĐT được thiết kế theo tiêu chuẩn hiện đại, dựa trên hệ điều hành UNIX và hệ quản trị cơ sở dữ liệu ORACLE với khả năng bảo mật cao và được xây dựng một cách thống nhất, chặt chẽ từ TW đến địa phương. Các số liệu phát sinh được lưu trữ khá đầy đủ và đều được cập nhật một cách tự động sau mỗi ngày làm việc giúp cho việc quản trị điều hành một cách dễ dàng. Tuy nhiên việc lập báo cáo chuyển tiền đi - đến mới chỉ được lập một cách tự động trong ngày còn các báo cáo chuyển tiền trong tháng phải nhặt hoàn toàn bằng phương pháp thủ công để nhập vào máy tính gửi cho TTTT. Việc lập các báo cáo thủ công như vậy sẽ rất lâu và nhiều khi gây ra sai sót không đáng có, vì vậy chương trình CTĐT phải sớm hoàn thiện 3.2.10. Nới lỏng một số quy định tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng Ngân hàng nên xem xét lại mức thu phí chuyển tiền đi thanh toán đối với hai đối tượng khách hàng là: khách hàng có mở tài khoản tiền gửi tại ngân hàng và khách hàng không có tài khoản ở ngân hàng để thu cho hợp lý. Việc quy định về thời điểm khống chế áp dụng trong CTĐT của NHNo&PTNT VN là chưa hợp lý. Theo quy định hiện nay thời điểm ngừng nhận chứng từ chuyển tiền của khách hàng là 15h hàng ngày, thời điểm kết thúc nhận chứng từ như vậy là quá sớm. Trong khi đó từ 15h đến 16h là thời điểm các NHA và NHB thực hiện nốt các lệnh chuyển tiền đi và nhận chuyển tiền đến trong ngày, và từ 16h đến 16h30 TTTT thực hiện đối chiếu số liệu chuyển tiềncho các NHA, NHB. Nên có giải pháp rút ngắn thời gian thực hiện phần việc này, kéo dài thời gian phục vụ khách hàng chuyển tiền như cải tiến các phương thức truyền nhận, đối chiếu thông tin sao cho nhanh chóng, chính xác hơn bằng cách thiết kế các đường truyền, đường nhận thông tin riêng rẽ, thực hiện đối chiếu lập tức để thời gian đối chiếu thông tin giữa TTTT, ngân hàng nhận và ngân hàng khởi tạo diễn ra nhanh chóng, vừa tạo điều kiện kéo dài thời gian giao dịch với khách hàng vừa giảm được các áp lực cho các cán bộ tác nghiệp khi phải tiến hành kiểm soát đối chiếu một khối lượng lớn các chứng từ cuối ngày, tránh tình trạng kết thúc một ngày làm việc của thanh toán viên điện tử thường xuyên muộn như hiện nay 3.3. Kiến nghị chung 3.3.1. Đối với Chính Phủ Hoạt động của ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi các yếu tố khách quan như môi trường kinh tế vĩ mô, sự ổn định chính trị xã hội, môi trường pháp lý…những yếu tố này đều thuộc sự quản lý của Chính phủ. Chính vì vậy Chính phủ cần tạo một môi trường thuận lợi tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán của các ngân hàng phát triển kinh tế xã hội của đất nước. a. . Đầu tư cho xây dựng cơ sở hạ tầng vật chất đủ mạnh để phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin Việc đầu tư cơ sở hạ tầng, trang bị kỹ thuật để hiện đại hoá công nghệ ngân hàng không phải chỉ là vấn đề của riêng ngành ngân hàng mà của cả nước ta, nằm trong chiến lược phát triển kinh tế của cả nước. Do vậy nhà nước cần chú ý đầu tư cho lĩnh vực này, nhanh chóng đưa nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới về công nghệ ngân hàng Riêng đối với lĩnh vực thanh toán điện tử Nhà nước cần có chính sách khuyến khích các ngân hàng đầu tư phát triển và trang bị các máy móc thiết bị phục vụ cho hệ thống thanh toán mà nếu chỉ có ngành ngân hàng không thì không thể đáp ứng nổi. Bởi vì như chúng ta đã biết, cũng như phần cứng cũng như phần mềm cho thanh toán điện tử là công nghệ hoàn toàn mới ở VN, máy móc thiết bị đều là những loại máy hiện đại mà VN chưa thể sản suất được thậm chí ngay cả những linh kiện thay thế cũng chưa có ở VN. Việc giao nhận sửa chữa thiết bị hiện nay chưa được tạo điều kiện thực hiện nhanh chóng buộc các ngân hàng phỉa tăng chi phí mua sắm thiết bị và dự phòng rất tốn kém. Do đó, Nhà nước nên xem xét giảm thuế nhập khẩu cho những máy móc phục vụ công nghệ thanh toán điện tử ở VN hay chí ít cũng tạo điều kiện rõ ràng cho các hoạt động nhập khẩu này. b. Có những quy định thông thoáng tạo điều kiện thuận lợi tối đa cho người dân mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng Công tác thanh toán nói chung và công tác CTĐT nói riêng muốn phát triển và hoàn thiện thì các khách hàng tham gia vào thanh toán bắt buộc phải mởtài khoản tại ngân hàng. Hơn nữa, CTĐT là một phương thức thanh toán không dùng tiền mặt do đó phát triển và mở rộng nó cuãng sẽ đem lại những lợi ích to lớn như đối với thanh toán không dùng tiền mặt. Thanh toán qua ngân hàng chịu ảnh hưởng rất lớn bởi tâm lý thói quen của người dân. ở các nước phát triển người dân sử dụng các sản phẩm dịch vụ thông qua ngân hàng là chủ yếu nhưng ở VN thanh toán qua ngân hàng vẫn có một cái gì đó rất xa lạ. Hiện nay, thanh toán bằng tiền mặt của VN chiếm trên khoảng 23% tổng phương tiện thanh toán. Tỷ lện thanh toán bằng tiền mặt ở mức cao như vậy không những gây nên sự tốn kém lãng phí cho xã hội mà còn tạo điều kiện cho các hoạt động buôn lậu, trốn thuế và tham nhũng phát triển. Vì vậy Chính phủ nên đưa ra các biện pháp tác động làm thay đổi thói quen dùng tiền mặt trong thanh toán của người dân nhằm mở rộng hơn nữa thanh toán không dùng tiền mặt, ban đầu người dân chưa tự thay đổi thói quen của mình thì Chính phủ có thể sử dụng các biện pháp: khống chế số tiền thanh toán với số tiền lớn hơn thì phải qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Song song với việc làm trên Nhà nước phải nghiên cứu ban hàng các quy định về việc chông tẩy rửa tiền của bọn làm ăn bất chính qua các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán. Để phát triển TTKDTM thì điều kiện tiên quyết là các khách hàng phải mở tài khoản tiền gửi thanh toán. Chính vì thế, mà các quy định thông thoáng của Chính phủ sẽ tạo điều kiện cho người dân mở tài khoản và thanh toán qua ngân hàng c. Tạo môi trường kinh tế chính trị ổn định Sự ổn định chính trị ảnh hưởng rất lớn lới ổn định và phát triển kinh tế từ đó ảnh hưởng tới sản xuất lưu thông hàng hoá và ảnh hưởng tới nhu cầu thanh toán chu chuyển vốn trong nền kinh tế. Nếu chính trị xã hội ổn định đảm bảo tính an toàn cho hoạt động thanh toán giúp mở rộng và phát triển thanh toán qua ngân hàng. Bên cạnh đó sự ổn định chính trị tạo niềm tin vững chắc của dân chúng vào hệ thống tài chính ngân hàng từ đó giúp các ngân hàng mở rộng hạot động nâng cao hiệu quả kinh doanh. Để tạo môi trưòng thuận lợi cho hoạt động thanh toán của các ngân hàng phát triển thì Chính phủ cần có những biện pháp duy trì trật tự an tàon xã hội, giữ vững kỷ cương đảm bảo an ninh quốc phòng vững chắc c. Ban hành các văn bản pháp lý Thanh toán là một hành vi kinh tế có ảnh hưởng và tác động lớn tới nhiều chủ thể trong nền kinh tế do đó nó phải được điều chỉnh bởi pháp luật của Nhà nước. Pháp luật của Nhà nước càng cụ thể bao nhiêu càng tạo điều kiện cho hoạt động thanh toán trong nền kinh tế nói chung và thanh toán của ngân hàng nói riêng phát triển bấy nhiêu. Để sớm đưa TMĐT vào thực tiễn đời sống kinh tế của VN, Chính phủ cần sớm ban hành luật điều chỉnh chứng từ điện tử và chữ kí điên tử nhằm tạo hành lang pháp lý an toàn cho hoạt động thanh toán chung của nền kinh tế, bởi TMĐT chỉ có thể phát triển khi thanh toán điện tử được đảm bảo an toàn. Ngày 21/03/2002 thủ tướng Chính phủ đã ra quyết định 44/2002/QĐ - TTG cho phép các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán được sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ để hạch toán và thanh toán vốn. Đây là quyết định quan trọng công nhận về mặt pháp lý đối với chứng từ điện tử trong hoạt động hạch toán kế toán và thanh toán, là cơ sở cho thừng bước mở rộng các dịch vụ ngân hàng hiện đại phục vụ cho phát triển TMĐT của VN trong tương lai. Tuy nhiên, chứng từ điện tử và chữ ký điện tử theo quyết định 44mới chỉ áp dụng hạn chế đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh, các tổchức, doanh nghiệp và cá nhân chưa được trực tiếp sử dụng chứng từ điện tử để thanh toán mà phải thông qua các tổ chức được phép cung ứng dịch vụ thanh toán với đối tác. Về lâu dài khi TMĐT phát triển các dịch vụ ngân hàng hiện đại như Internet banking, Home banking được sử dụng rộng rãi, cho phép cac tổ chức, cá nhân sử dụng chứng từ điện tử và chữ ký điện tử để giao dịch trực tiếp với ngân hàng thì phải có luật điều chỉnh chứng từ điện tử và chữ ký điện tử áp dụng rộng rãi cho mọi đối tượng xã hội. Luật phải quy định rõ các tội danh và hình phạt khi vi phạm các điều cấm như gian dối, lừa đảo, giả mạo chứng từ điện tử và chữ ký điện tử… có như vậy người sử dụng chứng từ điện tử và chữ ký điện tử kể cả ngân hàng mới thực sự được đảm bảo an toàn khi giao dịch. Quyết định số 44/TTG của Thủ tướng chính phủ mới chỉ là một văn bản dưới luật nên tính pháp lý chưa cao hơn nữa phạm vi áp dụng lại bị hạn chế ở các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, do vậy mặc dù quyết đinh này giải quyết được một nhiện vụ quan trọng là công nhận về mặt pháp lý cho hoạt động thanh toán của nền kinh tế nói chung. Hơn nữa, hiện nay hầu hết các nghiệp vụ ngân hàng đã được tin học hoá, việc hạch toán kế toán theo phương pháp thủ công đã không còn tồn tại, việc sử dụng chứng từ điện tử và chữ ký điện tử trong các hoạt động ngân hnàg là điều cần thiết do vậy nếu không pjáp lý hoá những nghiệp vụ đã được ứng dụng tin học thì không thể đảm bảo cho sự hoạt động an tpàn của ngân hàng Chính vì lý do trên Chính phủ cần sớm xây dựng và ban hành một bộ luật hoàn chỉnh về chứng từ điện tử và chữ ký điện tử nhằm tạo hành lang pháp lý vững chắc cho hoạt động kế toán và thanh toán trong nền kinh tế nói chung và trong hoạt động ngân hàng nói riêng, từ đó làm cơ sở cho việc phát triển TMĐT ở nước ta 3.3.2. Đối với NHNN NHNN thực hiện chức năng quản lý nhà nước về tiền tệ tín dụng và thanh toán, là nơi đề ra các chính sách chế độ đối với hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động thanh toán nói riêng. a. Hoàn thiện các văn bản pháp quy về thanh toán điện tử Để theo kịp với tốc độ phát triển của công nghệ thông tin và tình hình ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại trong hoạt động đổi mới ngân hàng.Chính phủ cần dành một nguồn vốn thích đáng để đầu tư vào hiện đại hoá hệ thống công nghệ thông tin.Ngoài ra việc hoàn thiện môi trường pháp lý là nền tảng cho việc hiện đại hoá và phát triển dịch vụ thanh toán diện tử NHNN hiện nay là cơ quanban hành các văn bản , chính sách, quy định cần nghiên cứu, tham khảo các nghiệp vụ, sản phẩm ngân hàng hiện đại như ATM, e-banking…Thực tế là các dịch vụ này đang được cung ứng cho khách hàng nhưng các văn bản quy định này đều đang bất cập. Vì vậy, để tạo điều kiện cho việc thanh toán liên hàng một cách nhanh chóng, chính xác, NHNNVN nên quy định một cách cụ thể về mẫu biểu của các CTĐT áp dụng cho tất cả hệ thống ngân hàng b. Đưa ra các văn bản quy chế hướng dẫn hàon thiện thêm về thanh toán điện tử liên ngân hàng Hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng là hệ thống trực tuyến online được xây dựng theo tiêu chuẩn quốc tế do WB tài trợ cũng đã đi vào hoạt động từ 02/02/2002. Hệ thống bao gồm các trung tâm xử lý trung ương và 6 trung tâm xử lý tỉnh đặt tại sở giao dịch NHNN, NHNN TP Hải Phòng, NHNN thành phố HN, NHNN thành phố Đà Nẵng, NHNN thành phố HCM, NHNN tỉnh Cần Thơ. Hệ thống mới gồm 3 cấu phần: Luồng thanh toán giá trị cao, luồng thanh toán giá trị thấp, xử lý quyết toán. Trong thiết kế kỹ thuật của hệ thống đã đáp ứng được giải pháp mở cho phép xử lý tình trạng thiếu vốn trong thanh toán bằng cơ chế thấu chi, cho vay qua đêm theo lãi suất quy định của NHNN …. Với những ưu việt trên hệ thống thanh toán điện tử liên hàng đã khẳng định được vai trò then chốt về cơ sở hạ tầng kỹ thuật công nghệ thông tin của NHNN trong lĩnh vực thanh toán của VN. Chính vì thế để phát triển hệ thống thanh toán của các ngân hàng VN, khai thác tối đa khả năng của hệ thống thanh toán này đồng thời mở rộng phạm vi thanh toán ra ngoài hệ thống của các NHTM, NHNN cần xem xét nạp thêm thành viên được tham gia hệ thống này. Để đảm bảo hệ thống an toàn, hạn chế tối đa các rủi ro có thể xảy ra do sự thiếu đồng bộ, NHNN cần sớm ban hành các văn bản quy chế hướng dẫn thực hiện chương trình thanh toán điện tử liên hàng một cách thông nhất, đảm bảo quy trình chương trình thanh toán của toàn hệ thống ngân hàng không bị ách tắc, chậm chễ như hiện nay. Bên cạnh đó NHNN cũng cần có những chính sách khuyến khích các NHTM sớm tham gia vào hệ thống như tiến hành hỗ trợ về vốn, trang bi máy móc thiết bị…để mở rộng phạm vi hoạt động của hệ thống thanh toán điện tử liên hàng tới toàn hệ thống ngân hàng VN Trên đây là những kiến nghị chung đối với chính phủ, với NHNN nhằm tạo cơ sở tiền đề cho việc nâng cao chất lượng, mở rộng và phát triển Hoạt động CTĐT ở NHNo Nam HN. Tuy nhiên đay mới là điều kiện cần chứ chưa đủ . Ngân hàng cần có những biện pháp đã nêu trên nữa thì công tác thanh toán nói chung và CTĐT nói riêng mới nâng cao được chất lượng, phục vụ tốt nhất cho hoạt động kinhh doanh của ngân hàng. Kết luận Từ kinh nghiệm của các quốc gia công nghiệp đã di trước một bước trong lĩnh vực thanh toán cho thấy việc sử dụng dịch vụ ngân hàng đã ngày càng trở nên phổ biến và trở thành tập quán được các tầng lớp dân cư, tổ chức kinh tế chấp nhận từ nhiều năm nay bởi những tiện ích của dịch vụ nhất là các dịch vụ do ngân hàng cung cấp. Chính vì vậy nâng cao chất lượng thanh toán nói chung và hiệu quả hạot động CTĐT nói riêng là việc làm rất cần thiết vì nó đem lại hiệu quả kinh tế vô cùng to lớn cho mỗi chủ thể sử dụng cũng như mang lại lợi ích cho toàn bộ nền kinh tế. Với những kiến thức được tiếp nhận trong nhà trường, qua thời gian thực tập tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam HN, bằng phương pháp nghiên cứu tư duy biện chứng, phân tích, so sánh, luận giải, khoá luận tốt nghiệp tốt nghiệp: “Giải pháp nâng cao hiệu quả hoạt động chuển tiền điện tử tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Nam HN” đã giải quyết các nội dung sau: - Hệ thống những vấn đề về thanh toán, hoạt động chuyển tiền điện tử qua hệ thống ngân hàng làm cơ sở cho việc phân tích, luận giải các vấn đề thực tế và đề xuất giải pháp - Phân tích đánh giá thực trạng thanh toán và hoạt động chuyển tiền điện tử thời gian qua, trên cơ sở đó rút ra những kết quả đạt được, những tồn tại và nguyên nhân. - Đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm mở rộng và nâng cao hiệu quả hoạt động CTĐT tại NHNo&PTNT Nam HN Trong quá trình làm đề tài này, với mong muốn có thêm những kiến thức về các dịch vụ thanh toán, đặc biệt là CTĐT, em đã cố gắng thu thập tài liệu từ nhiều sách tạp chí, tìm hiểu và phát triển một cách cụ thể, rõ ràng các vấn đề liên quan, học hỏi ý kiến của thầy cô và bạn bè. Tuy nhiên đã có nhiều cố gắng thực hiện nhưng kiến thức còn có hạn, thời gian thực tế còn quá ít nên khoá luận chắc chắn còn những khiếm khuyết. Em rất mong được sự thông cảm và góp ý của các thầy cô giáo, các cô chú trong NHNo&PTNT Nam HN để chuyên đề tốt nghiệp được hoàn chỉnh tốt hơn. Em xin chân thành cám ơn sự giúp đỡ của thầy giáo hướng dẫn và các thầy cô giáo Học Viện Ngân Hàng, NHNo&PTNT Nam HN đã nhiệt tình giúp em trong quá trình học tập. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kế toán ngân hàng chủ biên Vũ Thiện Thập - NXB Thống Kê 2. Báo cáo kết quả kinh doanh của NHNo&PTNT Nam HN 3. Tạp chí thị trường tài chính tín dụng năm 2003,2004 4. Báo cáo thường niên của NHNo&PTNT năm 2003, 2004

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0518.doc
Tài liệu liên quan