Khóa luận Giải pháp nhằm phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam trong điều kiện hội nhập thị trường tiền tệ quốc tế

Các công ty tài chính ở nước ta hầu như là còn non trẻ. Xét về tiềm năng, các tổ chức này là các chủ thể có vai trò đáng kể trên TTTT, cho nên khi hệ thống các công ty này phát triển mạnh sẽ có tác dụng thúc đẩy TTTT phát triển nâng cao khả năng hội nhập. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của Thái Lan và Malaixia, nếu chúng ta quá dễ dàng cho các công ty này tham gia TTTT hoặc huy động tiền gửi thì cũng có thể tạo nên những hậu họa nghiêm trọng. Để phát triển hệ thống các công ty tài chính, nhất là việc cho phép huy động tiền gửi, một mặt phải đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể, mặt khác phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động ở các công ty tài chính, đảm bảo sự hoạt động lành mạnh, an toàn, phát huy được vai trò đối với nền kinh tế.

doc85 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1449 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giải pháp nhằm phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam trong điều kiện hội nhập thị trường tiền tệ quốc tế, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iệt Nam gửi quá nhiều tiền ở nước ngoài (James A.Hanson, 2003: are small countries “underbanked”- Globalization and national financial system-The World Bank, 2003). Tuy nhiên, nếu so sánh tỷ lệ tiền gửi giữa hai nhóm NHTM Nhà nước và nhóm nước ngoài ta thấy có một khoảng cách khá xa (10%). Sự khác biệt này có thể giải thích rằng các NHTM trong nước còn yếu kém hơn các ngân hàng nước ngoài trên phương diện quản lý danh mục đầu tư ở phạm vi toàn cầu và cũng kém ngân hàng nước ngoài về khả năng truy cập vào hệ thống tiền tệ Quốc tế. Chương III: Giải pháp nhằm phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam trong điều kiện hội nhập thị trường tiền Tệ Quốc tế I/ Quan điểm của Đảng, Nhà nước về việc phát triển và hội nhập thị trường tiền tệ Việt Nam trong thế kỷ XXI: Quan điểm của Đảng ta về việc hội nhập TTTT, một bộ phận quan trọng của thị trường tài chính Việt Nam vào thị trường tài chính Quốc tế đã được thể hiện rõ trong các văn kiện của Đảng tại Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001): Báo cáo chính trị của Ban chấp hành Trung Ương Đảng khoá VIII tại đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng (năm 2001) Mở rộng quan hệ đối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế. Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập tự chủ, mở rộng, đa phương hoá, đa dạng hoá các quan hệ Quốc tế. Việt Nam sẵn sàng là bạn, đối tác tin cậy của các nước trong cộng đồng Quốc tế, phấn đấu và hoà bình, độc lập và phát triển.... Mở rộng quan hệ nhiều mặt, song phương và đa phương với các nước và vùng lãnh thổ, các trung tâm chính trị, kinh tế Quốc tế lớn, các tổ chức Quốc tế và khu vực.... Chủ động hội nhập kinh tế Quốc tế và khu vực theo tinh thần phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác Quốc tế, bảo đảm độc lập, tự chủ và định hướng XHCN, bảo vệ lợi ích dân tộc, an ninh quốc gia, giữ gìn bản sắc văn hoá dân tộc, bảo vệ môi trường. Chính phủ cùng các bộ, ngành, và các doanh nghiệp khẩn trương xây dựng và thực hiện kế hoạch hội nhập kinh tế Quốc tế với lộ trình hợp lý và chương trình hành động cụ thể, phát huy tính chủ động của các cấp, các ngành và đ doanh nghiệp; đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế va đổi mới cơ chế quản lý kinh tế-xã hội, hoàn chỉnh hệ thống luật pháp, nâng cao năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp và nền kinh tế. Thêm vào đó, ngày 27/11/2001, Bộ chính trị đã ban hành Nghị quyết về vấn đề hội nhập kinh tế Quốc tế, thể hiện rõ những quan điểm và một số biện pháp nhằm thúc đẩy nâng cao hiệu quả trong quá trình hội nhập. Như vậy, quan điểm hội nhập quốc tế thị trường tài chính quốc gia trong thế kỷ 21 của Việt Nam là: “Chủ động hội nhập Quốc tế thị trường tài chính quốc gia theo lộ trình tổng thể về hội nhập Quốc tế của toàn bộ nền kinh tế nhằm khai thác triệt để các tác động tích cực đồng thời hạn chế tối đa các tác động tiêu cực của quá trình hội nhập; đảm bảo an ninh, an toàn trong quá trình hội nhập Quốc tế”. Cụ thể bao gồm các nội dung sau: - Chủ động xây dựng lộ trình hội nhập Quốc tế thị trường tài chính quốc gia nằm trong lộ trình hội nhập Quốc tế tổng thể nền kinh tế Việt Nam. - Điều chỉnh hệ thống cơ chế, chính sách nhằm mở cửa thị trường tài chính quốc nội cho sự tham gia của các cá nhân và tổ chức nước ngoài; đồng thời khuyến khích các tổ chức, cá nhân trong nước tham gia vào thị trường tài chính nước ngoài. - Củng cố hệ thống các doanh nghiệp trong nước hoạt động kinh doanh trên thị trường tài chính quốc gia nhằm nâng cao khả năng kinh doanh, cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước, bảo đảm sự phát triển lành mạnh, vững chắc của thị trường tài chính trong nước. Để thực hiện quan điểm của Đảng và Nhà nước ta thì chiến lược phát triển cho TTTT Việt Nam để đáp ứng các yêu cầu hội nhập được xây dựng như sau: * Chiến lược phát triển hệ thống ngân hàng đến năm 2010: w Đối với NHNN: - Nhanh chóng triển khai đưa Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam vào cuộc sống. Phát hiện và kịp thời đề xuất với Chính phủ và Quốc hội những vấn đề cần chỉnh sửa trong Luật nói trên trong quá trình thực hiện. - Xây dựng đề án chiến lược về mô hình tổ chức và chức năng nhiệm vụ của NHNN theo hướng: + Phát triển theo chiều sâu các nghiệp vụ quản lý của NHNN với tư cách là NHTW. NHNN trước hết là Ngân hàng của các ngân hàng và thực sự là trung tâm tiền tệ, thanh toán và hối đoái lớn nhất. + Xác định rõ địa vị pháp lý của NHNN là NHTW của nước Việt Nam, nằm trong cơ cấu của Chính phủ. + Tổ chức lại mạng lưới chi nhánh theo hướng rút gọn đầu mối quản lý, hình thành các chi nhánh NHNN ở khu vực, không nhất thiết phải phụ thuộc vào địa giới hành chính như hiện nay. + Hoạt động thanh tra ngân hàng phải đảm đương được nhiệm vụ là thanh tra Nhà nước chuyên ngành đặt tại NHNN. + Hiện đại hoá các mặt hoạt động quản lý của NHNN trên tất cả các lĩnh vực: đào tạo, tuyển dụng, hoạch định và điều hành chính sách đều phải được nâng cấp và mang tính nghề nghiệp cao. w Đối với các tổ chức tín dụng: - Nhanh chóng cấu trúc lại các TCTD theo hướng: + Tách bạch chức năng tín dụng chính sách ra khỏi chức năng tín dụng thương mại. Các bước đi có thể tuần tự hoặc đan xen các hình thức như: quy các loại chính sách vào một đầu mối, tách hoạch toán nghiệp vụ, tách mô hình tổ chức, tiến tới hình thành một TCTD chính sách của Nhà nước hoạt động theo quy định tại Luật các tổ chức tín dụng. + Nâng quy mô và năng lực tài chính của các TCTD, sớm có đề án khả thi về thiết lập một số tập đoàn tài chính-tiền tệ cỡ trung bình của một số nước tiên tiến trong khu vực. + Cổ phần hoá một số NHTM cổ phần quốc doanh nhưng vẫn đảm bảo nguyên tắc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. + Hình thành loại hình TCTD 100% vốn nước ngoài. + Có giải pháp thích hợp về cơ cấu tổ chức để đưa ngân hàng đến với dân chúng. Chỉ cho phép thành lập mới các TCTD có số chi nhánh và điểm giao dịch tối thiểu từ 10 trở lên. Phát triển tiện ích ngân hàng, đa dạng hoá các dịch vụ ngân hàng, phát triển các dịch vụ thanh toán trong ngân hàng để thay dần thói quen sử dụng tiền mặt trong dân cư. * Chiến lược hoàn thiện chính sách tiền tệ của ngành ngân hàng đến năm 2010: - Hoàn thiện cơ chế điều hành lãi suất đồng nội tệ và ngoại tệ theo hướng tự do hoá có sự điều tiết gián tiếp của Nhà nước thông qua lãi suất định hướng lãi suất NHNN (lãi suất chiết khấu, lãi suất cơ bản) - Hoàn thiện cơ chế điều hành tỷ giá hối đoái theo hướng vừa linh hoạt trong ngắn hạn, vừa ổn định trong dài hạn, khuyến khích xuất khẩu, góp phần ổn định TTTT và đặc biệt là thị trường vốn. - Hoàn thiện hệ thống TTTT thứ cấp, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng. - Xây dựng và hoàn thiện nghiệp vụ thị trường mở, phát triển một số trung tâm giao dịch nghiệp vụ này, coi đây là một trong những công cụ chủ yếu của chính sách tiền tệ giúp NHNN điều tiết kịp thời và có hiệu quả lượng tiền cung ứng phù hợp với yêu cầu kiểm soát lạm phát và thúc đẩy tăng trưởng kinh tế trong từng thời kỳ. - Hoàn thiện chính sách và cơ chế quản lý ngoại hối theo hướng tự do hoá các giao dịch vãng lai và giao dịch vốn, đồng thời xây dựng hệ thống biện pháp kiểm soát chu chuyển nợ Quốc tế, đặc biệt là vốn ngắn hạn, kiểm soát nợ nước ngoài. Kiểm soát tiến tới xoá bỏ sử dụng ngoại tệ trong thanh toán và tiết kiệm trong nội địa tiến tới trên lãnh thổ Việt Nam chỉ thanh toán và tiết kiệm bằng đồng Việt Nam. - Kiểm soát, hạn chế và tiến tới chấm dứt tình trạng Đôla hoá trên cơ sở nâng cao vị thế đồng Việt Nam, đa dạng hoá các công cụ tài chính, các hình thức đầu tư phương tiện thanh toán không dùng tiền mặt, kết hợp với các biện pháp quản lý ngoại tệ nói trên. II/ Các yêu cầu đặt ra đối với việc hội nhập thị trường tiền tệ: Thế giới ngày nay đang đứng trước xu hướng mang tính quy luật là các nền kinh tế của mọi quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau, hợp tác chặt chẽ với nhau ở phạm vi khu vực cũng như toàn cầu. Đây cũng là vấn đề mang tính thời sự đối với TTTT. Quá trình hội nhập Quốc tế hiện nay là một xu hướng tất yếu khách quan không cho phép Việt Nam đứng ngoài cuộc. Chính sách mở cửa nền kinh tế đã tạo thuận lợi cho sự du nhập dòng tài chính từ bên ngoài vào đưa TTTT Việt Nam tiếp cận thị trường toàn cầu rộng lớn. Vì vậy, yêu cầu hội nhập đối với TTTT Việt Nam là một tất yếu khách quan. Mức độ hội nhập, mở cửa về ngân hàng (tín dụng, tiền tệ và các dịch vụ ngân hàng) của Việt Nam cho đến nay chưa tương thích, thấp hơn mở cửa thương mại và các dịch vụ khác. Đồng thời, mức độ mở cửa hội nhập Quốc tế về ngân hàng của Việt Nam còn rất hạn chế, thấp hơn nhiều so với khu vực và thế giới. Vì vậy, để hội nhập thì TTTT Việt Nam phải đáp ứng được các yêu cầu sau: 1. Tạo môi trường thuận lợi cho các chính sách tiền tệ hoạt động có hiệu quả. Điều này phải gắn liền với việc phát triển các công cụ trên TTTT đa dạng về chủng loại, có chất lượng nhằm phát triển TTTT theo hướng hội nhập. 2. Đẩy mạnh cải cách thể chế kinh tế, cần nhanh chóng xây dựng bộ máy làm luật một cách chuyên nghiệp hơn so với trước đây. Các cơ quan của chính phủ cần bám sát các nhu cầu thực tiễn của các NHTM, bám sát lộ trình gia nhập của ngành để đề ra các chính sách, đồng thời coi các nhu cầu bức xúc của các NHTM và nền kinh tế để làm cơ sở cải cách hành chính. 3. Nâng cao năng lực cạnh tranh của các NHTM Việt Nam, xây dựng một hệ thống ngân hàng có uy tín, hoạt động có hiệu quả, an toàn, có khả năng huy động vốn tốt trong xã hội để có thể trước hết là tự bảo vệ mình sau đó là cạnh tranh với những ngân hàng nước ngoài vừa lớn về quy mô, vừa đa dạng về dịch vụ. 4. Phát triển cơ chế quản lý và hệ thống thông tin giám sát trong hệ thống ngân hàng phù hợp với thông lệ Quốc tế có hiệu quả và hiệu lực để ngăn chặn và phòng ngừa rủi ro trong các các hoạt động trên TTTT. 5. Mở cửa thị trường trong nước trên cơ sở xoá bỏ dần các giới hạn đối với các đối tác nước ngoài, bảo đảm quyền kinh doanh của các ngân hàng và các tổ chức nước ngoài theo các cam kết song phương và đa phương. III/ Các giải pháp nhằm phát triển thị trường tiền tệ Việt Nam trong điều kiện hội nhập thị trường tiền tệ Quốc tế Trước những vấn đề còn tồn tại trong TTTT, để TTTT có thể phát triển và hội nhập cần phải có những giải pháp hữu hiệu. Trong giai đoạn hiện nay, sự hoàn thiện và phát triển TTTT ngoài việc đáp ứng yêu cầu nội tại của nền kinh tế còn phải đáp ứng yêu cầu hội nhập về tài chính ngân hàng và tự do hoá tài chính. Để đáp ứng đồng thời hai yêu cầu này, TTTT phải phát triển và lành mạnh. TTTT trong nước phát triển sẽ thúc đẩy quá trình hội nhập kinh tế nói chung, hội nhập tài chính nói riêng và tiến trình tự do hoá tài chính. Vì vậy, giải pháp để nâng cao khả năng hội nhập của TTTT Việt Nam vào TTTT Quốc tế chính là giải pháp giúp phát triển thị trường và hoàn thiện TTTT Việt Nam theo hướng phù hợp với các chuẩn mực và thông lệ Quốc tế. Trên cơ sở đó, người viết xin nêu ra một số giải pháp như sau: 1. Các giải pháp về môi trường pháp lý và cơ chế chính sách: Hiện nay, việc ban hành Luật NHNN và Luật các tổ chức tín dụng, cùng hàng loạt Nghị định và các văn bản hướng dẫn Luật đã tạo cơ sở pháp lý và có ý nghĩa rất quan trọng đối với sự phát triển TTTT Việt Nam. Tuy nhiên, xét tổng thể môi trường pháp lý cho hoạt động của các TCTD cũng như cơ sở pháp lý cho việc phát triển TTTT lên một tầm cao mới để đáp ứng yêu cầu hội nhập vẫn còn thiếu và chưa thực sự đồng bộ; việc thi hành luật còn quá chậm; một số nội dung của luật không theo kịp xu hướng phát triển của thị trường. Có thể nói, môi trường pháp lý là căn cứ quan trọng để TTTT và các chính sách tiền tệ hoạt động an toàn, hiệu quả trong cơ chế thị trường và hội nhập Quốc tế, vì vậy, người viết xin đề xuất các giải pháp sau: 1.1_Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động của TTTT - Tăng cường cơ sở pháp lý nhằm xác định đúng đắn quan hệ phối hợp tín dụng giữa NHNN với ngân sách nhà nước, với các cơ quan nhà nước để tăng cường tính độc lập của NHNN. Định rõ và đầy đủ địa vị pháp lý, chức năng, nhiệm vụ của NHNN là NHTW. Đề cao vai trò của NHNN trong điều chỉnh vĩ mô đối với lĩnh vực tiền tệ-tín dụng, kiểm soát lạm phát, đạc biệt là vấn đề giám sát đối với toàn bộ hệ thống tín dụng ngân hàng và TTTT, đồng thời đảm bảo đầy đủ quyền tự chủ kinh doanh cho các NHTM, các NHTM hoạt động kinh doanh bình đẳng theo pháp luật. - Tăng cường pháp chế XHCN, kỷ cương tài chính, cương quyết giải thể hoặc sáp nhập những TCTD làm ăn thua lỗ, không đủ vốn điều lệ. Đẩy nhanh quá trình lành mạnh hoá để tạo ra hệ thống ngân hàng vững mạnh. - Tiếp tục hoàn thiện và phát triển nền tảng pháp lý cho hệ thống ngân hàng theo hai hướng: Một là: nhanh chóng ban hành một cách đồng bộ, hệ thống các văn bản hướng dẫn thi hành Luật ngân hàng và Luật các tổ chức tín dụng nhằm tạo hành lang pháp lý mới, đầy đủ, chặt chẽ; Hai là: bổ sung, điều chỉnh một số nội dung của hai Luật này cho phù hợp với thực tế yêu cầu mới của hệ thống ngân hàng cũng như của nền kinh tế. + Điều chỉnh lại thời hạn các giấy tờ có giá ngắn hạn: là từ một năm trở xuống, cho phép các tín phiếu kho bạc 365 ngày được giao dịch trên TTTT. + Cho phép các tổ chức tài chính phi ngân hàng có đủ các điều kiện, đáp ứng yêu cầu được huy động tiền gửi có kỳ hạn dưới 1 năm để tạo điều kiện cho hoạt động của TTTT. + Cho phép giao dịch trái phiếu chính phủ mà có thời hạn đáo hạn dưới 1 năm được giao dịch như hàng hoá trên TTTT - Tạo môi trường pháp lý thuận lợi, thu hút nhiều nhà đầu tư trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ trên TTTT để TTTT hoạt động sôi động, phát triển TTTT thứ cấp, nâng cao khả năng điều hoà vốn ngắn hạn trên phạm vi toàn bộ nền kinh tế. Các chủ thể cần thu hút, ngoài các TCTD, bao gồm: các tổ chức tài chính phi ngân hàng (công ty bảo hiểm, quỹ đầu tư, công ty chứng khoán, công ty tài chính…); các tổ chức phi tài chính (các doanh nghiệp,…); các nhà môi giới, các nhà đầu tư tư nhân. Đặc biệt, cần sửa đổi quy chế hoạt động của hoạt động nghiệp vụ thị trường mở, cho phép các tổ chức không phải là các TCTD, thậm chí cả các cá nhân nếu họ có tiền mặt và tiền gửi. Điều này sẽ giúp cho hoạt động của thị trường mở sôi động hơn, từ đó, hình thành và phát triển TTTT thứ cấp. - Sửa đổi bổ sung quy chế hoạt động của thị trường mở, ban hành quy chế tiêu chuẩn hoá việc phát hành kỳ phiếu của các NHTM: Sớm ban hành những văn bản hướng dẫn Pháp lệnh thương phiếu. Hoàn thiện cơ chế trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro tín dụng. 1.2_Đổi mới điều hành chính sách tiền tệ Bên cạnh việc theo đuổi các mục tiêu cơ bản của mình thì việc điều hành chính sách tiền tệ của NHNN phải nhất quán chuyển nhanh, chuyển vững chắc sang sử dụng các công cụ gián tiếp là cơ bản. Đây là xu thế đúng, phù hợp với quy luật thị trường và thông lệ Quốc tế, qua đó nâng cao hiệu lực của chính sách tiền tệ: -Chính sách cung tiền: Tăng cường sử dụng các công cụ gián tiếp không chỉ làm cho việc thực thi chính sách cung ứng tiền linh hoạt hơn mà còn làm cho các loại hình và công cụ của thị trường tiền tệ phát triển. Đặc biệt, cần hoàn thiện và phát triển hoạt động nghiệp vụ thị trường mở nơi tín phiếu kho bạc Nhà nước và tín phiếu ngân hàng không chỉ được phát hành mà còn được mua đi bán lại giữa các thành viên-các TCTD với NHNN, thúc đẩy TTTT thứ cấp phát triển. -Chính sách lãi suất, tín dụng: NHNN phải sử dụng một cách linh hoạt, hiệu quả các công cụ gián tiếp để điều tiết lãi suất cho vay, nhất là đối với USD. -Chính sách đối với ngân sách: Tiến hành thường xuyên việc đấu thầu tín phiếu và trái phiếu chính phủ không chỉ đáp ứng mục tiêu bù đắp thiếu hụt chi tiêu của ngân sách Nhà nước mà còn trở thành hàng hoá quan trọng trên TTTT. Cải tiến cơ chế lãi suất đấu thầu theo hướng sát hơn với thị trường, phản ánh cung cầu về vốn trên thị trường. 2. Các giải pháp về cơ chế hoạt động và cơ cấu tổ chức của TTTT 2.1_Hoàn thiện TTTT sơ cấp, hình thành và phát triển TTTT thứ cấp 2.1.1_Hoàn thiện TTTTsơ cấp Hiện nay, TTTT Việt Nam mới ở dạng sơ khai, kém rất xa với trình độ phát triển của TTTT Quốc tế, TTTT sơ cấp mới hình thành còn TTTT thứ cấp hầu như chưa có; hàng hoá còn nghèo nàn về chất lượng và chủng loại, phạm vi thị trường bó hẹp trong phạm vi hệ thống các TCTD . Vì vậy, để phát triển và hội nhập TTTT Việt Nam trước hết phải hoàn thiện TTTT sơ cấp: -Chuẩn xác hoá, đa dạng hoá và nâng cao chất lượng các công cụ. Khắc phục tình trạng còn nghèo nàn hàng hoá trên TTTT. -Mở rộng phạm vi thị trường, đa dạng hoá các chủ thể tham gia: TTTT hiện nay mới chỉ bó hẹp trong phạm vi các TCTD và các chủ thể hoạt động trên thị trường chủ yếu là các NHTM. Với phạm vi hẹp như vậy, TTTT không thể thực hiện tốt chức năng cung ứng và điều hoà vốn ngắn hạn cho nền kinh tế được. Cần có giải pháp tạo môi trường thuận lợi thu hút các tổ chức và cá nhân trực tiếp tham gia hoạt động kinh doanh tiền tệ trên TTTT như: các công ty tài chính, công ty bảo hiểm, doanh nghiệp, nhà đầu tư tư nhân… -Hoàn thiện phương thức phát hành: Trước hết, các loại công cụ như tín phiếu kho bạc cần được phát hành đều đặn để các TCTD và các chủ thể khác có kế hoạch chủ động, đồng thời, các loại công cụ này phải được phát hành với số lượng đủ lớn làm phát sinh và nuôi dưỡng các giao dịch trên thị trường. Về mặt kỹ thuật cần thực hiện đấu thầu và công bố kết quả đấu thầu qua mạng vi tính để mọi thành viên trên thị trường được biết kết quả cùng một lúc, đảm bảo nhanh chóng, chính xác và công bằng. 2.1.2_Hình thành và phát triển TTTT thứ cấp TTTT Việt Nam kém linh hoạt, thậm chí có lúc ách tắc và không thực hiện tốt chức năng điều hoà vốn chủ yếu là do chưa hình thành thị trường thứ cấp. Khi các TCTD lâm vào tình trạng ứ đọng vốn thì các họ sẽ chuyển hướng để “kinh doanh trên lưng nhau”, “kinh doanh” với NHNN và kho bạc Nhà nước tạo thành vòng luẩn quẩn, không thúc đẩy được tăng trưởng kinh tế. Do chưa có TTTT thứ cấp, điều hành chính sách tiền tệ thông qua các công cụ gián tiếp kém hiệu lực, cách khá xa mức độ phát triển của TTTT Quốc tế. Vì vậy, hình thành và phát triển thị trường thứ cấp là mục tiêu quan trọng nhất của việc hoàn thiện và phát triển TTTT Việt Nam để đáp ứng yêu cầu hội nhập Quốc tế, muốn vậy phải: - Trên phương diện tổng thể phải có kế hoạch để kiên quyết loại bỏ tình trạng thanh toán bằng tiền mặt quá lớn trong nền kinh tế. - NHNN phải tích cực phối hợp với các cơ quan chức năng khác, xúc tiến tạo dựng cơ sở vật chất kỹ thuật, đặc biệt là tích cực hoàn thiện, tạo cơ sơ pháp lý nhanh chóng, đầy đủ và an toàn cho các thị trường thứ cấp đi vào hoạt động. Thị trường thứ cấp không phát triển hoặc khập khễnh thì toàn bộ TTTT khó có cơ hội phát triển tốt. - Hoàn thiện hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở: + Sửa đổi bổ sung trong các văn bản liên quan đến hoạt động của nghiệp vụ thị trường mở theo hướng đa dạng hoá và nâng cao chất lượng hàng hoá, mở rộng thành viên + Sớm hoàn thiện hệ thống kỹ thuật, nhanh chóng tiến hành nối mạng giữa các thành viên thị trường với NHNN để thị trường hoạt động thông suốt. + Tiến hành tổ chức các phiên giao dịch đều đặn hơn, cho phép các loại tín phiếu kho bạc kỳ hạn 1 năm giao dịch trên thị trường và trong thời gian tới, đưa thương phiếu vào giao dịch trên thị trường mở. + Cần tạo ra sự bình đẳng giữa các TCTD, giảm cho vay theo chỉ định,… để thu hút nhiều TCTD thuộc các thành phần kinh tế tham gia giao dịch trên thị trường mở. 2.2_Hoàn thiện các loại hình TTTT hiện có ở nước ta hiện nay 2.2.1_Hoàn thiện và phát triển thị trường tín dụng truyền thống ở nước ta hiện nay và trong vài năm tới, thị trường này vẫn chiếm tỷ trọng cao nhất và giữ một vai trò quan trọng. Để từng bước phát triển và hoàn thiện thị trường này tiến tới hội nhập nhất là trong điều kiện các hiệp định thương mại với các lộ trình tự do hoá dần như hiện nay, chúng ta phải thực hiện đồng bộ các giải pháp đối với cả hoạt động huy động vốn đến hoạt động cho vay, cụ thể: Đối với việc huy động vốn tín dụng ngắn hạn Việc tăng cường huy động vốn tín dụng ngắn hạn không những đòi hỏi ngoài việc đảm bảo ổn định môi trường kinh tế vĩ mô: ổn định tiền tệ, kiềm chế lạm phát, củng cố sức mua đồng tiền, ổn định tỷ giá hối đoái, thực hiện chính sách lãi suất theo cơ chế thị trường mà còn phải có những phương pháp, cách thức huy động vốn phù hợp hay nói cách khác đòi hỏi phải hoàn thiện các công cụ huy động vốn hiện có, bổ sung những công cụ mới thích hợp. Việc huy động vốn tín dụng ngắn hạn ở nước ta chủ yếu được thực hiện qua 2 kênh: tiền gửi tiết kiệm và tiền gửi thanh toán. Nhưng trong quá trình phát triển kinh tế, cộng với những tiến bộ của khoa học kỹ thuật thì tỷ trọng vốn huy động qua các công cụ huy động vốn cũng có sự thay đổi, lượng vốn huy động qua tiền gửi thanh toán của cá nhân các tổ chức kinh tế sẽ ngày càng tăng lên và chiếm tỷ trọng lớn. Do vậy, các biện pháp để tăng vốn huy động sẽ tập trung vào việc tăng vốn huy động qua công cụ tiền gửi thanh toán của các tổ chức kinh tế và cá nhân. Với công cụ này, do mục đích chính của người gửi tiền là dùng để thanh toán chứ không vì kinh doanh và do ngân hàng không phải in tiền và các loại chứng chỉ tiền gửi, mà tự các cá nhân và các tổ chức kinh tế thấy cần thiết phải mang tiền đến gửi để thực hiện thanh toán. Do đó lãi suất mà ngân hàng phải trả thường thấp hơn các loại huy động vốn khác, chi phí huy động cũng thấp, không những thế ngân hàng còn thu được một phần từ dịch vụ thanh toán, nên hình thức này có rất nhiều lợi ích xét về mặt kinh tế. Theo hướng này cần thực hiện các giải pháp sau: - Hoàn thiện và phát triển phương thức thanh toán không dùng tiền mặt phù hợp với cơ chế thị trường. Mặc dù năm 1991, NHNN đã ban hành Quyết định 101/QĐ-NH về thanh toán không dùng tiền mặt và Quyết định 181/QĐ-NH về thanh toán bù trừ, và ngày 25/11/1993 Chính phủ cũng đã ban hành Nghị định 91/CP về tổ chức thanh toán không dùng tiền mặt. Năm 1996, Chính phủ tiếp tục ban hành Nghị định 30/CP quy định về thanh toán séc trong nền kinh tế, nhưng cho đến nay, công tác thanh toán không dùng tiền mặt ở nước ta còn rất kém, tỷ lệ thanh toán dùng tiền mặt vẫn chiếm một tỷ trọng cao, đặc biệt là trong khu vực kinh tế ngoài quốc doanh và trong các tầng lớp dân cư. Điều này không những tạo ra sự kém hiệu quả trong việc sử dụng vốn mà còn gây mất an toàn xã hội, đồng thời còn tạo điều kiện cho các hoạt động kinh tế gây bất hợp pháp và tham nhũng…. Để phát triển phương thức thanh toán phải: đưa ra nhiều phương tiện thanh toán đa dạng; hoàn thiện nghiệp vụ thanh toán; hiện đại hoá công nghệ thanh toán. - Tạo lập môi trường kinh doanh bình đẳng đối với các loại hình ngân hàng, nới lỏng những quy định đối với các ngân hàng liên doanh, chi nhánh ngân hàng nước ngoài, ngân hàng cổ phần… để các ngân hàng này phát huy thế mạnh, kinh nghiệm trong việc huy động tiền gửi. - Xây dựng các điểm rút tiền, thanh toán tự động séc cá nhân, thẻ thanh toán tại các khu vực công cộng (mạng lưới các bưu cục, các siêu thị, khách sạn), tạo điều kiện để dân chúng không phải mất thời gian đến ngân hàng, kho bạc rút tiền mặt ra chi tiền. - Ngân hàng thực hiện thông báo thường xuyên về tình hình, số dư tài khoản cho các tổ chức kinh tế có tiền gửi tại ngân hàng thông qua mạng giúp các tổ chức này thường xuyên nắm được thực trạng số dư tài khoản của mình b. Đối với hoạt động cho vay Trong nền kinh tế thị trường, hoạt động của ngân hàng cũng như của bất kỳ một doanh nghiệp nào, yếu tố đầu ra luôn đóng vai trò quan trọng và quyết định. Chính hoạt động cho vay hay năng lực hấp thụ vốn đầu ra của các định chế tài chính là nhân tố cực kỳ quan trọng để thúc đẩy quá trình thu hút vốn đầu tư vào, từ đó góp phần phát triển thị trường tín dụng. Tuy nhiên, hoạt động cho vay còn rất nhiều bất cập, gây ảnh hưởng đến chất lượng và quy mô tín dụng: nợ quá hạn trong toàn bộ hệ thống cao, nền kinh tế thì thiếu vốn trong khi các ngân hàng lại thừa vốn không cho vay được…. Vì vậy, cần phải thực hiện các giải pháp sau để phát triển và nâng cao chất lượng của hoạt động cho vay: - Khuyến khích các ngân hàng, các TCTD đa dạng hoá các loại hình cho vay, kể cả hoạt động thuê mua, bảo lãnh tín chấp, đồng tài trợ, cho vay hợp vốn… - Tăng cường vốn tự có của các ngân hàng và các TCTD bởi vì dù các ngân hàng có nâng cao chất lượng, đa dạng hoá các hình thức cho vay nhưng theo quy định về tỷ lệ cho vay tối đa với một khách hàng trên vốn tự có của TCTD là 15% (tỷ lệ này cũng phù hợp với những chuẩn mực và thông ước quốc tế) trong khi vốn tự có của các ngân hàng nước ta lại quá nhỏ, do đó lượng cho vay không đáp ứng được nhu cầu vay vốn sản xuất kinh doanh. - Tiến hành xếp hạng tín nhiệm các doanh nghiệp để các ngân hàng có cơ sở, căn cứ cho vay - Xử lý những khoản nợ quá hạn: Tỷ lệ nợ xấu trong toàn bộ hệ thống Ngân hàng nói chung vẫn còn cao, một số năm gần đây nợ xấu chiếm khoảng 11% tổng dư nợ, trong đó Ngân hàng thương mại Nhà nước chiếm 9% (tỷ lệ nợ quá hạn an toàn theo tiêu chuẩn quốc tế là dưới 3%). Việc giải quyết nợ xấu đã được các Ngân hàng quan tâm tích cực giải quyết, song còn nhiều vướng mắc, số nợ tồn đọng là rất lớn, trong số nợ tồn đọng loại có tài sản đảm bảo chỉ chiếm 40% còn lại không có tài sản đảm bảo là 60%, trong 60% thì 20% là không có tài sản bảo đảm là những con nợ không còn hoạt động, hoặc gặp nguyên nhân khách quan về thiên tai, giải thể phá sản. Phần lớn con nợ là Doanh nghiệp Nhà nước hiệu quả sử dụng vốn thấp, thua lỗ chờ giải thể, nên nhiều khoản nợ xấu chưa được hạch toán chuyển nợ quá hạn, khoảng hơn 10.000 tỉ đồng tài sản thế chấp tồn đọng chưa xử lý được. - Cải tiến các quy định, thủ tục và điều kiện vay vốn, nhất là các quy định về bảo lãnh, cầm cố thế chấp tài sản để vay vốn ngân hàng. Thực hiện bình đẳng giữa các thành phần kinh tế trong việc tiếp cận tín dụng, mức lãi suất tín dụng. Chấm dứt việc dùng vốn tín dụng của các NHTM quốc doanh để ưu đãi hoặc hỗ trợ cho các doanh nghiệp Nhà nước. - Thành lập thêm một số ngân hàng chính sách nhằm tách hẳn chức năng tín dụng chính sách ra khỏi chức năng tín dụng thương mại để cho các NHTM hoạt động kinh doanh bình đẳng theo pháp luật. Hoặc phải tách bạch triệt để cơ chế tín dụng ưu đãi với cơ chế hoạt động kinh doanh của ngân hàng: đồng thời phải thực hiện giám sát chặt chẽ, tránh tình trạng hạch toán lẫn lộn. - Thay đổi cách xác định thời hạn tín dụng cho phù hợp với chu kỳ sản xuất kinh doanh (ví dụ như quy định thời hạn trả nợ đối với dự án đầu tư không quá 10 năm là không phù hợp vì có nhiều dự án lớn như dự án trồng cây công nghiệp dài ngày không thể đáp ứng yêu cầu này) - Tăng cường chức năng thẩm định, quản lý, giám sát con nợ của các ngân hàng. Ngân hàng phải có những điều kiện kiên quyết hơn đối với những khoản cho vay, kể cả việc bắt các doanh nghiệp vay vốn phải cải cách, đổi mới sản xuất kinh doanh để hoạt động có hiệu quả. 2.2.2_Hoàn thiện TTTT liên ngân hàng Đi vào hoạt động từ tháng 7/93, nhưng đến nay quy mô thị trường này vẫn còn nhỏ, kém linh hoạt, còn trông cậy nhiều vào sự bảo lãnh của NHNN, chưa đủ lớn mạnh để hội nhập. Để phát triển thị trường này đáp ứng được yêu cầu hội nhập cần tập trung vào thực hiện các vấn đề sau: -Đẩy mạnh việc củng cố hệ thống ngân hàng, tăng cường sức cạnh tranh, tiềm lực tài chính và thực hiện giám sát chặt chẽ hoạt động của các ngân hàng nhằm đảm bảo sự lành mạnh và an toàn của cả hệ thống và tạo ra những thành viên có đủ uy tín trên thị trường. -áp dụng kỹ thuật, công nghệ thanh toán hiện đại để đảm bảo việc thanh toán, chuyển vốn được thực hiện một cách nhanh gọn, chính xác ngay trong ngày, có như vậy, các giao dịch vay mượn rất ngắn từ 1 ngày đến 1 tuần mới có thể phát triển, đặc biệt là những giao dịch vốn qua đêm, một bộ phận chiếm tỷ trọng rất lớn trong thị trường liên ngân hàng. -Tổ chức đấu thầu thường xuyên tín phiếu kho bạc đồng thời phát triển các công cụ của TTTT khác như chứng chỉ tiền gửi, hối phiếu, kỳ phiếu, thương phiếu… để có các phương tiện làm thế chấp trong các quan hệ vay mượn giữa các ngân hàng, tránh những rủi ro trong các giao dịch cũng như sự lệ thuộc quá nhiều vào sự bảo lãnh của NHNN. -Thành lập các công ty môi giới làm trung gian cho các giao dịch trên thị trường nhằm giúp cho cung cầu trên thị trường này gặp nhau một cách dễ dàng, thuận lợi hơn. -Tiếp tục củng cố và hoàn thiện việc cung cấp thông tin của trung tâm thông tin tín dụng ngân hàng. -Sửa đổi, bổ sung và ban hành lại các văn bản pháp quy về thanh toán bù trừ liên ngân hàng cho phù hợp với Luật ngân hàng và tình hình mới. Mở rộng cho phép các thành viên khác của TTTT được tham gia thanh toán bù trừ, nhất là các ngân hàng liên doanh và chi nhánh ngân hàng nước ngoài. Khuyến khích các TCTD hoàn thiện cơ sở vật chất, trang thiết bị kỹ thuật để tiến tới thực hiện phương pháp thanh toán thủ công và bán thủ công đang áp dụng. Đồng thời cũng áp dụng các biện pháp bảo mật để tránh rủi ro trong thanh toán điện tử. Có vậy mới đáp ứng được yêu cầu thanh toán vốn nhanh chóng, chính xác, an toàn. 2.2.3_Hoàn thiện thị trường mua bán các chứng khoán ngắn hạn a. Thị trường tín phiếu kho bạc Tín phiếu kho bạc thường có mức độ rủi ro thấp nên được ưu chuộng trên TTTT, chúng cũng là công cụ được sử dụng để tạo nguồn bù đắp cho thiếu hụt chi tiêu của chính phủ, nên có thể nói đây là bộ phận thị trường quan trọng và chiếm tỷ trọng lớn trong TTTT. Nếu thị trường tín phiếu kho bạc phát triển sẽ khiến cho các hoạt động trên TTTT trở lên sôi động hơn, hoà nhập vào xu thế Quốc tế. Vì vậy, cần phải đưa ra các giải pháp nhằm phát triển thị trường tín phiếu kho bạc đủ khả năng hội nhập: - Tổ chức đấu thầu tín phiếu kho bạc một cách đều đặn thường xuyên nhằm giúp các NHTM, các TCTD phi ngân hàng, các doanh nghiệp có kế hoạch chủ động sử dụng vốn của mình, đồng thời khi cần thiết có thể bán ra thị trường để thu tiền, như vậy một lượng tín phiếu sẽ là căn cứ để thực hiện các giao dịch mua bán lại. Tuy nhiên , quy mô phát hành tín phiếu kho bạc phải được đặt trong mối quan hệ nhu cầu của ngân sách nhà nước và hiệu quả kinh tế tổng thể giữa vay của thị trường nội địa và vay ở thị trường nước ngoài. - Kho bạc Nhà nước nên phát hành nhiều loại tín phiếu kho bạc với thời hạn khác nhau như: 3 tháng, 6 tháng, 9 tháng hoặc 1 năm, với mức lãi xấp xỉ gần bằng lãi suất của tiền gửi có kỳ hạn cùng loại của Ngân hàng để khuyến khích các chủ thể đầu tư vào công cụ này, đồng thời hạn chế sự ỷ lại của ngân sách Nhà nước vào Ngân hàng như đối với loại tín phiếu kho bạc 364 ngày trong thời gian qua. - Hạn chế việc phát hành tín phiếu kho bạc ghi danh, mở rộng phát hành tín phiếu kho bạc vô danh có thể chuyển nhượng, để tạo điều kiện cho chúng được trao đổi mua bán trên thị trường thứ cấp. - Có các quy chế nới lỏng để mở rộng các thành viên tham gia, đặc biệt là các tổ chức tài chính phi ngân hàng và xác định lãi suất trúng thầu một cách hợp lý, theo sát thực tế thị trường để thu hút các thành phần tham gia. Lãi suất này sẽ là căn cứ, cơ sở để tác động đến lãi suất phát hành trái phiếu chính phủ trên trung tâm giao dịch chứng khoán và các loại lãi suất cho vay ưu đãi khác từ nguồn vốn ngân sách Nhà nước. Kinh nghiệm của nước ta trong các năm qua cho thấy việc cố giữ lãi suất tín phiếu kho bạc thấp hơn lãi suất thị trường đã làm giảm đáng kể khối lượng tín phiếu bán ra và cản trở sự phát triển của thị trường thứ cấp. Do vậy, rất cần có sự phối hợp giữa Bộ tài chính và NHNN trong việc xây dựng các tiêu chí và phương thức hình thành lãi suất phù hợp với thị trường. - Thông báo đấu thầu kịp thời và sớm đến các thành viên thị trường, tránh các trường hợp các thành viên thị trường phải đặt thầu gấp, không kịp ký quỹ hoặc không kịp tham gia đặt thầu. - Đẩy mạnh công tác môi giới trung gian các giao dịch mua bán lại tín phiếu sau khi đấu thầu cũng như công tác thông tin, tuyên truyền, phổ biến nghiệp vụ đấu thầu và mua bán lại sau khi đấu thầu. - Nhanh chóng hoàn thiện và phát triển nghiệp vụ thị trường mở để tạo thị trường thứ cấp cho tín phiếu kho bạc hoạt động. - NHNN cần giám sát chặt chẽ việc giao dịch trên thị trường thứ cấp thông qua theo dõi của Sở Giao dịch và có chính sách chiết khấu thích hợp để hỗ trợ thị trường. b. Thị trường tín phiếu Ngân hàng Nhà nước Đây là công cụ có độ rủi ro thấp nên cũng rất được ưa chuộng trên thị trường tiền tệ, giúp phát triển thị trường tiền tệ lớn mạnh hơn, dần đáp ứng được các yêu cầu hội nhập. Tuy nhiên, NHNN chỉ nên sử dụng tín phiếu Ngân hàng Nhà nước khi thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt kiềm chế lạm phát, rút bớt tiền trong lưu thông. Để hoạt động này có hiệu quả cần tuân thủ các yêu cầu: - Thực hiện hình thức tín phiếu Ngân hàng Nhà nước ghi sổ để tạo điều kiện thuận tiện cho việc mua bán, chuyển nhượng trên thị trường thứ cấp. - Cải tiến và thực hiện các thể thức mua lại thuận lợi, thông qua phương thức tái cấp vốn, tái chiết khấu ngắn hạn để khuyến khích các Ngân hàng mua tín phiếu thay vì hình thức mua bắt buộc. Chỉ có trên cơ sở thực hiện tốt các yêu cầu này thì tín phiếu Ngân hàng Nhà nước mới thực sự trở thành công cụ hữu dụng của TTTT. c. Thị trường chứng chỉ tiền gửi, kỳ phiếu ngân hàng Chứng chỉ tiền gửi (CDS ) trên TTTT là những giấy biên nhận có khả năng chuyển nhượng về khoản vốn gửi tại một ngân hàng hay một tổ chức tài chính nào khác, nó là một công cụ vô danh có mức lãi suất và thời gian đáo hạn cố định. ở nước ta, CDS này hầu như chưa thể chuyển nhượng được, trừ một số kỳ phiếu của các NHTM quốc doanh, khác xa với những diễn biến trên TTTT Quốc tế, do vậy, để phát triển được thị trường CDS, tăng khả năng hội nhập Quốc tế của TTTT Việt Nam, cần thực hiện các giải pháp sau: - Cần phải quy định chuẩn hoá các loại CDS về hình thức, nội dung, kỳ hạn cũng như các quy định về việc phát hành, lưu thông và chuuyển nhượng. Để tạo điều kiện cho CDS được lưu thông trên thị trường thuận lợi, cần phải hướng dẫn Ngân hàng thực hiện các quy định thì được cấp giấy phép phát hành CDS. - Đưa vào sử dụng rộng rãi các loại CDS như: CDS lãi suất cố định, CDS lãi suất thả nổi, CDS lãi suất chiết khấu, CDS ngoại tệ để tạo ra sự phong phú, đa dạng các công cụ cho TTTT và tăng khả năng thu hút vốn cho các ngân hàng. - Nâng cao khả năng chuyển nhượng, đảm bảo quyền lợi cho người nắm giữ CDS, cho phép người sở hữu CDS bán chứng trước thời hạn cho bất kỳ một tổ chức tài chính nào nếu được chấp nhận, nhằm mục đích tăng tính hấp dẫn cũng như tính lỏng của công cụ này. - Tạo sân chơi bình đẳng và phải trao quyền hạn, quy trách nhiệm rõ ràng cho các Ngân hàng trong việc phát hành CDS, đồng thời tăng cường công tác kiểm tra, giám sát việc phát hành CDS, nhằm bảo đảm an toàn cho người nắm giữ CDS và CDS được lưu thông rộng rãi. Trong điều 46, chương III luật các TCTD đã ghi khi được thống đốc Ngân hàng Nhà nước chấp thuận thì TCTD được phát hành CDS trái phiếu và giấy tờ có giá khác để huy động vốn. Cho đến nay thống đốc NHNN mới chấp thuận cho một Ngân hàng nước ngoài được phát hành CDS bằng VNĐ loại 24 tháng, nên trong TTTT ở Việt nam còn vắng bóng công cụ này. - Để phát triển thị trường thì yếu tố rất quan trọng là phải có các biện pháp để phát triển đồng bộ, song song cả thị trường sơ cấp và thị trường thứ cấp, do vậy cần tạo điều kiện cho thị trường thứ cấp của CDS hoạt động. d. Thị trường thương phiếu: Pháp lệnh thương phiếu đã có hiệu lực từ ngày 1/7/2000, Luật các tổ chức tín dụng đã quy định về chiết khấu, tái chiết khấu, cầm cố thương phiếu, nhưng đến nay các văn bản hướng dẫn pháp lệnh chưa được ban hành nên thương phiếu vẫn chưa được xuất hiện trên TTTT Việt Nam mặc dù nhu cầu và khả năng sử dụng thương phiếu ở Việt Nam là rất to lớn. Hơn nữa, trên TTTT Quốc tế, thương phiếu là một công cụ rất phổ biến. Vì vậy, để có thể đưa thị trường thương phiếu vào hoạt động, tiến dần tới việc hoàn thiện và hội nhập, cần có những giải pháp sau: - Sớm ban hành các văn bản pháp lý cụ thể quy định và hướng dẫn về hoạt động của thị trường thương phiếu trên cơ sở phối hợp giữa các bộ, ngành hữu quan như: Bộ Tài chính, NHNN, Bộ Tư pháp, Bộ thương mại. Các văn bản này phải đảm bảo sự đồng bộ, thống nhất, và nhất quán. - Bên cạnh đó, các TCTD cũng phải sớm có quy chế chiết khấu và tái chiết khấu thương phiếu của mình. - Cần phải quy định rõ các mức phạt cụ thể và các cơ quan đứng ra xử lý các tranh chấp đối với những vi phạm về thương phiếu của các chủ thể hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam để đảm bảo sự an toàn cho người cầm giữ thương phiếu. - Đồng thời, cần nhanh chóng tiến hành xếp hạng tín nhiệm đối với các doanh nghiệp để các ngân hàng có cơ sở đứng ra đảm bảo bằng thư tín dụng, tạo điều kiện cho các nhà phát hành tham gia vào thị trường thương phiếu. 3. Nâng cao hiệu quả hoạt động của các thành viên 3.1_Ngân hàng Nhà nước NHNN là thành viên đặc biệt của TTTT, thông qua nghiệp vụ thị trường mở mua bán các công cụ trên TTTT nhằm thực hiện mục tiêu của chính sách tiền tệ trong từng thời kỳ, đồng thời cũng là người tổ chức, trực tiếp quản lý điều hành một số loại hình thị trường, đặc biệt là thị trường liên ngân hàng. Tuy nhiên, ngoài những thành công của NHNN, việc TTTT Việt Nam hiện còn kém phát triển và thiếu linh hoạt chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập một phần là do NHNN chưa thực hiện tốt vai trò điều tiết của mình trên TTTT. Vì vậy, cần có những giải pháp để nâng cao năng lực hoạt động của NHNN, xây dựng một NHNN mạnh, có tầm cỡ. - Với tư cách là NHTW, NHNN trước hết phải tập trung thực hiện tốt các chức năng của NHTW, trong hoạt động của TTTT phải đảm bảo là người can thiệp cuối cùng vào thị trường và chỉ nên thông qua các công cụ quản lý gián tiếp để tác động chi phối. Muốn vậy, phải tiến hành cải tiến và xây dựng các công cụ chính sách tiền tệ phù hợp với điều kiện của nước ta hiện nay, đặc biệt là công cụ gián tiếp. - Trong điều hành quản lý cần phải tôn trọng các quy luật khách quan và cơ chế thị trường. Đảm bảo quyền tự chủ kinh doanh cho các tổ chức ngân hàng, tín dụng; đồng thời đặc biệt chú trọng nâng cao năng lực giám sát của NHNN bởi đây là chìa khoá đảm bảo an ninh tiền tệ và là cơ sở quan trọng nhất để TTTT phát triển lành mạnh, có hiệu quả. - Xây dựng chiến lược tổng thể để có kế hoạch, bước đi, chính sách phù hợp trong quá trình tạo dựng, phát triển TTTT. - Đảm bảo bình đẳng theo pháp luật đối với mọi loại hình ngân hàng và các TCTD, thúc đẩy cạnh tranh lành mạnh - Thiết lập hệ thống thông tin, báo cáo mới giữa NHNN với các Bộ, ngành và chính quyền địa phương để phối hợp điều hành chính sách tiền tệ. - Hiện đại hoá trung tâm thanh toán, xây dựng trung tâm thanh toán quốc gia tại NHTW, kiện toàn và phát triển hình thức thanh toán bù trừ và các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt khác để đảm bảo tính hiệu quả và tăng nhanh quá trình luân chuyển vốn trong nền kinh tế. - Nâng cao năng lực phân tích, dự báo diễn biến của cung cầu tiền tệ, lãi suất, tỷ giá của TTTT để có thể ra những quyết định chính sách đúng đắn và can thiệp kịp thời. - Tiến hành rà soát và bãi bỏ những Công văn, Chỉ thị, Quyết định không còn phù hợp với tình hình hiện tại cũng như việc cấp giấy phép con không cần thiết để tạo ra sự đồng bộ, thống nhất trong các chính sách cũng như tạo ra chủ động tích cực trong hoạt động kinh doanh tiền tệ của các ngân hàng. - Từng bước cải tiến mô hình tổ chức, cấu trúc lại hệ thống NHTM từ trung ương đến địa phương theo hướng tinh giảm bộ máy biên chế, khắc phục chồng chéo. - Kiện toàn lại hệ thống thanh tra của NHNN, tăng cường công tác thanh tra, giám sát của NHNN đối với hoạt động của các NHTM, tập trung vào những nhiệm vụ trọng yếu như: chất lượng tín dụng, quản lý rủi ro và đảm bảo khả năng thanh toán; cải thiện và nâng cao chất lượng thanh tra; về lâu dài phải hình thành bộ máy giám sát tài chính và tiền tệ quyền lực mạnh, hiệu quả và có tính độc lập cao. 3.2_Ngân hàng thương mại Để thị trường tiền tệ tiếp tục phát triển và hội nhập Quốc tế thì việc tạo ra hệ thống NHTM vững mạnh, hiệu quả, sức cạnh tranh cao có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Chính vì vậy, nhiệm vụ trọng tâm hiện nay và những năm tiếp theo là phải đẩy mạnh và cương quyết lành mạnh hoá toàn bộ hệ thống ngân hàng, các TCTD; chấn chỉnh, củng cố toàn diện hệ thống NHTM phù hợp với nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa và hội nhập Quốc tế. Để đạt mục tiêu này cần: - Có biện pháp nâng cao tiềm lực tài chính, mức vốn tự có cho các NHTM (hiện nay các NHTM của ta đều có vốn tự có rất thấp so với khu vực) *Đối với các NHTM quốc doanh: có thể bổ sung vốn tự có từ các nguồn: w Thực hiện cổ phần hoá một số NHTM quốc doanh để tăng vốn w Phát hành trái phiếu chính phủ để lấy nguồn bổ sung hoặc NHNN cho vay dưới hình thức tái cấp vốn để tăng tiềm lực tài chính. w Cho phép các ngân hàng giữ lại một phần hoặc toàn bộ khoản nộp về sử dụng vốn ngân sách Nhà nước để bổ sung vốn. *Đối với các NHTM cổ phần: w Giải thể hoặc sát nhập các đơn vị yếu kém w Thí điểm gọi vốn nước ngoài thông qua bán cổ phần cho người nước ngoài. w Phát hành cổ phiếu mới w Tăng quy định về vốn pháp định đối với loại hình NHTM cổ phần - Củng cố và lành mạnh hoá tài chính của các NHTM, trên cơ sở: + Cơ cấu lại nợ, có các biện pháp tạo nguồn tài chính để xử lý số nợ đọng, nợ khoanh, tạo môi trường tài chính lành mạnh cho ngân hàng hoạt động. + Tách các nghiệp vụ chính sách và cho vay theo chỉ định của chính phủ ra khỏi các hoạt động của các NHTM quốc doanh, loại bỏ độc quyền, nhằm tạo điều kiện và sức ép nâng cao khả năng cạnh tranh của các NHTM quốc doanh. + Ban hành cơ chế để xử lý tài sản thế chấp, lập Trung tâm dịch vụ bán đấu giá, phát triển các Công ty mua bán nợ để tạo điều kiện cho các ngân hàng tiến hành phát mại được tài sản thế chấp thu hồi các khoản nợ. + Cải thiện chất lượng quản lý tài sản nợ của các NHTM, đặc biệt là phân định rõ bản chất và mức độ rủi ro của các loại tài sản, tăng cường giám sát quản lý thu hồi nợ, cải tiến chính sách khách hàng và điều kiện tín dụng, trích lập các quỹ để bù đắp các khoản vốn thất thoát. - áp dụng hệ thống kế toán theo thông lệ Quốc tế, thực hiện kiểm toán định kỳ về công khai tài chính đối với các NHTM. - Sớm thực hiện đề án ứng dụng công nghệ tin học vào dịch vụ thanh toán của toàn bộ hệ thống ngân hàng. - Phát triển các chiến lược kinh doanh của các NHTM trên cơ sở đánh giá đúng các điểm mạnh, điểm yếu, thách thức, cơ hội và môi trường kinh doanh mới phù hợp với lộ trình mở cửa TTTT. - Nâng cao năng lực quản trị, kinh doanh của các NHTM, áp dụng các công cụ và cách thức quản lý mới cho phù hợp và theo kịp các nước trong khu vực, đặc biệt trong công tác quản lý vốn khả dụng có hiệu quả. - Đẩy mạnh hơn nữa công tác đào tạo, nâng cao trình độ kỹ năng mọi mặt của đội ngũ cán bộ lãnh đạo, xử lý nghiêm minh những tổ chức và cá nhân có sai phạm, từ đó rút ra bài học trong công tác đào tạo, quản lý cán bộ. 3.3_ Các tổ chức môi giới Công ty môi giới là một hình thức rất phổ biến trên TTTT quốc tế. Để phát triển và hội nhập TTTT Việt Nam, cần thiết phải lập một mạng lưới các công ty môi giới. Để thiết lập loại hình này, đầu tiên nên thiết lập một vài công ty môi giới thuộc các NHTM lớn hoạt động theo Luật doanh nghiệp để từng bước rút NHNN ra khỏi vai trò môi giới và chỉ đóng vai trò quản lý vĩ mô trên TTTT. Trước mắt, nên thiết lập bộ phận môi giới tiền tệ như là một phòng của các công ty tài chính, công ty đầu tư chứng khoán trực thuộc các NHTM. Như vậy, các công ty này có thể vừa môi giới trên TTTT vừa môi giới trên thị trường chứng khoán bởi vì thời gian đầu cả hai loại thị trường này còn chưa phát triển, các môi giới chưa phức tạp và chưa nhiều. Sau này khi TTTT đã phát triển hơn thì có thể tách rời bộ phận này ra thành một công ty môi giới riêng hoạt động trên TTTT. Điều quan trọng là các công ty môi giới này phải được luật pháp thừa nhận. Khi nào TTTT phát triển tiến đến một mức độ nhất định thì các mạng lưới môi giới sẽ tự động phát triển theo như là một tất yếu của thị trường. 3.4_Các Công ty tài chính Các công ty tài chính ở nước ta hầu như là còn non trẻ. Xét về tiềm năng, các tổ chức này là các chủ thể có vai trò đáng kể trên TTTT, cho nên khi hệ thống các công ty này phát triển mạnh sẽ có tác dụng thúc đẩy TTTT phát triển nâng cao khả năng hội nhập. Tuy nhiên, từ kinh nghiệm của Thái Lan và Malaixia, nếu chúng ta quá dễ dàng cho các công ty này tham gia TTTT hoặc huy động tiền gửi thì cũng có thể tạo nên những hậu họa nghiêm trọng. Để phát triển hệ thống các công ty tài chính, nhất là việc cho phép huy động tiền gửi, một mặt phải đưa ra các tiêu chuẩn cụ thể, mặt khác phải tăng cường công tác kiểm tra, giám sát hoạt động ở các công ty tài chính, đảm bảo sự hoạt động lành mạnh, an toàn, phát huy được vai trò đối với nền kinh tế. 4. Đa dạng hoá và phát triển các công cụ mới của TTTT Các công cụ trên TTTT chính là hàng hoá cho thị trường hoạt động, nhưng nó phải đa dạng, phong phú, phù hợp với nhu cầu của thị trường cả ở hiện tại và trong tương lai. Như vậy, để phát triển và hội nhập TTTT nước ta đòi hỏi phải củng cố, hoàn thiện các công cụ đã có, đồng thời phải tạo ra các công cụ mới phù hợp với trình độ phát triển của TTTT và xu thế trên TTTT Quốc tế. 4.1_Các hợp đồng mua lại Để phát triển các công cụ này, NHNN cần soạn thảo một thỏa ước chung về hợp đồng mua lại để cho các thành viên thị trường cùng ký kết. Trong đó cần phải bao hàm đầy đủ các nội dung sau: *Thời hạn hợp đồng và giá chứng khoán ngắn hạn được mua bán: Do hai bên thoả thuận *Quyền lợi của người được chuyển nhượng: người được chuyển nhưọng có đầy đủ quyền sở hữu đối với chứng khoán trong thời gian hợp đồng, có thể thực hiện các quyền gắn với quyền sở hữu cho đến khi hết hạn hợp đồng *Thể thức giao chứng khoán và thời điểm chuyển quyền sở hữu + Chuyển giao thực sự: Trực tiếp giao chứng khoán ngắn hạn cho nhau hoặc chuyển chứng khoán ghi sổ. + Chuyển giao về mặt pháp lý: Người chuyển nhượng vẫn giữa chứng khoán nhưng cam kết sẽ cá biệt hoá các chứng khoán đã chuyển nhượng theo tên của người được chuyển nhượng hoặc người được uỷ quyền và người này có quyền kiểm tra số chứng khoán đó bất cứ lúc nào trong thời gian hợp đồng. *Nghĩa vụ của các bên + Trong thời gian hợp đồng, người chuyển nhượng không được phép chuyển nhượng hoặc đem thế chấp chứng khoán cho một bên thứ ba khác. + Khi hợp đồng đến hạn, người chuyển nhượng phải thanh toán cho người được chuyển nhượng theo giá đã thoả thuận và người này có trách nhiệm trả lại chứng khoán đã nhận cho người chuyển nhượng nên đã nhận chứng khoán hoặc ra lệnh chuyển khoản chứng khoán ghi sổ. Trường hợp chứng khoán vẫn do người chuyển nhượng giữ thì chỉ cần chấm dứt việc có thể hoá chứng khoán đó theo tên người được chuyển nhượng. - Trong thời gian trước mắt, để tăng tính hiệu quả của công cụ này thì chỉ nên quy định giao dịch các hợp đồng mua lại có kỳ hạn tối đa là 30 ngày, nếu có thời hạn dài hơn sẽ ảnh hưởng đến thị trường và lấn sân các giao dịch khác. 4.2_Các công cụ khác Ngoài hợp đồng mua lại, cũng cần phải có các biện pháp, chính sách, để đưa thêm các công cụ khác vào hoạt động nhằm tạo sự đa dạng cho các công cụ như: chấp phiếu ngân hàng, chứng chỉ tiền gửi; đặc biệt là các công cụ đang phổ biến trên thị trường tiền tệ Quốc tế như: tiền gửi kỳ hạn Eurocurrency, chứng chỉ tiền gửi Eurocurrency có thể chuyển nhượng, các hợp đồng tương lai bảo hiểm rủi ro lãi suất, các hợp đồng kỳ hạn bảo hiểm rủi ro lãi suất… 5. Hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật và đào tạo nguồn nhân lực Một nguyên nhân quan trọng làm cho TTTT Việt Nam chậm phát triển dẫn tới chưa đáp ứng được yêu cầu hội nhập là do lực lượng cán bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ tại các TCTD còn yếu kém về năng lực và trình độ. Hầu hết là được đào tạo trong thời kỳ nền kinh tế được quản lý theo cơ chế tập trung quan liêu bao cấp, vì vậy, rất lúng túng khi chuyển sang hoạt động kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường, trong môi trường luật pháp sơ khai, không đồng bộ. Khả năng phân tích và thẩm định dự án của cán bộ hoạt động kinh doanh tiền tệ rất yếu, đồng thời, một bộ phận không nhỏ suy thoái về đạo đức, tiếp tay móc ngoặc với khách hàng…là nguyên nhân làm cho tỷ lệ nợ quá hạn của hệ thống TCTD cao, hiệu quả hoạt động kinh doanh tiền tệ thấp. Do đó, cần có các giải pháp đồng bộ đào tạo đội ngũ cán bộ hoạt động trong lĩnh vực kinh doanh tiền tệ vừa có trình độ, năng lực chuyên môn cao, vừa có phẩm chất đạo đức tốt: - Nhanh chóng nâng cao kiến thức về kinh tế thị trường, trình độ am hiểu về pháp luật và bồi dưỡng kiến thức nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ theo cơ chế thị trường thông qua đào tạo và đào tạo lại. - Xây dựng các mô hình thực hành, nâng cao kỹ năng nghiệp vụ kinh doanh tiền tệ; Ban hành quy chế, quy trình hoạt động đối với cán bộ kinh doanh tiền tệ sát hợp với thực tế, điều hành theo cơ chế và kiểm tra giám sát, xử lý theo quy chế, quy trình; Khen thưởng và xử phạt nghiêm minh, kịp thời; gắn quyền lợi với trách nhiệm. - Thường xuyên thực hiện việc kiểm tra, kiểm soát và thực hiện luân phiên cán bộ thanh tra để hạn chế những hiện tượng tiêu cực - Thường xuyên trau dồi đạo đức, tác phong làm việc khoa học - Để tạo điều kiện cho đội ngũ kinh doanh tiền tệ hoạt động hiệu quả cần có một số biện pháp bổ trợ, trong đó, quan trọng nhất là tạo môi trường pháp lý đồng bộ, phù hợp với điều kiện môi trường kinh doanh tiền tệ của Việt Nam… Bên cạnh việc nâng cao năng lực hoạt động của đội ngũ cán bộ, hiện đại hoá cơ sở vật chất kỹ thuật nhằm đáp ứng khả năng hội nhập Quốc tế cũng là một yêu cầu rất cấp bách. Kể từ khi chuyển sang nền kinh tế thị trường, hoạt động của các chủ thể kinh doanh trên TTTT, đặc biệt là hệ thống các tổ chức tín dụng, NHNN, kho bạc Nhà nước… đã được hiện đại hoá, tuy nhiên còn thấp so với yêu cầu nâng cao hiệu quả hoạt động và còn khoảng cách khá xa so với khu vực và thế giới. Vì vậy, cần có các giải pháp hiện đại hoá hoạt động kinh doanh tiền tệ, nhằm tiến tới hội nhập với TTTT khu vực và thế giới. Trong đó, đặc biệt cần hiện đại hoá hệ thống thông tin. Chính vì thiếu thông tin về khách hàng, về thị trường và khả năng trao đổi thông tin giữa các tổ chức tín dụng hạn chế dẫn đến khả năng phân tích và thẩm định dự án của cán bộ kinh doanh tiền tệ yếu kém. Do đó, cần phải có giải pháp xây dựng hệ thống thông tin hiện đại, nối mạng thông suốt giữa các chủ thể tham gia hoạt động trên TTTT; giữa NHNN, kho bạc Nhà nước với các TCTD, giữa các TCTD với nhau; giữa các TCTD với các khách hàng là doanh nghiệp…

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep h.doc
  • docKhoa luan (muc luc).doc
  • dockhoa luan (phu luc).doc
Tài liệu liên quan