Khóa luận Giao nhận và vấn đề quản lý Nhà nước về giao nhận

Thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giao nhận là điều tất yếu nếu chúng ta muốn phát triển một ngành giao nhận có chuyên môn thực sự và ngày càng hiện đại hơn. Hơn nữa, đó cũng là một trong những xu thế của hội nhập. Do đó, trong điều kiện của Việt Nam hiện nay việc có được một chính sách đối với hoạt động đầu tư nước ngoài phù hợp với hội nhập có tính đến hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Tinh thần chung là trước mắt, chúng ta không nên mở cửa tự do cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực giao nhận bởi vì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ta chưa mạnh. Nhưng về lâu dài, với xu thế tiến tới tự do hóa đầu tư, hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận của các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường Việt Nam cần được khuyến khích và không bị phân biệt với các nhà đầu tư trong nước. Điều quan trọng là Nhà nước cần tiến hành xây dựng lộ trình hội nhập của hoạt động kinh doanh giao nhận. Đặt mục tiêu và lập thời gian biểu cho mục tiêu cần đạt, xác định được những mảng nào của dịch vụ được ưu tiên khuyến khích hay hạn chế đầu tư nước ngoài, hình thức đầu tư ra làm sao v.v. Chẳng hạn hiện thời không cấp giấy phép kinh doanh cho nhà đầu tư nước ngoài xin thành lập công ty giao nhận 100% vốn, chỉ cho phép họ đầu tư dưới hình thức liên doanh với vốn góp của phía Việt Nam tối thiểu là 51%. Và hình thức liên doanh chỉ được cho phép trong những trường hợp thực sự cần thiết và cũng chỉ trong trường hợp này mới cho phép các liên doanh này có thể làm đại lý hàng hóa cung ứng dịch vụ cho tàu nước ngoài cũng như tàu Việt Nam ra vào các cảng của ta hay có thể làm đại lý thủ tục hải quan cho chủ hàng xuất nhập khẩu. Sau đó, những quy định hạn chế sẽ được nới lỏng dần cùng với mức hội nhập theo các cam kết giữa nước ta và các nước trong khu vực và trên thế giới, tức lúc đó các nhà đầu tư nước ngoài có thể tuỳ ý lựa chọn bất kỳ lĩnh vực đầu tư nào và kể cả bất kỳ hình thức đầu tư nào mà họ thấy có khả năng. Đồng thời, cần phải xây dựng được những doanh nghiệp Nhà nước đủ mạnh đóng vai trò là một bên liên doanh với nước ngoài, trong đó đảm bảo được đội ngũ cán bộ tham gia liên doanh phải nắm vững luật pháp, có trình độ chuyên môn và có đạo đức. Bởi vì, trước mắt hay lâu dài đây vẫn là một trong những hình thức mà phần nào Nhà nước có thể dựa vào đó để tham gia thị trường nhằm thực hiện mục đích của việc thu hút đầu tư. Mặt khác, cũng xúc tiến nghiên cứu trước một bước việc xây dựng hệ thống pháp luật đối với hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh cải cách kinh tế, cải cách hành chính, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, và không ngừng nỗ lực tạo môi trường kinh doanh ngày một thuận lợi hơn v.v. để chuẩn bị cho xu hướng cởi mở thu hút đầu tư nước ngoài trong tương lai.

doc78 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1626 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Giao nhận và vấn đề quản lý Nhà nước về giao nhận, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
mở rộng và dần trở thành một ngành quan trọng trong nền kinh tế quốc dân, có những đóng góp đáng kể cho sự hùng thịnh của nước nhà. Số lượng các doanh nghiệp giao nhận tăng nhanh và ngày một nhiều. Khi nói đến sự chuyển mình đó của ngành giao nhận không thể không kể đến những nỗ lực trong thời gian qua của Nhà nước với vai trò chức năng quản lý đối với ngành. Có thể khẳng định rằng, cho đến thời điểm này tư cách pháp lý của người giao nhận Việt Nam về cơ bản đã được xác nhận. Như đã đề cập ở các chương trước, lần đầu tiên quyền lợi, nghĩa vụ và trách nhiệm của người giao nhận đã được quy định trong hệ thống pháp luật của Việt Nam (cụ thể là tại Điều 163 đến Điều 171 của Luật Thương mại). Điều này thực sự có ý nghĩa quan trọng đối với các doanh nghiệp giao nhận Việt Nam bởi các doanh nghiệp này cũng rất cần sự bảo vệ quyền lợi hợp pháp của mình. Những phạm vi hoạt động cụ thể khác của doanh nghiệp giao nhận cũng được quy định trong các luật khác chẳng hạn như dịch vụ làm thủ tục hải quan được quy định trong Luật Hải quan và nghị định hướng dẫn thi hành luật, dịch vụ vận tải với vấn đề thuế giá trị gia tăng (VAT) của doanh nghiệp được điều chỉnh trong Luật VAT và các văn bản hướng dẫn cụ thể khác... Những văn bản pháp quy mà Nhà nước ban hành trong lĩnh vực này tuy còn chưa rõ ràng, cụ thể nhưng cũng đã phần nào nói lên được những quan tâm ngày càng lớn của Nhà nước ta đối với ngành. Các cơ quan chức năng của Nhà nước thuộc các bộ, ngành khác nhau nhìn chung không ngừng phấn đấu tạo ra môi trường thông thoáng cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Những khó khăn vướng mắc của doanh nghiệp giao nhận trong việc thực thi pháp luật của Nhà nước cũng như những ách tắc gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của họ cũng được Nhà nước quan tâm và tháo gỡ. Đặc biệt, Nhà nước đã nhận thức sâu sắc được sự nhất thiết cần phải bảo hộ các doanh nghiệp giao nhận còn non trẻ của ta hiện nay. Đó không phải là tư tưởng mang tính bảo thủ, hoàn toàn đi ngược với xu thế hội nhập hiện nay mà là sự tính toán kỹ lưỡng cho sự thích nghi với môi trường cạnh tranh mới của các doanh nghiệp giao nhận Việt Nam. Nghị định số 10/2001 về điều kiện kinh doanh hàng hải là một cụ thể hóa cho vấn đề đó. Nghị định 10/2001/NĐ - CP đã góp phần tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh trong lĩnh vực này có cơ hội để tăng cường sự lớn mạnh, đem lại công ăn việc làm cho nhiều người lao động, tăng thu nhập, nâng cao sức cạnh tranh cũng như tích luỹ tài chính, kinh nghiệm cho việc hội nhập của các doanh nghiệp giao nhận trong nay mai. Trong thời gian qua Nhà nước đã phối hợp tương đối chặt chẽ với VIFFAS trong công tác quản lý của mình. Được thành lập với mục đích phát triển ngành nghề giao nhận, đại diện cho quyền lợi của các doanh nghiệp hội viên nói riêng và doanh nghiệp giao nhận nói chung, VIFFAS đã phản ảnh lên Chính phủ và các cơ quan quản lý những vướng mắc trong hoạt động của các doanh nghiệp cũng như những tâm tư nguyện vọng của họ. Phía cơ quan quản lý Nhà nước cũng đã lắng nghe những kiến nghị của VIFFAS, cùng với VIFFAS tìm hướng tháo gỡ khó khăn, tạo điều kiện thuận lợi cho hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Mặt khác, trên cơ sở tham mưu của VIFFAS Nhà nước đã ban hành ra những quy định đảm bảo được tính chuyên môn nghề nghiệp và mang tính sát thực hơn, từ đó giảm thiểu được những phiền hà có thể có mà một văn bản không phù hợp gây ra cho cả Nhà nước lẫn doanh nghiệp trong ngành. Bên cạnh đó, thông qua VIFFAS mà Nhà nước thực hiện được mục đích cuối cùng của hoạt động quản lý ngành nghề giao nhận là việc các doanh nghiệp giao nhận của ta có điều kiện giao lưu nghề nghiệp với các đồng nghiệp trên thế giới, từ đó phát triển ngành nghề giao nhận trong nước đạt trình độ quốc tế. Tóm lại, Nhà nước đã có nhiều hoạt động tích cực nhằm cải thiện môi trường kinh doanh của các doanh nghiệp được thông thoáng hơn. Bên cạnh đó, các doanh nghiệp cũng nhận được sự ưu đãi, hỗ trợ từ phía Nhà nước để tăng cường sự lớn mạnh của mình trong giai đoạn đầu phát triển. 2. Nhược điểm. Những nỗ lực trong công tác quản lý của Nhà nước đối với ngành nhìn chung là đáng kể, điều đó là không thể phủ nhận được. Song còn một số bất cập tồn tại cần được giải quyết để tăng cường hơn nữa chức năng vai trò quản lý của Nhà nước. ở mức độ nào đó, có thể nói, hệ thống pháp luật, cơ chế chính sách của Việt Nam còn chưa tương xứng với tiềm năng phát triển của ngành giao nhận, đặc biệt hành lang pháp lý còn chưa hoàn thiện, vẫn còn thiếu một hệ thống văn bản pháp luật hoàn chỉnh để quản lý hoạt động của lĩnh vực này nên đã làm hạn chế đến hiệu quả kinh doanh, cũng như hiệu quả quản lý Nhà nước (QLNN) đối với ngành. Có thể nêu lên một số hạn chế sau: Thứ nhất, tính không ổn định trong các quy định của cơ quan QLNN trong lĩnh vực này đang là vấn đề nổi cộm. Do chưa nhận thức được rõ ràng vấn đề cần quản lý, thiếu kinh nghiệm quản lý nên trong quá trình điều hành vĩ mô còn lúng túng chưa chủ động và thậm chí còn bị động chạy theo những sự việc, thậm chí việc giải quyết còn mang tính đối phó, đã dẫn đến tình trạng Chính phủ, cũng như các bộ, các ngành, các cơ quan quản lý chưa kịp ban hành những văn bản cần thiết để quản lý hay các văn bản được ban hành thì còn chưa hợp lý, thiếu sự đồng bộ, còn mang tính phân tán nên vừa gây khó khăn, không tạo điều kiện thuận tiện cho các doanh nghiệp làm ăn nghiêm chỉnh, bài bản, vừa tạo kẽ hở cho một số doanh nghiệp có ý đồ lợi dụng những kẽ hở đó, gây ra nhiều tiêu cực đáng tiếc. Thứ hai, còn nhiều vấn đề trực tiếp liên quan đến hoạt động kinh doanh giao nhận còn bị bỏ ngỏ. Chẳng hạn trong lĩnh vực giao nhận hàng hóa bằng đường không, đường bộ, đường sắt, đường thuỷ nội địa hiện chưa có quy định cụ thể nào về điều kiện kinh doanh, đối tượng kinh doanh, nên thời gian qua nhiều doanh nghiệp nước ngoài đã kịp thời xin thành lập công ty 100% vốn kinh doanh giao nhận ở ngay thị trường Việt Nam. Đây là một thách thức lớn đối với các doanh nghiệp Việt Nam hiện nay, khi mà họ chưa kịp chuẩn bị về tư tưởng cũng như năng lực cạnh tranh cho hội nhập. Thứ ba, sự rõ ràng cụ thể, chính xác là một thuộc tính không thể thiếu được trong văn bản pháp luật. Thiếu những thuộc tính đó, pháp luật không thể đi vào cuộc sống. Nhưng những quy định đối với lĩnh vực kinh doanh này vẫn còn dừng lại ở quy tắc chung chung, chưa rõ ràng làm cho các doanh nghiệp còn dè chừng cho sự an toàn đầu tư của họ cũng như thiếu sự chủ động trong kinh doanh; mặt khác, dẫn đến sự thiếu nhất quán, thậm chí tuỳ tiện trong giải quyết công việc. Trong khi hệ thống pháp luật chưa hoàn chỉnh, chưa đồng bộ thì nghiêm trọng hơn là, việc thực thi pháp luật chưa được đảm bảo: Cho đến nay kho vận thì do Bộ Thương mại quản lý, cung ứng tàu biển thì giao cho từng địa phương, giao nhận vận tải lại thuộc Bộ Giao thông vận tải trong khi rõ ràng đây là các ngành nghề có liên quan mật thiết với nhau và cần có sự quản lý đồng bộ; và như vậy khó mà có thể đảm bảo được hiệu lực thi hành pháp lý, các nảy sinh không được giải quyết kịp thời và có hiệu quả. Mặt khác, các cơ quan quản lý trong thời gian qua còn buông lỏng quản lý hoạt động của các doanh nghiệp, chưa có sự phối hợp chặt chẽ và hiệu quả với nhau trong quản lý, nên dẫn đến tình trạng các cơ quan quản lý không bám sát được thực trạng kinh doanh của các doanh nghiệp để có những biện pháp tháo gỡ kịp thời, trả lại môi trường kinh doanh thông thoáng, bình đẳng cho doanh nghiệp. Bên cạnh đó, hiện nay, khách quan mà nói Nhà nước chưa thực sự tháo gỡ hết những vướng mắc cản trở đối với hoạt động kinh doanh giao nhận. Hệ thống cảng biển Việt Nam chưa được quản lý thống nhất. Một số cảng lớn (cảng Sài Gòn, cảng Hải Phòng) thuộc Tổng công ty Hàng hải Việt Nam, một số cảng vừa thuộc Cục Hàng hải, một số cảng vừa và nhỏ thuộc địa phương hoặc các ngành quản lý. Sự không thống nhất này tạo ra thói quen tự do kinh doanh, cạnh tranh không lành mạnh trong cùng một lĩnh vực hoạt động. Mỗi một cơ quan có cách quản lý riêng đã gây không ít khó khăn phiền hà cho các doanh nghiệp. Một vấn đề khác cũng quan trọng không kém là trong thời gian qua, Nhà nước còn thiếu sự phối hợp chặt chẽ với Hiệp hội Giao nhận kho vận Việt Nam (VIFFAS). Điều đó thể hiện ở việc một số văn bản mà Nhà nước ban hành ra do không được sự tư vấn của VIFFAS nên đã không phản ánh sát thực ngành nghề giao nhận, làm cản trở cho doanh nghiệp. Tuy nhiên điều đáng chú ý là VIFFAS chưa thực sự phát huy hết vai trò khả năng của mình với tư cách là cơ quan tham mưu cho Chính phủ và các cơ quan hữu quan trong việc quản lý các doanh nghiệp. Hơn nữa, hoạt động của Hiệp hội chưa có ảnh hưởng rộng. Cho đến nay,chỉ mới hơn 70 doanh nghiệp giao nhận trong cả nước là thành viên của Hiệp hội, chiếm hơn 10%. Con số này quả là nhỏ bé phản ánh phần nào sức hút tham gia Hiệp hội còn yếu. II. Thuận lợi và khó khăn trong việc phát triển dịch vụ giao nhận ở Việt Nam 1. Thuận lợi. - Bước vào thập kỷ 2001 - 2010, lực của nước ta đã khác trước nhiều, các nguồn lực như lao động, kể cả chất xám, cơ sở vật chất kỹ thuật, các loại thị trường... đang phát triển và sẵn sàng cho phép chúng ta khai thác để phát triển kinh tế, trong đó có giao nhận. Cơ chế chính sách của Nhà nước đối với hoạt động giao nhận ngày càng thông thoáng theo hướng tạo môi trường kinh doanh thuận lợi hơn cho doanh nghiệp hoạt động. - Thế của ta cũng đã khác, nay nước ta có quan hệ kinh tế rộng rãi với nhiều nước trong khu vực và trên thế giới. Chính sách mở cửa và hội nhập tạo ra khả năng mở rộng thị trường, có thêm nhiều đối tác để phát triển kinh tế và tăng cường quan hệ mua bán với các nước trên thế giới. Chúng ta đang thực hiện Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ và đang trong quá trình đàm phán gia nhập WTO, đặc biệt sắp tới là thực hiện cam kết tự do hóa thương mại trong khuôn khổ AFTA. Và như vậy, khối lượng hàng hóa trao đổi giữa Việt Nam và các nước sẽ tăng. Thương mại hàng hóa tăng sẽ nhanh chóng kéo theo sự gia tăng thương mại dịch vụ, trong đó có giao nhận. - Hoạt động đầu tư sản xuất kinh doanh của các nhà đầu tư nước ngoài vào Việt Nam ngày càng được đẩy mạnh. Họ liên doanh liên kết với các đối tác Việt Nam trong việc xây dựng khu chế xuất, nhà máy, cảng biển, sân bay cũng như nhiều công trình khác. Vì vậy phát triển giao nhận quốc tế là hết sức cấp thiết để phục vụ nhu cầu này. - Việt Nam nằm ở vị trí địa lý thuận lợi cho việc phát triển kinh tế - thương mại, vận tải và do đó mang ý nghĩa hết sức quan trọng đối với cơ hội phát triển giao nhận ở Việt Nam: + Việt Nam thuộc khu vực Châu á - Thái Bình Dương, nơi hoạt động kinh tế diễn ra rất sôi động nhất nhì thế giới vào thế kỷ XXI này. Phát triển kinh tế mạnh tất yếu cũng phải phát triển các ngành nghề kinh tế, nhất là một ngành mang tính quốc tế như giao nhận. Không chỉ trong phạm vi từng nước mà khối liên kết kinh tế liên quốc gia, liên vùng sẽ phát triển mạnh, các luồng hàng hóa sẽ hình thành và tăng trưởng nhanh cùng với đà hội nhập, hợp tác và xu thế phân công lao động quốc tế của cả khu vực. + Nằm ở trung tâm biển Đông, nơi có các tuyến đường biển nhộn nhịp vì lưu lượng tàu bè qua lại hàng ngày từ 150 đến 200 chiếc. Theo dự báo, vào đầu thế kỷ XXI, khối lượng hàng hóa vận chuyển qua biển Đông của các nước khu vực Đông Nam á có thể tăng gấp hai lần. + Nằm án ngữ trên các tuyến hàng hải và hàng không huyết mạch thông thương giữa ấn Độ Dương, Thái Bình Dương, giữa Châu âu, Trung cận Đông với Trung Quốc, Nhật Bản và các nước trong khu vực, biển Đông đóng vai trò là chiếc cầu nối cực kỳ quan trọng, là điều kiện thuận lợi để giao lưu kinh tế giữa Việt Nam và các nước trên thế giới và trong khu vực. + Biển và vùng ven biển là cửa mở lớn, là mặt tiền quan trọng của đất nước để mở cửa ra bên ngoài. Sự hình thành mạng lưới cảng biển cùng các tuyến đường bộ, đường sắt dọc ven biển và nối với các vùng sâu trong nội địa (đặc biệt là tuyến đường xuyên á) sẽ tạo ra khả năng chuyển tải hàng hóa xuất nhập khẩu tới mọi miền đất nước và đặc biệt là tới các nước trong khu vực và trên thế giới. Mặt khác, với sự đầu tư thêm cảng trung chuyển, cảng nước sâu ở Việt Nam sẽ tạo điều kiện thu hút nhiều tàu bè qua lại, lượng hàng hóa quá cảnh mượn đường sẽ tăng lên. - Cuộc cách mạng công nghệ thông tin sẽ có ảnh hưởng tích cực đến hoạt động giao nhận. Trong tương lai, thương mại điện tử được áp dụng mạnh mẽ sẽ làm thay đổi cơ bản phương thức kinh doanh thương mại cũng như phương thức kinh doanh giao nhận. Hệ thống liên lạc dựa trên trang, mạng web toàn cầu giúp việc đặt hàng điện tử nhanh chóng tiện lợi thay cho đặt hàng thông qua phương tiện điện thoại hoặc là fax. Doanh nghiệp có thể dễ dàng cập nhật được thông tin về thị trường giá cả dịch vụ, khách hàng... Tốc độ giao dịch theo đó cũng được nhanh chóng, chi phí giao dịch cũng được giảm thiểu. Hơn nữa, một khi công nghệ thông tin là một bộ phận cấu thành trong dịch vụ thì dịch vụ giao nhận sẽ có cơ hội mở rộng phạm vi hoạt động cũng như miền dịch vụ của nó, và sẽ có cơ hội nâng cao chất lượng hơn nữa. Hiện nay, trên thế giới các tập đoàn giao nhận đang triển khai dịch vụ “tăng thêm giá trị” (add - value service). Đây được gọi là các doanh nghiệp giao nhận thế hệ thứ tư (4PLS - fourth - party logistics providers), là những doanh nghiệp chuyên môn hóa với nguồn thông tin rộng lớn, công nghệ hiện đại và khả năng cạnh tranh lớn nhưng không cần có phương tiện vận chuyển. Điển hình là các hãng giao nhận lớn như Airfrance, KLM, Lufthansa Cargo đã cho ra loại dịch vụ giao nhận sản phẩm có hạn định “time - definite products” với cam kết về năng lực và hoàn lại phí và một số cam kết an toàn khác. Rõ ràng lĩnh vực giao nhận có nhiều triển vọng phát triển hơn dưới tác động của khoa học công nghệ thông tin ngày càng tiến bộ. - Xu hướng toàn cầu hóa, khu vực hóa mạnh mẽ sẽ làm tăng tính cạnh tranh trên thị trường giao nhận Việt Nam, từ đó sẽ chọn lọc ra những doanh nghiệp làm ăn có hiệu quả và đào thải những doanh nghiệp yếu kém ra khỏi cuộc chơi. - Tuy tình hình chính trị thế giới còn diễn biến phức tạp, có thể sẽ còn không ít chiến tranh, xung đột song hy vọng ở khu vực Đông Nam á, xu thế hòa bình, hợp tác vẫn được duy trì, cho dù còn không ít phức tạp. 2. Thách thức. - Hệ thống pháp luật chưa hoàn thiện, chưa đáp ứng kịp sự phát triển của ngành. Cơ chế thi hành pháp luật chưa được đảm bảo, hiệu lực của pháp luật chưa cao. - Năng lực quản lý của Nhà nước đối với ngành giao nhận còn nhiều hạn chế, bất cập. Nhiều vấn đề quản lý còn bị lãng quên hoặc bị bỏ ngỏ gây cản trở cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp trong ngành. Hơn nữa, vai trò quản lý của Nhà nước chưa thực sự phát huy nhằm tạo điều kiện phát triển mạnh ngành nghề này. Đây là vấn đề vô cùng quan trọng cần được tháo gỡ kịp thời trong bối cảnh mà các doanh nghiệp đang phải đối đầu với ít cơ hội và nhiều thách thức như hiện nay. - Năng lực cạnh tranh của các doanh nghiệp còn thấp lại phải hội nhập cuộc đua tranh gay gắt với các đối thủ nước ngoài mạnh hơn ngay cả trên sân nhà, nhất là khi nước ta phải thực hiện đầy đủ cam kết về AFTA. Theo tinh thần Hiệp định khung ASEAN về dịch vụ đã ký ngày 15/12/1995, dự thảo Hiệp định khung về vận tải đa phương thức của ASEAN và chương trình hành động Hà Nội của Hội nghị cấp cao ASEAN từ ngày 15 đến ngày 16 tháng 12 năm 1998 thì kể từ năm 2003 chúng ta phải mở cửa để loại bỏ các hạn chế trong trao đổi dịch vụ, khuyến khích cạnh tranh cao hơn nữa trong lĩnh vực to lớn và quan trọng này, đồng thời mở cửa mới cho các công ty cung cấp dịch vụ ở khu vực. Theo đó, nhiều hãng tàu nước ngoài sẽ tổ chức các công ty, chi nhánh làm đại lý cho chính họ tại thị trường Việt Nam. Thị trường giao nhận trong nước có nguy cơ bị thu hẹp. Nếu trong thời gian tới các doanh nghiệp Việt Nam không mở cửa ra hoạt động bên ngoài, không nâng cao năng lực cạnh tranh của mình thì khó mà tồn tại trong cuộc cạnh tranh. - Việt Nam đang đối đầu với đối thủ mạnh trong khu vực Châu á, đó là Trung Quốc. Với việc trở thành thành viên của WTO, Trung Quốc sẽ sửa đổi các quy định về thương mại và đầu tư theo hướng hết sức thông thoáng, cởi mở. Hiện nay, Trung Quốc là địa chỉ hấp dẫn thương mại và đầu tư nhất nhì thế giới. Lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Trung Quốc do vậy sẽ tăng lên nhanh chóng. Điều này ảnh hưởng đáng kể đến lưu lượng hàng hóa xuất nhập khẩu của Việt Nam, từ đó kéo theo nhu cầu giao nhận cũng bị ảnh hưởng nhiều. - Hiện nay các doanh nghiệp giao nhận của ta đang đứng trước thách thức mà Hiệp định Thương mại Việt - Mỹ đặt ra. Chưa kể gì đến những thứ khác chỉ riêng về vấn đề pháp luật thôi cũng đủ thấy điều này. Trình độ hiểu biết pháp luật của các doanh nghiệp còn rất nhiều hạn chế. Trong khi đó, Hoa Kỳ là một nước có luật lệ về thương mại và dịch vụ phức tạp và có sự khác biệt về luật pháp giữa các bang. Nếu chúng ta không nghiên cứu, nắm vững những luật lệ quy định của từng bang thì tất yếu khó lòng mà tận dụng những cơ hội của quá trình hợp tác mang lại. Mở rộng ra, các doanh nghiệp khó mà nắm bắt được cơ hội của hội nhập nếu họ không thông hiểu luật pháp quốc gia, quốc tế có liên quan. - Cơ sở vật chất kỹ thuật, hạ tầng còn yếu kém đặc biệt là thiếu năng lực phát triển vận tải container. Như chúng ta đã biết vận tải container đóng vai trò ý nghĩa hết sức quan trọng đối với ngành vận tải và giao nhận hàng hóa. Với những ưu điểm của mình, vận tải container rất thích hợp cho việc vận chuyển từ cửa đến cửa, góp phần phát triển dịch vụ gom hàng và vận tải đa phương thức mà ngày nay người giao nhận thường đảm nhận. Thế nhưng, ở Việt Nam vận tải container chưa có đủ điều kiện để phát triển, đặc biệt là về mặt cơ sở vật chất. Hệ thống đường bộ chật hẹp, chưa được nâng cấp hoàn chỉnh, còn nhiều đoạn đường xóc khó đi; một số cầu trọng tải nhỏ không chịu sức nặng của lô hàng siêu trường, siêu trọng; xe container hiện không có tính kinh tế do xe thì đắt mà địa hình giao thông ở ta lại quá tệ, đó là chưa kể đến mức phí cầu đường cao. Đường sắt không phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế, đoàn tàu chuyên dụng vẫn còn rất ít và chỉ có hai ga có chỗ tập kết container đạt tiêu chuẩn là Yên Viên và Sóng Thần. Với thực tế đó, vận tải container vẫn chủ yếu trông chờ vào đường biển. Trong khi đó, trong tổng số gần 80 cảng biển nước ta hiện chưa có một cảng nào đủ điều kiện đón các loại tàu trên 1200 TEU và đáp ứng được nhiệm vụ tiếp nhận phân phối hàng, vận tải đa phương thức theo tiêu chuẩn quốc tế. - Nền chính trị, kinh tế thế giới còn nhiều mặt khó lường, đầy biến động và bất ổn. Chẳng hạn trong thời gian gần đây các cuộc tấn công khủng bố liên tiếp đã dẫn đến tình trạng phí bảo hiểm biến động mạnh, giá cước vận tải tăng cao làm các tổ chức giao nhận khó khăn trong việc định ra mức giá thuận lợi để kinh doanh. Tóm lại, hiện nay ngành giao nhận của nước ta đang đứng trước những cơ hội lớn song cũng không ít thách thức. Quá trình toàn cầu hóa kinh tế đã hình thành những xu thế mới, đang tạo ra sự cạnh tranh gay gắt mới đối với các hoạt động giao nhận làm khuyếch đại thêm những yếu kém nội tại của những cơ sở phát triển ngành. Trong bối cảnh chung đó, ngành giao nhận Việt Nam đang đứng trước những thách thức mới, nhất là khi chúng ta phải tham gia sâu hơn vào các cam kết quốc tế và khu vực. Vì vậy, việc tìm đúng giải pháp để thực hiện mong muốn phát triển ngành trong thời kỳ tới đang là vấn đề khá bức xúc hiện nay. III. Những biện pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với hoạt động giao nhận 1. Thay đổi nhận thức về hoạt động giao nhận. Sở dĩ đặt vấn đề như vậy là vì: - Việc phát triển dịch vụ giao nhận ở nước ta đã và đang mang lại những hiệu quả kinh tế thiết thực. Trước hết nó tạo điều kiện cho Nhà nước có thêm được nguồn thu ngoại tệ vì phần tiền cước thu được tăng lên do chỗ các công ty kinh doanh loại dịch vụ này của nước ta không những chuyên chở theo những chặng đường thông thường mà còn đảm nhận cả khâu vận tải từ cảng vào sâu trong nội địa và ngược lại. Với việc ứng dụng vận tải đa phương thức đã tạo điều kiện đơn giản hóa chứng từ, thủ tục thương mại, hải quan và do vậy hấp dẫn các bạn hàng nước ngoài. Nó cũng giúp tạo thêm nguồn thu cho các công ty bảo hiểm trong nước và tạo điều kiện ứng dụng nhanh chóng công nghệ vận tải hiện đại trên cơ sở đó cải tạo cơ sở hạ tầng vận tải. Thực tế nhiều hãng bảo hiểm trong và ngoài nước đã ký được hàng chục hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự cho các nhà giao nhận Việt Nam. Một nước như nước ta, nếu biết tổ chức tốt mô hình vận tải đa phương thức, thì các nước láng giềng sẵn sàng cho hàng hóa của họ quá cảnh nước ta để tận dụng những ưu thế về mặt địa lý do rút ngắn chặng đường. Rốt cục những điều này làm cho tiềm năng cạnh tranh hàng hóa của nước ta trên thị trường quốc tế tăng lên đáng kể, góp phần đẩy mạnh xuất nhập khẩu, cải thiện một phần cán cân tài chính của đất nước. - Giao nhận là một ngành kinh doanh tương đối độc lập và cũng như bao ngành khác là cần có một chiến lược phát triển đúng đắn, mang tính khoa học nhằm đảm bảo ổn định và phát triển vững chắc. Cho nên, sẽ là rất quan trọng nếu Nhà nước nhận thức được tầm quan trọng của ngành để từ đó có những định hướng và biện pháp cho sự phát triển, vận hành cơ chế quản lý các doanh nghiệp giao nhận phù hợp với quy luật nội tại và những điểm đặc thù của các doanh nghiệp trong từng lĩnh vực cụ thể cũng như toàn bộ nền kinh tế. Có như vậy ngành mới có điều kiện thuận lợi để lớn mạnh hơn, tạo điều kiện hỗ trợ cho các ngành kinh tế khác như ngoại thương, vận tải v.v... phát triển. Nói một cách ngắn gọn, giao nhận ngày nay đã trở thành một ngành kinh doanh dịch vụ có tầm quan trọng trong nền kinh tế. Để đưa ngành phát triển hơn nữa nhằm đáp ứng công cuộc đổi mới kinh tế nước ta hiện nay thì nhất thiết phải nhận thức được vai trò của ngành, đó chính là động cơ của những nỗ lực không ngừng mở đường cho sự lớn mạnh của ngành giao nhận Việt Nam. 2. Hoàn thiện luật và ban hành các văn bản dưới luật. Để nâng cao hiệu quả QLNN đối với hoạt động giao nhận, yêu cầu cần phải có hệ thống pháp luật đầy đủ và đồng bộ, rõ ràng và phù hợp làm nền tảng pháp lý cho hoạt động quản lý của Nhà nước, làm cơ sở cho các hoạt động kinh doanh được tiến hành đúng luật. Đầu tiên, cần xúc tiến công việc ban hành các văn bản dưới luật của Luật Thương mại để điều chỉnh kịp thời các hoạt động trong phạm vi dịch vụ giao nhận. Nhằm đảm bảo các văn bản pháp luật không bị trùng lắp cần phải rà soát tất cả các văn bản hiện hành, bãi bỏ những quy định không phù hợp, xem xét những vấn đề còn chưa được điều chỉnh để ban hành những văn bản mới. Bên cạnh đó, cũng tiến hành dần việc sửa đổi bổ sung những nội dung cần thiết của Luật Thương mại. Như chúng ta đều biết, một trong những nguyên tắc cơ bản của việc soạn thảo và xây dựng hiệu quả pháp luật là phải đảm bảo sự đồng bộ của các văn bản pháp quy liên quan. Bởi vì, bất kỳ một hoạt động kinh doanh nào cũng chịu sự điều chỉnh của nhiều văn bản pháp luật liên quan. Nhất là đối với lĩnh vực dịch vụ mang tính tổng hợp như giao nhận. Do đó, việc sửa đổi bổ sung các bộ luật như Luật Hàng hải, Luật Hàng không, Luật Doanh nghiệp và các luật khác, đồng thời ban hành luật Đường bộ, luật Đường sắt, luật Vận tải đa phương thức... là một trong những bước mở đường cho hoạt động kinh doanh giao nhận được thuận lợi hơn. Riêng về việc ban hành luật, cần nhanh chóng cho ra đời luật cạnh tranh chống độc quyền. Hiện nay, việc ban hành luật cạnh tranh là rất cần thiết. Bởi lẽ, chúng ta đang chuyển sang cơ chế thị trường mà cạnh tranh là đặc tính tất yếu của nó. Nhà nước cần phải tạo sân chơi bình đẳng, tạo sự cạnh tranh lành mạnh cho các doanh nghiệp hoạt động trên thị trường. Mặt khác, hiện nay chúng ta đang thực hiện đường lối hội nhập kinh tế, các doanh nghiệp trong nước sẽ vươn ra làm ăn ở các thị trường nước ngoài, chúng ta đòi hỏi các nước phải tạo sân chơi bình đẳng cho các doanh nghiệp của họ như các doanh nghiệp của ta, ngược lại các doanh nghiệp nước ngoài cũng đòi hỏi chúng ta phải có sân chơi bình đẳng, môi trường pháp lý thuận lợi cho công việc kinh doanh của họ. Ngoài ra, luật cạnh tranh sẽ là những quy định pháp luật quan trọng trong hệ thống pháp luật kinh tế, góp phần xây dựng một hành lang pháp lý vừa đảm bảo cho quan hệ kinh tế diễn ra lành mạnh, thông thoáng, hiệu quả cao, vừa đảm bảo sự quản lý chặt chẽ của Nhà nước, bảo vệ lợi ích công cộng, quyền và lợi ích của các thương nhân. Để các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động giao nhận có hiệu quả thiết thực cần lưu ý: - Pháp luật chỉ có hiệu lực thực tế trong cuộc sống nếu nó phản ánh đúng thực trạng của cuộc sống, giải đáp những vấn đề bức xúc của cuộc sống đang đặt ra nói chung và đối với hoạt động kinh doanh giao nhận nói riêng. Tức là, phải giải quyết được những vướng mắc trong qúa trình hoạt động của các doanh nghiệp. Do vậy, một trong những nội dung của việc hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng như hệ thống pháp luật liên quan đến giao nhận nói riêng là, thay dần quy trình xây dựng pháp luật theo kiểu từ trên xuống bằng quy trình từ dưới lên, các sáng kiến pháp luật, nội dung các quy phạm pháp luật phải bắt nguồn từ doanh nghiệp và phải thực sự phục vụ doanh nghiệp. - Xu hướng QLNN hiện đại đòi hỏi các bộ luật phải được xây dựng theo hướng cụ thể chi tiết cụ thể hóa, có thể điều chỉnh được các hành vi của xã hội. Mọi lĩnh vực hoạt động đều phải dựa theo luật, tránh tình trạng luật quy định chung chung, kéo theo phải có rất nhiều văn bản hướng dẫn thi hành luật. Trong QLNN đối với lĩnh vực giao nhận cũng vậy. Nếu các điều kiện trong các bộ luật vẫn cứ tồn tại theo kiểu chung chung không những gây khó khăn cho các cơ quan quản lý của Nhà nước mà còn làm ảnh hưởng cả đến hoạt động của các doanh nghiệp. Với mục tiêu như vậy, chúng ta cần phải nhanh chóng xây dựng bộ máy làm luật một cách chuyên nghiệp. - Nhà nước cần nghiên cứu kỹ luật pháp quốc tế, kinh nghiệm xây dựng luật của các nước, vận dụng chọn lọc vào thực tế Việt Nam nhằm thúc đẩy quá trình hội nhập và phát triển. Bên cạnh đó, trước khi ban hành các văn bản pháp luật, đặc biệt là các văn bản hướng dẫn thi hành luật cần có sự tư vấn của Hiệp hội Giao nhận để đảm bảo tính chuyên môn nghiệp vụ cũng như tình hình thực tế. - Tăng cường tổ chức các cuộc đối thoại giữa phía cơ quan quản lý Nhà nước với các doanh nghiệp, lắng nghe ý kiến của họ và để họ nắm bắt được tinh thần chính sách, cơ chế pháp luật của Nhà nước đối với ngành... Làm được như vậy sẽ tạo ra cơ hội tốt cho các bên hiểu và cùng nhau khắc phục khó khăn để đạt hiệu quả cao. Tóm lại, công tác xây dựng luật cần phải thay đổi theo hướng nâng cao chất lượng của luật pháp bằng cách tạo ra một hệ thống văn bản pháp quy đồng bộ có tính ổn định và khả thi. 3. Cần có nghị định quản lý các hoạt động giao nhận nói chung. Có thể nói cho đến bây giờ người giao nhận nước ta vẫn phải dựa vào rất nhiều văn bản quy định có liên quan để kinh doanh và nhìn chung các văn bản này còn tản mạn mà chưa được quy về một mối quản lý chung đối với hoạt động giao nhận, đấy là chưa nói gì đến việc còn thiếu sót nhiều văn bản điều chỉnh. Đây là một vấn đề nổi cộm trong công tác pháp chế đối với lĩnh vực này đến nay vẫn chưa được giải quyết. Như đã đề cập, hiện nay chúng ta mới có quy định về đối tượng và điều kiện kinh doanh dịch vụ giao nhận bằng đường biển ngoài những quy định chung chung về hoạt động kinh doanh giao nhận của Luật Thương mại, quy định về điều kiện làm đại lý dịch vụ thủ tục hải quan của Luật Hải quan và các văn bản hướng dẫn thi hành, nếu xét về khía cạnh điều chỉnh phạm vi của dịch vụ giao nhận. Và như vậy, các hoạt động kinh doanh giao nhận bằng đường bộ, đường hàng không, đường thủy nội địa chưa có văn bản quy định điều chỉnh. Tất nhiên chúng ta không thể một sớm một chiều mà có thể đưa ra một đạo luật quản lý thống nhất các hoạt động giao nhận, bao trùm mọi hoạt động của giao nhận như dịch vụ thủ tục hải quan, kinh doanh giao nhận vận tải các loại kể cả lĩnh vực vận tải đa phương thức, song nhất thiết cần phải có sự chuẩn bị cần thiết đối với vấn đề này. Một trong những vấn đề cần được giải quyết đầu tiên là nhanh chóng ban hành nghị định về vấn đề kinh doanh giao nhận nói chung (đường biển, đường bộ, đường không, đường thuỷ nội địa, đường sắt), trong đó nêu rõ điều kiện kinh doanh, tiêu chuẩn kinh doanh, chế tài, và những vấn đề khác. Đương nhiên cần lưu ý nội dung của văn bản mới không được mâu thuẫn với các bộ luật và văn bản dưới luật liên quan và cần hướng tới mục tiêu hoàn thiện bộ phận văn bản quản lý từng lĩnh vực trước khi cho hình thành một đạo luật quản lý riêng đối với ngành. Ngoài ra, yêu cầu Bộ Tài chính và các cơ quan hữu quan cùng nhau bàn bạc trao đổi để đưa ra khung giá dịch vụ giao nhận mà tốt hơn hết là nên xây dựng nguyên tắc xác định giá nhằm tránh tình trạng định giá quá tự do như hiện nay. 4. Tăng cường quản lý hoạt động của các doanh nghiệp. Nếu như việc xây dựng một hệ thống văn bản pháp quy nhằm mục đích tạo ra hành lang pháp lý để doanh nghiệp hoạt động được bài bản, có trật tự thì công tác tăng cường quản lý hoạt động doanh nghiệp cần được thực hiện để đảm bảo rằng các doanh nghiệp vận động trong hành lang pháp lý đó, tức là việc thi hành các văn bản pháp luật được tuân thủ một cách nghiêm chỉnh. Tất nhiên, tăng cường quản lý ở đây cũng được hiểu là phía cơ quan quản lý Nhà nước phải đưa ra được những chính sách, quy định phù hợp với thực tiễn kinh doanh của doanh nghiệp. Có thể nói tăng cường quản lý hoạt động doanh nghiệp là rất cần thiết. Bởi vì, có tích cực kiểm tra kiểm soát thị trường, tìm hiểu thực trạng hoạt động của doanh nghiệp thì mới có thể đưa ra những biện pháp xử lý kịp thời, ngăn chặn những hành vi cạnh tranh không lành mạnh, gian lận thương mại... Từ đó, nâng cao kỷ cương thi hành pháp ở các doanh nghiệp. Mặt khác, nhờ đi sâu tìm hiểu những vướng mắc trên thực tế của doanh nghiệp về cơ chế chính sách, quy định pháp lý của Nhà nước hay những khó khăn về điều kiện phát triển ngành nghề mà đi đến việc tạo dựng và cải thiện môi trường kinh doanh cũng như nâng cao năng lực phát triển của các doanh nghiệp. Nhằm tăng cường quản lý hoạt động của doanh nghiệp, khắc phục tình trạng quản lý lỏng lẻo hiện nay Nhà nước cần: - Rà soát và sắp xếp lại tổ chức theo hướng tập trung xây dựng các doanh nghiệp mạnh, giải tán hoặc sáp nhập các doanh nghiệp làm ăn kém hiệu quả để chuẩn bị lực lượng doanh nghiệp có năng lực cạnh tranh cao, nhất là doanh nghiệp có vốn của Nhà nước trước thềm hội nhập. Đồng thời, xoá sổ những doanh nghiệp làm ăn không lành mạnh nhằm góp phần hạn chế tình trạng lộn xộn trên thị trường hiện nay. - Ban hành những văn bản trong đó quy định rõ phạm vi và đối tượng quản lý trong quá trình hoạt động của doanh nghiệp nhằm chấm dứt tình trạng các cơ quan quản lý khó khăn trong việc nắm được thực trạng của lĩnh vực kinh doanh này. - Thực hiện tổ chức kiểm tra kiểm soát hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp định kỳ hoặc bất chợt để kịp thời ngăn chặn những sai phạm như gian lận thương mại, trốn lậu thuế... song cần tránh tình trạng thanh tra, kiểm tra chồng chéo gây khó khăn tốn kém và bất ổn đối với các doanh nghiệp. - Tổ chức phối hợp đồng bộ, chặt chẽ giữa các ban ngành liên quan. Trong đó phải đưa ra được những văn bản phân công quản lý cụ thể cho từng cơ quan các ngành, các cấp quản lý. 5. Cần có cơ quan chuyên trách quản lý hoạt động giao nhận. Một trong những nguyên nhân quan trọng gây không ít khó khăn cho công tác quản lý của Nhà nước trong lĩnh vực giao nhận là bộ máy quản lý chuyên ngành hiện nay chưa có. Cho đến nay, hoạt động kinh doanh giao nhận đã phát triển với quy mô đáng kể cả về bề rộng và bề sâu. Song sự phối hợp quản lý giữa các cơ quan Nhà nước liên quan (Thương mại, Giao thông vận tải, Tài chính và Hải quan) chưa chặt chẽ, thiếu đồng bộ nên nảy sinh không ít tiêu cực như: phá giá, kinh doanh không đăng ký, trốn thuế, kinh doanh không đăng ký ngành nghề, cho nước ngoài thuê tên, biển hiệu để ăn hoa hồng, dẫn đến không kiểm tra, giám sát các hoạt động của họ hoặc kinh doanh theo dạng cò mồi, khi xảy ra trục trặc đổ vỡ thì biến mất để khách hàng tự giải quyết... Tình trạng buông lỏng đó tồn tại cả trong cơ chế chính sách lẫn trong công việc quản lý đối với lĩnh vực này. Ngoài ra, khách quan mà nói không phải là Nhà nước chưa có sự quan tâm quản lý đối với dịch vụ giao nhận. Thế nhưng, hiện thời giao nhận chưa được tách riêng ra để chuyên môn hóa quản lý phù hợp dẫn đến trói buộc sự phát triển của ngành. Do vậy, yêu cầu đặt ra là cần phải thiết lập một cơ quan chuyên trách quản lý. Cơ quan này đóng vai trò là trung tâm điều phối kết hợp quản lý chung trong việc xây dựng chiến lược, chính sách phát triển cũng như các văn bản pháp lý đối với hoạt động giao nhận. Từ đó, sẽ góp phần giảm thiểu tình trạng chức năng, quyền hạn chồng chéo, lỏng lẻo giữa các cơ quan quản lý thuộc các ngành liên quan dẫn đến nhiều vấn đề quản lý không được điều chỉnh. Mặt khác, hoạt động giao nhận cũng có được những phương hướng và biện pháp phát triển rõ ràng hơn. Điều đáng lưu ý là phải xây dựng bộ máy theo hướng tinh giản, gọn nhẹ song cần đảm bảo hiệu quả và phối hợp được hài hòa giữa cơ quan quản lý Nhà nước chuyên ngành, quản lý trên vùng lãnh thổ nhằm thực hiện sự nghiêm minh của luật pháp và công bằng trong kinh doanh. 6. Cải cách thủ tục hành chính. Hiện nay, Việt Nam đã là thành viên của APEC, ASEAN, và chuẩn bị gia nhập vào WTO. Vì vậy, chúng ta phải có nghĩa vụ của một thành viên tham gia vào các tổ chức chuyên ngành, tham gia các công ước, hiệp định của tổ chức mà ta ký kết ví dụ như Hiệp định về vận tải đa phương thức giữa các nước ASEAN. Hiệp định này tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa và người di chuyển giữa các nước trong khối. Do vậy, yêu cầu cấp thiết hiện nay là phải xúc tiến công tác đơn giản hóa thủ tục hải quan, cải tiến thủ tục quản lý hàng hóa xuất nhập khẩu phù hợp với thông lệ, điều ước, công ước quốc tế, góp phần thúc đẩy thông thương, giao lưu văn hoá giữa nước ta với các nước thành viên, giảm bớt những thách thức và nguy cơ tụt hậu với các nước trong khu vực và trên thế giới. Được biết, việc đổi mới cải tiến thủ tục hải quan đang được đưa ra áp dụng thử nghiệm nhưng vẫn còn nhiều vướng mắc từ phía quản lý hàng hóa của cán bộ ngành Hải quan và một số khó khăn phát sinh từ phía doanh nghiệp. Tuy nhiên, đây rõ ràng là một tiến bộ trong công tác cải tiến thủ tục nước ta. Thực tế, một số nước có chế độ đại lý Hải quan cho phép người giao nhận làm đại lý hải quan nếu họ đáp ứng đầy đủ năng lực làm nghiệp vụ này. Người giao nhận phải cam kết thực hiện đúng chức năng nhiệm vụ của mình, chịu sự kiểm tra, giám sát của Hải quan và nếu không tuân thủ đúng các quy định hoặc có hành động sai trái thì bị tước bỏ chức năng đại lý hải quan đó. Và đương nhiên đại lý phải hết sức trung thực, vừa bảo vệ lợi ích của khách hàng, vừa đảm bảo đúng lợi ích của Nhà nước. ở Việt Nam, hiện nay chế độ đại lý Hải quan đang được triển khai áp dụng. Đặc biệt, chúng ta đang cố gắng xây dựng mạng lưới đại lý hải quan nối mạng với doanh nghiệp và với Hải quan nhằm giảm bớt tình trạng ách tắc trong khâu thủ tục như hiện nay. Đơn giản hóa thủ tục hải quan, thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa là công tác đòi hỏi chúng ta thực hiện gấp rút trước xu thế hội nhập sắp tới, nó không chỉ tạo điều kiện thuận lợi cho doanh nghiệp giao nhận kinh doanh được hiệu quả mà còn thúc đẩy năng lực cạnh tranh của hàng hóa Việt Nam trên trường quốc tế. 7. Có chính sách đầu tư nước ngoài hợp lý trong lĩnh vực giao nhận. Thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực giao nhận là điều tất yếu nếu chúng ta muốn phát triển một ngành giao nhận có chuyên môn thực sự và ngày càng hiện đại hơn. Hơn nữa, đó cũng là một trong những xu thế của hội nhập. Do đó, trong điều kiện của Việt Nam hiện nay việc có được một chính sách đối với hoạt động đầu tư nước ngoài phù hợp với hội nhập có tính đến hoàn cảnh cụ thể của Việt Nam là điều hết sức cần thiết. Tinh thần chung là trước mắt, chúng ta không nên mở cửa tự do cho các nhà đầu tư nước ngoài hoạt động trong lĩnh vực giao nhận bởi vì năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp ta chưa mạnh. Nhưng về lâu dài, với xu thế tiến tới tự do hóa đầu tư, hoạt động kinh doanh dịch vụ giao nhận của các nhà đầu tư nước ngoài ở thị trường Việt Nam cần được khuyến khích và không bị phân biệt với các nhà đầu tư trong nước. Điều quan trọng là Nhà nước cần tiến hành xây dựng lộ trình hội nhập của hoạt động kinh doanh giao nhận. Đặt mục tiêu và lập thời gian biểu cho mục tiêu cần đạt, xác định được những mảng nào của dịch vụ được ưu tiên khuyến khích hay hạn chế đầu tư nước ngoài, hình thức đầu tư ra làm sao v.v... Chẳng hạn hiện thời không cấp giấy phép kinh doanh cho nhà đầu tư nước ngoài xin thành lập công ty giao nhận 100% vốn, chỉ cho phép họ đầu tư dưới hình thức liên doanh với vốn góp của phía Việt Nam tối thiểu là 51%. Và hình thức liên doanh chỉ được cho phép trong những trường hợp thực sự cần thiết và cũng chỉ trong trường hợp này mới cho phép các liên doanh này có thể làm đại lý hàng hóa cung ứng dịch vụ cho tàu nước ngoài cũng như tàu Việt Nam ra vào các cảng của ta hay có thể làm đại lý thủ tục hải quan cho chủ hàng xuất nhập khẩu. Sau đó, những quy định hạn chế sẽ được nới lỏng dần cùng với mức hội nhập theo các cam kết giữa nước ta và các nước trong khu vực và trên thế giới, tức lúc đó các nhà đầu tư nước ngoài có thể tuỳ ý lựa chọn bất kỳ lĩnh vực đầu tư nào và kể cả bất kỳ hình thức đầu tư nào mà họ thấy có khả năng. Đồng thời, cần phải xây dựng được những doanh nghiệp Nhà nước đủ mạnh đóng vai trò là một bên liên doanh với nước ngoài, trong đó đảm bảo được đội ngũ cán bộ tham gia liên doanh phải nắm vững luật pháp, có trình độ chuyên môn và có đạo đức. Bởi vì, trước mắt hay lâu dài đây vẫn là một trong những hình thức mà phần nào Nhà nước có thể dựa vào đó để tham gia thị trường nhằm thực hiện mục đích của việc thu hút đầu tư. Mặt khác, cũng xúc tiến nghiên cứu trước một bước việc xây dựng hệ thống pháp luật đối với hoạt động đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực này. Bên cạnh đó, cần đẩy nhanh cải cách kinh tế, cải cách hành chính, đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng, và không ngừng nỗ lực tạo môi trường kinh doanh ngày một thuận lợi hơn v.v... để chuẩn bị cho xu hướng cởi mở thu hút đầu tư nước ngoài trong tương lai. 8. Phát huy năng lực hoạt động của VIFFAS. Suốt những năm qua, VIFFAS đã có nhiều đóng góp cho sự trưởng thành của ngành giao nhận Việt Nam. Song yêu cầu của tình hình mới đòi hỏi tổ chức này phải nâng cao hơn nữa năng lực hoạt động của mình để thực sự là người bạn đồng hành của người giao nhận hội viên nói riêng và người giao nhận Việt Nam nói chung. Trong thời gian tới nhằm phát huy vai trò đó, VIFFAS cần: Tăng cường công tác đào tạo nghiệp vụ: Đó là một trong những công việc nhằm nâng cao chất lượng ngành nghề. Tổ chức các lớp đào tạo về giao nhận, giúp hội viên tiếp cận những thành tựu, kỹ thuật mới trong lĩnh vực giao nhận. Tất nhiên chương trình đào tạo nên mở rộng đối tượng ngoài hội tham gia. Dần triển khai nghiệp vụ Bảo hiểm trách nhiệm cho những người giao nhận: Dù đóng vai trò nào - đại lý hay bên chính thì người giao nhận cũng phải chịu rủi ro. Trách nhiệm của người giao nhận khi đóng vai trò bên chính nặng hơn so với khi anh ta chỉ là đại lý đơn thuần. Ngày nay, với sự phát triển của dịch vụ gom hàng, vận tải container và vận tải đa phương thức, xu hướng đóng vai trò bên chính của người giao nhận ngày càng tăng. Do đó, bên cạnh việc quan tâm trau dồi, nâng cao trình độ nghiệp vụ và lựa chọn cẩn thận bên thứ ba nhằm giảm thiểu sai sót dẫn đến trách nhiệm, người giao nhận vẫn cần phải mua bảo hiểm trách nhiệm để bảo vệ quyền lợi của mình trước khiếu nại của các bên đồng thời củng cố sự tin cậy của khách hàng. Việc bảo hiểm trách nhiệm là đặc biệt cần thiết khi người giao nhận là người chuyên chở đường biển hoặc MTO. VIFFAS có thể phối hợp với những công ty bảo hiểm lớn, có uy tín nghiên cứu và đưa ra một hình thức bảo hiểm trách nhiệm phù hợp. Đưa ra những tiêu chuẩn nhất định đối với một doanh nghiệp kinh doanh giao nhận: Cùng phối hợp với các cơ quan chức năng xây dựng những tiêu chuẩn cụ thể đối với ngành nghề. Trên cơ sở đó, hạn chế được những doanh nghiệp không đủ tiêu chuẩn, ngăn ngừa những hành vi kinh doanh, cạnh tranh bất hợp pháp nhằm bảo vệ quyền lợi cho các hội viên cũng như các doanh nghiệp giao nhận làm ăn hợp pháp và có uy tín khác. Tiếp tục tư vấn Nhà nước trong việc xây dựng các quy định liên quan đến lĩnh vực giao nhận: Tích cực góp ý xây dựng các quy phạm pháp luật về hoạt động giao nhận hoặc có liên quan nhằm giảm bớt các khâu thủ tục, chứng từ trong hoạt động giao nhận, giúp hàng hóa được vận chuyển nhanh hơn và công việc của những người giao nhận trở nên thuận tiện, dễ dàng hơn. Chủ động làm việc với văn phòng Chính phủ, Ban đổi mới quản lý doanh nghiệp Trung ương, Bộ Giao thông vận tải, Bộ Thương mại, Hải quan v.v... về những khó khăn bức xúc trong kinh doanh của doanh nghiệp cũng như tiếp tục đề xuất việc ban hành các văn bản quản lý chẳng hạn trước mắt là nghị định quản lý ngành nghề giao nhận. Tham gia các dự án sửa đổi Luật Hàng hải, Luật Thương mại, Luật Doanh nghiệp và Dự thảo luật chống cạnh tranh độc quyền. Giành quyền chủ động trên thị trường giao nhận hàng hóa xuất nhập khẩu: Hiện nay, đa số các nhà xuất nhập khẩu của Việt Nam nhập theo điều CIF và xuất khẩu theo điều kiện FOB, do đó các quyết định về tổ chức vận chuyển được thực hiện ở ngoài lãnh thổ Việt Nam. Điều đó cũng có nghĩa là những người giao nhận Việt Nam hoạt động nhiều hơn với tư cách đại lý của người giao nhận và/hoặc người chuyên chở đường biển nước ngoài và phải tuân theo cũng như đảm bảo rằng việc tổ chức tiếp vận phải đáp ứng được các quy định về dịch vụ rất chặt chẽ của người giao nhận/người chuyên chở nước ngoài. Nên chăng, trong thời gian các nhà giao nhận vận tải cần có sự liên kết với nhà xuất nhập khẩu để thực hiện từng bước việc phổ biến hóa các thương vụ dưới hình thức bán CIF và mua FOB. Hay nói cách khác, đó là sự gắn chặt xuất nhập khẩu với giao nhận vận tải thành một thể thống nhất của quá trình thâm nhập thị trường nhằm giành ưu thế trong mua bán với nước ngoài và khuyến khích sử dụng dịch vụ giao nhận Việt Nam. Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng giao thông vận tải: Việt nam có một vị trí địa lý vô cùng thuận lợi, nằm trên những tuyến đường vận tải quan trọng của Châu á và thế giới. Do đó, nếu có một hệ thống cơ sở hạ tầng giao thông vận tải hiện đại sẽ thu hút một lượng lớn hàng hóa ra vào Việt Nam và hoạt động của những người giao nhận Việt Nam sẽ nhộn nhịp hơn. Bởi vậy, VIFFAS cần cùng Bộ Giao thông vận tải và các bộ, ngành liên quan nghiên cứu và đưa ra những kế hoạch, dự án đầu tư xây dựng phát triển hệ thống đường bộ, đường sắt, nhà ga, sân bay, cảng biển... để phục vụ vận tải nói chung và hoạt động giao nhận nói riêng. Trong bối cảnh phát triển mạnh mẽ của container hóa và vận tải đa phương thức, cần đặc biệt chú trọng phát triển các cảng container chuyên dụng (trong đó có cảng trung chuyển quốc tế) và các cảng thông quan nội địa (ICD - Inland Clearance Depot). Tăng cường hợp tác quốc tế: VIFFAS cần củng cố mối quan hệ của mình với các tổ chức giao nhận quốc tế như FIATA, AFFA cũng như các hiệp hội giao nhận quốc gia trong khu vực và trên thế giới và các tổ chức kinh tế xã hội khác như ESCAP, UNDP nhằm trao đổi thông tin, học hỏi kinh nghiệm và tranh thủ sự giúp đỡ về mặt vật chất lẫn kỹ thuật. Bên cạnh đó, VIFFAS có thể đóng vai trò là chiếc cầu nối với các doanh nghiệp giao nhận nước ngoài, tìm kiếm và xúc tác làm ăn với những doanh nghiệp có uy tín trên thế giới. Ngoài ra, VIFFAS cần phải cập nhật, nắm bắt kịp thời những thông tin về thị trường giao nhận trong và ngoài nước, áp dụng những thành tựu khoa học và công nghệ mới nhất vào hoạt động kinh doanh (ví dụ như nối mạng EDI). Theo dõi chặt chẽ quá trình hội nhập của đất nước vào nền kinh tế thế giới, chẳng hạn như tiến trình gia nhập AFTA, WTO.., việc thông qua và thực hiện các công ước, hiệp định liên quan đến giao nhận vận tải như Công ước của Liên hợp quốc về vận tải đa phương thức, các Hiệp định khung ASEAN về vận tải đa phương thức, về tạo điều kiện thuận lợi cho hàng hóa quá cảnh, về tạo điều kiện thuận lợi cho vận tải liên quốc gia... Và ngày càng tiếp nhận nhiều doanh nghiệp giao nhận toàn quốc tham gia Hiệp hội. Tóm lại, năng lực hoạt động của VIFFAS được tích cực tăng cường chính là sự hỗ trợ đắc lực cho Nhà nước trong quản lý đối với hoạt động giao nhận, là mong muốn của các doanh nghiệp trong nghề và suy cho cùng là bước đệm tạo đà cho ngành giao nhận phát triển. Tuy nhiên điều đó có còn đúng hay không còn phụ thuộc vào những hướng đi sắp tới của Hiệp hội. 9. Kiện toàn đội ngũ cán bộ. Trong tiến trình mở cửa và hội nhập, có người đã đưa ra hình ảnh: con tàu Việt Nam đã từ sông ra biển. Muốn đi xa và đến đích, tàu phải tốt và thuỷ thủ đoàn phải giỏi xét về thời gian và kinh nghiệm, đoàn thuỷ thủ của chúng ta có nhiều điểm chưa bằng bè bạn. Đó là vấn đề có tính quyết định. Phải đặt lên hàng đầu. Xét cho cùng để thực hiện những biện pháp khác thì đều xuất phát từ con người. Sự hay, dở là ở nơi con người. Những ách tắc xuất hiện và có được phá bỏ hay không cũng là bởi con người quyết định. Vì vậy, cần đặc biệt quan tâm kiện toàn tổ chức bộ máy, cán bộ từ những người làm hoạt định chính sách cho đến những người trực tiếp giám sát quản lý. Chính những con người đó sẽ khơi thông mọi tắc nghẽn để hướng ngành giao nhận phát triển đúng hướng, phục vụ cho mục tiêu CNH, HĐH đất nước. 10. Những giải pháp khác. Bổ sung thêm các điều kiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ cho các nghiệp vụ giao nhận như: kho tàng, bến bãi, phương tiện vận chuyển, xếp dỡ...; đẩy nhanh quá trình cải cách hệ thống ngân hàng; phát triển đồng bộ các loại thị trường; cải cách thể chế kinh tế... * Nhìn chung, để nâng cao quản lý Nhà nước đối với hoạt động giao nhận cần phải có một hệ thống giải pháp đồng bộ, trong đó tất cả các giải pháp đều có mối quan hệ tương hỗ nhau. Đây là những giải pháp mang tính chiến lược lâu dài, nên đòi hỏi phải có thời gian triển khai thực hiện một cách thận trọng và theo thứ tự ưu tiên phù hợp với thời thế và khả năng song cũng đòi hỏi phải thực hiện ngay từ bây giờ nhằm vừa giải quyết những vấn đề bức xúc hiện nay vừa giải quyết để tạo điều kiện mọi mặt để ngành giao nhận Việt Nam phát triển một cách bền vững. Kết luậN Ra đời từ sự phát triển của vận tải và thương mại quốc tế, giao nhận ngày càng thể hiện mình là một lĩnh vực không thể thiếu cho sự phát triển kinh tế - thương mại. Với việc chuyên môn hóa mọi công đoạn của quá trình vận chuyển hàng hóa từ người bán đến người mua, những người giao nhận góp phần rút ngắn thời gian vận động của hàng hóa, tăng nhanh khối lượng hàng hóa luân chuyển trên thế giới. Những lợi ích mà giao nhận mang lại sẽ còn tiếp tục nếu nhu cầu phát triển kinh tế của thế giới là mong muốn không ngừng. Ngày nay, có thể nói giao nhận là một trong những ngành nghề kinh doanh đang thịnh trong một thế giới toàn cầu hóa và hướng tới tự do hóa thương mại. Với đà phát triển mạnh mẽ của kinh tế hàng hóa, các dịch vụ giao nhận ngày càng mở rộng và đã trở thành một ngành công nghiệp hiện đại có quy mô lớn và tổ chức chặt chẽ ở các nước có nền kinh tế phát triển. Số lượng các tổ chức giao nhận ngày càng tăng nhanh và ngày một nhiều trên thế giới. ở Việt Nam, ngành giao nhận đã có từ lâu nhưng mới chỉ thực sự khởi sắc trong những năm trở lại đây khi mà đất nước đang chuyển mình cải cách kinh tế và bước trên nẻo đường hội nhập vào kinh tế khu vực và thế giới. Quy mô, phương tiện kỹ thuật và nghiệp vụ của hoạt động giao nhận ở Việt Nam nhìn chung chưa thể sánh với các nước trên thế giới nhưng nó cũng đã tương đối bao quát được mọi lĩnh vực của dịch vụ này. Và giao nhận mang một ý nghĩa quan trọng trong sự phát triển kinh tế đất nước. Nó góp phần đẩy nhanh tốc độ lưu thông của hàng hóa xuất nhập khẩu, tiết kiệm thời gian và chi phí... dẫn đến giảm giá thành hàng hóa xuất nhập khẩu, nâng cao khả năng cạnh tranh hàng hóa, tạo thế của Việt Nam trên trường quốc tế. Mặt khác, tạo điều kiện tăng thu ngoại tệ, cải thiện cán cân thanh toán quốc tế, giải quyết công ăn việc làm, góp phần tạo điều kiện mọi mặt cho sự cất cánh của đất nước. Những thành quả bước đầu đó của ngành giao nhận là điều đáng mừng và rất cần được khích lệ. Bên cạnh những thành tựu đáng kể đó, ngành giao nhận Việt Nam vẫn còn tồn tại những khó khăn hạn chế cần cởi bỏ để đuổi kịp với trình độ phát triển của thế giới. Tuy nhiên, những khó khăn đó chủ yếu bắt nguồn từ quản lý bất cập của Nhà nước nếu xét về góc độ chủ thể. Khách quan mà nói, những năm qua vai trò quản lý của Nhà nước được thể hiện tương đối rõ nét trong sự lớn mạnh của ngành. Song, còn nhiều khuyết điểm trong cơ chế quản lý như vắng bóng một chiến lược phát triển, có sự thiếu hụt lớn các văn bản pháp luật điều chỉnh hướng dẫn, thiếu sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan quản lý... làm giảm sự nghiêm minh của luật pháp cũng như không đáp ứng được yêu cầu phát triển ngành. Đó chính là nỗi trăn trở của các cơ quan quản lý và là sự lo ngại đối với không ít doanh nghiệp. Bước vào kỷ nguyên mới, kỷ nguyên của sự hội nhập và phát triển, ngành giao nhận Việt Nam chắc hẳn sẽ có nhiều cơ hội để phát triển song cũng không ít thách thức đặt ra. Thiết nghĩ, nhằm đưa ngành giao nhận nước ta hòa nhập vào công nghiệp giao nhận trên thế giới thì nhất thiết phải nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước để Nhà nước thực sự xứng đáng đóng vai trò là người nhạc trưởng chỉ huy dạo khúc “thúc đẩy ngành giao nhận nước nhà tiếp bước vững chắc hơn”. Nghiên cứu hoạt động giao nhận, đi sâu tìm hiểu thực trạng ngành giao nhận của nước ta ở góc độ của người quản lý, từ đó kiến nghị những giải pháp nhằm nâng cao hiệu lực quản lý của Nhà nước đối với ngành cũng chính là góp phần thực hiện mong muốn đó. Vấn đề mà em chọn làm đề tài cho bản KLTN là một lĩnh vực rộng và phức tạp, đòi hỏi nhiều kiến thức tổng hợp và sâu sắc về các vấn đề liên quan. Do những hạn chế về khả năng bản thân và thời gian nghiên cứu, bản KLTN này chắc chắn còn nhiều thiếu sót. Em rất mong được nhận sự chỉ dẫn, góp ý thêm của các thầy cô.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa luan.doc
  • docbia.doc
  • docmuc luc.doc
  • doctai lieu tham khao.doc
Tài liệu liên quan