Khóa luận Hoàn thiện quy trình đấu thầu tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập

Sự tăng trưởng vượt bậc về kinh tế cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo trong những năm vừa qua đã chứng minh một cách sinh động về tính đúng đắn trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước khôi phục và phát triển, từ nghèo đói, thiếu ăn, thiếu mặc, đến nay đã trở thành một trong các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới và đang có những thành quả bước đầu trong công cuộc CNH – HDH đất nước. Công tác đấu thầu đã góp phần quan trọng trong các thành tựu kể trên bởi nó tạo ra sự cạnh tranh tự do trong môi trường bình đẳng và minh bạch. Cạnh tranh công bằng sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp không ngừng nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa các nhà thầu sẽ tạo thuận lợi cho chủ đầu tư lựa chọn được hàng hoá và dịch vụ phù hợp nhất với yêu cầu của mình và với giá cả thấp nhất. Vì vậy, trong việc chi tiêu mua sắm hàng hoá và những công trình lớn, cần có các chính sách quy định về việc lựa chọn nhà thầu bảo đảm cạnh tranh công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Trong khoảng thời gian 10 năm đã có hàng chục văn bản pháp quy về đấu thầu được ban hành. Quy trình đấu thầu ngày càng được cải tiến, song vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy khoá luận này vẫn còn chưa hoàn chỉnh do hạn chế về tầm kiến thức và hạn chế về thời gian nhưng cũng đã giới thiệu khái quát hệ thống lý luận về đấu thầu quốc tế và quy trình đấu thầu tại Việt Nam. Khoá luận cũng đã nêu lên thực trạng xây dựng và hoàn thiện quy trình đáu thầu trong thời gian qua, đồng thời phân tích những mặt còn tồn tại trong quy trình dấu thầu tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, khoá luận có đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình này nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập toàn diện của đất nước trong thời gian tới.

doc103 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1483 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Hoàn thiện quy trình đấu thầu tại Việt Nam nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu chuẩn đánh giá có lợi nhất cho một nhà thầu nào đó. 6. Bất cập trong việt quyết định người trúng thầu. Trong quá trình chấm thầu, một số “Bên mời thầu” cố tìm cách loại các nhà thầu có năng lực và khả năng cạnh tranh cao ngay từ vòng ngoài để tạo điều kiện cho một nhà thầu nào đó trúng thầu bằng mọi giá. Nếu vẫn có doanh nghiệp đáp ứng được, thì khi xét chọn thầu, người ta đưa ra phương pháp chấm điểm “không giống ai” để làm nản lòng những doanh nghiệp “ngoài tầm ngắm”. Hiện tượng này rất phổ biến trong ngành xây dựng cầu đường do sự can thiệp quá sâu của Bộ Giao thông vận tải. Theo nhận xét của Nguyên phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Văn Yểu thì với các công trình giao thông, Bộ Giao thông vận tải là chủ dự án chủ trì mời thầu – ra "đầu bài thi" – mời thành viên giám khảo – sau đó lại quyết định chấm bài. Trong khi đó Bộ này có nhiều doanh nghiệp trực thuộc Bộ. Đó là nguyên nhân dẫn đến sự khách quan với các doanh nghiệp bên ngoài chưa được đảm bảo. Hiện nay dư luận xã hội đặc biệt quan tâm tình trạng một số vị trí trong bộ máy công quyền vừa là chủ đầu tư, là cấp trên trực tiếp của bên mời thầu có quyền ra các mệnh lệnh hành chính trong quá trình lựa chọn nhà thầu; vừa là cấp trên trực tiếp hoặc có ảnh hưởng rất lớn đối với các nhà thầu (là các doanh nghiệp, Công ty hoặc Tổng công ty Nhà nước); vừa là người giải quyết các khiếu nại, tố cáo và xử lý vi phạm trong đấu thầu. Tình trạng này nếu không sớm được khắc phục, sẽ không thể chấn chỉnh được các tệ nạn thiếu công bằng và minh bạch trong đấu thầu cụ thể như sau: - Nhà thầu là doanh nghiệp nhà nước luôn chiếm thế thượng phong trong các cuộc đấu thầu thực hiện các dự án sử dụng vốn Nhà nước; - Nhà thầu là doanh nghiệp nhà nước luôn bỏ giá thấp để trúng thầu, sau đó tìm mọi cách để được bổ sung giá trị hợp đồng hoặc nếu có thua lỗ vẫn được Nhà nước hỗ trợ để không bị phá sản; - Nhà thầu không đủ năng lực thực tế, song tìm mọi cách để trúng thầu sau đó bán thầu với danh nghĩa là sử dụng thầu phụ để hưởng chênh lệch giá, tất nhiên có sự tiếp tay và hỗ trợ nhiệt tình của bên A; - Chất lượng và tiến độ công trình thường không đảm bảo yêu cầu, song tư vấn giám sát và chủ đầu tư không phải chịu trách nhiệm. Các bên đều đổ lỗi cho giá bỏ thầu thấp; - Lợi dụng sự kém hiểu biết hoặc thiếu tinh thần trách nhiệm của các cơ quan thẩm định và phê duyệt, Bên mời thầu có thể dàn xếp cho nhà thầu mình thích được trúng thầu thông qua các thủ thuật trong việc xem xét, đánh giá hồ sơ dự thầu (tìm cách hạ thấp điểm kỹ thuật của nhà thầu có giá dự thầu cạnh tranh hoặc tìm kiếm lỗi về hành chính để loại đối thủ cạnh tranh ngay từ vòng ngoài...) Đó là biểu hiện thực tế của "độc quyền" trong đấu thầu hay nói cách khác là tình trạng "khép kín đầu tư sử dụng vốn nhà nước". Hiện tượng này hiện nay còn đang rất phổ biến, do chức năng quản lý và chức năng kinh doanh vẫn chưa được tách biệt rõ ràng trong các doanh nghiệp Nhà nước. Cách làm này dẫn đến độc quyền, thiếu tính cạnh tranh và cuối cùng là lãng phí, hiệu quả thấp. 7. Bất cập trong việc thực hiện hợp đồng. Các cơ quan soạn thảo và ban hành pháp luật về đấu thầu quá chú trọng đến việc hướng dẫn về kỹ thuật đấu thầu, phân cấp quản lý, cách thức trình duyệt mà ít chú ý đến việc quy định các chế tài ràng buộc người trúng thầu phải tuân thủ đúng quy định. Vấn đề ký hợp đồng và giám sát thực hiện trong thời gian qua đã bị coi nhẹ, mặc dù đây mới thật sự là vấn đề quan trọng đáng lưu ý. Chính sự coi nhẹ này là nguyên nhân chính dẫn đến tình trạng thi công theo kiểu "dần xây". Khu kinh tế Dung Quất là một trong những công trình trọng điểm quốc gia. Tính đến tháng 8/2007, khu kinh tế này đã thu hút nguồn vốn đầu tư hơn 5,4 tỷ USD của 119 dự án đầu tư trong nước và ngoài nước. Công trình quan trọng nhất của khu kinh tế là Nhà máy lọc dầu Dung quất do Liên danh tổ hợp nhà thầu do Technip (Pháp) đứng đầu, tiến độ tổng thể đến cuối tháng 7/2007 chỉ đạt 72% so với kế hoạch, trong đó 5/6 gói thầu đều bị chậm. Nhà thầu trình lên Petro VN (đơn vị mời thầu) tiến độ chi tiết nhưng thay vì 44 tháng như hợp đồng đã ký, nhà thầu đã chậm hơn 6 tháng do nhiều nguyên nhân. Chậm tiến độ là một hiện tượng rất phổ biến của các nhà thầu trung thầu các công trình xây lắp. Nguyên nhân chủ yếu của hiện tượng này là do khi đàm phán ký kết hợp đồng với các nhà thầu trúng thầu, bên mời thầu đã không đưa ra những quy định chặt chẽ về việc thực hiện, dẫn đến tình trạng nhiều nhà thầu không đảm bảo thời gian bàn giao vì nhiều khó khăn về tài chính cũng như kỹ thuật trong khi thi công, hoặc không quản lý nổi do nhận thầu quá nhiều công trình. Tình trạng xây lắp dang dở và đắp chiếu như vậy dẫn đến rất nhiều vấn đề cả về kinh tế cũng như xã hội, gây lãng phí tàn sản quốc gia, ảnh hưởng đến đời sống công nhân cùng với nhân dân ở khu vực thi công, gây khó khăn trong công tác quản lý và quy hoạch, ảnh hưởng đến uy tín của các bên liên quan...[ Tài liệu 28] Bên cạnh đó, hiện tượng các nhà thầu bán thầu lại cho các công ty khác để hưởng chênh lệch là hiện tượng rất phổ biến. Một trường hợp điển hình đã được nhiều báo chí quan tâm là dự án Nhà thi đấu Thể dục thể thao Phú Thọ, TPHCM với rất nhiều sai phạm nghiêm trọng. Theo đoàn thanh tra, Sở TDTT TPHCM đã ký 16 hợp đồng kinh tế với các nhà thầu thi công xây lắp và cung cấp lắp đặt trang thiết bị với tổng giá trị các hợp đồng trên 82,629 tỉ đồng. Tính đến 30-3-2004, tổng kinh phí đề nghị thanh toán và tạm ứng là 71,095 tỉ đồng và đã thanh toán 67,385 tỉ đồng. Tuy nhiên, các đơn vị sau khi trúng thầu đều giao khoán lại cho công ty thành viên; công ty thành viên lại giao cho các xí nghiệp, đội sản xuất trực thuộc hoặc bán thầu để hưởng chênh lệch. Chẳng hạn, Tổng Công ty Xây dựng Hà Nội sau khi trúng thầu, ký hợp đồng giao nhận thầu với Sở TDTT TP liền ký hợp đồng giao lại toàn bộ việc thi công cho Công ty Đầu tư và phát triển xây dựng (đơn vị thành viên) và giữ lại 0,69% kinh phí. Sau đó, Công ty Đầu tư và phát triển xây dựng lại ký hợp đồng giao khoán cho Đội thi công xây dựng số 5 với giá trị hợp đồng giao khoán 14,567 tỉ đồng để hưởng chênh lệch 6,3%. Tuy nhiên Đội xây dựng số 5 không đủ năng lực thi công nên chỉ thực hiện được giá trị 1,3 tỉ đồng và sau đó “bán” lại cho Công ty Xây dựng số 16 (thuộc Tổng Công ty Xây dựng và phát triển hạ tầng), hưởng chênh lệch 321 triệu đồng (3,2%). Tương tự, Công ty Công trình hàng không trúng thầu thi công phần hạ tầng (giá trị gói thầu trên 8,819 tỉ đồng) cũng “bán” lại hai phần việc là trải thảm nhựa nóng và trồng hoa cây kiểng với Công ty TNHH An Cường và cửa hàng cây kiểng Phương Nam với giá trị 2 hợp đồng gần 1,792 tỉ đồng để hưởng chênh lệch trên 205 triệu đồng (11,5%). Ở 2 gói thầu cọc móng và mái nhà (đấu thầu rộng rãi), sau khi trúng thầu Tổng Công ty Xây dựng số 1 (Bộ Xây dựng) cũng ký hợp đồng giao lại toàn bộ giá trị trúng thầu (trên 17,695 tỉ đồng) cho Công ty cổ phần và xây lắp Chương Dương (đơn vị thành viên và cũng là đơn vị lập hồ sơ dự thầu) thực hiện và giữ lại 5% giá trị hợp đồng. Tuy nhiên sau đó, Công ty Chương Dương lại ký hợp đồng giao khoán cho 5 đơn vị (3 đơn vị thuộc công ty và 2 đơn vị ở ngoài) để hưởng tiếp trên 1,805 tỉ đồng chênh lệch. Đó là chưa kể, tại gói thầu hệ thống cấp thoát nước, chống sét, phòng cháy, Công ty Cổ phần Chương Dương cũng đã bán thầu cho Xí nghiệp Xây dựng và trang trí nội thất để hưởng chênh lệch trên 220 triệu đồng (13%) trước khi đơn vị này bán lại cho Công ty Điện cơ Sài Gòn để hưởng thêm gần 174 triệu đồng... Hậu quả của việc đấu thầu tràn lan gây rất nhiều khó khăn trong việc giám sát việc thực hiện hợp đồng và quy trách nhiệm khi có sai phạm. Bên cạnh đó, việc bán thầu phổ biến còn dẫn đến tình trạng hết sức nguy hại là các nhà thầu thông đồng với nhau trong cuộc thầu. Một nhà thầu sẽ đứng ra bỏ giá thầu thấp để trúng thầu, sau đó sẽ bán lại cho các nhà thầu khác. Hiện tượng này dẫn đến một vấn đề nhức nhối trong đấu thầu lâu nay là đấu thầu giá thấp, cố gắng thắng thầu bằng mọi giá sau đó tìm cách ''chạy'' giá gói thầu. Tình trạng này sẽ làm biến dạng hẳn phương thức đấu thầu, dẫn đến công trình giao cho những nhà thầu không có đủ năng lực và phẩm chất. 8. Bất cập trong việc quản lý sau đấu thầu. Đối với những công trình lớn và sử dụng nguồn vốn từ ngân sách Nhà nước, các cơ quan chức năng không những phải giám sát việc tổ chức đấu thầu chọn nhà cung cấp tốt nhất mà còn phải giám sát quản lý việc thực hiện hợp đồng của các nhà thầu cũng như những quy định của các cơ quan quản lý. Tuy nhiên, cho đến nay, công tác này ít khi được thực hiện. Thay vào đó, chức năng chính của các cơ quan quản lý là điều chỉnh các quy định cho phù hợp với thực tế thi công của các nhà thầu, tránh sai phạm. Vẫn với ví dụ dự án Nhà thi đấu Thể dục thể thao Phú Thọ nêu trên, Công trình đa năng, hiện đại theo chuẩn quốc tế có sức chứa đến 5.000 chỗ này được khởi công xây dựng từ ngày 22-12-2000 trên diện tích khuôn viên được duyệt thuộc dự án nhóm B là 30.000m2, tổng kinh phí 66,627 tỉ đồng (trong đó phần xây lắp 49, 947 tỉ, thiết bị 10,6 tỉ), dự kiến hoàn thành trong năm 2001. Tuy nhiên, một năm sau, Sở TDTT TP kiến nghị và được Phó Chủ tịch UBND TP lúc bấy giờ là ông Vũ Hùng Việt phê duyệt quyết định điều chỉnh mở rộng dự án này lên 46.000m2 với tổng kinh phí 119,429 tỉ đồng (trong đó phần xây lắp 66,904 tỉ, thiết bị 15,195 tỉ). Trong khi tổng vốn xây lắp được duyệt chỉ là 49,947 tỉ đồng nhưng thực tế chỉ tính giá trị xây lắp của 3 hạng mục: móng, thân và mái nhà được Sở Xây dựng thẩm định phê duyệt đã vượt 7,325 tỉ đồng. Theo đoàn thanh tra, đây là nguyên nhân cơ bản dẫn đến việc Sở TDTT phải xin điều chỉnh dự án. Và kết quả là ngày 1-2-2004 Phó Chủ tịch UBND TP Vũ Hùng Việt (ở thời điểm đó) ký quyết định phê duyệt quyết định điều chỉnh trái với Điều 31 của Quy chế quản lý đầu tư và xây dựng ban hành theo Nghị định 52/1999 của Chính phủ để hợp thức hóa cho việc làm sai theo kiểu “tiền trảm hậu tấu” của Sở TDTT TP. [Tài liệu 29] Có thể nói những kẽ hở trên trong quy trình đấu thầu tại Việt Nam đã làm ảnh hưởng rất lớn đến tính minh bạch và hiệu quả của hoạt động đấu thầu trong thời gian qua. Những vi phạm phát sinh từ những tồn tại trên không những làm giảm tiến độ mua sắm và xây dựng, ảnh hưởng lớn đến chất lượng hàng hóa dịch vụ được cung cấp, gây thất thoát tài sản quốc gia và ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống nhân dân và làm mất tính hấp dẫn của nền kinh tế Việt Nam trong mắt các nhà đầu tư nước ngoài. Vì vậy, cần phải có những biện pháp khắc phục kịp thời và hiệu quả. CHƯƠNG III. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM HOÀN THIỆN QUY TRÌNH ĐẤU THẦU QUỐC TẾ Ở VIỆT NAM TRONG THỜI GIAN TỚI. I. Định hướng hoạt động đấu thầu quốc tế ở Việt Nam trong thời gian tới. Quán triệt các chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, đưa Luật Đấu thầu đi vào cuộc sống. Do đặc thù của nền kinh tế Việt Nam, hiện nay chỉ các cuộc mua sắm sử dụng tiền Nhà nước (thuộc sở hữu toàn dân) mới phải tuân thủ các quy định về đầu tư và đấu thầu được ban hành kèm theo các văn bản quy phạm pháp luật nêu trên. Trong các cuộc mua sắm đó, bên mua là các tổ chức, cá nhân thuộc Nhà nước, do đó bên mua cũng chỉ là những đại diện chứ không phải là chủ sở hữu trực tiếp. Bên bán thì phần lớn là các doanh nghiệp nhà nước, nên những người được quyền quyết định của bên bán đa số cũng chỉ là những đại diện (do được bổ nhiệm hoặc bầu). Vì vậy, nếu thiếu những quy định pháp lý chặt chẽ về đấu thầu, thì chẳng những công tác đấu thầu không phát huy được tác dụng tốt đẹp vốn có của nó, mà trái lại các cuộc đấu thầu sẽ biến thành các cuộc mặc cả của các vị đại diện các bên, hoặc là các cuộc “đi đêm” giữa “A” và “B” nhằm rút ruột Nhà nước. Hiểu đúng chủ trương, chính sách của Đảng và Nhà nước, áp dụng linh hoạt Luật vào thực tiễn một cách hiệu quả là vấn đề rất cần được quan tâm. Với nhận thức đấu thầu là một lĩnh vực mang tính nghiệp vụ cao nên Luật vừa được Quốc hội thông qua vừa được coi là luật gốc về đấu thầu với phạm vi điều chỉnh là các gói thầu thuộc dự án sử dụng vốn Nhà nước đồng thời là cơ sở dẫn chiếu về đấu thầu cho các văn bản quy phạm pháp luật khác. Theo hướng đó, nhằm đảm bảo tính thống nhất trong quá trình triển khai và thực hiện, việc hướng dẫn Luật theo chỉ đạo của Thủ tướng Chính phủ sẽ được tập trung trong các Nghị định, còn một số vấn đề mang tính đặc thù sẽ được các cơ quan chức năng liên quan hướng dẫn chi tiết. Tuy nhiên, bên cạnh đó cần phải nhận thức rõ ràng rằng hiệu quả của đồng vốn không chỉ dựa vào mua hàng rẻ, mà còn là nhanh chóng chớp thời cơ, bảo vệ bí mật kinh doanh, xây dựng quan hệ đối tác chiến lược, và nhiều yếu tố khác. Như vậy, hiệu quả của đồng vốn phải do người lãnh đạo doanh nghiệp quyết định, không phải do luật quyết định. Vì thế, để Luật được thực sự đi vào đời sống và mang lại hiệu quả cao trong công tác đấu thầu, vấn đề xây dựng Luật và thực hiện Luật phải được thực hiện song hành. Tăng cường tính công khai, minh bạch, phân cấp, đơn giản thủ tục, giám sát cộng đồng Hoạt động đấu thầu là một "mắt xích" quan trọng góp phần nâng cao hiệu quả, giảm lãng phí, thất thoát, tiêu cực đối với các dự án đầu tư và xây dựng - đặc biệt là những dự án có "gốc" vốn từ ngân sách Nhà nước... Thực tế trong những năm qua có thể khẳng định công tác đấu thầu càng được mở rộng, công khai, minh bạch thì càng phát huy được hiệu quả... Luật Đấu thầu ra đời đánh dấu một bước tiến mới trong công tác quản lý của nước ta, nó tạo ra một hành lang pháp lý cho việc lựa chọn được các nhà thầu để thực hiện các dự án đầu tư, đồng thời góp phần nâng cao vai trò của chủ đầu tư và tăng cường trách nhiệm của nhà thầu. Thực hiện đấu thầu sẽ tạo được sự công bằng và cạnh tranh giữa các nhà thầu, hạn chế tiêu cực trong việc lựa chọn đơn vị thực hiện và qua đó giảm được chi phí đầu tư, mang lại hiệu quả cho dự án. Qua thực hiện đấu thầu, chủ đầu tư có điều kiện lựa chọn được phương án có hiệu quả trong việc mua sắm hàng hoá, lựa chọn được nhà thầu có đủ kinh nghiệm và năng lực, có phương án kỹ thuật, biện pháp thi công tốt để thực hiện dự án, đảm bảo chất lượng của công trình. Bên cạnh đó, tăng cường dân chủ hoá trong đấu thầu cũng là một vấn đề quan trọng cần quan tâm. Khiếu nại và giải quyết khiếu nại trong đấu thầu là một nội dung mới được quy định trong Luật Đấu thầu, nhằm tăng cường tính công bằng và minh bạch các hoạt động đấu thầu. Theo đó, khi thấy quyền và lợi ích của mình bị ảnh hưởng, nhà thầu có quyền yêu cầu bên mời thầu, chủ đầu tư và người có thẩm quyền giải quyết; và có thể khởi kiện ra Toà án khi xét thấy giải quyết của người có thẩm quyền không thoả đáng hoặc có thể khởi kiện ngay ra Toà án mà không theo trình tự trên. Mặt khác, để tăng cường sự công bằng minh bạch trong đấu thầu, Luật Đấu thầu quy định khi người có thẩm quyền ra quyết định để giải quyết khiếu nại phải căn cứ vào ý kiến của Hội đồng tư vấn về giải quyết khiếu nại. Hội đồng gồm Chủ tịch Hội đồng là thủ trưởng cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu, đại diện người có thẩm quyền và đại diện Hiệp hội có liên quan nhằm tăng cường tiếng nói và giám sát của cộng đồng, đảm bảo yếu cầu minh bạch, công bằng trong đấu thầu. Khắc phục tồn tại (lạm dụng chỉ định thầu, đấu thầu hạn chế...) Luật Đấu thầu được thảo luận và ban hành trong một bối cảnh khá đặc biệt. Hàng loạt các vụ tiêu cực lớn nhỏ được phanh phui trong thời gian gần đây, từ các dự án xây dựng dân dụng, vụ án tiêu cực của ngành dầu khí, vụ án tiêu cực của Công ty Điện lực TP.HCM... tất cả, dù ít hay nhiều đều liên quan đến đấu thầu. Trong đó những tồn tại cơ bản là hiện tượng đấu thầu khép kín. Việc chống khép kín trong đấu thầu được quy định trong Luật Đấu thầu cần được quan tâm xem xét và chỉ đạo cụ thể hơn và có lộ trình thích hợp nếu không đây cũng là vấn đề bức xúc nảy sinh hiện nay ở các ngành địa phương và cũng là một trong những nguyên nhân quan trọng làm chậm tiến độ triển khai các dự án đầu tư xây dựng công trình cũng như mua sắm, đồng thời để đảm bảo chất lượng công trình. Phù hợp với thông lệ quốc tế Đây là một yêu cầu hết sức quan trọng trong bối cảnh nền kinh tế Việt Nam ngày một hội nhập sâu với nền kinh tế thế giới. Hoạt động đấu thầu tại Việt Nam không những phải đáp ứng được nhu cầu phát triển của nền kinh tế Việt Nam, mà còn phải phù hợp với thông lệ quốc tế, thích ứng linh hoạt với những biến động trên thị trường quốc tế. Khác với Quy chế Đấu thầu trước đây, Luật Đấu thầu không bắt buộc nhà thầu phải liên danh hoặc phải sử dụng thầu phụ Việt Nam khi tham gia đấu thầu quốc tế tại Việt Nam. Quy định này là cần thiết nhằm tăng cường tính cạnh tranh và công bằng trong đấu thầu, phù hợp với yêu cầu hội nhập quốc tế, song được coi là một trong các điều kiện ưu đãi để khuyến khích các nhà thầu nước ngoài tham gia đấu thầu tại Việt Nam. Bên cạnh đó, quy trình của chúng ta vẫn còn có một số điểm đi ngược lại với xu thế chung của thế giới, ví dụ như . Luật Đấu thầu quy định: “Nhà thầu tư vấn lập báo cáo nghiên cứu khả thi được tham gia đấu thầu cung cấp dịch vụ tư vấn lập thiết kế kỹ thuật của dự án, nhà thầu tư vấn đã tham gia thiết kế kỹ thuật của dự án không được tham gia đấu thầu các bước tiếp theo, trừ trường hợp đối với gói thầu EPC” (Điều 11) quy định này là chưa phù hợp với xu thế của thế giới, ngược lại họ thường gắn thiết kế và xây dựng; Thiết kế, mua sắm thiết bị và xây dựng hoặc lập dự án - thiết kế - mua sắm thiết bị và xây dựng; Trong khi các phương pháp quản lý này ở ta lại rất mới mẻ xa lạ mà mới chỉ được định hướng về luật pháp (Luật Xây dựng và các văn bản hướng dẫn), chính vì lẽ đó với quy định trên quy trình quản lý dự án đầu tư đang được chặt khúc từng đoạn riêng rẽ, manh mún đang là trở ngại cho việc đẩy nhanh tiến độ và quản lý chất lượng các dự án thuộc các ngành, các địa phương hiện nay. Vì lý do đó một mặt các ngành, các địa phương cần mạnh dạn hơn trong việc áp dụng các hình thức đấu thầu để lựa chọn Tổng thầu (thiết kế và xây dựng, EPC hoặc Chìa khoá trao tay) mặt khác cần có hướng dẫn cụ thể về lộ trình thực hiện điều khoản này trong luật định cho phù hợp với thực tế không để làm chậm việc triển khai hàng loạt các dự án tại các ngành, các địa phượng hiện nay. II. Một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình đấu thầu tại Việt Nam. Muốn cho đấu thầu trở thành một công nghệ mua sắm, xây dựng công trình, thì ngoài việc phải thực hiện các công việc theo một trật tự nhất định, người tổ chức đấu thầu còn phải cải tiến hoàn thiện những khâu công việc cụ thể sao cho sát với tình hình thực tế. 1. Xóa bỏ tình trạng khép kín trong đấu thầu. Như đề cập trong phần bất cập trong quy trình đấu thầu, có thể dễ dàng nhận thấy nguyên nhân của những tồn tại trong quá trình mời thầu, xét thầu... đều do sự khép kín trong hoạt động đấu thầu. Khi còn tồn tại cơ chế người quyết định đầu tư, cơ quan tư vấn, thiết kế dự toán, lập yêu cầu trong hồ sơ mời thầu rồi lại xét duyệt để tuyển chọn nhà thầu, giám sát, thẩm định, nghiệm thu và cuối cùng là thanh quyết toán thì những bất cập trên tất yếu xuất hiện. Vì vậy, giải pháp đầu tiên và cũng là quan trọng hàng đầu là phải xóa bỏ cơ chế khép kín trong hoạt động đấu thầu. Phải nhanh chóng tách khâu giám sát, giám định ra khỏi vòng "khép kín" của hoạt động đấu thầu. Những đơn vị có chức năng giám sát, giám định phải được điều chuyển ra khỏi phạm vị một Bộ, một ngành". Luật Đấu thầu mới đã hạn chế và tiến tới xóa bỏ tình trạng khép kín trong đấu thầu. Thời hạn bắt buộc để thực hiện điều này là trong vòng 3 năm kể từ ngày Luật Đấu thầu có hiệu lực 1/4/2006. Luật Đấu thầu đã quy định rõ những trường hợp không được tham gia đấu thầu và những yêu cầu về tính độc lập trong đấu thầu của các bên liên quan. Cụ thể: nhà thầu tư vấn lập báo cáo tiền khả thi (FS) không được tham gia đấu thầu cung cấp thiết kế kỹ thuật; tư vấn lập thiết kế kỹ thuật không được tham gia đấu thầu và các bước tiếp theo. Trừ gói thầu EPC. Các quan hệ giữa nhà thầu tham gia đấu thầu với nhà thầu tư vấn lập hồ sơ mời thầu; Nhà thầu tư vấn giám sát thực hiện hợp đồng và nhà thầu thực hiện hợp đồng; Nhà thầu tham gia đấu thầu với chủ đầu tư được yêu cầu phải độc lập về tổ chức không cùng phụ thuộc vào một cơ quan quản lý và độc lập về tài chính. Thậm chí, nếu các đơn vị độc lập về tài chính nhưng cùng một cơ quan quản lý ra quyết định thành lập thì sẽ không được tham gia trong quá trình đấu thầu. Đây là vấn đề nhạy cảm do đụng chạm quyền và lợi ích cục bộ của một số đơn vị và tổ chức đấu thầu. Bên cạnh đó, theo các chuyên gia của Bộ Kế hoạch và Đầu tư, điều này cũng có những cái khó so với thực tế ở nước ta vì lực lượng tư vấn thi công mạnh nhất của bất cứ ngành nào thường nằm ở các DNNN trực thuộc cùng một Bộ chủ quản chuyên ngành. Thực tế, các nhà tài trợ đã yêu cầu nếu bộ chủ quản dự án thì các cơ quan thuộc Bộ không được tham gia đấu thầu dự án do Bộ quản lý. Nhưng thực tế Việt Nam chưa thể thực hiện ngay điều này và Chính phủ đã thoả thuận lùi thời điểm thực hiện cam kết này lại và thực hiện theo lộ trình. Lộ trình này được thực hiện bằng cách đẩy mạnh cổ phần hoá để tách doanh nghiệp ra khỏi quản lý Nhà nước ở các Bộ, chuyển tất cả các DNNN sang hoạt động theo Luật doanh nghiệp. Tuy nhiên, trong chiều tác động ngược lại thì việc áp dụng các quy định mới cũng sẽ góp phần thức đẩy việc cải cách DNNN của Việt Nam. 2. Vấn đề tổ chức cung cấp thông tin. Đây là một trong những khâu yếu nhất trong hoạt động kinh doanh ở Việt Nam. Các nguồn thông tin hiện nay chúng ta nhận được và cung cấp cho khách hàng không kịp thời, không chính xác. Do vậy, khi xây dựng các đơn dự thầu, tài liệu kỹ thuật không sát thực với tình hình thực tế. Khi tổ chức mời thầu, thông tin không được truyền tải đến mọi nhà thầu tiềm năng, hạn chế quá trình đấu thầu rộng rãi. Với đà phát triển mạnh mẽ của khoa học kỹ thuật, hệ thông thông tin cần phải kịp thời và chính xác. Để làm được việc đó, Nhà nước phải tập xây dựng các Viện nghiên cứu với đội ngũ cán bộ có năng lực và với các phương tiện làm việc hiện đại. Hoạt động này đòi hỏi phải có nguồn kinh phí hỗ trợ rất lớn. Đồng thời việc làm đó sẽ tạo cho các viện nghiên cứu mọi điều kiện đẻ tham gia vào quá trình hợp tác quốc tế. Nguồn thông tin thu lượm được sau khi xử lý sẽ cung cấp thường xuyên cho các doanh nghiệp, coi đây cũng là một hoạt động đầu tư. Tránh tình trạng tự lo tìm kiếm thông tin cho hoạt động của riêng mình, hoạt động manh mún và kém hiệu quả. Nguồn lưu trữ thông tin sẽ mang lại kiến thức tổng hợp và chi tiết cho trong nhiều lĩnh vực mua sắm, cung cấp những thông tin cần thiết cho các nhà tổ chức thầu để phục vụ hiệu quả cho công tác tổ chức thầu và xây dựng các tiêu chuẩn đấu thầu. Hiện nay, cùng với sự phát triển của hệ thống mạng toàn cầu Internet, việc áp dụng hình thức đấu thầu qua mạng đang là một xu hướng rất phổ biến để tăng cường tính minh bạch trong đấu thầu, hình thức đấu thầu mới - đấu thầu qua mạng cùng được đề cập trong Luật Đấu thầu. Theo nghĩa đơn giản nhất, đấu thầu qua mạng được hiểu mọi công việc mời thầu, dự thầu, xét thầu, công bố kết quả...được diễn ra trên hệ thống mạng. Nhiều nước trên thế giới đã và sẽ chuyển sang áp dụng hình thức đấu thầu qua mạng do đem lại những thuận lợi sau: - Tăng cường tính cạnh tranh, minh bạch trong đấu thầu. - Giảm chi phí thời gian và chi phí trong đấu thầu. - Đơn giản hoá quá trình tổ chức đấu thầu và xét thầu. - Hạn chế tối đa các hiện tượng tiêu cực 3. Chuyên môn hóa hoạt động tổ chức đấu thầu. Chính phủ nên đưa ra sàn giao dịch đấu thầu. Đây là một ý tưởng được đánh giá là mới nhưng đang cần phải cân nhắc. Bởi vì các bên mời thầu của ta không chuyên nghiệp. Là ông Hiệu trưởng, Giám đốc bệnh viện, Giám đốc nhà máy rượu... họ chỉ quản lý tiền thôi, còn đưa ra sàn giao dịch phải là những nhà thầu chuyên nghiệp. Nhà tổ chức thầu sẽ làm tất cả mọi quy trình từ lập hồ sơ mời thầu đến chọn đúng nhà thầu, đồng thời kiêm giám sát một cách khách quan và chuyên nghiệp. Như thế không những nâng cao tính hiệu quả của hoạt động đấu thầu lựa chọn nhà cung cấp phù hợp mà còn hạn chế được rất nhiều tiêu cực, tránh tình trạng ai cũng xâu xé để nhận một công trình trước khi về hưu để có cơ hội kiếm chác. Đây cũng là kinh nghiệm của một số quốc gia trên thế giới đã áp dụng. Tuy nhiên, đối với nước ta, hoạt động đấu thầu tuy thực hiện hơn 10 năm nhưng mới ở giai đoạn đầu, cách hiểu, vận dụng và thực thi pháp luật còn mức độ. Nếu áp dụng ngay trong Luật sẽ khó khả thi, cần có bước tập dượt để chuyên môn hoá cao hơn. Hơn nữa, việc hình thành sàn giao dịch về đấu thầu sẽ liên quan đến việc hình thành những tổ chức, chủ thể trong sàn giao dịch, phải có bước chuẩn bị kỹ hơn, đồng bộ hơn. Vì vậy, trong điều kiện hiện nay của nước ta, có thể áp dụng hình thức mở thầu lựa chọn nhà tổ chức thầu cho các công trình quốc lớn và hoạt động mua sắm công. Biện pháp này rất hiệu quả đối với hoạt động mua sắm của các ngành y tế hay giáo dục vì hiện nay thường xuyên phải thuê các chuyên gia tư vấn với giá cao, nhưng vẫn không tránh khỏi hiện tượng khép kín trong đấu thầu vì vẫn do Bộ chủ quản đứng ra tổ chức đấu thầu. 4. Mời thầu và lựa chọn người dự thầu. Để đáp ứng yêu cầu của sự nghiệp CNH – HĐH đất nước cũng như nhu cầu hội nhập ngày càng sâu của nền kinh tế, theo tinh thần Nghị quyết Đại hội 8 Đảng cộng sản Việt Nam, việc mua đúng chất lượng, số lượng và đúng nguồn hàng, cũng như việc lựa chọn đúng nhà thầu có đủ năng lực xây dựng là mối quan tâm hàng đầu của các nhà nhập khẩu. Trong quy trình đấu thầu nảy sinh hàng loạt vấn đề có liên quan việc tìm nguồn cung cấp. Những nhà tổ chức đấu thầu có kinh nghiệm thường luôn luôn nhấn mạnh việc tiếp cận thị trường, khuyến khích các nguồn cung để họ chào hàng. Số lượng nguồn cung cấp được mời chào sẽ không cố định, mà nên tùy thuộc vào các điều kiện sau đây: Khối lượng và giá trị hàng hóa Mức độ cạnh tranh giữa các nhà cung cấp. Chất lượng hàng hóa mong muốn. Khả năng của phía đối tác. Hiểu biết về thị trường. Trong quá trình xem xét cần phải tính đến một số nguyên tắc chuyên môn cơ bản, như: Tham khảo người cung cấp gần nhất về mặt hàng cần mua. Thảm khảo ít nhất 3 nguồn cung cấp. Tham khảo người cung cấp thứ hai, thứ ba trong quyết định cuối cùng. Việc chuẩn bị mời thầu nên được giữ kín để không đẩy giá lên cao. Yếu tố bất ngờ là cần thiết. Ngày mời thầu, nơi công bố, phương tiện công bố phụ thuộc vào tình hình kinh tế trong nước thế giới. Giấy mời thầu phải phán ánh được tất cả mọi yêu cầu mua hàng, như tiêu chuẩn, đặc điểm kỹ thuật, sự vận hành, giá cả... Tính chính xác của giấy mời thầu sẽ phản ánh năng lực chuyên môn của người gọi thầu. 5. Quá trình xét thầu - ứng dụng mạng notron nhân tạo Việc xem xét đánh giá, lựa chọn nhà thầu nên vận dụng linh hoạt tùy theo đối tượng đấu thầu. Trong quá trình xem xét cần phải lập một số mẫu biểu. Các mẫu biểu này phải được thống nhất cho từng loại hình đấu thầu. Nó sẽ tạo điều kiện thuận lợi cho quá trình xét duyệt sau này. Đặc biệt với hoạt động xây dựng là những gói thầu lớn, có giá trị cao, thời gian hoàn thành lâu dài và yêu cầu kỹ thuật kỹ lưỡng, công tác đấu thầu cũng tùy thuộc nhiều yếu tố, trong đó, có cả đặc điểm của dự án lẫn các tình huống biến động khác. Đôi khi việc lựa chọn thầu còn tùy thuộc vào kinh nghiệm và trực giác của các chuyên gia. Hiện nay ở các quốc gia phát triển, việc ứng dụng phần mềm mạng Notron nhân tạo tỏ ra là một công cụ hữu hiệu để có thể ứng xử với các vấn đề phức tạp và không cấu trúc như vậy. Mô hình mạng Notron có thể áp dụng cho các công trình dân dụng, loại nhà ở, khách sạn, văn phòng... có giá trị dưới 200 tỷ đồng vì tính phổ biến của chúng. Các công trình xây lắp có giá trị từ 200 tỷ đồng trở lên là khá hiếm ở Việt Nam và phải tiến hành đấu thầu theo một quy trình dài đấu thầu hai giai đoạn. Bên cạnh đó, với các công trình có giá trị lớn hơn 200 tỷ đồng thì hiển nhiên là việc đấu thầu sẽ được tiến hành bởi các chuyên gia hàng đầu, việc hỗ trợ bằng máy tính chỉ là công cụ bổ sung cần thiết. Công cụ được sử dụng là Mạng nơtron nhân tạo - Artificial Neutral Network (ANN), cũng chính vì khả năng mô phỏng và học hỏi mạnh mẽ của nó. ANN còn có thể mô phỏng gần như bất cứ hàm mục tiêu nào với số biến nhập và xuất tuỳ ý, ở thời điểm này thì có lẽ chưa có một phương pháp nào trước đây đạt được, chỉ riêng khả năng này của ANN đã là quá ấn tượng và đáng quan tâm. ANN còn là một ưu điểm tuyệt vời khác, đó là khả năng học. Một ANN gần giống như một đối tượng có thể tư duy. Mỗi khi có kiến thức mới (Data mới) ta lại đưa cho ANN. Khả năng này của ANN là rất cần thiết cho các vấn đề có dữ liệu luôn thay đổi, cập nhật như vấn đề đấu thầu mà ta đang nghiên cứu. Lý thuyết toán ANN là một phương pháp mô hình hoá tập trung vào các bài toán phi tuyến (các hàm phức tạp như hàm ra quyết định chọn thầu là một ví dụ). Khả năng học của ANN chủ yếu dựa trên kỹ thuật lan truyền ngược. ANN lan truyền là một hàm phi tuyến có thể xấp xỉ gần đúng, nhưng một hàm đích được cho qua một số mẫu trong tập mẫu hình 1 sau đây sẽ minh hoạ một mạng lan truyền. Hình 1: Mạng lan truyền 3 lớp Hình 2: Đồ thị hàm Logistic(u) Trong hình, mạng gồm 3 lớp (thực tế ANN cho việc hỗ trợ chọn thầu cũng sẽ có 3 lớp như thế này): lớp nơtron nhập (input), lớp nơtron ẩn và lớp nơtron xuất (output). Mỗi nút - nơtron trong lớp nhập, phải nhận giá trị của một biến độc lập và chuyển vào mạng. Dữ liệu từ tất cả các nơtron trong lớp nhập được tích hợp - ta gọi là tổng trọng hoá và chuyển kết quả cho các nơtron ẩn. Gọi là “ẩn”, vì các nơtron trong lớp này chỉ liên lạc với các nơtron trong các lớp nhập và xuất, và chỉ người thiết kế mạng biết lớp này (người sử dụng mạng không biết lớp này). Tương tự, các nút - nơtron trong lớp xuất cũng nhận các tín hiệu tổng trọng hoá từ các nút ẩn. Mỗi nút - nơtron trong lớp xuất tương ứng một biến phụ thuộc. Mạng lan truyền chỉ có thể ở một trong hai trạng thái: - Trạng thái ánh xạ (VD: tính toán ra các thông số cần thiết cho việc chọn thầu) - Trạng thái học (VD: học các dữ liệu chọn thầu mẫu từ người dùng nhập vào) Trong trạng thái ánh xạ, thông tin lan truyền từ lớp nhập đến lớp xuất và mạng thực hiện ánh xạ để tính giá trị các biến phụ thuộc dựa vào các giá trị biến độc lập được cho: Y=NN(X). Trong trạng thái học, thông tin lan truyền theo hai chiều nhiều lần để học các trọng số. Trong trạng thái ánh xạ, mạng xử lý mỗi lần một mẫu để tính Y= NN(X). Giá trị các lớp trong nút ẩn và trong lớp xuất là giá trị của hàm lan truyền với tham số là tổng trọng hoá. Về mặt hình học, đồ thị của hàm truyền thống có dạng chữ S, nên ta gọi là hàm dạng S. Hình 2 minh hoạ đồ thị hàm truyền thông dụng g(u): Khi u= 0, g(0)= 0.5. Khi u tăng, g(u) tăng - nhanh lúc đầu nhưng rồi chậm hơn khi tiếp cận 1, đó là chăn trên của nó. Chặn dưới là 0. Về mặt toán học, hàm logistic được định nghĩa như sau: trong đó e là cơ số logarit tự nhiên. Hắng số e có giá trị khoảng 2.71828 Thiết kế mạng ANN cho mục đích chọn thầu Sơ đồ thiết kế ANN Bài toán này có đầu vào là dữ liệu về công trình, có kết xuất là các tiêu chí, thang điểm đánh giá HSDT. Các dữ liệu (số nút nhập) của ANN gồm có: a. Nhóm công trình: 5 nhóm Công nghiệp; Cấp thoát nước, tuyến ống dẫn dầu, tuyến cáp thông tin bưu điện, đường dây tải điện; Nông nghiệp thuỷ lợi; Giao thông; Dân dụng b. Loại công trình của nhóm: từ 3 đến 8 phân loại cho một nhóm. c. Phân loại của loại công trình: từ 1 đến 5 phân loại cho một loại công trình. Do đó tổng số phân loại công trình lên đến hàng trăm d. Giá trị công trình (tỷ) e. Thời gian thi công (năm) Vậy trực quan ta có thể thấy rằng nên thiết lập một ANN có 5 nút nhập cho 5 dữ liệu vừa nên, có 25 nút xuất với 25 là số tiêu chuẩn đánh giá HSDT, số nút ẩn sẽ được nghiên cứu xác định trong quá trình XD và huấn luyện ANN sao cho hợp lý nhất. (Hình 3) Hình 3: ANN có 5 nút nhập, n nút ẩn và 25 nút xuất Hình 4: ANN có 2nuts nhập, 3 nút ẩn và 1 nút xuất Tuy nhiên, qua nghiên cứu thực nghiệm, nhận thấy một kiến trúc ANN với 5 nút nhập và khá nhiều nút xuất như vậy rất có thiết kế và nhất là rất khó huấn luyện. Kiến trúc rất cồng kềnh, thời gian luyện rất lâu, sai số giảm rất chậm và dĩ nhiên độ tin cậy không cao. Vì vậy, phải tìm một giải pháp nào đó để đơn giản hoá cấu trúc “bộ não” này, từ đó làm cho việc kiểm soát ANN trở nên dễ dàng & tin cậy hơn. Giải pháp đơn giản hoá ANN thô ban đầu Nếu chú ý đến 3 dữ liệu đầu tiên của 5 dữ liệu thuộc lớp nhập ta nhận thấy rằng, ba dữ liệu này nhằm lọc công trình (dự án) thành 5 x 8 x 5 tương đương khoảng 200 phân loại công trình. Thực tế về mặt lý thuyết ANN có thể hoàn thành nhiệm vụ tách lọc này. Nhưng ở mức độ nghiên cứu hiện tại và qua phân tích tình hình thực tế, ta chưa cần phải đưa phần lọc phân loại công trình này vào ANN. Có thể thế một bộ lọc bằng thuật toán lọc CASE cổ điển. Động tác lọc gần 200 phân loại công trình này theo 3 tầng lọc: Nhóm, Loại, Phân loại. Điều này thật sự đã làm kiến trúc của ANN nhẹ đi khoảng 60% và độ phức tạp đã giảm đi nhiều lần. Đến đây, đối với riêng từng ANN thì từ 5 dữ liệu cần cho 5 nút ẩn, ta chỉ còn cần 2 dữ liệu và2 nút ẩn tương ứng là: giá công trình và thời gian thi công. Thực ra, ta chỉ bớt khối lượng cho ANN bằng cách chuyển phần lọc dữ liệu nhập sang cho một bộ lọc thông thường. (Hình 4) Chương trình hỗ trợ chọn thầu Bidder Select a. Khả năng: Chương trình được viết bằng ngôn ngữ Java, tiện lợi cho việc xuất bản sử dụng trên mạng Internet. Do vậy mang tính ứng dụng và phát triển cao. Chương trình sẽ ứng dụng ANN giúp người dùng trong các tác nghiệp chính của quá trình chọn thầu. Các Modules chính của chương trình là: 1. Lập HSMT 2. Đánh giá hồ sơ dự thầu. 3. Học cách tư duy của các chuyên gia chọn thầu b. Nguyên lý hoạt động Các Module (processes) đặc thù cho xử lý thông tin, điều khiển chương trình, xuất nhập dữ liệu... được nghiên cứu XD theo thuật toán và quy trình chọn thầu đã phân tích. Phần Module huấn luyện ANN có nguồn gốc từ một java engine (gói chương trình) do Paolo Maroone - một chuyên gia toán tin học - phát triển. Sơ đồ 3: Sơ đồ hoạt động tổng quát của Bidder Select Nghiên cứu đã XD được một phần mềm có khả năng hỗ trợ công đoạn khó khăn nhất và mang tính chuyên gia nhất trong quy trình tuyển chọn nhà thầu là quá trình đánh giá hồ sơ dự thầu của họ. Quan điểm, đánh giá hồ sơ dự thầu của Bidder Select là động, có thể thay đổi, không cứng nhắc và bất biến như phần mềm thông thường khác. Ngoài ra, đối với từng công trình Bidder Select cũng sẽ cung cấp một HSMT hoàn chỉnh nhằm giúp dỡ các cán bộ chưa nhiều kinh nghiệm hoặc ngay cả các chuyên gia giàu kinh nghiệm cũng đôi khi cần tham khảo đến các đề xuất này để giảm bớt nguy cơ bỏ sót thông tin, quy định, hoặc ngay cả những nhầm lẫn không đáng có của mình. 6. Tăng cường công tác hậu kiểm trong đấu thầu Luật quy định tổ chức, cá nhân được giao trách nhiệm giám sát thực hiện hợp đồng phải công tâm, trung thực, khách quan và phải đảm bảo có đủ năng lực kinh nghiệm. Theo đó, tư vấn giám sát thi công thiếu trách nhiệm hoặc thông đồng với nhà thầu thi công, thì cả nhà tư vấn và nhà xây dựng đều phải đền bù thiệt hại và bị xử phạt từ mức cảnh cáo, phạt tiền đến không cho tham gia hoạt động đấu thầu. Để tạo thuận lợi thúc đẩy tiến độ thực hiện dự án cũng như để tăng cường trách nhiệm của các bên tham gia các hoạt động đấu thầu, Luật đã phân cấp tối đa các bước phê duyệt trong đấu thầu theo hướng người nào quyết định đầu tư dự án thì có trách nhiệm phê duyệt kế hoạch đấu thầu, phê duyệt hoặc uỷ quyền phê duyệt hồ sơ mời thầu, kết quả lựa chọn nhà thầu, các nội dung còn lại (tổ chức sơ tuyển nhà thầu, tổ chức đấu thầu, phê duyệt hợp đồng, ký kết hợp đồng...) được phân cấp cho chủ đầu tư quyết định. Điều này vừa gắn trách nhiệm về chất lượng của công trình cho người quyết định phê duyệt, vừa tránh được tình trạng khép kín. Ngoài ra cũng có thể học tập kinh nghiệm ở  các nước như Inđônêxia, Philipin, Malaysia... Một trong những điều luật họ đã làm để chống gian lận trong đấu thầu là thành lập một Ban quản lý vốn nhà nước trong đấu thầu. Gọi là tiền kiểm và hậu kiểm. Mọi quy trình đấu thầu đều được kiểm tra, giám sát hết. Tất nhiên với những công trình nhỏ thì chỉ cần hậu kiểm. Đây là một hình thức kiểm toán trong đấu thầu. Hoạt động kiểm tra giám sát như vậy sẽ được đảm nhiệm bởi một cơ quan độc lập và có uy tín, tương tự như hoạt động kiểm toán ở các doanh nghiệp. Điều này đảm bảo tính minh bạch và chính xác cho công tác kiểm tra. Trong khi đó, ở Việt Nam, yếu kém nhất là Ban quản lý dự án và Tư vấn giám sát. Tư vấn giám sát tại các nước làm việc độc lập và chuyên nghiệp. Còn ở Việt Nam là do bộ phận thiết kế kiêm nhiệm thêm. Và ở Việt Nam lương tư vấn giám sát vẫn còn quá thấp, không đủ để người ta tồn tại. Vậy nên, một trong những điều kiện tiên quyết là phải trả lương cao để người ta yên tâm làm việc mới tránh được tham nhũng. Đi đôi với phân cấp nói trên, Luật cũng quy định về các hoạt động kiểm tra thanh tra và các chế tài xử lý các trường hợp vi phạm theo hướng tăng cường hậu kiểm. Theo đó, các hành vi vi phạm bị xử lý từ mức cảnh cáo, phạt tiền nếu gây ra thiệt hại về lợi ích cho đến cấm không cho tham gia các hoạt động đấu thầu, cá nhân vi phạm có hành vi cấu thành tội phạm sẽ bị truy tố theo pháp luật về hình sự. Ngoài bị xử lý theo các hình thức nói trên, các trường hợp vi phạm còn bị đăng tải trên hệ thống thông tin về đấu thầu của Nhà nước. Tuy nhiên trong quá trình triển khai Luật Đấu thầu và Nghị định 111/2006/NĐ-CP ngày 29/09/2006 của Chính phủ cho thấy vẫn còn một số vấn đề cần phải tiếp tục nghiên cứu, sửa đổi, bổ sung, tránh tình trạng chế tài không phát sinh từ thực tế, hoặc chưa đủ nghiêm, không đủ sức răn đe. Hệ thống giám sát, hành pháp, tư pháp khi xử lý tình huống phải tuyệt đối tránh "tống" tất cả về bên hành chính, rất nguy hiểm vì như vậy không xác định đúng trách nhiệm của bên sai phạm, không đúng người đúng tội nên không hiệu quả. 7. Tăng cường vai trò của luật pháp trong đấu thầu. Tuy các quy định về đầu tư và đấu thầu hiện hành đã có những đóng góp đáng kể trong việc tạo ra nề nếp các hoạt động kinh tế trong xã hội của cơ chế kinh tế thị trường, song có lẽ do nước ta đã trải qua thời kỳ quá dài quản lý kinh tế theo cơ chế tập trung chỉ huy, nên sự tiếp cận với cơ chế mới không tránh khỏi những cản trở của lối làm ăn cũ. Các chính sách quản lý kinh tế ở tầm vĩ mô cũng được du nhập một cách ồ ạt, thiếu sự chọn lọc bài bản. Chính sách về quản lý đầu tư, đặc biệt là các quy định về đấu thầu được du nhập một cách hết sức bị động. Luật Đấu thầu của ta hiện nay hoàn toàn ảnh hưởng bởi nội dung hướng dẫn mua sắm của Ngân hàng thế giới, Ngân hàng phát triển Châu Á, Ngân hàng hợp tác quốc tế Nhật Bản là những đối tác chính tài trợ cho Việt Nam thông qua nguồn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Trong khi đặc điểm nền kinh tế nước ta hiện nay mang nhiều nét đặc thù khác với đặc điểm, mặt bằng kinh tế - xã hội của các tổ chức nói trên. Xét về nội dung, Luật Đấu thầu hiện hành của Việt Nam đã bao hàm đầy đủ các quy định cần có để bảo đảm đạt được mục tiêu của công tác đấu thầu, nếu mọi quy định của Luật nói trên được tuân thủ một cách nghiêm ngặt trong quá trình thực hiện. Tuy nhiên, các quy định nhằm bảo đảm cho việc tuân thủ nghiêm ngặt các quy định của Luật Đấu thầu hiện hành lại chưa được đề cập trong Luật, do đó thực tế việc vi phạm Luật Đấu thầu còn tồn tại ở mọi chỗ, mọi nơi. Chẳng hạn, Luật Đấu thầu yêu cầu phải áp dụng hình thức đấu thầu rộng rãi đối với mọi gói thầu sử dụng vốn Nhà nước. Tuy nhiên, trong thực tế có tới gần 80% số gói thầu được người có thẩm quyền cho phép áp dụng các hình thức lựa chọn khác với đấu thầu rộng rãi mà không hề chú ý đến việc có đáp ứng các điều kiện luật định hay không. Thậm chí nhiều gói thầu còn được quyết định lựa chọn một cách tùy hứng (dự án đường Hồ Chí Minh là một ví dụ điển hình), mà không phải thông qua các quy định của Luật Đấu thầu... Ngoài ra còn tồn tại các quy định khác liên quan đến thủ tục đầu tư nói chung vẫn quá rườm rà, phức tạp, khó hiểu và khó thực hiện khiến cho việc ra quyết định đầu tư trở nên tràn lan, thiếu tính quy hoạch, chất lượng báo cáo nghiên cứu khả thi quá kém. Điều đó cũng ảnh hưởng rất lớn đến việc thực hiện các quy định về đấu thầu trong công tác lựa chọn nhà thầu nói chung. Tóm lại, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật hiện hành về quản lý đầu tư, xây dựng và đấu thầu chưa thoả mãn yêu cầu là hành lang pháp lý bảo đảm cho các hoạt động đầu tư vận hành một cách hiệu quả trong nền kinh tế thị trường. Vì vậy cần nghiên cứu, ban hành một văn bản mang tính quy phạm pháp luật cao hơn chứa đựng đầy đủ các nội dung quy định về quản lý đầu tư, xây dựng và đấu thầu nhằm hoàn thiện, ổn định về luật pháp đối với lĩnh vực này. Đặc biệt, cần quy định thật rõ các chế tài xử lý vi phạm trong hoạt động đầu tư và đấu thầu. Hình thành cơ quan chuyên trách xử lý vi phạm và giải quyết các khiếu nại về đấu thầu. Về hình thức cơ quan này phải hoạt động độc lập và mang tính khách quan tương đối với cả bên mời thầu và nhà thầu. 8. Nâng cao năng lực chuyên môn của đội ngũ cán bộ trực tiếp điều hành công tác đấu thầu Do đặc điểm của chế độ công hữu, bộ máy quản lý và điều hành đóng vai trò vô cùng quan trọng trong toàn bộ hoạt động của nền kinh tế quốc dân. Nó vừa là cơ quan ban hành chính sách, vừa đóng vai trò chỉ đạo thực hiện, vừa tham gia thực hiện trong từng hoạt động cụ thể. Với vai trò quan trọng như vậy đòi hỏi các thành viên trong bộ máy phải thực sự có năng lực, thông thạo về chuyên môn, trong sáng về phẩm chất đạo đức, có nhiệt tình và đủ bản lĩnh hoàn thành công việc được giao phó trên cơ sở tuân thủ nghiêm chỉnh pháp luật của Nhà nước. Đội ngũ những người làm công tác đấu thầu càng ngày càng đông về số lượng và tinh về kỹ thuật. Tuy nhiên, do còn một số hạn chế nhất định khiến cho công tác đấu thầu chưa thực sự đem lại hiệu quả mong muốn, chưa đáp ứng được yêu cầu tự thân của công tác này. Việc nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ, công chức nói chung để phù hợp với yêu cầu của cơ chế kinh tế thị trường là đòi hỏi mang tính cấp thiết. Đặc biệt, trong lĩnh vực đấu thầu càng hết sức cần một đội ngũ cán bộ có tính chuyên nghiệp cao. Họ cần được trang bị đầy đủ các kiến thức kinh tế về thị trường, các hiểu biết về pháp luật, biết cách xây dựng Luật để có khả năng nhận thức đầy đủ bản chất, nội dung công tác đấu thầu, biết đề ra các quy định có tính chất quy phạm pháp luật về quản lý đầu tư và đấu thầu để tổ chức thực hiện tốt các cuộc đấu thầu. Ngoài ra còn có khả năng xử lý một cách minh bạch các vướng mắc xảy ra trong lĩnh vực này. Để đạt được các yêu cầu nêu trên, cần cố gắng giải quyết tốt các công việc sau đây: - Cần có sự cải cách cơ bản trong công tác tuyển và sử dụng cán bộ trong bộ máy quản lý hành chính Nhà nước. Kiên quyết trung thành với nguyên tắc công bằng và minh bạch trong việc tuyển chọn và sử dụng cán bộ. Không tuyển vào đội ngũ những người không đủ trình độ chuyên môn. - Công tác đào tạo và đào tạo lại đối với nhân sự trong bộ máy phải được làm thường xuyên, tạo điều kiện cho mỗi cán bộ, công chức không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn và năng lực công tác. Tiến tới chuyên môn hóa sâu những người làm công tác đấu thầu. - Cùng với việc cải cách chính sách tiền lương, cần chú trọng đặc biệt đến công tác đời sống của cán bộ, công chức. Tạo mọi điều kiện để cán bộ, công chức có thể nâng cao mức thu nhập trong phạm vi có thể. Có chính sách đãi ngộ thích hợp đối với các cá nhân có thành tích trong công tác, hoặc có sáng kiến đem lại hiệu quả kinh tế cho đất nước. - Xử lý nghiêm đối với các hành vi vi phạm pháp luật, dù người vi phạm ở bất kể cương vị công tác nào. - Thường xuyên xem xét, đánh giá kết quả làm việc của cán bộ, công chức (theo các chuẩn mực mang tính định lượng), trên cơ sở đó, bố trí sắp xếp lại một cách khoa học nhằm phát huy cao nhất khả năng và sở trường công tác của từng cán bộ. Tiến tới xóa bỏ tình trạng bè phái, ê kíp gây ra và duy trì các tệ nạn xã hội trong bộ máy quản lý nhà nước về đấu thầu. KẾT LUẬN Sự tăng trưởng vượt bậc về kinh tế cùng với những thành tựu to lớn trong công cuộc xóa đói, giảm nghèo trong những năm vừa qua đã chứng minh một cách sinh động về tính đúng đắn trong tiến trình đổi mới ở Việt Nam. Nền kinh tế Việt Nam đã từng bước khôi phục và phát triển, từ nghèo đói, thiếu ăn, thiếu mặc, đến nay đã trở thành một trong các nước xuất khẩu gạo hàng đầu thế giới và đang có những thành quả bước đầu trong công cuộc CNH – HDH đất nước. Công tác đấu thầu đã góp phần quan trọng trong các thành tựu kể trên bởi nó tạo ra sự cạnh tranh tự do trong môi trường bình đẳng và minh bạch. Cạnh tranh công bằng sẽ góp phần làm cho các doanh nghiệp không ngừng nâng cao năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Mặt khác, sự cạnh tranh giữa các nhà thầu sẽ tạo thuận lợi cho chủ đầu tư lựa chọn được hàng hoá và dịch vụ phù hợp nhất với yêu cầu của mình và với giá cả thấp nhất. Vì vậy, trong việc chi tiêu mua sắm hàng hoá và những công trình lớn, cần có các chính sách quy định về việc lựa chọn nhà thầu bảo đảm cạnh tranh công bằng, minh bạch và hiệu quả kinh tế. Trong khoảng thời gian 10 năm đã có hàng chục văn bản pháp quy về đấu thầu được ban hành. Quy trình đấu thầu ngày càng được cải tiến, song vẫn còn nhiều bất cập chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế trong bối cảnh hội nhập kinh tế quốc tế. Tuy khoá luận này vẫn còn chưa hoàn chỉnh do hạn chế về tầm kiến thức và hạn chế về thời gian nhưng cũng đã giới thiệu khái quát hệ thống lý luận về đấu thầu quốc tế và quy trình đấu thầu tại Việt Nam. Khoá luận cũng đã nêu lên thực trạng xây dựng và hoàn thiện quy trình đáu thầu trong thời gian qua, đồng thời phân tích những mặt còn tồn tại trong quy trình dấu thầu tại Việt Nam. Trên cơ sở đó, khoá luận có đưa ra một số giải pháp nhằm hoàn thiện quy trình này nhằm đáp ứng nhu cầu hội nhập toàn diện của đất nước trong thời gian tới. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Các báo cáo tổng kết công tác đấu thầu hàng năm của Bộ Kế hoạch và Đầu tư từ 1998 đến 2005. Luật Đấu thầu Việt Nam 2005. Chính phủ - Nghị định 88/1999/NĐ-CP ngày 01/9/1999 Chính phủ - Nghị định 14/2000/NĐ-CP ngày 05/5/2000 Chính phủ - Nghị định số 66/2003/NĐ-CP ngày 12/6/2003 Thông tư số 04/2000/TT-BKH ngày 26/5/2000 của Bộ Kế hoạch và Đầu tư hướng dẫn thực hiện Quy chế Đấu thầu Chính phủ - Nghị định số 34/2001/NĐ-CP ngày 06 tháng 7 năm 2001 của về ban hành Quy chế Đấu thầu dự án tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí. Bộ Tài chính - Thông tư số 121/TT-BTC ngày 29/12/2000 , hướng dẫn thực hiện đấu thầu mua sắm đồ dùng, vật tư trang thiết bị, phương tiện làm việc đối với các cơ quan Nhà nước, lực lượng vũ trang, đoàn thể và doanh nghiệp Nhà nước sử dụng nguồn ngân sách Nhà nước. Bộ Tài chính - Thông tư này được sửa đổi, bổ sung bởi Thông tư số 94/2001/TT-BTC ngày 22/11/2001. Ngân hàng nhà nước Việt Nam - Công văn số 413/NHNN - KTTC ngày 07 tháng 5 năm 2001, hướng dẫn đấu thầu mua sắm đồ dùng, vật tư, trang thiết bị, phương tiện làm việc trong hệ thống ngân hàng nhà nước. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn - Thông tư số 50/2001/TT-BNN-XDCB ngày 03 tháng 5 năm 2001, hướng dẫn thực hiện Quy chế Đấu thầu đối với các dự án đầu tư thuộc Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn. Bộ Kế hoạch và Đầu tư - Công văn số 919 BKH/VPXT ngày 20/02/2001, báo cáo tổng kết và đánh giá tình hình thực hiện công tác đấu thầu từ 1998 đến năm 2000. Luật Xây dựng và Nghị định 16/2005/NĐ-CP hướng dẫn Luật Xây dựng. Viện nghiên cứu quản lý kinh tế TW, TS. Ngô Minh Hải, Quản lý đấu thầu: Thực trạng ở Việt Nam và kinh nghiệm quốc tế. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Vụ Quản lý đấu thầu – Báo cáo nghiên cứu tình hình khép kín trong đấu thầu các dự án đầu tư sử dụng vốn Nhà nước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Vụ Quản lý đấu thầu – Báo cáo chuyên đề phân cấp trong đấu thầu thực hiện các dự án sử dụng vốn Nhà nước. Bộ Kế hoạch và Đầu tư – Vụ Quản lý đấu thầu – Một số tiền đề về đấu thầu qua mạng tại Việt Nam. Trung tâm thông tin thương mại - Đấu thầu cạnh tranh quốc tế để xây dựng công trình và chuyển giao công nghệ. PGS.TS Thái Bá Cẩn, Học viện tài chính - Quản lý tài chính trong lĩnh vực đầu tư xây dựng PGS Vũ Hữu Tửu (2002), Giáo trình Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương – NXB Giáo dục Tờ thông tin đấu thầu, trang Web của Bộ Kế hoạch và Đầu tư. Website: www.dau-thau.com Con bệnh đã nhờn thuốc – Báo đầu tư số 10/3/2003. Địa chỉ một số công trình có thất thoát trong đầu tư xây dựng năm 2004 – Tạp chí Người xây dựng số tháng 4/2005 Hướng dẫn thi hành Luật đấu thầu và lựa chọn nhà thầu xây dựng theo Luật xây dựng – Báo Kinh tế & Đô thị ngày 9/11/2006 Trách nhiệm đến đâu? – Báo Lao động ngày 19/10/2006 Hà Giang – bi kịch đại công trường và món nợ 48 000 tỷ : Hà Tây "treo" 48 dự án – Báo Diễn đàn doanh nghiệp online Hơn 5 tỷ USD đầu tư vào khu công nghiệp Dung Quất Xây dựng nhà thi đấu thể dục thể thao Phú Thọ: Hàng loạt những sai phạm chết người! Vụ điện kế điện tử: Liờn tục cố ý làm trỏi! Đấu thầu kiểu ấy nên chăng? Loại nạn "quân xanh, quân đỏ" trong đấu thầu www.vnexpress.net/Vietnam/Kinh-doanh/2005/09/3B9E20DE/ - 50k DANH MỤC CÁC CHỮ VIẾT TẮT ADB: Ngân hàng phát triển Châu Á ANN: Mạng Nơtron nhân tạo CNC - HDH: Công nghiệp hóa – Hiện đại hóa DNNN: Doanh nghiệp Nhà nước EPC: Gói thầu tư vấn thiết kế - mua sắm thiết bị - xây lắp FIDIC: Hiệp hội quốc tế các kỹ sư tư vấn HSDT: Hồ sơ mời thầu HSMT: Hồ sơ dự thầu ICB: Đấu thầu cạnh tranh quốc tế ODA: Đầu tư gián tiếp OECD: Quỹ hợp tác kinh tế hải ngoại Nhật Bản USD: Đô – la Mỹ VND: Việt Nam đồng WB: Ngân hàng thế giới WTO: Tổ chức thương mại thế giới. DANH MỤC CÁC BẢNG BIỂU Sơ đồ 1: Quy trình đấu thầu theo quy định của ADB 17 Đồ thị 1: Tốc độ tăng tổng số gói thầu qua các năm 1999 – 2005 25 Bảng1: Kết quả đấu thầu theo phân cấp thẩm định, phê duyệt (2000 – 2003) 28 Bảng 2: Thời gian thẩm định và phê duyệt : 38 Bảng 3: Danh mục văn bản quy phạm pháp luật về đấu thầu. 50 Sơ đồ 2: Hệ thống cơ quan quản lý Nhà nước về đấu thầu. 55 Hình 1: Mạng lan truyền 3 lớp 78 Hình 2: Đồ thị hàm Logistic(u) 78 Hình 3: ANN có 5 nút nhập, n nút ẩn và 25 nút xuất 80 Hình 4: ANN có 2nuts nhập, 3 nút ẩn và 1 nút xuất 80 Sơ đồ 3: Sơ đồ hoạt động tổng quát của Bidder Select 82

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVKT069.doc
Tài liệu liên quan