Khóa luận Kỹ thuật trồng nấm bào ngư nhật trên mạt cưa

Từ những kết quả đã đạt được trong nghiên cứu nuôi trồng chúng tôi đưa ra những kiến nghị sau: 1. Phải có những nghiên cứu sâu hơn nhằm tối ưu hóa các công đoạn trong quy trình nuôi trồng nấm bào ngư Nhật. Đặc biệt là điều kiện nuôi trồng như: điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng để nấm có năng suất cao hơn. Có vậy mới có thể đi đến nâng cao hiệu suất sử dụng sinh học của nấm bào ngư Nhật. 2. Tiếp tục có những nghiên cứu sâu hơn về thành phần hóa học và sinh học của các hoạt chất sinh học có trong nấm bào ngư Nhật và các thử nghiệm lâm sàng để chứng minh giá trị không kém giống của các nước khác về hai mặt giá trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu. Từ đó tuyên truyền quảng bá loài nấm quý này đến tay người tiêu dùng, phục vụ công tác xuất khẩu. 3. Tiến hành thử nghiệm nuôi trồng nấm bào ngư Nhật trên các môi trường cơ chất phế phẩm nông nghiệp như bã mía,vỏ cà phê, xơ cọ dừa, cùi bắp, bông phế thải, rơm rạ, vỏ hạt bông . để có thể tận dụng được nguồn phế phẩm này thành nguồn cơ chất quí giá trồng nấm.

doc71 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 903 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Kỹ thuật trồng nấm bào ngư nhật trên mạt cưa, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
là lượng sinh khối khô chỉ vào khoảng 10% song tỷ lệ chất dinh dưỡng rất đáng kể và cân đối, vượt hơn hẳn các loại rau quả khác. Do đó, quan niệm trước đây coi nấm như là một loại rau là không chính xác. Hàm lượng protein thô của nấm bào ngư nếu như so với các loại thịt cá lượng protein đạt xấp xỉ 40% trọng lượng khô, trị số sinh năng lượng khá thấp, chỉ cung cấp năng lượng ở mức tối thiểu, đây là một trong những ưu điểm của loài nấm này, thích hợp cho người ăn kiêng. Ở nấm bào ngư Nhật còn phát triển được chất kháng sinh, gọi là pleurotin. Chất này ức chế hoạt động của vi khuẩn Gram dương (Robins và cộng sự, 1947). Bên cạnh đó, Yoshioka và cộng sự (1975) cũng tìm thấy hai polysaccharide có tính chất kháng ung bướu. Cả hai chất này đều có nguồn gốc là glucose. Trong đó, chất được biết nhiều nhất, bao gồm 69% β (1-3) glucan, 13% galactose,6% mannose, 13% uronic acid [Lê Duy Thắng, 1999]. Hình 1.4: Công thức hóa học của pleurotin 2.1.4 Một số điểm lưu ý khi trồng nấm bào ngư Nhật: Nấm bào ngư rất nhạy cảm với môi trường. Khi nấm ở dạng san hô, nếu nhiệt độ lên trên 320C trong 1 giờ, nụ nấm bị khô quéo lại như cỏ úa (hình 1.5). Cũng như trong giai đoạn này, nếu độ ẩm tăng lên trên 90% nhiều giờ thì nấm non sẽ bị thối nhũng. Hình 1.5: Tai nấm bị khô quéo Đặc biệt nước tưới nhiễm phèn hơi nặng (pH axit), thì tai nấm ngã vàng, tai bị dị dạng, mũ nấm khô nứt. Trường hợp phèn nhẹ cũng làm trên bề mặt mũ nấm có những nốt sần mở ra thành hốc nhỏ (hình 1.6). Hình 1.6: Bề mặt mũ nấm bị bíến dạng do nhiễm phèn Nấm bào ngư Nhật còn đặc biệt nhạy cảm với các tác nhân gây ô nhiễm môi trường như hóa chất, thuốc trừ sâu, các kim loại nặng, cả trong nguyên liệu, cũng như không khí nơi nuôi trồng. Tai nấm thường sẽ bị biến dạng hoặc ngừng tạo quả thể. Do đó cần lưu ý khâu chế biến nguyên liệu hoặc kiểm tra các điều kiện nuôi trồng khi thấy tai nấm có biểu hiện không bình thường. So với các loại nấm trồng khác, thì nấm bào ngư Nhật là loài ít bệnh nhất. Chủ yếu thường gặp là hai loại bệnh phổ biến là: mốc xanh Trichoderma sp. và ấu trùng ruồi nhỏ. Đối với mốc xanh, ngoài việc tranh giành thức ăn chúng còn thay đổi môi trường sống, tạo ra nhiều tạp chất ảnh hưởng đến sự tăng trưởng và phát triển của nấm bào ngư Nhật. Để hạn chế sự phát triển loài mốc này, có hai biện pháp là khử trùng tốt nguyên liệu và nâng pH môi trường. Hình 1.7: Bịch phôi bị mốc xanh và ấu trùng ruồi tấn công Đối với ấu trùng ruồi nhỏ, chúng thường chui vào giữa các khe của phiến nấm, cắn phá làm hư hại nấm. Đối với bịch phôi, chúng làm tơ nấm đổi màu, thâm nâu, quằng quện. Tốc độ sinh sản của chúng lại rất nhanh, nên thiệt hại gây ra không phải nhỏ. Nhà trồng vì vậy nên có lưới chắn để không cho chúng lọt vào. Tuy nhiên, vấn đề chính vẫn là đảm bảo vệ sinh nhà trại, không để ổ dịch phát sinh. Trong các loại bào tử, thì bào tử nấm bào ngư Nhật được ghi nhận là có ảnh hưởng đến sức khỏe con người. Đối với vài trường hợp, khi hít phải bào tử nấm, nhạy cảm sẽ biểu hiện trong 8 giờ, còn ngược lại là từ 4 – 6 tuần. Người bệnh có triệu chứng khó thở, mệt mỏi, nhức đầu, ho và sốt (có thể tới 390C), đôi khi có nhiều vết đỏ ở tay. Bệnh có thể kéo dài trong vài ngày, rồi dứt, nhưng sau đó lại tái phát và nhất là khi tiếp xúc lại với nấm. Để ngăn ngừa bệnh nên tránh hít các bào tử nấm, bằng cách mang khẩu trang hoặc mạng che mặt khi đi vào nhà trồng nấm bào ngư Nhật. Có nơi còn dùng mặt nạ (như loại phòng hơi độc) khi thu hái nấm. Có thể tránh vào nhà trồng vào sáng sớm hay trời lạnh, hoặc tưới ấm nhà trồng để rửa bớt bào tử trước khi vào [Lê Duy Thắng, 1999]. 2.2 VAI TRÒ CỦA CÔNG NGHỆ NẤM BÀO NGƯ NHẬT Ở VIỆT NAM Ở Việt Nam, cho đến nay đã ghi nhận khoảng 15 loài nấm bào ngư [Trịnh Tam Kiệt, 1998; Lê Duy Thắng, 1999]: P.abalonus, P.cornucopia, P.cytidiosus, P.djamor, P.eryngii, P.floridanus, P.globulifer, P.limpidus, P.ostreatus, P.pulmonarius, P.sajor-caju, P.salmoneostramineus, P.spicilifer, P.versiformis, và một số loài đang xếp trong các chi gần gũi khác thì số loài nấm bào ngư ở Việt Nam có thể vượt quá 15. Hầu hết các cơ sở khác chỉ có 2-3 loài mà thôi. Không thấy ghi nhận loài nào độc cả, trái lại hầu hết các loài Pleurotus là có thể ăn được, hoặc ăn ngon, thực tế quá nữa số loài trên đã được nuôi trồng thành công khá phổ biến ở nước ta. Đáng lưu ý trong số đó, P. abalonus được nuôi trồng xuất khẩu, và nói chung các loài thuộc phân chi Coremiopleurotus có hương vị rất được ưa chuộng, được thị trường khu vực và thế giới coi trọng. Các nấm bào ngư có khả năng chuyển hóa các chất xơ sợi giàu cellulose và giàu lignin. Đây chính là ưu điểm cơ bản của công nghệ nuôi trồng bào ngư, đúng như đánh giá của Uỷ ban Cộng đồng chung Châu Âu tại hội nghị Braunschweig (Cộng hòa liên bang Đức) năm 1986. Chính nhờ các hệ enzyme ngoại bào phong phú, nấm bào ngư còn nhiều khả năng chuyển hóa đặc biệt. Chỉ riêng rơm rạ, trấu, than lõi ngô, thân cành đậu đỗ, bã mía, mùn cưa, lá, cành, cỏ, vỏ cà phê,. Hàng năm ở nước ta lên đến hàng trăm triệu tấn. Trong đó một phần không nhỏ chỉ là đốt bỏ lấy nhiệt lượng và tro khoáng, gây nên ô nhiễm môi trường và góp phần vào biến đổi khí hậu. Nếu được xử lý phối trộn dinh dưỡng phù hợp, các nguồn phế liệu này sẽ trở thành cơ chất rất thích hợp cho nuôi trồng nấm bào ngư Nhật. Công nghệ nuôi trồng có thể ở nhiều mức độ đầu tư: các hộ, trang trại nhỏ và vừa, cụm dân cư (nông, lâm trường, tổ hợp,) theo lao động thủ công, bán thủ công, công nghiệp và tự động hóa. Giá thành sản xuất nấm ở nước ta vào loại rất thấp trong khu vực và trên thế giới. Vì vậy, nếu tổ chức nuôi trồng và chế biến tốt, công nghệ nấm nói chung và nấm bào ngư nói riêng có đầy đủ khả năng trở thành ngành sản xuất quan trọng, góp phần xóa đói giảm nghèo, triệt hạ các loại cây sản xuất ra ma túy, công nghiệp hóa và hiện đại hóa nông thôn, miền núi. Đây có lẽ là một trong những hướng tiếp cận của công nghệ sinh học hiện đại, góp phần thích đáng trong thiên niên kỷ tới – thiên niên kỷ của cơ chế phát triển sạch (CDM: Clean Development Mechanism) Ngoài ra, nấm bào ngư Nhật đã được thử nghiệm có hiệu quả để xử lý một số phế liệu công nghiệp và công nghiệp lên men ở Việt Nam. Cần lưu ý rằng công nghệ lên men ở Việt Nam đã có những đầu tư khổng lồ cho hệ thống lên men lớn nhất thế giới (tổng dung tích các fermentor của công ty Vedan Taiwan, Vũng tàu lên tới 700.000 lít), hàng tuần xả ra một lượng khổng lồ dịch thải đòi hỏi phải có công nghệ giải quyết triệt để (chứ không phải chỉ là những giải pháp tình thế như hiện nay). Các thành tựu tái lên men nấm mở ra một thời kỳ mới nghiên cứu những khả năng đặc biệt của tài nguyên nấm bào ngư Nhật. 2.3 LỢI ÍCH CỦA NGHỀ TRỒNG NẤM BÀO NGƯ NHẬT Tăng nhanh thu nhập cho nông dân, trở thành một ngành kinh tế lớn trong nông thôn. Việt Nam có nhiều đồi núi, ruộng đất, nhưng tài nguyên nấm lại lớn, nên phát triển nghề trồng nấm bào ngư Nhật nói riêng và nghề nấm nói chung trở thành ngành quan trọng điểm ở nông thôn, mở ra con đường thoát nghèo, vươn lên làm giàu cho nông dân. [Nguyễn Hữu Đống, 2005]. Nghề nấm đã thúc đẩy nhiều ngành nghề khác phát triển, nhất là các ngành dịch vụ xoay quanh trước, trong và sau sản xuất nấm, nghiên cứu khoa học và sản xuất gắn thành một sợi chỉ đỏ và đa nguyên hóa, thể chế phục vụ xã hội hóa, từ đó thúc đẩy các ngành thương mại, vận tải, bưu điện, tiền tệ, chế biến thức phẩm, ăn uống cùng phát triển. Và một lượng lớn tiền ngoại tệ từ việc xuất khẩu nấm, tạo công ăn việc làm cho nông thôn. Xúc tiến quá trình tuần hoàn hữu ích trong nông nghiệp. Nguyên liệu làm nấm bào ngư Nhật là các phụ phế phẩm nông nghiệp như mùn cưa, rơm rạ, bã mía, vỏ hạt bông, được tái sử dụng. Đồng thời bã nấm lại có thể chế biến thành phân hữu cơ rất tốt cho cây trồng. 2.4 TIỀM NĂNG PHÁT TRIỂN NGHỀ TRỒNG NẤM BÀO NGƯ NHẬT CỦA VIỆT NAM Việt Nam là một trong nước có đủ điều kiện để phát triển mạnh nghề trồng nấm, do: Nguồn nguyên liệu để trồng nấm bào ngư Nhật là mùn cưa, rơm rạ, thân gỗ, vỏ cà phê, bã mía, Các loại phế liệu sau thu hoạch rất giàu chất xenlulo. Nhất là nguồn mạt cưa rất dồi dào và có liên tục. Hàng năm số lượng phát thải mạt cưa, rơm rạ, bã mía,.Trong cả nước đạt con số vài chục triệu tấn/năm, chỉ cần sử dụng 10% số nguyên liệu kể trên để trồng nấm thì sản lượng nấm đã đạt vài trăm ngàn tấn/năm. Các phế liệu, phế phẩm nông lâm nghiệp trên dùng làm nguyên liệu trồng nấm tạo nên sản phẩm có giá trị, vừa giải quyết về mặt môi trường. Phế phẩm sau khi trồng nấm bào ngư Nhật còn có thể sử dụng trồng nấm rơm, làm phân bón, nuôi trùn đất phục vụ cho chăn nuôi và trồng trọt. [Nguyễn Hữu Đống, 2005]. Lực lượng lao động dồi dào còn nhàn dỗi và giá công lao động rẻ. Tính trung bình 1 lao lao động nông nghiệp mới chỉ dùng đến 30-40% quỹ thời gian. Chưa kể đến việc mọi lao động phụ đều có thể tham gia trồng nấm được. Trồng nấm thu hút một lượng lớn lao động bao gồm: gia công chế biến meo giống, chất mô, xếp mô, chăm sóc, thu mua và chế biến sản phẩm nấm Tạo công ăn việc làm cho nhiều người, đồng thời mang lại thu nhập đáng kể. Điều kiện tự nhiên (về nhiệt độ, độ ẩm.) rất thích hợp cho nấm bào ngư Nhật phát triển, cũng như các loài nấm khác. Chênh lệch nhiệt độ tháng nóng và lạnh không lớn lắm nên có thể sản xuất nấm quanh năm. Không khí chứa nhiều hơi nước rất thích hợp cho nấm. Độ ẩm trung bình cũng không dưới 800C. Vốn đầu tư ban đầu để trồng nấm bào ngư rất ít so với việc đầu tư cho các ngành sản xuất khác. Ngành chế biến và xuất khẩu nấm đang ở bước đầu với lợi nhuận tương đối, ngoài sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu sẽ thừa lại một tỉ lệ đáng kể nấm tươi cho bữa ăn hằng ngày của mọi gia đình. Kỹ thuật trồng nấm bào ngư Nhật không phức tạp. Một người dân bình thường có thể tiếp thu được công nghệ trồng nấm trong thời gian ngắn. Bên cạnh đó một đội ngũ kỹ thuật được rèn luyện trong thực tế ngày càng nhiều, sẽ là hạt nhân đẩy phong trào trồng nấm lan rộng. Thị trường tiêu thụ nấm bào ngư Nhật trong nước và trên thế giới tăng nhanh do sự phát triển chung của xã hội và dân số. Hiệp hội nấm ăn thế giới đã đưa ra chỉ số bình quân lượng tiêu thụ nấm ăn cho một người trong năm để đánh giá sự phát triển kinh tế xã hội của một quốc gia. Chính vì vậy nghề trồng nấm phát triển là một điều tất yếu. Nó không chỉ giải quyết vấn đề lao động mà còn đem lại của cải cho xã hội. Tuy nhiên để nghề trồng nấm bào ngư phát triển nhanh chóng ở nước ta, bên cạnh sự vận động theo nhu cầu xã hội, cần có nhiều đầu tư về mặt khoa học như giống nấm, kỹ thuật trồng, vấn đề phòng bệnh, bảo quản và chế biến sản phẩm, cung cấp thông tin cũng như huấn luyện kỹ thuật trồng nấm và nhất là có chính sách ưu đãi cho những người trồng nấm, như cho vay vốn sản xuất, miễn thuế, 2.5 THỰC TRẠNG NGÀNH SẢN XUẤT NẤM BÀO NGƯ NHẬT HIỆN NAY CỦA VIỆT NAM VÀ THẾ GIỚI 2.5.1 Tình hình trong nước Việc tổ chức sản xuất nấm bào ngư Nhật của các đơn vị chuyên kinh doanh về nấm còn nhiều thiếu sót. Chất lượng giống nấm chưa đảm bảo từ khâu sản xuất đến quá trình nuôi trồng, bảo quản, cách sử dụng. Các loại nấm đã và đang được trồng ở Việt Nam từ nhiều nguồn giống khác nhau. Một số được nhập từ một số nước và vùng lãnh thổ: Hà Lan, Đài Loan, Trung Quốc, Nhật Bản,. Một số khác được sưu tầm trong nước, song việc chọn lọc, kiểm tra để đánh giá tiềm năng về năng suất, chất lượng của từng loại, từ đó để nhân giống đại trà phục vụ sản xuất hầu như chưa có đơn vị nào đảm trách. Khâu hướng dẫn kỹ thuật nuôi trồng, chế biến nấm đạt chất lượng xuất khẩu đến từng hộ gia đình không đầy đủ, do thiếu cán bộ và trình độ kỹ thuật viên non kém. Đội ngũ cán bộ nghiên cứu và làm công tác kỹ thuật về nấm ăn được đào tạo cơ bản tại các trường đại học, có kinh nghiệm lâu năm và chuyên tâm với nghề nghiệp còn quá ít. Hợp đồng xuất khẩu nấm thường không đủ về số lượng, chất lượng còn thấp dẫn đến mất lòng tin với khách hàng nước ngoài. Các thiết bị, công nghệ trồng nấm nhập khẩu của nước ngoài không phù hợp với Việt Nam về điều kiện tự nhiên, kinh tế, xã hội: giá thành 1kg nấm sản xuất theo công nghệ Đài Loan và Italia cao hơn nhiều so với giá thành 1kg nấm sản xuất theo công nghệ Việt Nam. Thiết bị trồng nấm chủ yếu là máy băm rơm rạ, hệ thống quạt gió, hệ thống tưới nước, máy đảo ủ nguyên liệu không đồng bộ. Công nghệ nuôi trồng và hệ thống thiết bị không phù hợp với điều kiện cụ thể của Việt Nam. Công tác nghiên cứu về công nghệ chọn, tạo giống, công nghệ nuôi trồng nấm bào ngư Nhật đạt năng suất cao, giá thành hạ, công nghệ bảo quản, chế biến nấm đạt chất lượng ở các trung tâm nghiên cứu và cơ sở sản xuất chưa được chú trọng đúng mức. Công nghệ sản xuất giống, nuôi trồng và chế biến nấm chủ yếu được du nhập từ Nhật Bản, vùng lãnh thổ Đài Loan và các nước châu Âu. Trong quá trình nghiên cứu và triển khai sản xuất đã có sự thay đổi để phù hợp với điều kiện tự nhiên, xã hội của Việt Nam song năng suất thu hoạch còn rất thấp (mới đạt 50 – 70% so với thế giới). Việc tuyên truyền, phổ biến, hướng dẫn về giá trị dinh dưỡng và cách ăn nấm trên các phương tiện thông tin đại chúng còn quá ít. Để thị trường tiêu thụ nội địa được tốt, mọi người đều biết ăn nấm, xem nấm như là một loại thực phẩm quý thì công tác tuyên truyền là rất cần thiết. 2.5.2 Tình hình sản xuất nấm trên thế giới Các nước trên thế giới hiện nay tập trung nghiên cứu và sản xuất nấm mỡ, nấm hương, nấm sò, nấm rơm là chủ yếu. Khu vực Bắc Mỹ và châu Âu trồng nấm theo phương pháp công nghiệp. Những “nhà máy” sản xuất nấm có công suất từ 200 – 1000 tấn/năm được cơ giới hóa cao. Từ khâu xử lý nguyên liệu đến khâu thu hái chế biến đều do máy móc thực hiện. Khu vực châu Á (Nhật Bản, vùng lãnh thổ Đài Loan, Hàn Quốc, Trung Quốc,) triển khai sản xuất theo mô hình trang trại vừa và nhỏ, đặc biệt là ở Trung Quốc nghề trồng nấm đã thực sự đi vào từng hộ nông dân. Sản lượng nấm mỡ, nấm hương của Trung Quốc lớn nhất thế giới. Sản lượng của Trung Quốc là 3.000.000 tấn, chiếm 60% tổng sản lượng thế giới. 2.6 TÌNH HÌNH SẢN XUẤT VÀ TIÊU THỤ NẤM BÀO NGƯ NHẬT HIỆN NAY TRÊN ĐỊA BÀN TP.HCM Thị trường tiêu thụ nấm lớn nhất trên thế giới hiện nay là Mỹ, Nhật Bản, vùng lãnh thổ Đài Loan, các nước châu Âu,Hàng năm các nước này phải nhập khẩu từ Trung Quốc (nấm muối và nấm đóng hộp). Tại các nước này, do khó khăn về nguồn nguyên liệu và giá công lao động rất đắt nên những người nuôi trồng và kinh doanh mặt hàng này đang chuyển dịch sang các nước chậm phát triển để mua nguyên liệu (nấm muối) và đầu tư sản xuất, chế biến tại chổ. Nhiều hãng sản xuất của Mỹ, Nhật, Italia, Đức, vùng lãnh thổ Đài Loan đã đến Việt Nam để tìm hiểu về tình hình sản xuất nấm, đặt vấn đề mua hàng và hợp tác đầu tư vào ngành này. Hiện nay thị trường tiêu thụ nấm bào ngư Nhật trong nước đang tăng rất mạnh. Các tỉnh miền Trung và Nam Bộ tiêu thụ trung bình 50 tấn nấm/năm. Thành phố Hồ Chí Minh và Hà Nội có những lúc cao điểm đã tiêu thụ trên 30 tấn nấm/năm. Hình 1.8: Các sản phẩm từ nấm bào ngư. 2.7 GIỚI THIỆU VỀ NGUỒN CƠ CHẤT LÀ MẠT CƯA 2.7.1 Mạt cưa là phế liệu nông nghiệp và những vấn đề phát sinh về môi trường Việt Nam nằm trong khu vực nhiệt đới ẩm, ít bị biến động lớn về thời tiết và khí hậu, nên có nhiều điều kiện cho nông nghiệp phát triển. Và điều này cũng đã được chứng minh bằng thực tế, với những thành tựu vượt bậc của ngành nông nghiệp nước ta trong những năm gần đây. Sự phát triển của nông nghiệp đặt ra nhiều vấn đề, đặc biệt là các phế phẩm, phế liệu. Nguồn chất thải sau thu hoạch thường bao giờ cũng khá lớn, nó chiếm từ 60- 80% so với sản phẩm thu được, nhất là ở cây trồng. Mà nhất là cây cao su lấy nhựa và thân cây làm gỗ, đồ mỹ nghệ lượng mạt cưa thải ra là rất lớn. Nguồn phế liệu này có thành phần chủ yếu là chất xơ (cellulose), là thức ăn chính cho nấm. Do đó, việc đốt bỏ hoặc tệ hại hơn là thải bỏ dưới dạng rác đều là lãng phí. Một số trường hợp lên men hiếu khí hoặc kỵ khí để tạo ra sản phẩm cuối là chất mùn bón lại cho đất, nhưng quá trình này thường cần thời gian dài và làm mất đi một lượng lớn năng lượng dưới dạng nhiệt năng. Nghiêm trọng hơn là các khí thải, nước thải, mầm bệnh còn làm ô nhiễm môi trường xung quanh. Từ những hạn chế trên, thì việc tận dụng các phế liệu này làm cơ chất trồng nấm, nuôi trùn quế và phân bón, là nhằm hợp lý hoá trong việc sử dụng tối đa năng lượng mặt trời tích lũy ở các xác bã thực vật. Vừa đảm bảo được chu trình tuần hoàn tự nhiên của vật chất, vừa tạo ra nhiều sản phẩm trung gian giá trị cao (như: sinh khối nấm, sinh khối trùn và phân bón hữu cơ cao cấp). Và giải pháp này còn được gọi là giải pháp nông sinh học nhằm biến đổi phế liệu nông lâm nghiệp thành sản phẩm chất lượng cao. Như vậy, trong sản xuất nông nghiệp, việc tận thu một cách tối đa các kết quả của trồng trọt, tạo ra nhiều sản phẩm khác nhau là vấn đề thời sự và cũng là xu hướng chung của thế giới. Vì thế, việc kết hợp trồng nấm với nuôi trùn và làm phân bón để tận dụng các phế liệu nông nghiệp, là một trong những giải pháp không thể thiếu được. 2.7.2 Thành phần về mạt cưa: 2.7.2.1 Cellulose Thành phần chủ yếu của vách tế bào thực vật và chiếm 50% tổng lượng hydrocacbon trên trái đất. Ngoài thực vật là nguồn chủ yếu còn ở trong giới động vật, nhưng số lượng rất ít. Cellulose là polysaccarit liên kết với nhau bằng liên kết 1,4-glucozit, mức độ polymer hóa của cellulose rất cao tới 10.000 – 14.000 đơn vị glucoza/phân tử. Số lượng lớn liên kết hydro nội và ngoại phân tử làm cho phân tử cellulose có độ cứng và vững chắc. Hình 1.9: cấu trúc phân tử cellulose Liên kết glucozit không bền với acid. Cellulose dễ bị phân hủy bởi acid và tạo thành sản phẩm phân hủy không hoàn toàn là hydro-cellulose có độ bền cơ học kém hơn cellulose nguyên thủy, còn khi thủy phân hoàn toàn thì sản phẩm tạo thành là D-glucoza. Về bản chất hóa học cellulose là một rượu đa chức có phản ứng với kiềm hay kim loại kiềm tạo thành cellulose-ancolat. Nguyên tử hydro ở các nhóm –OH bậc một và hai trong phân tử cellulose cũng có thể bị thay thế bởi các gốc –metyl, -etyl,... tạo ra những chất có độ kết tinh và độ hòa tan cao trong nước khác nhau. Cellulose cũng bị oxy hóa bởi một số tác nhân tạo thành sản phẩm oxy hóa một phần là oxy – cellulose. Tác nhân oxy hóa chọn lọc nhất là acid iodic (HIO4), và muối của nó. Cellulose không tan trong nước, dung dịch kiềm làm trương phồng mạch cellulose và hòa tan một phần cellulose phân tử nhỏ. Đặc biệt cellulose dễ hòa tan trong dung dịch cupri amin hydrat [Cu(NH3)4(OH)2], và hàng loạt các dung dịch là các phức chất của đồng, niken, cadmi, kẽm,...[J.F.Kennedy, 1989]. 2.7.2.2 Lignin Lignin là một polymer gốc rượu, có cấu trúc 3 chiều rất phức tạp và có nhiệm vụ nâng đỡ cấu trúc tế bào gỗ. Sau cellulose, lignin là một polymer phong phú trong tự nhiên được thực vật tổng hợp và là phần lớn nguồn chất thơm đa dạng trên trái đất. Sự có mặt của lignin giúp cho tế bào thực vật cứng rắn hơn và đồng thời giúp cho thực vật tránh được sự xâm nhiễm của vi sinh vật. Lignin được tìm thấy trong vách tế bào ở dạng phức hợp với những polysaccharide như cellulose và hemicelluloses, nó cũng giúp bảo vệ những polysaccharide này khỏi sự phân hủy sinh học. Lignin được sinh tổng hợp bởi sự polymer hóa các tiền chất phenylpropanoid. Có 3 loại tiền chất được phân loại tùy thuộc theo số lượng nhóm methoxyl trên vòng thơm. Lignin gỗ mềm chức hầu hết những đơn vị guaiacyl (1 nhóm methoxy), lignin gỗ cứng chứa số lượng cân bằng guaiacyl và suringyl (2 nhóm methoxy), các lignin khác chứa cả p-hidroxyphenyl (không có nhóm methoxy), và cả 2 loại kia [Nguyễn Thị Thanh Kiều,2004;J.F.Kennedy, 1989]. Hình 1.10: cấu trúc phân tử lignin 2.7.2.3 Hemicellulose Cũng là một phần polysacchrit thường gặp trong vách tế bào thực vật với hàm lượng lớn sau cellulose. Tuy nhiên cellulose, hemicelluloses được không chỉ một đường mà nhiều đường khác nhau, thậm chí cả từ acid urnoic của chúng. Người ta gọi tên cụ thể 1 loại hemicelluloses là dựa theo tên loại đường chủ yếu tạo nên nó. Ví dụ: xylan là một hemicelluloses mà thành phần chủ yếu của nó là xyloza, manan – manoza,...Trong gỗ cây lá kim, chủ yếu lá henicellulose được tạo nên từ loại đường 6 cacbon: galactam, manan... Khác với cellulose, phân tử hemicelluloses nhỏ hơn nhiều. Thông thường không quá 150 gốc đường, được nối với nhau không chỉ bằng liên kết -1,4 mà còn bằng liên kết -1,3 và -1,6 glucozit tạo ra mạch ngắn và phân nhánh. Vì độ polymer thấp, phân nhánh và hổn hợp nhiều đường nên hemicelluloses không có cấu trúc chặt chẽ như ở cellulose và độ bền hóa lí cũng thấp hơn. Hemicellulose dể tan trong dung dịch kiềm, trong nước nóng và dể bị phân hủy bởi acid lỏng. Xylan là một hemicelluloses phổ biến nhất trong tự nhiên chiếm 30% khối lượng rơm, 20 - 25% cây gổ lá rộng, 7 – 17% cây gỗ lá kim [Nguyễn Thị Thanh Kiều,2004;J.F.Kennedy, 1989]. 2.7.2.4. Thành phần khác: Mỗi thành phần cấu tạo nên lignin – cellulose riêng, do bản chất các liên kết hóa học, do mức độ polymer hóa và tính không tan trong nước là đối tượng khó phân hủy. Tính khó phân hủy là gia tăng lên nhiều lần khi chúng liên kết với nhau và tới các thành phần khác nữa thành một thể cấu trúc chặt chẽ và phức tạp. Các mặt phân tử cellulose không bao giờ tồn tại riêng lẻ mà nhờ liên kết hydro giữa phân tử tạo thành các cấu trúc lớn hơn gọi là vi sợi, dọc theo sợ có những vùng tại đó các phân tử xếp song song và chặt khít gọi là vùng kết tinh, xen kẻ những vùng mà có sự sắp xếp kém trật tự và chặt chẽ là vùng vô định hình. Các vi sợi liên kết với nhau bằng cách đan xen ở những vùng vô định hình này. Các vi sợi cellulose, lignin, đang xen theo những quy tắc những quy tắc nhất định để định thành nên cấu trúc. Với cấu trúc nhiều lớp gồm nhiều thành phần có bản chất hóa học khác nhau như vậy, lignin – cellulose có độ bền vật lí cao rất khó xâm nhập đối với các vi sinh vật và enzyme. Hơn nữa để phân hủy bất cứ thành phần nào của phức hợp một cách hiệu quả và triệt để cần phải tác động đến thành phần khác [ Nguyễn Thị Thanh Kiều, 2004; J.F. Kennedy,1989]. CHƯƠNG 3: VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1 VẬT LIỆU, HÓA CHẤT VÀ THIẾT BỊ 3.1.1 Dụng cụ và trang thiết bị Tủ cấy đơn giản hoặc hiện đại (hình 2.1) Lò hấp khử trùng (hình 2.2; 2.3; 2.4) Ống nghiệm, pipet các loại Bông không thắm Chai thủy tinh Đĩa petri Bình tam giác Cân điện tử Nồi hấp Lò hấp, tủ sấy Kính hiển vi Đèn cồn Hình các loại que cấy, nhíp, thìa, dao dung để phân lập và cấy nấm Hình 2.1: Cấu tạo tủ cấy đơn giản đến hiện đại Hình 2.2: Tủ cấy đơn giản Hình 2.3: Tủ cấy hiện đại Hình 2.4: Cấu tạo lò hấp khử trùng Hình 2.5: Lò hấp meo giống Hình 2.6: Lò hấp bịch phôi Hình 2.7: Nồi hấp khử trùng Hình 2.8: Các loại que cấy, nhíp, thìa, dao dùng để phân lập và cấy nấm. 3.1.2. Nguyên vật liệu và hóa chất Môi trường PGA cải tiến (môi trường phân lập và nhân giống cấp 1): nước chiết, glucose, cao nấm men, agar. Nước chiết gồm có: giá đỗ, khoai tây, chuối,.. Môi trường hạt lúa (môi trường nhân giống cấp 2): thóc, cám gạo, CaCO3. Môi trường nuôi trồng ra quả thể: mạt cưa, cám gạo, vôi bột, vi lượng (KH2PO4, MgSO4,) 3.2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.2.1 Khảo sát tốc độ lan, đặc điểm của tơ nấm và hình thái của nấm bào ngư Nhật trên môi trường thạch (giống cấp 1) Môi trường thạch là môi trường dùng để nhân giống cấp 1 trong sản xuất và cũng là môi trường dùng để giữ giống, ở đây là môi trường PGA cải tiến. Công thức môi trường PGA cải tiến: Nước chiết 1 lít. Glucose 20g. Cao nấm men 1g, agar 20g. Nước chiết gồm có: 75g giá đỗ, 300g khoai tây, 100g chuối. Môi trường PGA cải tiến được thực hiện như sau: Khoai tây, chuối, giá đỗ được gọt vỏ rửa rồi cắt lát, cho vào nồi đun chung với giá đỗ, nước, đun sôi khoảng 20 phút, lọc lấy nước chiết và bổ sung nước cất cho đủ 1 lít. Sau đó bổ sung agar và cao nấm men, đun cho chất này hòa tan đều vào nhau sau đó đợi nguội đến khoảng 700C (áp vào má có thể chịu được) đem rót vào trong các ống nghiệm, đĩa petri và bình tam giác, dùng để phân lập, cấy truyền giống nấm và khảo sát tốc độ lan tơ của nấm. Với ống nghiệm rót 1/3 chiều dài ống nghiệm, còn với bình tam giác và đĩa petri thì đổ dày khoảng 1cm. Không đổ môi trường vào các dụng cụ trên khi đang quá nóng vì hơi nước sẽ đọng lại trên thành, nắp sau đó rơi xuống làm ướt bề mặt thạch. Cũng không đỗ môi trường khi đã nguội vì đang đổ có thể môi trường đã bị đông vón lại. Sau đó khử trùng ở nhiệt độ 1210C, 1atm trong 25 phút hấp xong để nguội. Việc khảo sát tốc độ lan tơ nấm và mô tả hình thái đối tượng nghiên cứu trên môi trường thạch được tiến hành như sau: Dùng dao vô trùng chọn cắt một đoạn còn non, rửa sạch bằng HgCl2 0,1%. Tiếp tục rửa lại bằng nước cất nhiều lần. Thấm khô bằng giấy đã khử trùng. Dùng dao lam đã khử trùng gọt một lát mỏng ( lưỡi dao chỉ gọt một đường không quay lại để tránh nhiễm trùng). Dùng tiếp các lưỡi dao gọt cho đến khi được một miếng mô nấm đã sạch lớp bẩn phía ngoài. Cắt một lớp mỏng khoảng 100µm, dùng panh cấy đưa vào ống nghiệm dựng thạch nghiêng. Đặt miếng mô thật êm trên mặt thạch nghiêng. Toàn bộ công việc trên được tiến hành trong tủ cấy vô trùng. Sau đó để ống nghiệm đã cấy nấm trong điều kiện nhiệt độ 250C. Theo dõi sự phát triển của mẫu cấy trong ba ngày đầu. Nếu mẫu cấy bị nhiễm bệnh thì xung quanh mẫu sẽ thấy có khuẩn lạc nấm mốc lạ và khuẩn ty sẽ phát triển rất chậm. Còn mẫu cấy đạt chất lượng sẽ có khuẩn ty màu trắng phát triển nhanh và không có biểu hiện nhiễm bệnh. Sau ba ngày, các mẫu cấy đạt sẽ được cấy truyền sang ống mới. Sau ba lần cấy truyền, thu được giống nấm thuần khiết làm giống cấy 1. Các ống giống cấp một sẽ được ủ cho tơ nấm phát triển trong điều kiện nhiệt độ phòng 26 – 300C, quá trình ủ tiến hành trong môi trường ánh sáng khuếch tán nhẹ 500 -1000 lux. Tiến hành quan sát và ghi nhận kết quả kể từ khi sợi nấm bắt đầu bám vào bề mặt môi trường. Xử lý số liệu vẽ biểu đồ mô tả Nhận xét kết quả Hình 2.9: Phân lập giống từ tổ chức mô của nấm bào ngư 3.2.2 Khảo sát tốc độ lan và đặc điểm tơ nấm của nấm bào ngư Nhật trên môi trường hạt (giống cấp 2) Môi trường hạt lúa có bổ sung cám gạo cũng là môi trường được chọn để nhân giống cấp hai đối với nấm bào ngư Nhật. Công thức môi trường hạt: Thóc hạt : 89% Cám gạo : 10% CaCO3 : 1% Nước đủ ẩm : 60 – 65% Quá trình chuẩn bị môi trường hạt được tiến hành như sau: lúa ngâm trong nước lạnh khoảng 12 giờ, rửa thật sạch sau đó cho vào nồi nấu đến khi hạt thóc nở bung ra thì ngừng lại. Tiếp theo cho hạt thóc đã nở bung vào chai thủy tinh rồi bổ sung thêm 10% cám gạo, 1% CaCO3. Sau đó khử trùng ở nhiệt độ 1210C (2500F) trong 90 phút hấp xong để nguội. Để khảo sát tốc độ lan tơ chúng tôi tiến hành như sau: Cấy các giống cấp một (trong môi trường thạch) vào trong chai có môi trường hạt. Tiến hành theo dõi sự phát triển của mẫu trong ba ngày đầu. Loại bỏ các cấy xuất hiện khuẩn lạc của nấm mốc. Thu nhận các mẫu cấy có tơ nấm màu trắng phát triển bình thường để làm giống cấy hai. Nuôi ủ tơ ở nhiệt độ phòng. Thu nhận kết quả kể từ khi tơ nấm bung ra và bám vào môi trường đến khi ăn trắng toàn bộ chai, đo ngẫu nhiên với thời gian từ 2 ngày trở lên. Nhận xét đặc điểm phát triển. Xử lý số liện vẽ biểu đồ mô tả. Hình 2.10: Nhân giống cấp hai 3.2.3 Khảo sát tốc độ lan và đặc diểm tơ nấm của nấm bào ngư Nhật trên môi trường cọng mì (giống cấp ba) Môi trường cọng mì bổ sung cám gạo là môi trường nhân giống cấp ba đối với nấm bào ngư Nhật. Công thức môi trường cọng mì: Cọng mì: 89% Cám gạo : 10% CaCO3 :1% Nước đủ ẩm : 60 – 65% Quá trình chuẩn bị môi trường cọng mì được tiến hành như sau: cọng mì được ngâm trong nước lạnh khoảng 12 giờ, rửa thật sạch sau đó cho vào nồi nấu đến khi cọng mì chin thì ngưng lại. Cho cọng mì vào chai thủy tinh rồi bỏ sung thêm 10% cám gạo, 1% CaCO3. Sau đó khử trùng ở nhiệt độ 1210C trong 90 phút hấp xong để nguội. Để khảo sát tốc độ lan tơ chúng tôi tiến hành như sau: Cấy các giống cấp hai (trong môi trường hạt) vào chai thủy tinh có môi trường cọng mì. Quan sát sự phát triển của mẫu cấy trong ba ngày đầu. Loại bỏ các mẫu cấy nhiễm bệnh. Thu nhận các mẫu cấy có khuẩn ty màu trắng, phát triển bình thường làm giống cấp ba. Nuôi ủ tơ ở nhiệt độ phòng. Thu nhận kết quả kể từ khi tơ nấm bung ra và bám vào môi trường đến khi ăn trắng toàn bộ chai, đo ngẫu nhiên với thời gian từ 2 ngày trở lên. Nhận xét đặc điểm phát triển. Xử lý số liện vẽ biểu đồ mô tả. Hình 2.11: Cấy giống từ chai giống cấp hai sang chai giống cấp ba 3.2.4 Qúa trình nuôi trồng khảo nghiệm Sau khi đã nhân giống cấp một, cấp hai, cấp ba thành công đối tượng trên với số lượng khá nhiều. Tiếp theo sẽ cấp giống cấp ba vào môi trường cơ chất mạt cưa để tiến hành nuôi trồng khảo nghiệm. Qúa trình nuôi trồng được tiến hành ở trang trại nấm Trại nấm anh Lê Minh Khoa ở địa chỉ 132A, đường Sông Lưu, ấp 5, xã hòa phú, huyện CỦ CHI. Công thức giá thể tổng hợp: Mạt cưa được loại tạp bẩn Vôi bột 1% Phân DAP 0,3%, Cám gạo 10%, KH2SO4 O.1%, MgSO4 0,1% Nước bổ sung cho đến khi cơ chất đạt độ ẩm 40 – 50% Quá trình chuẩn bị giá thể như sau: Dùng mạt cưa sau khi đốn cây khoảng 10 – 15 ngày là tốt nhất, đảo trộn mạt cưa với các chất dinh dưỡng để cơ chất mềm ra, nấm dể sử dụng. Mạt cưa sẽ được sàn để loại vỏ văm, mảnh vụn. Bổ sung dinh dưỡng với tỷ lệ như trên, tiến hành đảo trộn đủ ẩm. Cho cơ chất vào các bịch PP hoặc PE khoảng 1,1- 1,2 kg. Một bịch kích thước là 18 x 30cm. Bịch nén xong, tiến hành làm cổ. Cổ bằng giấy bìa cứng, đường kính là 2cm, chiều cao là 4cm. Sau đó cần soi lổ lại cho rộng để tiện khi cấy giống. Miệng bịch được nhét vải bông không thấm. Cuối cùng là dùng giấy dầu bịch miệng lại. Vải bông 2. Phần vải xòe ra sau khi buộc chặt, 3. Giống cấy sau khi khử trùng và đợi nguội môi trường; 4 Lỗ hình nón Hình 2.12: Tạo lổ hình nón ở giửa bịch phôi Mạt cưa sau khi đóng bịch sẽ được khử trùng ngay. Khử trùng bịch cơ chất theo phương pháp hấp khử trùng không áp suất trong lò hấp ở 1000C trong 6 giờ, sau đó để nguội 24 giờ. Để nguội rồi cấy giống cấp ba vào bịch chú ý phải tiến hành trên ngọn đèn cồn. Hình 2.13: Sử dụng đèn cồn Sau đó tiến hành chuyển bịch phôi vào trong trại ủ tơ nấm trong điều kiện ánh sáng khuyếch tán nhẹ ở nhiệt độ 23 – 260C, tiến hành quan sát và nhận xét về quá trình phát triển của tơ nấm của đối tượng trên. Yêu cầu đối với nơi ủ tơ Sạch và thoáng mát. Định kỳ được làm vệ sinh bằng formol, nước vôi trong. Ít ánh sáng nhưng không tối. Không bị dột mưa hoặc nắng chiếu. Không để chung với đồ đạc sinh hoạt gia đình, vật liệu, sách vở. Không ủ chung với giàn nấm đang tưới hoặc mới thu hoạch xong. Bịch ủ có thể xếp trên kệ. Không chồng chất lên nhau quá nhiều lớp. Không xếp vào ngăn quá kín làm tơ bị ngộp. Cứ 5 – 7 ngày tiến hành kiểm tra một lần nhằm phát hiện những bịch nhiễm mốc xanh để hủy bỏ, không để lây nhiễm sang các bịch khác. Trong thời gian nuôi ủ tơi nấm, không cần tưới thường xuyên mà chỉ ở nền, xung quanh vách sao cho đảm bảo nhiệt độ và độ ẩm. Thời gian nuôi ủ tơ nấm bào ngư Nhật khoảng 30 – 40 ngày. Sau khi ủ tơ lan trắng đáy bịch, bịch phôi sẽ được chuyễn vào nhà tưới. Bịch sẽ được rút nút, mỗi ngày tưới 2- 4 lần để duy trì nhiệt độ thích hợp: 20- 300C. Độ ẩm không khí cần trong khoảng 80 – 90%. Hình 2.14: Cách mở miệng bịch phôi đón nấm Hình 2.15: Mạt cưa đổ đóng Hình 2.16: Trộn và ủ mạt cưa Hình 2.17: Sàng mạt cưa Hình 2.18 : Máy đảo trộn cơ chất Hình 2.19: Mạt cưa đóng bịch Hình 2.20: Mạt cưa đã được đóng vào bịch Hình 1.21: Đưa bịch phôi đi khử trùng Hình 2.22: Cấy giống cấp ba vào bịch phôi Hình 2.23: Xếp bịch phôi lên kệ và ủ Hình 2.24: Tưới đón nấm Hình 2.25: Bịch phôi nấm bào ngư Nhật trồng trên cơ chất mạt cưa Hình 2.26: Nấm bào ngư nuôi trồng xếp kệ 3.3 TÍNH HIỆU SUẤT SINH HỌC CỦA NẤM BÀO NGƯ NHẤT TRỒNG TRÊN MẠT CƯA Hiệu suất sinh học của nấm bào ngư Nhật trên giá thể là tỷ lệ giữa lượng quả thể thu hoạch/ lượng cơ chất khô. Khi nấm ra và đạt kích thước tối đa, bắt đầu có biểu hiện già ta tiến hành thu hái và cân đo. 3.4 PHƯƠNG PHÁP THU NHẬN KẾT QUẢ Tốc độ lan tơ nấm được đo 3 lần bằng thước, đơn vị cm. Lấy giá trị trung bình. Quan sát hình thái bên ngoài và mô tả. 3.5 PHƯƠNG PHÁP XỬ LÝ SỐ LIỆU Tất cả số liệu thực nghiệm được đo 3 lần, lấy giá trị trung bình. Số liệu được xử lý bằng bảng tính Excel. CHƯƠNG 4: KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 4.1 KẾT QUẢ NHÂN GIỐNG VÀ NUÔI TRỒNG 4.1.1 Tốc độ lan và đặc điểm tơ nấm trên môi trường thạch Hình 3.1: Ống nghiệm cấy giống nấm bào ngư Nhật Bảng 3.1: Tốc độ lan tơ nấm bào ngư Nhật trên môi trường thạch Thời gian (ngày) Chiều dài sợi nấm (mm) 8 35 14 62 17 78 19 89 21 98 26 120 Hình 3.2: Sự tăng trưởng sợi nấm bào ngư Nhật trên môi trường thạch Từ bảng 3.1 tính được tốc độ lan tơ trung bình của tơ nấm trên môi trường thạch Trong 6 ngày ( từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 14 ): 4,5 mm/ngày Trong 3 ngày ( từ ngày thứ 14 đến ngày thứ 17 ): 5,3 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 17 đến ngày thứ 19 ): 5,5 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 19 đến ngày thứ 21 ): 6,5 mm/ngày Trong 5 ngày ( từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 26 ): 4,4 mm/ngày Nhận xét: Sau 3 ngày đầu kể từ khi cấy giống, mẫu cấy chưa bung sợi do chúng vừa bị tổn thương và chưa thích ứng ngay được với môi trường mới. Đến ngày thứ 4 – 5 các mẫu cấy đồng loạt bung tơ. Tuy nhiên các sợi nấm chưa bám vào bề mặt của môi trường, sau ngày thứ 5 đến hết ngày thứ 6, sợi nấm tiếp tục phát triển và ăn sâu xuống bề mặt của môi trường, tới ngày thứ 8 sợi nấm đã lan được 35 mm. Về hình thái, sợi nấm rất mảnh và thưa, màu trắng lợt, có hiện tượng có các sợi nấm vươn dài ra phía trước, phân nhánh. Đến ngày 14 sợi nấm lan ra thêm được khoảng 62 mm. Tốc độ lan tơ trung bình của tơ nấm trong 6 ngày (từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 14 ) là 4,5 mm/ngày. Khi đến ngày 17 chiều dài của sợi nấm là 78 mm. Chỉ trong 3 ngày (từ ngày thứ 14 đến ngày thứ 17) tốc độ lan trung bình của tơ nấm đã tăng rất nhanh là 5,3 mm/ngày. Tổ chức của sợi nấm chặt chẽ hơn khi sợi nấm đạt độ tuổi 19 ngày, bề mặt khuẩn lạc có màu trắng ngà, ít có sự phân hóa tổ chức sợi nấm như trước, tơ nấm vươn mạnh ra phía trước, và xuất hiện các giai nhọn mang dịch nước đen (hình 3.1). Bên trong các dịch nước này là các bào tử vô tính (oidium). Bào tử nảy mầm cho lại tơ thứ cấp. Lúc này chiều dài sợi nấm là 85 mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 2 ngày (từ ngày thứ 17 đến ngày thứ 19) là 5,5 mm/ngày. Tiếp tục theo dõi đến ngày 21, sợi nấm lan nhanh nhất, thể hiện ở tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 2 ngày (từ ngày thứ 19 đến ngày thứ 21) là 6,5 mm/ngày. Còn khi đến ngày thứ 26 thì tơ nấm đã lan đầy ống nghiệm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 5 ngày (từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 26) đã giảm còn 4,4 mm/ngày. Vì vậy, nên dùng ống nghiệm cấy một tại thời điểm là ngày thứ 21 để cấy truyền làm giống cấp hai là tốt nhất. Cần chú ý rằng nấm phát triển trong pha sợi rất kỵ ánh sáng, và tính chất này thể hiện đặc biệt rõ khi cho các bình tam giác có sợi nấm phát triển ra ngoài ánh sáng (đặc biệt là ánh sáng trực tiếp từ mặt trời) thì sợi nấm ngả váng rất nhanh, đây là một hình thức tự bảo vệ của sợi nấm trước các bức xạ nhiệt của ánh sáng mặt trời. Nên khi nhân giống nấm bào ngư Nhật trên môi trường PGA cải tiến thì phải tuyệt đối để trong môi trường có ánh sáng khuếch tán nhẹ. Như vậy, sợi tơ nấm sẽ phát triển tốt trên môi trường PGA cải tiến. 4.1.2 Tốc độ lan và đặc điểm tơ nấm trên môi trường hạt Để biết được tốc độ lan tơ nấm trên môi trường hạt (cũng là môi trường nhân giống trong sản xuất) tiến hành cấy giống nấm đã phân lập được vào các chai có chứa môi trường hạt lúa và bổ sung dinh dưỡng như trên. Tiến hành theo dõi và thu nhận kết quả. Hình 3.3: Tơ nấm bào ngư Nhật trong môi trường hạt Bảng 3.2: Tốc độ lan tơ nấm bào ngư Nhật trên môi trường hạt Thời gian (ngày) Chiều dài sợi nấm (mm) 8 19 14 36 17 45 19 51 21 58 23 66 25 73 30 89 Hình 3.4: Sự lan tơ của nấm bào ngư Nhật trên môi trường hạt Từ bảng 3.2 tính được tốc độ lan tơ trung bình của tơ nấm trên môi trường hạt Trong 6 ngày ( từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 14 ): 2,8 mm/ngày Trong 3 ngày ( từ ngày thứ 14 đến ngày thứ 17 ): 3 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 17 đến ngày thứ 19 ): 3 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 19 đến ngày thứ 21 ): 3,5 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 23 ): 4 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 23 đến ngày thứ 25 ): 4,5 mm/ngày Trong 5 ngày ( từ ngày thứ 25 đến ngày thứ 30 ): 3,2 mm/ngày Nhận xét: Môi trường hạt lúa làm môi trường nhân giống cho loài bào ngư Nhật vì những lý do chính sau: Thành phần môi trường dễ kiếm, dễ thực hiện và môi trường này đã được sử dụng để nhân giống thành công cho rất nhiều loại nấm, trong đó có rất nhiều loài bào ngư khác. Sau khi cấy giống từ môi trường thạch vào, sau 3 ngày đầu quan sát thấy mẫu cấy đứng yên hay chưa bung sợi, do tơ nấm chưa thích ứng ngay được với môi trường mới. Đến ngày thứ 6 mẫu cấy bung sợi, tơ nấm từ nhiều phía bung ra bám vào môi trường. Đến ngày thứ 8 tơ nấm ăn sâu vào môi trường, tơ nấm được 19 mm. Đến ngày 14 sợi nấm lan ra thêm được một khoảng 36 mm và tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 6 ngày (từ ngày 8 đến ngày thứ 14) là 2,8 mm/ngày. Đến ngày thứ 17, tơ nấm đã dài 45 mm và tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 3 ngày (từ ngày thứ 14 đến ngày thứ 17) đã tăng lên mạnh là 3 mm/ngày. Sau 23 ngày tuổi, chiều dài sợi nấm lúc này là 66 mm hệ sợi đã trở nên dày hơn, kết cấu chặt chẽ và sợi bện chặt có màu trắng ngà đặc trưng và xuất hiện các gai nhọn mang dịch màu đen (hình 3.3). Tốc độ lan trung bình của tơ nấm từ ngày thứ 17 đến ngày 25 đều tăng rất ổn định. Nhưng đến ngày thứ 30 thì tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 5 ngày (từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 26) đã giảm còn 3,2 mm/ngày. Lúc này tơ nấm đã lan đầy chai thủy tinh và các gai nhọn mang dịch đen xuất hiện dày đặc. Vì vậy, nên dùng giống cấp hai tại thời điểm là ngày thứ 25 để cấy truyền làm giống cấp 3 là tốt nhất. Một điều nhận thấy là tốc độ lan tơ trên môi trường lúa chậm hơn trên môi trường thạch. Điều này thể hiện khi so sánh bảng 3.1 và bảng 3.2 tại cùng một thời điểm 14 ngày tuổi chiều dài tơ nấm trên môi trường hạt là 36 mm. Còn tại cùng một thời điểm ngày thứ 14 chiều dài của tơ nấm trên môi trường PGA cải tiến là 47 mm. Điều này có thể được giải thích như sau : do môi trường thạch có nhiều chất dinh dưỡng và các chất này ở dạng đơn chất nên dễ hấp thụ như acid amin, đường đơn (glucose),. Hơn nhiều so với môi trường hạt. 4.1.3 Tốc độ lan và đặc điểm tơ nấm trên môi trường cọng mì Hình 3.5: Tơ nấm bào ngư Nhật trong môi trường cọng mì Bảng 3.3: Tốc độ lan tơ nấm bào ngư Nhật trong môi trường cọng mì Thời gian (ngày) Chiều dài sợi nấm (mm) 8 19 14 31 17 39 19 44,5 21 50 23 55,7 25 61,5 27 67,5 32 78 Hình 3.6: Sự lan tơ của bào ngư Nhật trong môi trường cọng mì Từ bảng 3.3 tính được tốc độ lan trung bình của tơ nấm trên môi trường cọng mì: Trong 6 ngày ( từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 14 ): 2 mm/ngày Trong 3 ngày ( từ ngày thứ 14 đến ngày thứ 17 ): 2,3 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 17 đến ngày thứ 19 ): 2,75 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 19 đến ngày thứ 21 ): 2,75 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 21 đến ngày thứ 23 ): 2,85 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 23 đến ngày thứ 25 ): 2,9 mm/ngày Trong 2 ngày ( từ ngày thứ 25 đến ngày thứ 27 ): 3 mm/ngày Trong 5 ngày ( từ ngày thứ 27 đến ngày thứ 33 ): 2,1 mm/ngày Nhận xét: Môi trường cọng mì làm môi trường nhân giống cấp 3 cho loài nấm bào ngư Nhật vì những lý do chính sau: Thành phần môi trường dễ kiếm, dễ thực hiện và môi trường này đã được sử dụng để nhân giống thành công cho nhiều loại nấm, trong đó có rất nhiều loại bào ngư khác. Những ngày đầu, mẫu cấy đứng yên hay chưa bung sợi tơ nấm chưa thích ứng ngay được với môi trường mới. Đến ngày thứ 8 tơ nấm ăn sâu vào môi trường được 19 mm. Sau 19 ngày tuổi, hệ sợi đã trở nên dày hơn, kết cấu chặt chẽ và sợi bện chặt có màu trắng ngà đặc trưng. Đến ngày thứ 25, chiều dài sợi nấm là 61,5 mm hệ sợi đã trở nên dày hơn, kết cấu chặt chẽ và sợi bện chặt có màu trắng ngà đặc trưng và xuất hiện các gai nhọn mang dịch màu đen (hình 3.5). Nhưng đến ngày thứ 30 thì tốc độ lan trung bình của tơ nấm trong 5 ngày (từ ngày 21 đến ngày 26) đã giảm còn 2,1 mm/ngày. Lúc này tơ nấm đã lan đầy chai thủy tinh và các gai nhọn mang dịch đen xuất hiện dầy đặc. Vì vậy nên dùng giống cấy ba tại thời điểm ngày thứ 27 (khi tốc độ phát triển của sợi nấm mạnh nhất và ổn định, đồng thời tổ chức của sợi nấm cũng kết cấu chặt chẽ, sợi nấm bện dầy) để cấy vào các bịch cơ chất tiến hành nuôi trồng ra quả thể. Tốc độ lan tơ trên môi trường cọng mì chậm hơn trên môi trường thạch và môi trường hạt. Điều này thể hiện khi so sánh bảng 3.1, bảng 3.2 và bảng 3.3 tại thời điểm 14 ngày tuổi chiều dài của tơ nấm trên môi trường thạch là 47 mm và trên môi trường hạt là 36 mm. Còn tại thời điểm 14 ngày trên môi trường cọng mì là 31 mm. Điều này có thể được giải thích là do nấm khó hấp thu dinh dưỡng trên môi trường cọng mì kém hơn môi trường PGA cải tiến và hạt lúa. Do dinh dưỡng trên môi trường cọng mì kém hơn môi trường PGA cải tiến và môi trường hạt. Tuy nhiên, môi trường cọng mì rẻ tiền hơn ( là môi trường nhân giống trong sản xuất) và sợi nấm cũng phát triển khá tốt. 4.1.4 Kết quả nuôi trồng khảo nghiệm trên môi trường cơ chất mạt cưa Hình 3.7: Bịch phôi nấm bào ngư Nhật trên cơ chất mạt cưa Bảng 3.4: Tốc độ lan tơ trên môi trường cơ chất mạt cưa thời gian (ngày) Chiều dài sợi nấm (mm) 8 29 14 66 19 96 26 145 36 185 Hình 3.8: Sự lan tơ nấm trên cơ chất mạt cưa Từ bảng 3.4 tính được tốc độ lan tơ trung bình của tơ nấm trên cơ chất mạt cưa Trong 6 ngày ( từ ngày thứ 8 đến ngày thứ 14 ): 6,2 mm/ngày Trong 5 ngày ( từ ngày thứ 14 đến ngày thứ 19): 6 mm/ngày Trong 7 ngày ( từ ngày thứ 19 đến ngày thứ 26 ): 7 mm/ngày Trong 10 ngày ( từ ngày thứ 26 đến ngày thứ 36 ): 4 mm/ngày Nhận xét: Theo kết quả thực tế được chỉ ra ở bảng và biểu đồ cho thấy: Sau 8 ngày cấy giống thì tơ nấm đã thích nghi với nguồn cơ chất mới, tơ nấm ăn từ trong ra ngoài tạo nên một lớp có màu trắng lợt ở phía ngoài bịch. Đến ngày thứ 14 thì tơ nấm đã hoàn toàn thích nghi với môi trường cơ chất mới, biểu hiện là sự lan tơ khá mạnh. Tuy nhiên, lúc này hệ sợi còn thư mảnh, chưa có sự bền kết. Một đặc điểm rất dễ nhận biết những bịch phôi của nấm bào ngư Nhật với những loài bào ngư khác hay linh chi là hệ sợi tơ trắng mang giọt dịch đen trên đỉnh chứa vô số các bào tử vô tính. Tạo nên những điểm lấm tấm điểm đen rất đặc trưng mà các loài nấm khác không có. Đến ngày thứ 26 thì hệ sợi đã dày hơn, kết cấu chặt chẽ, các gai nhọn mang dịch đen xuất hiện dày đặc, lúc này kích thước sợi nấm là 145 mm. Tốc độ lan trung bình của tơ nấm trên cơ chất mạt cưa rất ổn định. Đến ngày thứ 36 tốc độ lan trung bình của tơ nấm giảm còn 4 mm/ngày, khi này bịch phôi tơ đã lan kín. Khi bịch phôi đã lan kín tơ thì chuyển ra nhà chăm sóc ra quả thể, tắm bịch thật sạch sau đó mới tháo nút bong để đón nấm. Nhà nuôi nấm phải thường xuyên tưới nước để duy trì nhiệt độ 25 – 300C và độ ẩm khoảng 80 -85%. Sau 5 ngày, bịch phôi ra quả thể. Khi thu hoạch nấm thì không nên để nấm ra to mới hái để cho sản lượng cao. Sản phẩm nấm phụ thuộc vào chất lượng sợi nấm mọc trên cơ chất. Chất lượng nấm phụ thuộc vào kích thước của mũ nấm. Mũ nấm càng lớn (tức là càng già) thì chất lượng của nấm càng giảm. Nên thu hoạch nấm khi đường kính ngang của mũ nấm khoảng từ 8 - 10 cm. Hình 3.9: Quả thể dạng san hô Hình3.10: Quả thể dạng dùi trống Hình 3.11: Quả thể dạng phểu Hình 3.12: Quả thể dạng phểu lệch Hình 3.14: Quả thể nấm bào ngư Nhật dạng lá lục bình TÓM LẠI QUI TRÌNH CÓ THỂ SƠ ĐỒ HÓA NHƯ SAU: Trộn nước vôi 0,5% Ủ đống 1 ngày Thêm dinh dưỡng Mạt cưa cao su Cơ chất trồng nấm Vào túi Thanh tùng Cấy giống Nuôi ủ 20- 25 ngày Bịch phôi Đưa vào nhà tưới Mở miệng Tưới nước Quả thể nấm Thu hái 4.2 HIỆU SUẤT SINH HỌC CỦA NẤM BÀO NGƯ NHẬT TRÊN CƠ CHẤT MẠT CƯA Trên 100kg cơ chất mạt cưa, thì tôi thu được 34kg nấm bào ngư Nhật. Vậy hiệu suất sinh học là: ( 34 : 100) x 100% = 34% Nếu đưa vào sản xuất là 1.000 kg cơ chất mạt cưa thì hiệu quả kinh tế trong sản xuất nấm bào ngư Nhật là: Chi phí Túi nilon (19 x 36cm ):10kg x 30.000đ/kg = 300.000đ Bông nút : 3kg x 2.000đ/kg = 6.000đ Vôi bột: 10kg x 1.500đ/kg = 15.000đ Giống nấm : 20 chai giống cấp 3 x 15.000đ = 300.000đ Công lao động : 5công x 100.000đ = 500.000đ Điện nước = 50.000đ Củi đốt = 50.000đ Tổng cộng = 1.221.000đ Thu nhập Năng suất là 34% ≈ 340kg nấm bào ngư Nhật Nấm tươi: 340x 20.000đ (giá bán thấp nhất) = 6.800.000đ Lợi nhuận tối thiểu: 6.800.000 – 1.221.000= 5.579.000đ CHƯƠNG 5: KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 5.1 KẾT LUẬN Khảo sát tốc độ lan tơ của nấm bào ngư Nhật trên ba môi trường là môi trường PGA cải tiến (giống cấp 1), môi trường hạt lúa (giống cấp 2), và môi trường cọng mì (giống cấp 3) tôi đi đến những kết luận sau: Nên dùng giống cấp một tại thời điểm ngày thứ 21 để cấy chuyền làm giống cấp hai, dùng giống cấp hai tại thời điểm ngày thứ 25 để cấy chuyền làm giống cấp ba, dùng giống cấp ba tại thời điểm ngày thứ 27 để cấy vào các bịch cơ chất tiến hành nuôi trồng ra quả thể. Tốc độ đi tơ trên môi trường PGA cải tiến là nhanh nhất vì trong môi trường các chất dinh dưỡng ở dạng đơn chất dễ hấp thụ như acid amin, đường đơn (glucose) hơn nhiều hai môi trường còn lại. Tốc độ đi tơ trên môi trường cọng mì chậm hơn trên môi trường thạch và môi trường hạt vì chất dinh dưỡng trên cọng mì kém hơn trên môi trường thạch và môi trường hạt. Từ việc xây dựng được quy trình trồng nấm bào ngư Nhật trên cơ chất mạt cưa sẽ cho năng suất nấm là cao nhất so với các cơ chất khác. Như vậy, từ một phế phẩm nông nghiệp, mạt cưa đã trở thành cơ chất trồng nấm từ bao đời nay. Sử dụng mạt cưa vừa góp phần xử lý môi trường lại vừa tăng thêm thu nhập, tiết kiệm chi phí sản xuất. Nấm bào ngư Nhật có những ưu điểm sau: thích ứng nhiệt rộng, tăng trưởng tạo thể quả lớn, dễ nuôi trồng, quả thể của nấm bảo quản được lâu và vận chuyển ít bị hư hại hơn nấm bào ngư trắng. Vì thế bào ngư Nhật rất thích hợp cho việc nuôi trồng phổ biến rộng rãi trên nhiều địa phương trong nước ta. Góp phần làm tăng hiệu quả kinh tế cho người dân, có thêm thu nhập xóa đói giảm nghèo ở những vùng sâu, vùng xa ở nước ta. 5.2 KIẾN NGHỊ Từ những kết quả đã đạt được trong nghiên cứu nuôi trồng chúng tôi đưa ra những kiến nghị sau: Phải có những nghiên cứu sâu hơn nhằm tối ưu hóa các công đoạn trong quy trình nuôi trồng nấm bào ngư Nhật. Đặc biệt là điều kiện nuôi trồng như: điều kiện nhiệt độ, độ ẩm, ánh sáng để nấm có năng suất cao hơn. Có vậy mới có thể đi đến nâng cao hiệu suất sử dụng sinh học của nấm bào ngư Nhật. Tiếp tục có những nghiên cứu sâu hơn về thành phần hóa học và sinh học của các hoạt chất sinh học có trong nấm bào ngư Nhật và các thử nghiệm lâm sàng để chứng minh giá trị không kém giống của các nước khác về hai mặt giá trị dinh dưỡng và giá trị dược liệu. Từ đó tuyên truyền quảng bá loài nấm quý này đến tay người tiêu dùng, phục vụ công tác xuất khẩu. Tiến hành thử nghiệm nuôi trồng nấm bào ngư Nhật trên các môi trường cơ chất phế phẩm nông nghiệp như bã mía,vỏ cà phê, xơ cọ dừa, cùi bắp, bông phế thải, rơm rạ, vỏ hạt bông.. để có thể tận dụng được nguồn phế phẩm này thành nguồn cơ chất quí giá trồng nấm. Tiếp tục nghiên cứu cơ chất mạt cưa khi trồng nấm bào ngư có thể sử dụng phân bón, trồng nấm rơm rất tốt và cũng có thể nuôi trùn quế,. vì đối với cơ chất mạt cưa cao su sau khi trồng nấm được sử dụng làm phân bón là rất tốt và nên có hướng nghiên cứu trên các cơ chất khác. Nhà nước nên có chương trình đầu tư và phát triển nuôi trồng nấm bào ngư trên nhiều cơ chất như: mạt cưa, bã mía, vỏ cà phê, cùi bắp, rơm rạ, xơ cọ dừa, bông phế thải,...... để xóa đói giảm nghèo cho bà con nông dân Các cơ quan nghiên cứu và trường đại học nên nghiên cứu lai tạo giống đạt các yêu cầu cao về chất lượng, thuần chủng, không có mầm bệnh, khả năng kháng khuẩn để tạo ra sản phẩm đạt chất lượng, sản lượng và tránh bị thoái hóa về sau. Các hộ và các cơ sở sản xuất chưa có sự phối hợp chặt chẽ nên chưa hình thành được khu sản xuất và chế biến tập trung. Từ đó, dẫn đến chi phí tăng như: vận chuyển, vốn đầu tư cho cơ sở còn yếu. Cần áp dụng các công nghệ tiên tiến và các quy trình sản xuất kép kín vào sản xuất như các nước trên thế giới Chưa tận dụng hết tiềm năng hiện có, chưa xây dựng được mối liên kết giữa nhà kỹ thuật, nhà sản xuất và doanh nghiệp. Các biện pháp phòng dịch bệnh trong quá trình nuôi trồng nấm, các cơ sở còn chưa quan tâm tích cực dẫn đến hậu quả là khi dịch bệnh xảy ra làm giảm sản lượng, chất lượng nấm, gây thất thu cho người trồng nấm. Khoa nên mở thêm một phòng thí nghiệm nuôi cấy nấm để sinh viên các khóa sau có thể thực hành việc nuôi trồng cũng như cấy nấm. Tăng thêm thời gian thực nghiệm làm đồ án tốt nghiệp để tăng độ tin cậy của kết quả. TÀI LIỆU THAM KHẢO TIẾNG VIỆT GS.TS. Nguyễn Lân Dũng, 2009: Công nghệ trồng nấm I, II. Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội GS.TS. Nguyễn Lân Dũng 2009: Tự học nghề trồng nấm. Nhà xuất bản nông ngiệp Hà Nội. GS.TS. Trần Đình Đằng – TS. Nguyễn Hữu Ngoan, 2005: Tổ chức sản xuất một số loại nấm ăn ở trang trại & gia đình (nấm mỡ, nấm rơm, nấm sò). Nhà xuất bản nông nghiệp TP.HCM. GS.TS. Trần Đình Đằng – TS. Nguyễn Hữu Ngoan 2003: Kỹ thuật trồng nấm mỡ, nấm rơm, nấm sò. Nhà xuất bản nông nghiệp TP.HCM. GS.PTS. Nguyễn Hữu Đống – KS. Đình Xuân Linh – KS. Nguyễn Thi Sơn – TS. Zani Federico, 2005: Nấm ăn cơ sở khoa học và công nghệ nuôi trồng. Nhà xuất bản nông nghiệp. Bùi Xuân Đống, 1977: Một số vấn đề về nấm học. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội. Trịnh Tam Kiệt,1998: Nấm lớn ở Việt Nam. Nhà xuất bản khoa học và kỹ thuật Hà Nội. Nguyễn Thị Thanh Kiều, 2004: Ngiên cứu sự phân hủy Lignin của một số nấm đảm và khả năng ứng dụng. Luận án Tiến sĩ sinh học. Trường Đại học khoa học Tự Nhiên TP.HCM. GS.TS Trần Văn Mão, 2008: Sử dụng vi sinh vật có ích, tập I,II. ( Nuôi trồng chế biến nấm ăn và nấm làm thuốc chữa bệnh). Nhà xuất bản nông nghiệp Hà Nội. Lê Duy Thắng, 2006: Kỹ thuật trồng nấm, tập 1. Nuôi trồng một số nấm ăn thông dụng ở Việt Nam. Nhà xuất bản nông ngiệp TP.HCM.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBAI KHOA LUAN TOT NGHIEP HOAN CHINH.doc
  • docxTÀI LIỆU THAM KHẢO.docx
Tài liệu liên quan