Khóa luận Một số biện pháp nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Công thương Việt Nam

Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng công thương Việt Nam ra đời là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế đầu tư trong thời gian qua, góp phần tháo gỡ các khó khăn trong đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nhằm đổi mới máy móc thiết bị vì sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam còn rất mới mẻ và sơ khai, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Việc đi sâu nghiên cứu mọi hoạt động của nó sẽ hoàn thiện hơn trên cả góc độ lý luận và thực tiễn. Với việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, bám sát mục tiêu, phạm vi nghiên cứu chuyên đề đã hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra: 1. Nêu ra những quan điểm về tên gọi, khái niệm, đặc điểm, phân loại của cho thuê tài chính và công ty cho thuê tài chính, từ đó đưa ra những ý kiến riêng của tác giả 2. Phân tích việc phát triển hoạt động cho thuê của các công ty nước ngoài, từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam. 3. Đưa ra bức tranh toàn cảnh về môi trường kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam, dự báo tiềm năng của thị trường cho thuê tài chính trong tương lai. 5. Phân tích thực hoạt động kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam, qua đó nêu lên những thuận lợi, khó khăn để có biện pháp trong giai đoạn tới. 6. Trên cơ sở các lý luận cơ bản, thực trạng môi trường kinh doanh, thực trạng hoạt động của Công ty cho thuê tài chính NHCTVN, các giải pháp mang tính thực tiễn cũng như các giải pháp dài hạn được đưa ra. 7. Nêu lên một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện hoàn thiện hoạt động của các công ty cho thuê tài chính. “Khoa học không có điểm cuối cùng”. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của các công ty cho thuê tài chính còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Tuy đã có những cố gắng nhất định, nhưng nhiều vấn đề vẫn chưa được làm sáng tỏ, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu ở trình độ cao hơn.

doc89 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1119 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số biện pháp nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty cho thuê tài chính – Ngân hàng Công thương Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ỉ có thể là động sản, điều này hạn chế mặt hàng của các công ty cho thuê tài chính bởi vì bên thuê có thể cần thuê bất động sản như văn phòng, đất đai, nhà xưởng nhằm mục đích kinh doanh của họ. º Quy định về huy động vốn: Khoản 3, điều 14 trong nghị định 64/CP ngày 9/10/1996 quy định “ Công ty cho thuê tài chính không được nhận tiền gửi dưới mọi hình thức” Nhưng khoản 2, điều 45 trong lụt các tổ chức tín dụng lại qui định “ Tổ chức tín dụng phi ngân hàng có quyền nhận có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức cá nhân theo qui định của nhà nước”. Mâu thuẫn này gây khó khăn cho các công ty cho thuê tài chính trong việc huy động vốn để thực hiện hoạt động cho thuê tài sản, như vậy làm tăng chi phí vốn của công ty cho thuê tài chính. ằ Việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp cho Công ty cho thuê tài chính. Việc cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp cho công ty cho thuê tài chính: Theo nghị định 64/CP của chính phủ có qui định ” công ty cho thuê tài chính chịu trách nhiệm ký hợp đồng mua hàng, thanh toán tiền mua tài sản để cho thuê với bên cung ứng theo các điều kiện đã được thoả thuận trong hợp đông mua hàng...”. Như vậy tài sản cho thuê có thể mua trong nước cũng có thể nhập khẩu từ nước ngoài, nhưng cho đến nay chưa một công ty cho thuê tài chính nào ở Việt nam được Bộ thương mại cấp giấy phép xuất nhập khẩu trực tiếp. Do vậy việc nhập khẩu máy móc thiết bị từ nước ngoài của Công ty cho thuê tài chính đều phải thông qua một công ty xuất nhập khẩu khác. Điều này cũng làm tăng chi phí cho bên thuê khi đi thuê tài chính vì tất cả chi phí liên quan đến tài sản thuê bên thuê chịu ẳ Quy định thu tiền thuê bằng VND: Khoản 1.5 điều 1 mục V Thông tư 03/TT-NH5 hướng dẫn thực hiện nghị định 64/CP qui định ” Về nguyên tắc mọi giao dịch cho thuê phải thực hiện bằng đồng Việt Nam. Trong trường hợp công ty cho thuê tài chính sử dụng ngoại tệ để nhập khẩu tài sản cho thuê thì đối với các hợp đồng thuê có thời hạn trên một năm, được xác định số tiền thuê bằng ngoại tệ, nhưng việc thanh toán tiền thuê phải thực hiện bằng đồng Việt Nam theo tỷ giá hiện hành của các ngân hàng thương mại vào thời điểm thanh toán” Như vậy rủi ro về mặt ngoại tệ là điều khiến các công ty cho thuê tài chính lo ngại. Theo qui định hiện hành, trong các hợp đồng cho thuê thiết bị nhập khẩu bằng ngoại tệ, số tiền thanh toán giữa bên thuê và bên cho thuê được xác định bằng ngoại tệ. Song việc thanh toán từng lần giữa các bên được tính bằng đồng Việt Nam theo tỷ giá tại thời điểm thanh toán. Các công ty cho thuê tài chính chỉ được mua ngoại tệ khi đến hạn trả nợ. Khoảng cách từ khi công ty được thanh toán bằng đồng Việt Nam cho đến khi họ được mua ngoại tệ để thanh toán đã phát sinh rủi ro không nhỏ khi thay đổi tỷ giá. Điều này không công bằng nếu so với các Ngân hàng thương mại, cho vay bằng ngoại tệ các ngân hàng được thu nợ bằng ngoại tệ. Lợi thế của các ngân hàng là hơn hẳn vì được kinh doanh đa dạng, vừa được thu nợ bằng ngoại tệ. ẵ Các chính sách về thuế: Đây là vấn đề có nhiều bất cập nhất khiến các công ty cho thuê tài chính gặp rất nhiều khó khăn: a. Quy định về thuế trước bạ: Theo qui định hiện hành, việc đóng thuế trước bạ phải thực hiện trong các trường hợp khi mua mới tài sản cố định và khi sang tên đổi chủ. Như vậy đối với tài sản cho thuê khi công ty cho thuê tài chính (bên cho thuê) mua tài sản theo yêu cầu của doanh nghiệp (bên thuê) thì bên cho thuê đứng tên chủ sở hữu nên bên cho thuê nộp thuế trước bạ, theo nguyên tắc bên cho thuê bỏ ra bao nhiêu vốn thì phải tính vào giá trị tài sản cho thuê nghĩa là số thuế trước bạ trên sẽ được tính vào giá gốc tài sản để cho thuê. Đồng thời với nghĩa đó là bên thuê đã phải tính thuế trước bạ lần đầu. Khi kết thúc thời hạn thuê bên cho thuê bán lại tài sản với giá tượng trưng rất thấp so với giá trị hiện tại của tài sản thuê hoặc chuyển giao quyền sở hữu cho bên thuê, lúc này theo qui định hiện hành bên thuê phải nộp thuế trước bạ lần thứ hai theo giá rị tài sản được đánh giá lại. Điều này là bất hợp lý, bởi vì tính chất của cho thuê tài chính quyền sở hữu tách rời quyền sử dụng, bên cho thuê chỉ sở hữu trên danh nghĩa, bên thuê là người sử dụng tài sản ngay từ đầu, ở đây không có sự mua bán thông thường. Điều này sẽ làm tăng chi phí của bên thuê khi thực hiên đi thuê tài chính do vậy làm giảm sức cạnh tranh của công ty cho thuê tài chính. b. Thuế nhập khẩu thiết bị thuê mua: Nghị định 64/CP chưa qui định đóng thuế nhập khẩu theo mục đích sử dụng để giảm hoặc miễn thuế. Thí dụ thiết bị được các công ty liên doanh nhập khẩu để sản xuất khẩu thì được miễn thuế nhập khẩu. Nhưng nếu những công ty này sử dụng hình thức thuê tài chính thì sẽ không được áp dụng hình thức miễn thuế này. c. Thuế sử dụng vốn: Điều mà tất cả mọi người từ chủ sở hữu, giám đốc điều hành công ty, các cán bộ công nhân viên của công ty, những người cho công ty vay vốn đến cơ quan thuế quan tâm nhất chính là lợi nhuận của công ty, qua đó xem xét công ty có thể tiếp tục mở rộng quy mô nhờ tích luỹ không?. Tuy nhiên, với cơ chế chính sách và thực trạng nền kinh tế hiện nay, các công ty cho thuê tài chính thuộc sở hữu của Nhà nước đều không thể có tích luỹ. Như trường hợp trong năm 2001, Công ty cho thuê tài chính ngân hàng Công thương Việt Nam có lợi nhuận sau thuế 3217,08 triệu VND, nhưng số tiền nộp thu sử dụng vốn NSNN đã lên tới: 3300 triệu VND (55 tỷ x 6%). Như vậy nếu khồn được ưu đãi về miễn nộp thuế sử dụng vốn trong những năm đầu chăc chắn công ty sẽ lỗ Thực tế có thể được minh chứng tổng quát qua bài toán đơn giản sau: Đầu tiên, giả thiết công ty thường xuyên cho thuê hết 55 tỷ VND vốn tự có, gốc trả đều. Tiếp theo tổng chi phí của công ty từ trả lương công nhân viên, tiền khấu hao tài sản thiết bị, tiền thuê địa điểm,... là 20% thu nhập từ hoạt động cho thuê.(theo thống kê tại hội nghị các Công ty cho thuê tài chính đầu năm 2001). Nói cách khác trung bình một đồng cho thuê công ty tốn lượng phí cố định bằng 0,2xPhí cho thuê. Thuế thu nhập doanh nghiệp công ty theo quy định là 32 %. Chi phí sử dụng vốn NSNN là 6%/năm. Gọi a(%)là phí thuê để tích luỹ bằng không ta có a x12( tháng) x 55 tỷ x (1 - 20%) x(1 - 32%) = 55 tỷ x 6% ố x= 0,9191% Như vậy công ty phải cho thuê với phí thuê lớn hơn 0,9191% thì mới có tích luỹ. Điều này đối với các hợp đồng cho thuê trong và trước năm 2000 là thực hiện được (tại thời điểm 2000, phần lớn các công ty thực hiện cho thuê với phí thuê giao động từ 1 - 1,4%/tháng. Cùng thời kỳ này trần lãi suất cho vay được quy định khoảng từ 1,05 -1,25%/tháng). Tuy nhiên, trong sau năm 2001, khi mà lãi suất cơ bản là 0,75%/ tháng và hiện nay chỉ là 0,65%/ tháng thì con số 0,9191%/tháng trở nên xa vời. Thực tế hiện nay công ty chỉ có thể cho thuê với mức phí thuê giao động từ 0,65%-0,75%/tháng. Nếu đưa mức giá cao hơn, công ty có thể mất khách hàng. Như vậy, nếu tình trạng trên cứ tiếp diễn thì công ty sẽ không có đủ tiền để trả chi phí sử dụng vốn NSNN. Không còn cách nào khác, công ty phải vay nhiều tiền từ ngân hàng Công thương và cho thuê vượt con số 55 tỷ càng xa càng tốt. Công ty buộc phải sử dụng phần thu nhập thu từ chênh lệch giữa phí cho thuê và lãi suất vay vốn ngân hàng mẹ để bù vào phần còn thiếu nộp chi phí sử dụng vốn NSNN. Vậy những khoản thu của Nhà nước (thuế thu nhập doanh nghiệp, chi phí sử dụng vốn ngân sách nhà nước) đã hợp lý chưa ? Theo quan điểm cá nhân thì đây là điều chưa hợp lý. d. Thuế giá trị gia tăng: Theo thông tư số 49/2000/TT-BTC ngày 6/5/2000 hướng dẫn thực hiện luật thuế giá trị gia tăng với hoạt động cho thuê: “ Đối với tài sản nhập khẩu bên cho thuê là đối tượng nộp thuế giá trị gia tăng hàng nhập khẩu. Đối với tài sản mua trong nước, bên cho thuê giá tiếp nộp thuế giá trị gia tăng thông qua việc thanh toán tài sản mua. Thuế giá trị gia tăng của tài sản thuê tài chính do bên cho thuê đã nộp được bên đi thuê trả dần trên cơ sở hợp đồng cho thuê tài chính” Đây là một bất lợi lớn đối với hoạy động cho thuê, làm giảm mức hấp dẫn đối với các doanh nghiệp. Bởi vì nếu doanh nghiệp vay ngân hàng và mua tài sản thì họ sẽ được khấu trừ thuê giá trị gia tăng đầu vào ngay trong kỳ sản xuất kinh doanh. Nếu như họ đi thuê tài sản đó. Họ chỉ được khấu trừ dần theo tiền thuê mỗi kỳ mà họ phải trả tiền thuê. Như vậy họ sẽ phải trả một khoản phí do lãi suất tính trên thuế giá trị gia tăng chưa khấu trừ. Vừa qua cục thuế đã cho phép các công ty đi thuê được khấu trừ thuế giá trị gia tăng hàng tháng tuy vậy người đi thuê vẫn cho rằng họ vẫn bị thiệt hại do nếu đi vay ngân hàng thì sẽ được khấu trừ ngay. Điều đó có thể thấy qua ví dụ sau: Doanh nghiệp A muốn có một thiết bị trị giá 2 tỷ VND để nâng cao năng lực sản xuất, thuế giá trị gia tăng đầu vào là 10%, lãi suất cho vay trung dài hạn là 1,1%, lãi suất cho vay ngắn hạn là 1% tháng Như vậy Thuế giá trị gia tăng đầu vào = 2 tỷ x 10% = 200 triệu Số tiền lãi phải trả cho khoản VAT là B Trường hợp 1: Doanh nghiệp A vay vốn trung hạn của ngân hàng 2 tỷ VND để mua thiết bị đó và vay vốn ngắn hạn 200 triệu VND để trả tiền thuế VAT. Ngay trong tháng đó doanh nghiệp đã được khấu trừ thuế VAT đầu vào và đem số tiền đó trả nợ ngắn hạn ngân hàng. Do đó số tiền lãi doanh nghiệp A phải trả tính trên vay ngắn hạn là: B = 200 triệu x 1% = 2 triệu VND Trường hợp 2: Doanh nghiệp A đi thuê tài sản đó trong 2 năm và trả tiền thuê theo phương pháp giảm tuyến tính, kỳ hạn trả tiền là 6 tháng. Khi đó số tiền lãi tính trên thuế VAT sẽ là như sau: B = 200x6x1,1% + 150x6x1,1% + 100x6x1,1% + 50x6x1,1% = 33 triệu VND Rõ ràng là chi phí đối với thuế giá trị gia tăng phải nộp của A khi đi thuê tài sẽ lớn hơn rất nhiều. Những hạn chế của môi trường pháp lý đã làm cho nhiều doanh nghiệp cảm thấy rằng đây là một hình thức phức tạp, không có ưu đãi, trong khi đi vay ngân hàng tiên lợi và đơn giản hơn rất nhiều. Thực tế trong thời gain qua Công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Công thương Việt Nam đã được khách hàng phản ánh rất nhiều về tình hình này và nhiều khách hàng đã từ bỏ ý định thuê tài sản. Thứ ba những khó khăn khác Công ty cho thuê tài chính thực sự bắt đầu hoạt động trong thời kỳ nền kinh tế bị ảnh hưởng bởi khủng hoảnh tiên tệ trong khu vực ảnh hưởng xấu đến môi trường đầu tư, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế sút giảm so với các năm trước, hoạt động của một số các doanh nghiệp gặp nhiều khó khăn, năng lực tài chính yếu kém, sức cạnh tranh thấp xảy ra nhiều vụ đổ vỡ doanh nghiệp. Việc đổi mới cơ chế quản lý của các loại hình doanh nghiệp còn nhiều lúng túng, phương thức sản xuất kinh doanh chưa ổn định, sức mua cũng bị giảm làm cho hàng hoá sản xuất ra cũng bị tồn động lớn, vốn chậm luân chuyển. Do vậy nhiều dự án đầu tư của các doanh nghiệp tạm thời phải dừng lại. Sự thiếu hiểu biết của các doanh nghiệp về phương thức tài trợ bằng đi thuê cũng làm hạn chế hoạt động cho thuê của công ty. Tại hội nghị khách hàng do công ty tổ chức năm 2001 với câu hỏi: Doanh nghiệp sẽ gặp phải những khó khăn gì khi đi thuê tài sản ? rất nhiều các doanh nghiệp đã trả lời rằng họ thiếu thông tin về phương thức tài trợ mới này. Lâu nay các doanh nghiệp Việt Nam chỉ quen với phương thức tài trợ bằng vốn tự có hoặc đi vay ngân hàng, chưa hiểu hết được lợi ích mà đi thuê tài sản mang lại nên còn e ngại khi tiếp xúc với nó. Khả năng kinh doanh, trình độ quản lý của các doanh nghiệp mà hầu công ty có dịp tiếp xúc còn yếu dẫn đến tình trạng kinh doanh kém hiệu quả. Chính vì thế để tìm được các dự án có triển vọng để tài trợ là rất khó nhiều khi buộc công ty phải hoạt động dàn trải, qui mô hợp đồng nhỏ để hoạt động kinh doanh có lãi. Việc thẩm định dự án của công ty gặp rất nhiều khó khăn. Để thẩm định một dự án Công ty chủ yếu dựa vào hai luồng thông tin là luồng thông tin do bản thân doanh nghiệp cung cấp và luồng thông tin từ bên ngoài doanh nghiệp. Hiện bay độ chính xác của các thông tin còn rất hạn chế. Đối với các luồng thông tin do doanh nghiệp cung cấp, hầu hết các doanh nghiệp ngoài quốc doanh nghiệp hiện nay thực hiện hạch toán kế toán không theo đúng qui định của Nhà nước, chủ yếu ghi chép dạng “sổ chợ”, các báo cáo tài chính nộp cho cơ quan thuế đều có những sai phạm nhằm mục đích trốn thuế. Còn các doanh nghiệp quốc doanh tuy có thực hiện hạch toán kế toán theom đúng qui định của Nhà nước nhưng nội dung đúng sai ra sao thì không có cơ quan nào kiểm trang ngoại trừ cơ quan thuế. Đối với luồng thông tin bên ngoài doanh nghiệp, hiện nay công ty chủ yếu khai thác từ Trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước và từ Ngân hàng Công thương Việt Nam. Hiện nay trung tâm thông tin tín dụng của Ngân hàng Nhà nước hoạt động không có hiệu quả, các thông tin từ nguồn này thường không kịp thời và đầy đủ, chỉ có thông tin về số dư nợ của doanh nghiệp tại các Tổ chức tín dụng còn tình hình trả nợ như thế nào thì không có. Thông tin do ngân hàng Công thương Việt Nam cung cấp chỉ có hiệu quả trong trường hợp doanh nghiệp đó đã hoặc đang là khách hàng của Ngân hàng Công thương Việt Nam. Như vậy sau khi ra đời và hoạt đông được ba năm trong một lĩnh vực còn nhiều mới mẻ ở Việt Nam, công ty đã đạy được một số thành tựu đáng kể nhưng đồng thời cũng gặp rất nhiều khó khăn thách cần vượt qua. Công ty cần phải phát huy các thế mạnh, hạn chế các điểm yếu để đạt được nhiều thành tựu hơn nữa. Muốn làm được điều này công ty cần phải có những giải pháp hữu hiệu, dựa vào những nguyên nhân đã phân tích ở trên trong chương ba sẽ trình bày một số giải pháp nhằm thúc đẩy hoạt động kinh doanh tại công ty cho thuê tài chính. Chương III Một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại công ty cho thuê tài chính - NHCTVN I. Định hướng phát triển chung của công ty 1. Mở rộng thị trường cho thuê: Với kinh nghiệm phát triển thị trường của các công ty cho thuê tài chính ở các nước rong khu vực Châu á và định hướng phát triển kinh tê của Nhà nước. Các công ty cho thuê tài chính xác định thị trường cho thuê trong thời gian tới là chỉ nên tập trung vào thị trường cho thuê tài chính đối với động sản và tập trung vào các thị trường sản xuất công nghiệp, đặc biệt là công nghiệp sản xuất sản phẩm xuất khẩu, các thị trường máy móc thiết bị thi công cơ giới, thị trường phương tiện vân tải. Hiện nay môi trường pháp lý cho hoạt động cho thuê tài chính chưa đồng bộ, thị trường buôn bán thiết bị cũ chưa phát triển, công ty chỉ nên cho thuê các loại máy móc thiết bị thông dụng, dễ bán trên thị trường Việt nam, có thời gian sử dụng dài. tài sản cho thuê không nhất thiết phải ở mức hiện đại nhất mà chỉ cần ở mức trung bình tiên tiến so với thế giới và đặc biệt phải phù hợp với năng lực quản lý của doanh nghiệp đi thuê. 2. Mở rộng đối tượng khách hàng thuê.: Hiện nay công ty cho thuê tài chính mới chỉ thực hiện cho thuê đối với khách hàng được thành lập theo các luật: Luật Doanh Nghiệp Nhà nước, luật Công ty, luật Hợp tác xã, luật Đầu tư nước ngoài. trong thực tế ở Việt nam có nhiều tổ chức và cá nhân hoạt động kinh doanh, dịch vụ có nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị và các dự án của họ cũng mang lại hiệu quả kinh tế. Do vậy trong thời gian tới công ty nên mở rộng cho thuê đối với cả các tổ chức và cá nhân có nhu cầu thuê tài chính. 3. Mở rộng các nghiệp vụ cho thuê tài chính: Hiện nay các công ty cho thuê tài chính mới chỉ thực hiện cho thuê với động sản. Các công ty mới chỉ áp dụng một loại hợp đồng như thoả thuận thuê 3 bên, cho thuê vận hành hoặc trả góp. Để phù hợp với điều kiện kinh tế Việt nam, các công ty cho thuê tài chính nên áp dụng nhiều nghiệp vụ khác nhau. II. Những giải pháp nhằm phát triển hoạt động cho thuê tại Công ty cho thuê tài chính - NHCTVN ả Đào tạo về nhân lực, xây dựng một cơ cấu tổ chức hợp lý Đối với một công ty thì bộ máy nhân sự và tổ chức luôn có vau trò quan trọng hàng đầu, đóng một vai trò then chốt trong hoạt động của công ty cũng như sự phát triển của công ty trong tương lai. Sau đây là những giải pháp cơ bản: - Bổ sung kịp thời các cán bộ thẩm định dự án, đặc biệt là cán bộ tín dụng đã qua công tác tại các ngân hàng Đào tạo lại về nghiệp vụ kỹ thuật nghiệp vụ cho thuê tài chính bằng cách. Gửi cán bộ đi đào tạo ở nước ngoài. nếu có điều kiện tổ chức cho đi thực tập ở các công ty cho thuê tài chính phát triển. Thường xuyên tập huấn trao đổi nghiệp vụ giữa các cán bộ trong công ty và các công ty khác. - Cập nhật kiến thức về kinh tế xã hội, định hướng phát triển kinh tế đất nước trợ giúp cho việc thẩm định các dự án xin thuê của các doanh nghiệp. ã Tạo lập nguồn vốn Đối với nguồn vốn của các công ty cho thuê tài chính thuộc các NHTM có thể tổng kết ba vấn đề cơ bản: Hiện tại, chủ yếu sử dụng vốn tự có và vốn vay từ ngân hàng mẹ (lý do chủ yếu là vấn đề đầu ra, không cho thuê được) Chi phí sử dụng vốn tự có quá cao, chỉ có lãi khi tăng doanh số cho thuê vượt quá phần vốn tự có (chỉ có lãi trong phần vốn vay của ngân hàng mẹ) Chi phí sử dụng vốn từ ngân hàng mẹ khá rẻ Các nguồn vốn khác thì hiện tại do nhiều nguyên nhân khách quan và chủ quan nên việc huy động tạm thời chưa có hiệu quả. Tuy nhiên xét trong dài hạn, các nguồn vốn như vay nước ngoài (thuê mua từ các công ty nước ngoài, mua thiết bị trả chậm, phát hành trái phiếu trên thị trường nước ngoài, vay tiền từ các tổ chức tài chính nước ngoài...), phát hành trái phiếu trong nước, huy động tiền gửi tiết kiệm trong dân, vay các tổ chức tín dụng khác trong nước không thể không tính tới. Bởi khi nền kinh tế quay trở lại xu hướng phát triển, các công ty sẽ tăng cường đầu tư, nhu cầu về đổi mới thiết bị sẽ bùng nổ, và thị trường cho thuê tài chính đương nhiên sẽ nhộn nhịp. Các công ty cho thuê tài chính chính vì vậy cần đa dạng hoá nguồn vốn một mặt để có nhiều vốn đáp ứng nhu cầu thuê của khách hàng, mặt khác để giảm chi phí vốn. Đối với công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam thì yếu tố này càng quan trọng vì công ty hiện chuẩn bị mở thêm chi nhánh tại thành phố Hồ Chí Minh cũng như một số thành phố lớn và các khu công nghiệp. Trong phần này, các nguồn vốn mà công ty cho thuê tài chính thuộc các NHTM có thể huy động sẽ được liệt kê, đồng thời chỉ ra một số ưu nhược điểm, cũng như phương thức huy động hiệu quả trong điều kiện nền kinh tế Việt Nam. Vấn đề huy động bao nhiêu tiền từ các nguồn trên thì trong từng hoàn cảnh cụ thể công ty sẽ có các quyết định phù hợp, mục tiêu cuối cùng vẫn là tạo ra một cơ cấu vốn tối ưu và sử dụng hiệu quả nguồn vốn. a. Về huy động vốn trong nước. Thứ nhất là vay vốn từ các tổ chức tín dụng. Nguồn vốn từ ngân hàng mẹ nên được đặc biệt coi trọng, là nguồn được tính đến đầu tiên do có chi phí thấp. Có thể dùng nguồn này trực tiếp tài trợ cho các khách hàng truyền thống, ví dụ đối với công ty cho thuê tài chính - NHCTVN là các Tổng công ty Nhà nước. Thứ hai là việc phát hành trái phiếu trong nước. Việc phát hành trái phiếu sẽ khuếch trương hoạt động của công ty thông qua thị trường chứng khoán một khi nó phát triển. Một khi trái phiếu của công ty được chấp nhận và đánh xếp hạng cao trên thị trường chứng khoán thì sẽ tạo rất nhiều thuận lợi cho công ty. Đáng chú ý là huy động được nguồn vốn cho các dự án với chi phí thấp vì được các nhà đầu đánh giá chứng khoán của công ty có độ rủi ro thấp. Cách phát hành thuận tiện nhất là công ty nhờ ngân hàng mẹ bảo lãnh phát hành. ở đây chi phí vừa rẻ, vừa có thể huy động được nguồn vốn lớn và đúng hạn. Thứ ba là phát hành cổ phiếu Các quy định hiện tại thì chưa cho phép các công ty cho thuê tài chính thành viên của các NHTM được phép phát hành cổ phiếu. Nhưng tại bản dự thảo lần thứ năm Nghị định của Chính phủ về Tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính Việt Nam đã quy định “ Tổng số vốn góp của các Tổ chức tín dụng trong một công ty cho thuê tài chính ít nhất không dưới 51 % vốn điều lệ của Công ty” (Điều 4, mục 3) Nếu công ty cho thuê được phép phát hành trên thị trường chứng khoán thì nên phát hành sau khi giá cổ phiếu tăng vì: + Do tỷ lệ P/E ở mức cao, tức là thị giá cổ phiếu tăng mạnh hơn tốc độ tăng của tỷ suất lợi nhuận ròng. + Do yếu tố tâm lý của công chúng và các nhà đầu tư trên thị trường. Do thị giá tăng, công ty có thể huy động vốn với chi phí rẻ hơn trên thị trường vốn. Như vậy, nếu dự thảo chính thức trở thành Nghị định đồng thời được phép cổ phần hoá thì Công ty có thể phát hành cổ phiếu. Phát hành cổ phiếu có rất nhiều điểm lợi trong đó có thể kể đến những vấn đề cơ bản: để tái cấu trúc bảng cân đối kế toán, để tài trợ cho sự phát triển trong tương lai, để tạo tính thanh khoản cho cổ đông, để có vốn trong tương lai, để có tiền mua sắm tài sản, và để nâng cao sự tín nhiệm của công ty. Đối với các công ty cho thuê tài chính thì vấn đề quan trọng nhất là phát hành cổ phiếu sẽ giúp các công ty có cơ hội mở rộng hoạt động đáp ứng nhu cầu thuê tài sản. Rõ ràng việc các công ty cho thuê tài chính trực thuộc của ngân hàng đều có 55 tỷ VND vốn tự có, tích luỹ hầu như không có do cơ chế thu sử dụng vốn NSNN thiếu hợp lý thì hạn chế rất nhiều hoạt động của công ty. Điều này cũng đồng nghĩa tổng giá trị tài sản cho thuê của công ty đối với một khách hàng tối đa chỉ 16,5 tỷ VND. Thứ tư là huy động tiền tiết kiệm trung và dài hạn từ các tổ chức cá nhân. Trong dự thảo cũng quy định cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của các tổ chức cá nhân khi được Thống đốc NHNN chấp thuận (Điều 18 khoản 1). Tập hợp các khoản tiền gửi tiết kiệm này có ý nghĩa rất lớn khi hoạt động của công ty được mở rộng. Vấn đề ở đây là kỳ hạn, lãi suất huy động và dự trữ hợp lý. Hình ảnh ngân hàng là nơi an toàn để gửi tiền đã rất sâu đậm trong tâm trí của những người dân. Mặt khác, người dân Việt Nam có tâm lý không muốn gửi tiền dài hạn. Do đó, nếu công ty huy động tiền tiết kiệm công ty phải đưa ra một lãi suất đủ cạnh tranh với các NHTM hoặc đưa ra những điều kiện bổ sung hấp dẫn (ví dụ nếu rút trước hạn sau khi đã gửi được một năm thì sẽ được hưởng lãi suất tiền gửi có thời hạn một năm, với các NHTM khách hàng chỉ được nhận lãi suất tiền gửi không kỳ hạn). Kỳ hạn công ty cũng nên để ở những mức như 13, 18, 24 tháng....Đặc biệt với kỳ hạn 13 tháng vừa đảm bảo thực hiện đúng luật vừa thu hút được sự chú ý của người dân vì không quá dài. Một vấn đề quan trọng khác là dự trữ cần thiết để chi trả cho người gửi. Công ty nên trích lấp một quỹ riêng nhưng cần chú ý quỹ này làm tăng chi phí sử dụng vốn. Nói chung trong từng điều kiện vĩ mô và vi mô cụ thể mà công ty có thể có những quyết định cụ thể khác nhau về lãi suất, kỳ hạn,và dự trữ cần thiết. b. Nguồn vốn huy động từ nước ngoài: Trong giai đoạn 2000-2001, lãi suất cho vay bằng ngoại tệ của Việt Nam thuộc nhóm thấp nhất Đông Nam á, vì nền kinh tế Việt Nam bị đánh giá có độ rủi ro cao. Như đã trình bày, nền kinh tế Việt Nam rồi sẽ khôi phục và tiếp tục tăng trưởng như quy luật về chu kỳ kinh doanh. Mặt khác, Việt Nam là một nước đang phát triển nên khi kinh tế tăng trưởng thì lãi suất sẽ phải tăng và cao hơn lãi suất của các nước phát triển (một nền kinh tế khó tăng trưởng nhanh với tỷ lệ lạm phát thấp và khi kinh tế tăng trưởng các nhà đầu tư sẵn sàng chấp nhận lãi suất cao hơn.) Nguồn vốn vay từ nước ngoài của công ty cho thuê tài chính có thể sẽ gồm: Thứ nhất, đối với việc mua thiết bị trả chậm trung dài hạn rồi đem cho thuê, công ty nên cân nhắc để so sánh không chỉ yếu tố lãi suất ẩn mà còn các yếu tố như thời hạn thanh toán đối với người bán thiết bị và thời hạn mà khách hàng trả tiền cho công ty. Công ty cũng nên xem xét việc sử dụng trực tiếp khoản tiền mà khách hàng trả để thanh toán cho nhà cung cấp hay kết hợp trả nhà cung cấp từ nhiều nguồn khác nhau. Với cách làm thứ hai chắc chắn đòi hỏi khả năng quản lý tài chính khá cao. Thứ hai, đối với việc thuê mua rồi cho thuê lại cũng là một vấn đề dễ hiểu. Lý do bởi tại các nước đang phát triển phí cho thuê thường xấp xỉ bằng lãi suất cho vay trung dài hạn. Nếu lãi suất cho vay trung dài hạn của Việt Nam cao tương đối so với lãi suất trung dài hạn của nước ngoài thì việc Công ty cho thuê tài chính thuê mua rồi cho thuê lại là điều hoàn toàn hợp lý. Nói tóm lại, trong thực tiễn công ty sẽ có một cơ cấu vốn hợp lý được xác định bằng hỗn hợp nguồn vốn trong nước và nước ngoài. Cơ cấu vốn có thể thay đổi theo thời gian khi những điều kiện thay đổi, nhưng tại bất kỳ thời điểm nào cho trước, ban quản lý công ty đều có một cơ cấu vốn nhất định và những quyết định tài trợ riêng lẻ phải thích hợp với mục tiêu này. Việc thiết lập cơ cấu vốn tối ưu để làm mục tiêu cho mọi sự tài trợ phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu là rủi ro kinh doanh của công ty, thuế của công ty, khả năng linh hoạt tài chính, sự bảo thủ hay phóng khoáng của nhà quản lý. á Tăng cường hoạt động Marketing Cho thuê tài chính ở Việt Nam hiên nay đã có 9 doanh nghiệp đi vào hoạt động do đó công ty cũng đã bắt đầu phải đối phó với sự cạnh tranh. Đến nay cũng không phải nhiều doanh nghiệp biết đến cho thuê tài chính như một kênh dẫn vốn mới có tiện ích khá hấp dẫn trong từng dự án cụ thể so với chon vay ngân hàng. Do nhiều nguyên nhân khác nhau trong đó một số doanh nghiệp kinh doanh kém hiệu qủa, hướng sản xuất kinh doanh chưa xác định rõ... nên chưa mạnh dạn đầu tư trang bị máy móc thiết bị kỹ thuật cao, hoặc đổi mới năng lực sản xuất, đây là một thực tế khách quan. Mặt khác các doanh nghiệp lớn kinh doanh ổn định, uy tín và có hiệu quả thì đã xác lập mối quan hệ tín dụng tiền gửi với các ngân hàng thương mại truyền thống trên từng địa bàn. Từ thực tế trên một nhiệm vụ quan trọng đặt ra cho công ty phải tích cực chủ động tìm kiếm khách hàng, xâm nhập thị phần của các ngân hàng. Đồng thời tìm hiểu nhu cầu của thị trường để nâng cao chất lượng sản phẩm dịch vụ. Điều đó đòi hỏi phải có một đội ngũ nhân viên vạch ra một chiến lược Marketing cụ thể, sau đó làm công tác quảng cáo, tìm hiểu thị trường nhưng hiện công ty lại chưa có một phòng Maketing để làm nhiệm vụ này. Công ty cần thành lập một bộ phận riêng về vấn đề này để nâng cao sức cạnh tranh của mình. Về vấn đề chiến lược Marketing thì hiên nay để cạnh tranh thì phần lớn các công ty đều cố gắng tạo ra sự khác biệt thông qua mức phí cho thuê hấp dẫn. Điều đó là chưa đủ. Nghiên cứu lý thuyết Marketing thì bán hàng hoá không chỉ đơn thuần có yếu tố giá mà còn 3 yếu tố khác là phân phối, chất lượng hàng hoá và quảng cáo tiếp thị. Đối với yếu tố phân phối thì ở đây có thể hiểu là việc công ty nhằm vào đối tượng khách hàng nào, hay nhằm vào khu vực (kinh tế, địa lý) nào ? Công ty cho thuê tài chính- Ngân hàng Công thương Việt Nam đang mong muốn nhằm vào các Tổng Công ty 90, 91, đặc biệt là các khách hàng truyền thống của ngân hàng mẹ. Trong tương lai, công ty nên tiếp cận với các doanh nghiệp nước ngoài (nếu chia theo tiêu thức sở hữu), hoặc xúc tiến cho thuê đối với các công ty hàng không, tàu biển (nếu phân chia theo tiêu thức lĩnh vực sản xuất kinh doanh). Đối với yếu tố chất lượng hàng hoá, công ty nên nghiên cứu để đảm bảo các dịch vụ liên quan đến hoạt động cho thuê tài chính được đảm bảo với mọi khách hàng ở các khu vực đại lý khác nhau. Ví dụ công ty sẽ giải quyết ra sao nếu khách hàng thuê ở địa chỉ quá xa so với nhà cung cấp (người tiến hành bảo hành). Đối với hoạt động quảng cáo tiếp thị, đây thực sự là vấn đề quan trọng nhất trong giai đoạn hiện nay. Khi rất nhiều người cùng bán một loại hàng hoá thì yếu tố tiếp thị có ảnh hưởng mạnh tới quyết định của người mua (người thuê). Theo ý kiến cá nhân thì công ty nên nghiên cứu mô hình tiếp thị của các công ty bảo hiểm nhân thọ hiện nay. Với quan niệm các nhân viên kinh doanh kiêm tiếp thị là hình ảnh của Công ty, họ không chỉ cần có nội dung (khả năng chuyên môn nghiệp vụ, khả năng giao tiếp...) mà còn cần cả hình thức (những bộ đồng phục lịch sự ấn tượng,...). Bên cạnh đó công ty cũng nên có chế độ khen thưởng bằng vật chất cho các cán bộ năng động trong tìm kiếm khách hàng tốt như thưởng hoa hồng (tỷ lệ phần trăm trên tổng lãi dự tính...). Tất cả vấn đề trên sẽ giúp công ty tăng được doanh số cho thuê. ạ Phát triển thị trường Mở rộng phạm vi thị trường: ở Việt nam hiện nay có 8 công ty cho thuê tài chính trong đó có 3 công ty đóng trụ sở tại Thành phố Hồ Chí Minh, 5 công ty tại Hà nội. Còn các tỉnh và thành phố khác hiện nay chưa có một công ty cho thuê tài chính nào. Qua thực tế hoạt động cho thấy thị trường cho thuê tài chính ở các tỉnh và thành phố khác cũng rất lớn, do vậy muốn phát triển thị trường công ty phải mở rộng màng lưới hoạt động. Trước tiên nên mở một số chi nhánh ở các tỉnh là thành phố lớn có nhiều nhu cầu: Thành phố Hồ Chí Minh, Hà nội, Hải phòng, Đà Nẵng, Quảng Ninh. Còn các tỉnh khác có thể đặt tại các chi nhánh Ngân Hàng. Tăng cường các loại nghiệp vụ cho thuê: Các công ty nên áp dụng linh hoạt các loại hợp đồng cho thuê nhằm đảm bảo đáp ứng nhu cầu kịp thời của người thuê. a. Hợp đồng theo thoả thuận 3 bên: là loại thường chiếm tỷ lệ lớn nhất trong số các hợp đồng cho thuê. Bởi vì sử dụng loại hợp đồng này thực sự tăng năng lực sản xuất của các doanh nghiệp, đáp ứng nhu cầu đổi mới máy móc thiết bị của nền kinh tế, loại hợp đồng này cần được hoàn thiện và phát triển b. Hợp đồng bán và tái thuê: trong thực tế loại hợp đồng này rất cần thiết đối với các doanh nghiệp Việt nam. Bởi lẽ hầu hết máy móc thiết bị đang hoạt động trong các doanh nghiệp là nguồn vốn đi vay Ngân hàng. Việc cho vay trung dài hạn vừa có tỷ lệ rủi ro cao, vừa không có nguồn lại không kinh tế do vậy các Ngân hàng thương mại thường có tâm lý không muốn cho vay trung dài hạn. Do vậy tỷ cho vay trung dài hạn so với tổng dư nợ cho vay thấp chưa đáp ứng đủ nhu cầu đầu tư. có nhiều trường hợp vì tính cấp thiết của dự án trung hạn nhưng hông có nguồn vốn, nên Ngân hàng áp dụng hình thức cho vay ngắn hạn, hoặc nếu cho vay thì thời gian thường ngắn hơn so với thời gian của dự án. Do vậy để trả nợ doanh nghiệp buộc phải lấy vốn lưu động để trả nợ và cũng có rất nhiều doanh nghiệp phải dùng vốn lưu động để mua sắm tài sản cố định. Điều này làm cho các doanh nghiệp thiếu vốn lưu động triền miên gây nhiều ách tắc trong kinh doanh. Nếu công ty cho thuê tài chính mua lại tài sản và tái thuê trong các trường hợp này sẽ bù đắp được phần vốn lưu động cho doanh nghiệp. c. Hợp đồng cho thuê liên kết: Đây là loại hợp đồng có rất nhiều ưu điểm nhưng lại chưa được bất kỳ công ty cho thuê tài chính nào áp dụng tại Việt Nam. Một thực tế là các công ty cho thuê tài chính do mới bước đầu hoạt động vốn tự có đều thấp (thường chỉ vừa đúng bằng vốn pháp định, đối với các công ty Việt Nam là 55 tỷ VND, các công ty nước ngoài, liên doanh khoảng 5 triệu USD). Như vậy tối đa các công ty cũng chỉ có thể cho thuê một dự án có tổng giá trị khoảng từ 16,5 - 21 tỷ VND đối với một khách hàng. Điều này dẫn đến các công ty sẽ bỏ qua những dự án có giá trị lớn cần thuê mua, như các công ty hàng không muốn đổi mới máy bay, các công ty vận tải đường biển muốn thuê mua tàu thuỷ... Mặt khác, trong thực trạng nền kinh tế đang có xu hướng thiểu phát, sẽ rất ít những nhà kinh doanh muốn đầu tư. Tuy nhiên, để đối phó với tình trạng trên, Chính phủ sẽ sử dụng biện pháp tăng đầu tư. Các công ty trong thời điểm hiện tại đều có sức mạnh tương tự nhau (về tài chính, về khả năng chiếm lĩnh thị trường, về sự bảo trợ của các công ty mẹ...) nên khó có thể xảy ra trường hợp một công ty nào đó bị phá sản do cạnh tranh. Điều này có nghĩa cứ với thực trạng thi nhau hạ lãi suất thì các công ty đang “dìm” nhau trong cuộc suy thoái. Sẽ hợp lý nếu các công ty thuộc các NHTM quốc doanh cùng nhau đồng cho thuê cho một dự án. Mỗi ngân hàng hiện có một thế mạnh trong thị phần nhất định. Ngân hàng ĐT&PT VN mạnh trong tài trợ cho các doanh nghiệp thi công xây lắp; Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn mạnh trong lĩnh vực tài trợ cho các dự án nông nghiệp, (đặc biệt hiện nay các trang trại đang có nhu cầu máy móc công nghệ rất lớn); Ngân hàng Công thương mạnh trong tài trợ cho lĩnh vực dự án công nghiệp; Ngân hàng ngoại thương có nhiều khách hàng truyền thống hoạt động xuất nhập khẩu. Việc đồng cho thuê sẽ gồm từ hai thành viên trở lên. Các thành viên góp vốn để đồng cho thuê một dự án với các mức tiền nhất định do các công ty thoả thuận. Khi thực hiện đồng cho thuê với một khách hàng trong một lĩnh vực cụ thể nào đó thì công ty thuộc ngân hàng có kinh nghiệm về lĩnh vực đó nên làm công ty đầu mối. Công ty đầu mối sẽ có các quyền như: Hưởng phí thu xếp trên cơ sở thoả thuận giữa các thành viên đồng cho thuê. Công ty đầu mối cũng có nghĩa vụ: - Dự thảo hợp đồng cho thuê, lấy ý kiến của các thành viên, thay mặt bên đồng cho thuê thảo luận với bên thuê. - Thực hiện mọi nghĩa vụ và quyền lợi của bên đồng cho thuê với bên thuê, cụ thể + Thu hồi vốn gốc và lãi cho thuê, đôn đốc nếu bên cho thuê không chủ động trả nợ. + Thống nhất với các thành viên cho thuê về giải quyết các đề nghị như trả, nợ trước hạn, gia hạn nợ, giảm phí cho thuê.... + Thông báo đầy đủ kết quả kiểm tra sử dụng vốn và các thông tin có liên quan cho các bên, nhằm bàn bạc và thống nhất thực hiện d. Cho thuê vận hành: là loại cho thuê mang lại hiệu quả kinh tế lớn, nhưng hiện nay các công ty cho thuê tài chính chưa nên thực hiên hình thức này vì yêu cầu của loại hợp đồng này công ty phải có đội nhũ kỹ thuật chuyên nghành, có kho tàng bến bãi. Các công ty nên áp dụng hình thức kiên doanh liên kết với một nhà sản xuất hoặc nhà cung cấp máy móc thiết bị để thực hiện cho thuê vận hành. Sau này công ty đã đi vào ổn định thì có thể thực hiện cho thuê vận hành một cách rộng rãi. º Các biện pháp phòng ngừa rủi ro: Tài trợ bằng hình thức cho thuê có độ an toàn cao so với hình thức cho vay trung dài hạn của Ngân hàng. Tuy nhiên bất kể lĩnh vực đầu tư cũng đều có rủi ro, đặc biệt là nghiệp vụ cho thuê tài chính còn mới mẻ đối với Việt nam, do vậy việc đưa ra các biện pháp phòng ngừa rủi ro trong hoạt động cho thuê tài chính nhằm giúp cho thị trường của công ty phát triển một cách vững chắc. Lựa chọn khách hàng: Để có điều kiện thẩm định chính xác khách hàng và phối hợp thu tiền thuê được dễ dàng. Thời gian đầu công ty nên lựa chọn các khách hàng truyền thống tại các ngân hàng chủ quản của mình. Nghiêm túc thực hiện nghiệp vụ qui trình cho thuê tài chính. Nội dung của hợp đồng cho thuê thiết bị, hợp đồng cho thuê phải chặt chẽ, đúng luật pháp, đảm bảo quyền lợi bên cho thuê. Thẩm định dự án: Muốn phòng ngừa hậu quả rủi ro trong cho thuê tài chính thì công tác thẩm định xét duyệt là hết sức quan trọng. Yêu cầu của công tác này là phải xem xét đánh giá toàn diện các vấn đề chủ yếu về hai phương diện: - Đánh giá đầy đủ về người đi thuê, cần xem xét một số mặt: tư cách pháp nhân, khả năng tài chính, lĩnh vực hoạt động của khách hàng. - Thẩm định tài sản và dự án cho thuê: trong hoạt động của cho thuê tài chính, việc lựa chọn và định giá tài sản thuộc quyền và trách nhiệm của người đi thuê. Nhưng với tư cách là nhà tài trợ chính, bên cho thuê không thể không xem xét kỹ lưỡng hiệu quả và tài sản của dự án cho thuê. Cần chú ý một số vấn đề: tính pháp lý của tài sản, chất lượng, trình độ công nghệ, kỹ thuật của tài sản, giá cả, năng lực sử dụng, vận hành, xu hướng sử dụng trong tương lai Yêu cầu được thế chấp hoặc bảo lãnh bằng tài sản của người thứ 3 đối với khách hàng thuê chưa thạat mạnh về khả năng tài chính, hoạt động kinh doanh còn chứa đựng nhiều yếu tố rủi ro. Mua bảo hiểm tài sản cho thuê. Tuỳ theo từng loại tài sản mà lựa chon hình thức bảo hiểm thích hợp. Ràng buộc nhà cung cấp trong hợp đồng mua bán thiết bị bằng biện pháp bảo hành, hoặc yêu cầu họ mua lại tài sản khi hợp đồng cho thuê hết hạn. Đối với các tài sản tốc độ lỗi thời cao cần xác định thời gian thuê phù hợp, thu hồi vốn nhanh. Theo dõi chặt chẽ hoạt động sản xuất kinh doanh của khách hàng. Thực hiện công tác thông tin phòng ngừa rủi ro nhằm phát hiện khả năng mất an toàn vốn và tài sản để có biện pháp xử lý kịp thời. Liên kết các công ty cho thuê tài chính khác để đồng tài trợ trong những dự án lớn nhằm phân tán rủi ro. II. Một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện thực hiện các giải pháp đề ra 1. Kiến nghị với Chính Phủ Kinh nghiệm cho thuê từ các nước trong khu vực Châu á cho thấy thị trường cho thuê tài chính muốn phát triển thì nhà nước cần phải tạo hành lang pháp lý ổn định và có chính sách ưu đãi đối với hoạt động này. Trước hết Nghị định 64/CP của Chính phủ ban hành ngày 9/10/1996 cần phải sửa đổi để phù hợp với luật các Tổ chức tín dụng. Nội dung cần sửa nên mở rộng thị trường của các Công ty cho thuê tài chính và trong nghị định cần nêu rõ trách nhiệm của các bộ có liên quan chịu trách nhiệm hướng dẫn thi hành nghị định này: Nên mở rộng đối tượng cho thuê: Theo nghị định 64/CP đối tượng cho thuê là các doanh nghiệp nhưng thực tế ở Việt Nam khái niệm “ doanh nghiệp ” chưa có văn bản pháp luật nào qui định tổ chức nào được gọi là doanh nghiệp, trong nghị định cũng không giải thích doanh nghiệp là những tổ chức nào. Vì vậy để tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính hoạt động đúng luật và thực sự thúc đẩy sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá nền kinh tế: Nghị định mới nên sửa đổi: “ Đối tượng cho thuê là các tổ chức và cá nhân hoạt động kinh doanh theo pháp luật Việt Nam ” Nên mở rộng thị trường cho công ty cho thuê tài chính. Ngoài hoạt động cho thuê tài chính, công ty có thể cho thuê vận hành và hoạt động trả góp. Trong cho thuê tài chính theo nghị định 64/CP mới chỉ qui định Công ty chỉ thực hiện hợp đồng theo hoạt động cho thuê 3 bên, còn các loại hợp đồng khác như bán và tái thuê, cho thuê liên kết thì chưa qui định. Như đã phân tích ở trên hợp đồng loại này trong giai đoạn hiện nay là rất cần thiết. Quy định về việc cho thuê một khách hàng: Theo nghị định 64/CP “ Tổng giá trị với tài sản cho thuê không được vượt quá 30% vốn tự có. Trường hợp vượt mức phải được thống đốc NHNN chấp thuận ” mà giá trị của một khoản thuê thường tương đối lớn. Như chúng ta đã biết, mức độ rủi ro của cho thuê thấp hơn so với hoạt động cho vay của Ngân hàng. Trong khi mức cho vay một khách hàng qui định không quá 10% vốn tự có. Mặt khác các hợp đồng cho thuê tài chính khách hàng thường trả ngay một phần giá trị tài sản thuê. Do vậy cần qui định lại “ Tổng giá trị cho thuê đối với một khách hàng không vượt quá 10% vốn tự có của công ty”. Các qui định liên quan đến xuất nhập khẩu: Trong thời gian hoạt động thực tiễn vừa qua, các công ty tài chính do chưa quen đã gặp rất nhiều khó khăn trong hoạt động xuất nhập khẩu máy móc thiết bị thuê. Thường việc nhập khẩu phải thông qua uỷ thác hoặc mua lại của các đơn vị kinh doanh xuất nhập khẩu nên làm tăng chi phí cho thuê và không chủ động cho các công ty cho thuê tài chính. Để tháo gỡ khó khăn này cho cac công ty cho thuê tài chính cần có qui định cụ thể về việc nhập, xuất khẩu tàu sản cho thuê theo hướng cho phép các công ty cho thuê tài chính được nhập khẩu trực tiếp tài sản cho thuê cũng như trách nhiệm hướng dẫn của các cơ quan quản lý đối với hoạt động này. Các qui định về đăng ký sở hữu đối với tài sản thuê: Việt Nam nên lập ra một hình thức đăng ký sở hữu riêng biệt cho tất cả các tài sản đi thuê tài chính. Mọi tài sản cho thuê đều được đăng ký sở hữu, điều này đảm bảo quyền lợi của người cho thuê là có thể lấy lại tài sản một cách dễ dàng khi người đi thuê không thực hiện đúng cam kết trong hợp đồng, đồng thời cũng giúp người đi thuê sử dụng tài sản thuê thuận lợi hơn trong việc xin cấp các lọi giấy phép lưu hành. Tạo lập nguồn vốn hoạt động cho các công ty cho thuê tài chính: Muốn tăng sức cạnh tranh trên thị trường, các công ty cho thuê tài chính phải tạo lập nguồn vốn đầu vào với mức lãi suất thấp. Do đó cần có qui định mở ra và tạo điều kiện hỗ trợ cho các công ty cho thuê tài chính tạo lập nguồn vốn kinh doanh từ các nguồn: + Chiết khấu tại ngân hàng Nhà nước với mức lãi suất hợp lý + Được sử dụng nguồn vốn từ các hiệp định khung mà các Ngân hàng thương mại đã ký với một số nước như Đức, Thụy Sĩ, Hàn Quốc..... + Nhận vốn uỷ thác từ các tổ quốc tế tài trợ cho các doanh nghiệp + Vay trực tiếp nước ngoài hoặc mua máy móc thiết bị trả chậm để cho các doanh nghiệp thuê. - Xây dựng các trung tâm giám định theo chuẩn mực quốc gia. Hiện nay có rất nhiều các tổ chức đứng ra thành lập các công ty kiểm tra, giám định máy móc. Do nhiều lý do khác nhau các giấy chứng nhận không phản ánh đúng sự thật gây ra rủi ra khi công ty cho thuê tài chính bỏ tiền ra mua máy móc thiết bị. Vì vậy nhà nước cần thành lập ra một công ty, một tổ chức giám định chất lượng chuẩn mực quốc gia với đầy đủ trình độ năng lực, máy móc thiết bị. 2. Kiến nghị Ngân hàng Nhà nước - Trong phần phân tích nguyên nhân của những hạn chế đã nêu, một trong những khó khăn của các công ty cho thuê tài chính khi nhập khẩu máy móc thiết bị nhưng lại không được thu tiền bằng ngoại tê. Rủi ro chủ yếu trong trường hợp này là rủi ro tỷ giá. Kiến nghị NHNN nên cho phép các công ty cho thuê tài chính được tiến hành thu nợ bằng ngoại tệ. Điều này hoàn toàn không trái pháp luật. Căn cứ vàp nghị định 88 CP ngày 17/8/1999 về quản lý ngoại hối, tại điều 21,23 có quy định các tổ chức tín dụng có thể được NHNN cấp giấy phép hoạt động ngoại hối nếu thoả mãn các điều kiện: + Có đủ trang thiết bị và điều kiện vật chất để đấp ứng các hoạt động ngoại hối. + Có người điều hành, nhân viên am hiểu hoạt động ngoại hối và có khả năng thực hiện các hoạt động ngoại hối. + Có khả năng thực hiện các nghiệp vụ thanh toán quốc tế và tín dụng quốc tế. Là một tổ chức tín dụng phi ngân hàng, các công ty cho thuê tài chính hoàn toàn có thể được xây dựng đáp ứng đủ các tiêu chuẩn trên. Mặt khác, xét về bản chất, cho thuê tài chính là một hình thức tín dụng trung dài hạn, do đó nếu việc cho vay được phép thì cho thuê cũng có thể được thu hồi nợ bằng ngoại tệ hoặc VND theo thoả thuận giữa bên thuê và bên cho thuê. Ngân hàng Nhà nước nên thành lập Hiệp hội cho thuê tài chính với những chức năng cơ bản là + Khuyến khích hoạt động cho thuê tài chính, tổ chức các cuộc hội thảo để cung cấp cho các thành viên những kinh nghiệm trong nước và quốc tế. + Phổ biến những chính sách luật pháp, những qui định về cho thuê tài chính, là cầu nối với chính phủ, NHNN, Bộ tài chính để đề nghị gải quyết những khó khăn vướng mắc trong cơ chế chính sách. + Tổ chức các cuộc hội nghị, làm chức năng giới thiệu, liên kết với giữa công ty cho thuê tài chính với các nhà cung cấp máy móc thiết bị uy tín trong và ngoài nước. 3. Kiến nghị Bộ tài chính Các qui định về thuế rất quan trọng đối với bất lỳ một loại hình doanh nghiệp nào. Để cho các công ty cho thuê tài chính phát triển tương xứng với tiềm năng của nó thì ban đầu cần cho nó một chính sách thuế ưu đãi hay nới lỏng - Thuế suất sử dụng vốn: Thu sử dụng vốn cần bảo đảm lợi ích cho các công ty cho thuê tài chính thuộc sở hữu của Nhà nước. Phần thực trạng đã chỉ ra những bất hợp lý của việc thu sử dụng vốn đối với các công ty cho thuê tài chính. Tựu trung lại là việc thu sử dụng vốn hiện nay chưa khoa học, không phù hợp với tình hình thực tế, làm hạn chế khả năng phát triển của các công ty cho thuê tài chính. Tuy nhiên cũng phải nói rằng hiện nay có rất nhiều quan điểm khác nhau và đang tranh cãi về thu sử vốn NSNN. Dưới đây chỉ là một quan điểm mà theo ý kiến cá nhân là tương đối phù hợp Coi thu sử dụng vốn là khoản thu từ lợi nhuận do việc sử dụng vốn mang lại, do đó khoản thu này được thu từ lợi nhuận sau thuế (giống tinh thần của Nghị định 59 CP ngày 3/10/1997 và Nghị định 27CP ngày 20/4/2000). Như vậy, do là khoản thu từ kết quả kinh doanh nên thu sử dụng vốn được thực hiện qua quá trình phân phối lợi nhuận. Nhà nước cấp vốn thì Nhà nước có toàn quyền thu lợi nhuận sau thuế như bất kỳ chủ sở hữu nào. Điều này tương tự như các chủ sở hữu thu cổ tức khi đầu tư vào các công ty cổ phần.Tuy nhiên vướng mắc ở chỗ mức thu. Như phần trên đã trình bày, tỷ lệ 6%/năm tính trên vốn tự có là quá cao, khiến cho các công ty cho thuê tài chính không còn vốn tích luỹ mở rộng quy mô hoạt động, vô hình chung đã trói buộc sự phát triển của nghiệp vụ cho thuê tài chính. Theo ý kiến của cá nhân, Nhà nước nên xem xét việc thu sử dụng vốn giống như các cổ đông nhìn nhận việc thu cổ tức. Nói cách khác, Nhà nước không nhất thiết phải thu theo tỷ lệ cố định và cũng có thể không thu sử dụng vốn NSNN. Đầu tiên, việc thu sử dụng vốn hiện nay cố định cho mọi doanh nghiệp cùng lĩnh vực kinh doanh, trong mọi thời gian là rất bất hợp lý. Trong từng thời gian khác nhau của chu kỳ kinh doanh thì hoạt động của doanh nghiệp cũng sẽ có kết quả không giống nhau. Cùng một lĩnh vực kinh doanh nhưng không phải mọi doanh nghiệp đều có thể tạo ra kết quả lợi nhuận như nhau. Ví dụ, nếu trong tương lai công ty cho thuê tài chính Ngân hàng Nông nghiệp được cho thuê các hộ nông dân, nhưng do thiên tai làm các hộ nông dân tạm thời không trả được tiền thuê thì rõ ràng lợi nhuận của công ty cho thuê tài chính ngân hàng Nông nghiệp không thể cao bằng các công ty cho thuê tài chính khác được. Để khắc phục nhược điểm trên, Nhà nước nên để cho Hội đồng quản trị của các DNNN quyết định mức thu sử dụng vốn. Nếu thuộc mô hình không có Hội đồng quản trị thì Nhà nước có thể giao cho một cơ quan xem xét. Việc thu sử dụng vốn nên được nhìn nhận giống như các cổ đông đối với cổ tức. Nghĩa là việc mức thu sử dụng vốn sẽ được tiến hành tính toán trong từng năm với từng doanh nghiệp. Mức thu đối với công ty cho thuê tài chính có thể dựa trên một số yếu tố như + Tỷ suất lợi nhuận sau thuế của từng nghành + Các yếu tố vĩ mô (lãi suất, tỷ lệ lạm phát, tỷ lệ tăng trưởng kinh tế) + Các yếu tố vi mô (thực trạng tình hình cho thuê của công ty ) Vấn đề thứ hai là việc có thể không thu sử dụng vốn NSNN. Có thể nhiều người sẽ phản đối ý kiến này vì cho rằng việc thu sử dụng vốn là điều cần làm để đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của doanh nghiệp Nhà nước. Tuy nhiên nếu xem xét về bản chất thì vấn đề này giống việc các cổ đông không nhận cổ tức mà tiếp tục đầu tư vào việc phát triển công ty. Nhà nước rõ ràng có thể không thu sử dụng vốn để các doanh nghiệp Nhà nước có thể sử dụng vốn này tiếp tục đầu tư mở rộng hoạt động, tạo lợi nhuận lớn hơn trong những năm sau. Tất nhiên, đây không phải là nguồn lực miễn phí mà sẽ được tính toán tương tự như chi phí đối với lợi nhuận không chia của các công ty cổ phần, tức là tỷ lệ mà Nhà nước yêu cầu đối với số vốn mà công ty cần đạt được bằng lợi nhuận không chia. Trong thời gian đầu Nhà nước nên xem xét không thu thuế sử dụng vốn để tạo điều kiện cho các công ty cho thuê tài chính phát triển. - Thuế thu nhập doanh nghiệp: Công ty cho thuê tài chính nên được hưởng ưu đãi về thuế thu nhập doanh nghiệp dựa trên một số vấn đề sau: Một là, trong luật khuyến khích đầu từ trong nước có quy định trường hợp được hưởng giảm thuế thu nhập doanh nghiệp là: + Đầu tư mua sắm thiết bị phục vụ xây dựng công trình; đầu tư xây dựng các khu thương mại, các siêu thị, các loại nhà phục vụ nhu cầu của nhân dân các thành phố và đô thị. + Đầu tư thành lập phân xưởng sản xuất mới, lắp đặt dây thêm máy móc vào dây truyền sản xuất hiện có, lắp đặt máy móc thiết bị mới thay thế cho toàn bộ máy móc thiết bị hiện có,.... Nếu xem xét hoạt động của các công ty cho thuê tài chính thì hầu hết đều đang làm những công việc trên. Về cơ bản, hiện nay các doanh nghiệp hiện coi cho thuê tài chính như phương thức tài trợ cuối cùng khi không còn huy động được nguồn nào khác. Chính vì vậy các Công ty cho thuê tài chính đã đóng góp một phần rất lớn trong việc đổi mới nâng cao trình độ công nghệ trong các doanh nghiệp Việt Nam. Hai là, các công ty cho thuê tài chính theo quan điểm xem xét gần giống một ngân hàng phát triển, là chiếc cầu nối chuyển giao công nghệ, gián tiếp tạo ra sự đổi mới công nghệ nên cũng xứng đáng được hưởng mức thuế ưu đãi như các doanh nghiệp trực tiếp đổi mới công nghệ. ít nhất thì cũng phải được hưởng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi trên phần lợi nhuận tạo ra từ việc cho thuê các máy móc thiết bị được đánh giá là tạo ra sự đổi mới công nghệ. Kiến nghị Bộ tài chính nên miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp cho các công ty cho thuê tài chính trong một số năm đầu hoạt động (rất nhiều nước áp dụng), và cho phép các công ty được áp dụng mức thuế thu nhập doanh nghiệp ưu đãi đối với phần lợi nhuận tạo ra từ những tài sản được đánh giá là tạo ra sự đổi mới công nghệ. Kết luận Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng công thương Việt Nam ra đời là một trong những giải pháp hữu hiệu nhằm khắc phục những hạn chế của cơ chế đầu tư trong thời gian qua, góp phần tháo gỡ các khó khăn trong đầu tư vốn cho các doanh nghiệp nhằm đổi mới máy móc thiết bị vì sự nghiệp Công nghiệp hoá - Hiện đại hoá đất nước. Tuy nhiên hoạt động cho thuê tài chính ở Việt Nam còn rất mới mẻ và sơ khai, vẫn còn nhiều vấn đề đặt ra cần phải giải quyết. Việc đi sâu nghiên cứu mọi hoạt động của nó sẽ hoàn thiện hơn trên cả góc độ lý luận và thực tiễn. Với việc vận dụng các phương pháp nghiên cứu khoa học, bám sát mục tiêu, phạm vi nghiên cứu chuyên đề đã hoàn thành các nhiệm vụ đặt ra: 1. Nêu ra những quan điểm về tên gọi, khái niệm, đặc điểm, phân loại của cho thuê tài chính và công ty cho thuê tài chính, từ đó đưa ra những ý kiến riêng của tác giả 2. Phân tích việc phát triển hoạt động cho thuê của các công ty nước ngoài, từ đó rút ra kinh nghiệm cho Việt Nam. 3. Đưa ra bức tranh toàn cảnh về môi trường kinh doanh của các công ty cho thuê tài chính ở Việt Nam, dự báo tiềm năng của thị trường cho thuê tài chính trong tương lai. 5. Phân tích thực hoạt động kinh doanh của Công ty cho thuê tài chính - Ngân hàng Công thương Việt Nam, qua đó nêu lên những thuận lợi, khó khăn để có biện pháp trong giai đoạn tới. 6. Trên cơ sở các lý luận cơ bản, thực trạng môi trường kinh doanh, thực trạng hoạt động của Công ty cho thuê tài chính NHCTVN, các giải pháp mang tính thực tiễn cũng như các giải pháp dài hạn được đưa ra. 7. Nêu lên một số kiến nghị nhằm tạo điều kiện hoàn thiện hoạt động của các công ty cho thuê tài chính. “Khoa học không có điểm cuối cùng”. Những vấn đề lý luận và thực tiễn về hoạt động của các công ty cho thuê tài chính còn rất mới mẻ ở Việt Nam. Tuy đã có những cố gắng nhất định, nhưng nhiều vấn đề vẫn chưa được làm sáng tỏ, đòi hỏi phải có sự nghiên cứu ở trình độ cao hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docL0010.doc
Tài liệu liên quan