Khóa luận Một số biện pháp thúc đẩy phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam

CNTT hiện là ngành được đào tạo ở nhiều trường nhất. Về số lượng , có gần 250 cơ sở đào tạo nhân lực CNTT từ trung cấp hoặc tương đương trở lên, số trường đại học có đào tạo cử nhân CNTT tăng từ 52 trường ( tháng 7/2001) lên 55 trường ( tháng 7/2002) tăng 5,7% so với con số tăng 24% trong năm 2001. Số các trung tâm đào tạo CNTT phi chính quy tăng từ 9 (năm 2000) lên 18 ( 2001) và 35 ( 2002), trong số đó các trung tâm Aptech chiếm 25% với số lượng 9 trung tâm. Sinh viên có thể có tấm bằng cử nhân CNTT với nhiều tên gọi khác nhau: Cử nhân tin học, cử nhân tin học quản lý, cử nhân tin học xây dựng Về thựu tế, việc đào tạo chuyên ngành này sẽ giúp có được đội ngũ cán bộ tin học ứng dụng hiệu quả . Tuy nhiên, về chất lượng thì còn phải bàn lại vì không ít các trường lập khoa CNTT như một căn bệnh “phong trào”. Các cơ sở đào tạo đã vượt nhu cầu nhân lực về số lượng khả năng vài năm tới các trường ồ ạt tung ra hàng loạt chuyên viên CNTT chất lượng thấp là điều có thể nhìn thấy trước, nhưng trong bối cảnh đó , các cơ sở đào tạo chất lượng cao sẽ càng khẳng định được vai trò của mình đối với học sinh/sinh viên và nhà tuyển dụng qua sự khác biệt về chất lượng đầu ra. Quản lý nhà nước về đào tạo CNTT còn những bất cập như chưa thống nhất tên gọi ngành học , chương trình và nội dung đào tạo cho từng trình độ, chưa có tiêu chí chung về các điều kiện đảm bảo chất lượng về nội dung chương trình và trình độ của các chứng chỉ đào tạo tại các trung tâm đào tạo , bồi dưỡng tin học ở ngoài nhà trường. Từ thực tế trên cho thấy Nhà nước cần phải có chính sách hữu hiệu ngay từ bây giờ. Thứ nhất: Đào tạo chuyên gia CNTT. * Các khoa CNTT trọng điểm đã được sự đầu tư của Nhà nước cần mở rộng lớp đào tạo chuyên gia phần cứng và phần mềm để có thể tránh sự thiếu hụt . * Dần dần từng bước xây dựng hạ tầng CNTT vững chắc, tạo thuận lợi cho chuyên gia phần mềm có điều kiện phát huy. * Có chính sách tập hợp các chuyên gia tin học toàn quốc nhằm lập ra các đề án phát triển lớn , qui mô; phải có chính sách kinh tế thu hút họ lại. *Song song với việc đào tạo trong nước, cần mở rộng cho nghiên cứa tại nước ngoài. Nhưng nhất thiết phải có chính sách và cam kết đòi hỏi những người đi du học trở lại Việt Nam làm việc để tránh tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay. Thứ hai: Liên kết với các tổ chức nước ngoài về đào tạo tin học cho TMĐT. - Tham gia các hội thảo của khu vực ASEAN cùng học hỏi kinh nghiệm . - Tranh thủ vốn đầu tư, liên doanh từ bên ngoài cùng với khoa học công nghệ từ phía nước ngoài. - Tìm kiếm nguồn tư liệu mới từ nước ngoài biên dịch phổ biến ngay. - Tập hợp các chuyên gia trong và ngoài nước xây dựng và cập nhật giáo trình đào tạo phù hợp với điều kiện Việt Nam. Thứ ba: Với dân chúng. - Có chương trình đào tạo tin học về tận các trường phổ thông. Cần có vốn để đầu tư trang thiết bị đảm bảo điều kiện dạy và học tin học để phát triển đồng bộ . - Đào tạo tin học cho mọi ngừơi không chỉ dừng lại ở bước đào tạo văn bản mà cần phải dạy cả ngôn ngữ lập trình. - Liên tục có các hội thảo và các cuộc thi nhằm nâng cao tầm hiểu biết và phát huy sáng tạo cho tin học nước nhà.

doc98 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1630 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số biện pháp thúc đẩy phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
y, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng có sự tham gia của 19 ngân hàng, trong đó có 13 ngân hàng thương mại với 82 chi nhánh kết nối trực tiếp (theo Hồng Phúc - VASC Orient ). Từ nay đến hết năm 2002, tất cả các chi nhánh của các Ngân hàng Thương mại trên địa bàn Hà Nội và Thành Phố Hồ Chí Minh sẽ thực hiện kết nối với hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng của ngành ngân hàng Nhà nước. Dự kiến đến năm 2004 hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng sẽ được “phủ sóng” trên toàn quốc. Những hạn chế của hệ thống cũ như đáp ứng được yêu cầu giảm lượng vốn trôi nổi, tập trung vốn dự trữ, tạo điều kiện thuận lợi để Ngân hàng Nhà nước kiểm soát các nguồn vốn, tăng tốc độ vòng quay đồng tiền và thoả mãn yêu cầu thanh toán, dịch vụ ngân hàng hiện đại. Đối với hệ thống ngân hàng Việt Nam và nền kinh tế nói chung, chúng ta đang thúc đẩy quá trình hội nhập với nền kinh tế toàn cầu, thực hiện các cam kết của Chính phủ thì việc nghiên cứu và triển khai dự án TMĐT đặc biệt quan trọng vì trong lĩnh vực, chúng ta muốn nắm lấy cơ hội và nâng cao hiệu quả kinh doanh để đủ sức cạnh tranh thì cần triển khai sớm dự án thanh toán điện tử. Riêng đối với lĩnh vực ngân hàng thương mại thì đây không chỉ là con đường tất yếu mà có thể nói là con đường duy nhất để theo kịp các hoạt động Ngân hàng quốc tế, quốc gia nào áp dụng các hình thức giao dịch TMĐT càng nhiều với trình độ càng cao thì nước đó càng có lợi thế phát triển và trở thành người dẫn đầu trong một nền kinh tế số hoá. Có thể nói, hoạt động TMĐT ở Việt nam tuy mới được triển khai trong vài năm trở lại đây nhưng đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ. Tuy nhiên, trong thời gian tới việc phát triển TMĐT ở Việt nam sẽ còn gặp nhiều khó khăn trở ngại. Đó là những trở ngại do nhận thức của doanh nghiệp về TMĐT chưa được đầy đủ; nhân lực cho thương mại điện tử thiếu, chuyên gia tin học của Việt nam chưa đáp ứng nhu cầu thị trường phát triển phần mềm trong nước; Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông nước ta chưa thực sự phát triển; Hệ thống pháp lý cho TMĐT còn đang trong quá trình xây dựng; hệ thống thông tin điện tử của các ngân hàng Việt nam chưa phát triển đầy đủ để đáp ứng yêu cầu của TMĐT; Các tổ chức cung cấp các dịch vụ cho TMĐT vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu. Để triển khai tốt TMĐT, Việt nam cần có cơ sở hạ tầng pháp lý đầy đủ, bộ máy tổ chức cung cấp dịch vụ chuyên trách TMĐT, chính sách ưu đãi thuế và các thủ tục thuận tiện cho giao dịch TMĐT . 4) Dự báo nhân tố ảnh hưởng đến phát triển TMĐT ở Việt Nam: Việc ý thức được tầm quan trọng của TMĐT và xây dựng những chiến lược phù hợp để phát triển hoạt động TMĐT chính là một trong những giải pháp quan trọng để Việt Nam chúng ta từng bước phát triển kinh tế, từng bước rút ngắn khoảng cách về mọi mặt đối với các nước phát triển. Song một chiến lược phù hợp không thể không tính đến những diễn biến tương lai. Việc nhìn nhận và dự báo những thuận lợi và khó khăn để phát triển TMĐT là hết sức cần thiết để từ đó đề ra phương hướng ứng dụng thích hợp. Phần này khóa luận sẽ trình bày một số nhận định về thuận lợi và khó khăn có thể có trong điều kiện ở nước ta vào thời gian tới. 4.1 Dự báo những thuận lợi: Trong tương lai, cùng với tốc độ phát triển rất nhanh của công nghệ thông tin, tin học, khả năng cuộc sống sinh hoạt của con người chuyển sang một giai đoạn mới, CNTT sẽ còn phát triển với một số tốc độ nhanh chóng không thể dự báo trước. Điều này rõ ràng là một thuận lợi lớn nếu như nước ta kịp thời, nhanh nhạy nắm bắt được xu hướng và áp dụng những biện pháp cần thiết nâng đỡ phát triển hình thức thương mại này. Song đó cũng là một thách thức bởi vì rất có thể chúng ta lại gia tăng khoảng cách với các quốc gia khác. Hiện tại chúng ta có thể chứng kiến vấn đề này từ một nước anh em Singapore. Ngay từ giai đoạn đầu, Chính phủ nước này đã nhanh chóng nhìn nhận vấn đề và cho tới nay Singapore đã chuẩn bị tươm tất hành trang để bước vào kỷ nguyên nền kinh tế Internet và thương mại điện tử. Một trong những thuận lợi mà chúng ta có thể dự báo, cần phải nhận thấy, và nắm bắt đó là: “Xu hướng toàn cầu hóa”. Nếu chúng ta nhìn nhận vấn đề này một cách sâu sắc thì sẽ thấy được tầm quan trọng của phát triển thương mại điện tử. Internet ra đời, cùng với nó là thương mại điện tử, là một trong những công cụ phục vụ đắc lực cho nước ta tham gia một cách mạnh mẽ hơn vào quá trình toàn cầu hoá và phân công lao động quốc tế một cách dễ dàng hơn. Nhờ thương mại điện tử, các nước nhỏ, doanh nghiệp với điều kiện nước ta có thể tham gia vào thương mại quốc tế không còn khó khăn như trước đây. Sự giúp đỡ và cộng tác từ khu vực, từ các tổ chức quốc tế cũng có thể là một thuận lợi trong tương lai mà chúng ta có thể khai thác. Nếu trong khu vực chúng ta vốn được coi là một khu vực kinh tế năng động nhất thế giới, thì trong giai đoạn bước vào nền kinh tế toàn cầu Internet, ASEAN cũng đã khẳng định được mình. Nhiều nước trong khu vực đã đạt được những kết quả rất đáng khâm phục về thương mại điện tử Singapore đã được cả thế giới biết đến. Vì vậy, chúng ta có thể học tập, dựa vào họ và kêu gọi sự giúp đỡ phát triển thương mại điện tử từ các nước khu vực. Các chương trình về thương mại điện tử mà khu vực đã, đang và sẽ tiến hành, chúng ta có thể tham gia một cách tích cực và cùng với các nước đề ra các phương hướng phát triển thương mại điện tử cho cả khối. Sự hợp tác mạnh mẽ sẽ giúp chúng ta có thể tiết kiệm được cả nhân lực và đầu tư cho thương mại điện tử. Kinh nghiệm này có thể học tập từ các nước EU, toàn khối này đã có những chương trình phát triển thương mại điện tử chung một cách có hiệu quả. Xét về nguồn lực trong nước: Tính cần cù và thông minh của dân tộc Việt Nam bộc lộ rất rõ trong lĩnh vực toán và tin học. Việc phát triển các phần mềm tin học, công nghệ mạng và thương mại điện tử chắc sẽ là sở trường của chúng ta. Khuynh hướng này chắc chắn sẽ bộc lộ rõ hơn trong vài năm tới, khi chúng ta hoà nhập với thế giới mạnh hơn trong lĩnh vực này. Có một cơ sở đội ngũ tin học vững chắc, công nghệ thông tin mạnh sẽ là một lợi thế lớn cho phát triển thương mại điện tử nước ta. Trước xu thế ứng dụng mạnh mẽ của thương mại điện tử của các nước trong khu vực và trên thế giới, Nhà nước ta chắc chắn sẽ ngày càng cởi mở hơn, hỗ trợ mạnh mẽ hơn cho khu vực Internet và thương mại điện tử. Các doanh nghiệp có thể nhận được những khuyến khích ưu đãi từ Nhà nước về việc triển khai chiến lược kinh doanh điện tử. Chi phí truy cập Internet, cước điện thoại chắc chắn sẽ còn tiếp tục giảm xuống, điều này sẽ tạo ra lợi nhuận nhiều hơn cho doanh nghiệp. Số người truy cập Internet tăng lên sẽ tạo ra dung lượng thị trường tiêu thụ ảo lớn hơn, các doanh nghiệp có khả năng tăng lượng hàng hoá tiêu thụ qua Internet không chỉ ở nước ngoài mà ngay tại trong nước. Khung pháp lý về thương mại điện tử rồi sẽ được hình thành, các giao dịch điện tử, chứng từ điện tử, chữ ký điện tử sẽ đựơc thừa nhận giá trị pháp lý. Môi trường hoạt động cho thương mại điện tử sẽ được pháp luật bảo vệ. Điều này chắc chắn sẽ tạo nhiều thuận lợi và làm cho thương mại điện tử ngày càng tăng lên ở nước ta. Trang bị kỹ thuật ngày càng được hoàn thiện hơn. Ngành công nghệ thông tin nước ta rõ ràng trong những năm gần đây đã đạt được sự tăng trưởng mạnh mẽ. Xu hướng này chắc chắn sẽ còn tiếp tục trong nhứng năm tới, trong xu thế hợp tác, hội nhập, đầu tư quốc tế như hiện nay. Hành trang kỹ thuật hoàn thiện hơn trong tương lai sẽ tạo dễ dàng hơn cho thương mại diện tử. 4.2 Dự báo những khó khăn. Ngoài những khó khăn mà thương mại điện tử Việt Nam đã gặp phải, đã bộc lộ trong thực tiễn ứng dụng của các doanh nghiệp, trong những năm tới để đề ra những kiến nghị vừa khắc phục được những khó khăn hiện tại lại vừa tránh được những rào cản tương lai. Phần này khoá luận sẽ phân tích những khía cạnh khó khăn mà thương mại điện tử Việt Nam có thể phải có biện pháp khắc phục để vượt qua. Thiếu nguồn nhân lực: Rất có thể, đây sẽ là một trở ngại lớn cho việc phát triển thương mại điện tử của chúng ta trong giai đoạn tới. Cho đến nay, nước ta chưa hề có loại hình đào tạo thương mại điện tử . Trước xu thế phát triển rất nhanh của phương thức kinh doanh này khá lớn. Song thực sự thì ở nước ta chưa hề thấy xuất hiện dấu hiệu nào về việc chuẩn bị nguồn lực ấy trong những năm tới đây. Hiện nay, ngay cả các sinh viên của các trường đại học được đào tạo chuyên ngành công nghệ thông tin cũng không hề được đào tạo ứng dụng, và được thực hành về mạng, thương mại điện tử. Hơn nữa để có một nhân viên thực sự vận hành được thương mại điện tử, ngoài kiến thức về công nghệ thông tin thông thường, còn cần phải có một kỹ năng kinh doanh cần thiết. Nếu chúng ta không có một biện pháp tiếp cận vấn đề này một cách kịp thời, rất có thể đây sẽ là một lỗ hổng lớn trong vài năm tới. Thiếu phương thức thanh toán thuận lợi: Dịch vụ tài chính, hệ thống ngân hàng và thanh toán điện tử sẽ là một thách thức lớn trong việc phát triển thương mại điện tử ở nước ta cả hiện tại và trong vài năm tới đây. Trong tương lại gần, tình trạng này rất khó có thể khắc phục. Các Ngân hàng tại Việt Nam vẫn chưa thể chuyển đổi từ mô hình giao dịch cũ sang mô hình ngân hàng hiện đại, phục vụ cho thương mại điện tử qua Internet. Trong khi đó vấn đề thanh toán điện tử đòi hỏi an toàn và bảo mật rất cao, vấn đề này còn nan giải với ngay cả những nước phát triển. Ngoài yếu tố từ phía ngân hàng và hình thành hệ thống thanh toán, ở nước ta số người sử dụng thẻ tín dụng cũng rất ít, trong khi ở nhiều nước thẻ tín dụng, séc điện tử , thẻ thông minh (smart) được sử dụng hết sức rộng rãi. Thiếu hiểu biết. Vấn đề này tuy đơn giản , song cũng còn khá nan giải cả hiện nay và trong thời gian tới. Nhiều doanh nghiệp nhầm lẫn và hiểu mập mờ về thương mại điện tử, nhiều người được hỏi, tỏ ra không hề quan tâm đến hình thức này. Tình trạng thiếu hiểu biết đầy đủ về thương mại điện tử của các nhân viên cũng có thể làm cho hoạt động này trong doanh nghiệp kém hiệu quả và lãng phí. Nhiều người chỉ nghĩ thương mại điện tử là để trao đổi tin tức với khách hàng, đối tác bằng thư điện tử. Ngoài ra sự hiểu biết về công nghệ thông tin, mạng, thương mại điện tử còn khiến nhiều công ty e ngại trước các thành tựu công nghệ mới. Thái độ luôn “ nhìn nhau” trước khi áp dụng cái mới, dường như là một thuộc tính cố hữu của không ít người. Họ chờ xem những người đi trước thành công hay thất bại rồi mới có quyết định tiến hay thoái. Điều này cũng dễ hiểu bởi nhận thức của họ là hết sức mơ hồ, song lại ảnh hưởng không nhỏ đến tốc độ tăng trưởng của thương mại điện tử cũng như Internet và các ứng dụng công nghệ thông tin khác. Cơ sở pháp lý chuẩn bị hành lang cho thương mại điện tử chưa được hình thành. Luật pháp là chỗ dựa cho các doanh nghiệp hoạt động một cách hợp pháp. Các bên tham gia thương mại điện tử cần phải được bảo vệ về tính hợp pháp, giá trị pháp lý của chữ ký điện tử , tài liệu điện tử , hợp đồng điện tử. Hiện nay, chúng ta đang nghiên cứu để xây dựng các cơ sở hạ tầng pháp lý cần thiết cho TMĐT (luật về TMĐT, luật về thanh toán điện tử, luật về chữ ký điện tử, an ninh bảo mật, công nghệ thông tin, sở hữu trí tuệ, bảo vệ người tiêu dùng, các cơ quan công chứng và xác nhận). Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải nhờ vào luật pháp nước ngoài để giải quyết, nếu như doanh nghiệp Việt Nam kinh doanh điện tử với đối tác nước ngoài. Nếu như vậy không phải trong trường hợp nào cũng có thể thực hiện được và những điều bất lợi chắc chắn sẽ sảy ra về phía doanh nghiệp Việt Nam. Đồng thời các doanh nghiệp cũng hết sức nghi ngại khi tham gia vào phương thức kinh doanh này. Bên cạnh những khó khăn như đã nêu trên, còn có khó khăn về thu nhập xã hội, giá cước dịch vụ . Nếu tính bình quân thu nhập đầu người dân Việt Nam là 250USD/năm với tỷ lệ tiêu dùng bình quân hiện nay thì mức phí riêng cho dịch vụ Internet chiếm 4,5% và Mỹ là 1,2% . Có lẽ đó cũng là lý do khiến cho tốc độ tăng trưởng Internet ở Việt Nam chậm dần. Về kỹ thật: Cơ sở hạ tầng truyền thông và các dịch vụ Internet còn rất hạn chế (số điện thoại và máy tính bình quân đầu người, số lượng máy chủ Internet rất ít) ; hệ thống tiêu chuẩn quốc tế mới áp dụng ở một số doanh nghiệp. Ngoài ra việc phát triển TMĐT cũng còn một số khó khăn và hạn chế khác như về văn hoá, quản lý… Trên đây là những khó khăn chủ yếu mà chúng ta đang sẽ phải gặp. Tất nhiên đây hoàn toàn là những trở ngại không phải bản chất, cố hữu. Do đó hoàn toàn chúng ta có thể khắc phục được. Đối với Việt Nam, Internet sẽ mở ra những cơ hội mới cho các doanh nghiệp bước vào thị trường Quốc tế và thu nhập thông tin chuyên ngành về các mặt hàng của mình, hoặc tìm kiếm các nguồn cung cấp hàng hoá một cách có hiệu quả hơn. Tất cả đòi hỏi sự phát triển đồng bộ của hạ tầng cơ sở với sự hỗ trợ của hệ thống ngân hàng và một hành lang pháp lý vững chắc thúc đẩy kênh TMĐT . Chương III Một số biện pháp để thúc đẩy sự phát triển thương mại điện tử ở việt nam I. Phát triển lĩnh vực Công nghệ thông tin ở Việt Nam để đáp ứng yêu cầu của thương mại điện tử: 1./ Những kiến nghị đối với cơ quan quản lý vĩ mô của nhà nước: 1.1./ Những kiến nghị đối với chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin: Thực chất Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin bắt đầu được đầu tư và thực hiện từ năm 1996 mặc dù nghị quyết 49/CP của Chính phủ về phát triển Công nghệ thông tin của nước ta trong những năm 90 được ban hành vào tháng 8/1993. Nhưng chỉ trong khoảng thời gian ngắn đó, chương trình thực sự có vai trò xúc tác cho sự phát triển Công nghệ thông tin ở nước ta tạo tiền đề và định hướng cho những bước tiếp theo. Qua ba năm thực hiện chương trình, nhận thức của toàn xã hội về ứng dụng và phát triển Công nghệ thông tin đã được nâng lên một bước thông qua một số lượng cán bộ lãnh đạo và các chuyên viên trong bộ máy quản lý nhà nước đã được đào tạo và bước đầu sử dụng máy tính trong công việc của mình. Cho đến nay, tất cả các văn phòng của các bộ ngành, uỷ ban nhân dân các tỉnh, thành phố trực thuộc trung ương đã sử dụng máy tính trong công tác văn thư, quản lý công văn đi đến, ứng dụng máy tính cho một số công tác nghiệp vụ. ở những nơi này cũng đã bước đầu tổ chức công việc qua mạng cục bộ và trao đổi thông tin quản lý với Văn phòng Chính phủ. Một số mạng nghiệp vụ diện rộng đã mang lại hiệu quả kinh tế - xã hội rất lớn như các mạng Ngân hàng, Tài chính, Bưu điện, Hải quan, Hàng không, Du lịch... Thông qua chương trình, 7 khoa Công nghệ thông tin trọng điểm của 7 trường Đại học lớn của đất nước đã được nâng cấp về cơ sở vật chất cho giảng dạy và nghiên cứu góp phần cho việc thực hiện mục tiêu đến năm 2000 đào tạo được 2 vạn sinh viên tốt nghiệp trong lĩnh vực Công nghệ thông tin. Chương trình đã góp phần quan trọng trong việc hình thành và phát triển Internet Việt Nam. Một số cơ sở dữ liệu quốc gia bước đầu được nghiên cứu và thiết lập như cơ sở dữ liệu quốc gia về luật, tài chính, đất đai, thống kê, dân cư, cán bộ và công chức nhà nước, kinh tế xã hội. Đề án về phát triển công nghiệp phần mềm đã được đông đảo các chuyên gia trong nước xây dựng làm tiền đề cho việc tổ chức thực hiện trong những năm tiếp theo. Hiện nay, Công nghệ thông tin đã trở thành một lĩnh vực thiết yếu của đời sống kinh tế - xã hội Việt Nam. Nhưng khi Công nghệ thông tin trở nên phổ biến, đất nước ta lại đứng trước những thách thức mới của Thương mại điện tử và nhiều vấn đề khác có liên quan đến nền kinh tế số. Vậy làm thế nào để ứng dụng công nghệ thông tin - một lĩnh vực đang tiến bộ hết sức nhanh chóng - một cách hiệu quả vào hoạt động của các doanh nghiệp trên một môi trường kinh doanh cũng luôn thay đổi, luôn xuất hiện những nhu cầu mới ? Trước hết, các nhà quản lý cần thấy rõ môi trường quản lý của chúng ta chưa thực sự khuyến khích cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin. Thiếu những chính sách hoặc luật mới cho các giao dịch trên mạng. Hạ tầng viễn thông cho việc ứng dụng và phát triển công nghệ thông tin còn nhiều bất cập... Những vấn đề đó, Ban chỉ đạo chương trình quốc gia về công nghệ thông tin và Bộ khoa học Công nghệ Môi trường cùng các cơ quan chức năng của nhà nước đã soạn thảo để trình Chính phủ xem xét và phê duyệt. Để giải quyết những vấn đề trên có hiệu quả, Nhà nước cần ban hành những chính sách, qui định cụ thể để tạo môi trường và các điều kiện thuận lợi cho việc ứng dụng công nghệ tin học vào hoạt động của các doanh nghiệp. Cần chú ý thích đáng các vấn đề như: thuế đối với công nghệ thông tin (như thuế nhập khẩu phần cứng và phần mềm...) giảm phí dịch vụ (như phí truyền dữ liệu, phí truy cập Internet ....), chính sách khuyến khích, ưu tiên việc phát triển các phần mềm tin học trong nước (chẳng hạn khuyến khích việc xây dựng các phần mềm ứng dụng trong nước dành cho các doanh nghiệp, không áp dụng bất kỳ loại thuế nào đối với các sản phẩm phần mềm tin học trong nước....), qui định rõ các chế độ khấu hao tài sản thiết bị tin học và viễn thông (bởi trước sự phát triển như vũ bão của khoa học kĩ thuật và công nghệ các máy móc thiết bị này rất nhanh chóng bị lạc hậu và giảm giá trị trên thị trường....), nghiên cứu và đưa ra các chuẩn mực kỹ thuật về thông tin và nghiệp vụ (như chuẩn tiếng Việt dùng cho tin học, chuẩn kế toán, chứng từ....). Ngoài ra cần chú trọng xây dựng và hoàn thiện mạng thông tin Quốc gia vững mạnh, tạo điều kiện cho ngành công nghệ thông tin nói riêng và các ngành khác phát triển nhanh chóng. Hoạt động của các doanh nghiệp, các liên kết kinh tế, liên kết cộng đồng sẽ được cải thiện thông qua một hạ tầng cơ sở viễn thông hiện đại. 1.2./ Phương hướng phát triển hệ thống mạng Internet Quốc gia. Thực tế ở nước ta trong một vài năm qua, các Internet của các bộ, ban, ngành phát triển rộng khắp các nơi nhưng nhiều nơi, nhiều chỗ chỉ mang tính chất tự phát, theo phong trào, thông tin trên các mạng Internet vừa ít. Chất lượng vừa thấp và hầu hết lại không có một định hướng cụ thể nào. Nếu mới chỉ dừng lại ở mức độ có mạng mà chưa thật chú trọng tới việc phát triển các thông tin do chính mình quản lý để đưa hệ thống mạng cho mọi người có thể sử dụng chung được thì kinh phí đầu tư xây dựng các mạng thật là lãng phí (thông tin đề cập ở đây không phải là những thông tin mật mã mà chỉ là những thông tin mà quảng đại quần chúng cần thiết phải biết). Nếu tất cả các hệ thống mạng đó đều thực sự quan tâm tới các thông tin của Bộ mình, Ngành mình và có trách nhiệm cập nhật thường xuyên và đầy đủ các thông tin đó lên mạng thì đây thực sự là một việc hoàn toàn làm được, nó là tiền đề không thể thiếu để khi kết nối các mạng Internet lại với nhau ta sẽ có được mạng Internet Quốc gia như mong muốn. Nhà nước cần đầu tư xây dựng đường trực tuyến thông Bắc - Nam cho một Internet Việt Nam, một Internet kết nối tất cả các Internet của các Bộ, Ban, Ngành, các Trung tâm Thông tin, các doanh nghiệp ở khắp nơi để đưa thông tin đủ loại đến cho mọi người. Đây có thể coi là điều kiện kiên quyết cho con đường phát triển Internet Việt Nam mà chúng ta lựa chọn. Một hệ thống mạng Internet Quốc gia được hình thành và đưa vào sử dụng thì chúng ta thực sự có được một thư viện điện tử khổng lồ bằng tiếng Việt cho quảng đại đồng bào ta trên lãnh thổ Việt Nam sử dụng với một giá thành thấp hơn rất nhiều so với khoảng 0,03% (24.000 trên 80 triệu) số người dân Việt Nam hiện nay sử dụng hệ thống mạng Internet như hiện nay. Rất có thể đây chính là môi trường “Internet thực tế’ đối với hầu hết mọi tầng lớp người dân Việt Nam hiện nay. Đặc biệt hơn qua đây, việc ứng dụng những dịch vụ tư vấn, dịch vụ du lịch... sẽ thực sự có đất dụng võ. Bởi việc mua bán hàng hoá trên mạng Internet đối với người dân Việt nam hiện nay gặp nhiều trở ngại rất lớn là cước phí truy cập Internet là khá cao và chúng ta không sử dụng phổ biến các loại thẻ tín dụng như các nước tiên tiến trên thế giới. Khi có mạng Internet Quốc gia rất có thể người dân Việt Nam chúng ta sẽ có cách riêng của mình cho việc mua bán trên mạng trước khi sử dụng các loại thẻ tín dụng hay tiền điện tử trở thành hiện thực ở Việt Nam. 2./ Phương hướng hoạt động của các doanh nghiệp để ứng dụng có hiệu quả công nghệ thông tin vào quá trình kinh doanh: 2.1./ Những định hướng chung ở nước ta việc ứng dụng công nghệ thông tin trong các ngành kinh tế không còn là một điều mới mẻ. Cùng với sự phát triển nhanh chóng của kỹ thuật máy tính và môi trường truyền thông cũng như thị trường tin học trong nước. Việc ứng dụng công nghệ thông tin vào hoạt động doanh nghiệp ngày càng sôi động. Nhưng tồn tại một tình trạng khá phổ biến là các doanh nghiệp Việt Nam chưa chú ý đầu tư thích đáng cho phần mềm nhất là các phần mềm ứng dụng, dẫn đến việc mặc dù đã trang bị hệ thống máy tính thậm chí cả hệ thống mạng nhưng cũng không cải thiện được hoạt động của doanh nghiệp. Phần lớn các ứng dụng công nghệ thông tin mới chỉ tập trung vào lĩnh vực kế toán và văn phòng. Một thực tế khác là mặc dù hầu hết các nhà doanh nghiệp đều hiểu lợi ích của việc ứng dụng công nghệ thông tin nhưng không ít doanh nghiệp còn lúng túng trong triển khai. Có lẽ một phần là do nhà nước chưa có đủ các chính sách, qui định để hướng dẫn, khuyến khích và tạo điều kiện cho các doanh nghiệp trong lĩnh vực này. Một lý do cũng rất quan trọng là các doanh nghiệp chưa chủ động nghiên cứu áp dụng tin học, chưa có thói quen quản lý điều hành bằng thông tin, chưa có kế hoạch đầu tư vốn và đào tạo cán bộ, nhân viên tương xứng. Trong thời gian tới các doanh nghiệp cần đổi mới phong cách hoạt động kinh doanh, quản lý điều hành phù hợp với xu thế của thời đại công nghệ thông tin. Các doanh nghiệp cần nghiên cứu để đưa ra chiến lược, kế hoạch phát triển thích hợp, vận dụng hài hoà chiến lược về công nghệ thông tin trong chiến lược hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Bên cạnh việc đầu tư thích đáng vào trang bị hợp lý hệ thống tin học (phần cứng, phần mềm, truyền thông...) cần chú trọng vấn đề đào tạo để có được đội ngũ cán bộ nhân viên có đủ trình độ để sử dụng, khai thác hiệu quả hệ thống tin học của doanh nghiệp. Trước tình hình phát triển như vũ bão của khoa học và công nghệ, nếu chỉ ngồi đợi cho mọi thứ ổn định thì đó là một sai lầm. Nhà quản lý doanh nghiệp phải phân tích để hiểu được công nghệ mới có thể làm được những gì rồi chọn công nghệ nào có ảnh hưởng lớn nhất đồng thời phải đảm bảo là các đối thủ cạnh tranh không vượt lên trong cuộc đua. Vấn đề đặt ra ở đây là việc chọn thời điểm cũng quan trọng như tốc độ. Để thành công, Công ty phải có những chuyên gia về mạng (để giải quyết được mọi yêu cầu phát sinh từ khách hàng và đối tác) và chọn các ứng dụng Internet cho hiệu quả cao nhất và đúng thời điểm. Nếu nhảy vào Thương mại điện tử quá chậm doanh nghiệp cũng có thể mất cơ hội thành công. 2.2./ Một số điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam cần cân nhắc khi quyết định tham gia thương mại điện tử. Trong tương lai sẽ tồn tại các Công ty ảo, thực hiện kinh doanh điện tử Internet sẽ tạo ra những thay đổi quan trọng trong cách giao dịch giữa các nhà kinh doanh và giữa nhà kinh doanh với khách hàng. Trong tình hình hiện nay, các nhà sản xuất có khả năng biến từ triển vọng công nghệ hiện thực trong một khoảng thời gian rất ngắn. Vì vậy sự chuyển biến sang thương mại điện tử toàn cầu là một tất yếu. Hơn nữa Internet sẽ còn tạo ra những điều kỳ diệu không thể tiên đoán trước được vì nó bị chi phối bởi hai nhu cầu rất lớn: Nó cho phép các Công ty nhỏ hoạt động như những Công ty lớn và ngược lại. Các lĩnh vực sử dụng thương mại điện tử nhiều nhất bao gồm kinh doanh và dịch vụ tài chính, giao thông vận tải, du lịch và các lĩnh vực hướng về xuất khẩu. Thương mại điện tử là một phương tiện hữu hiệu để các doanh nghiệp vừa và nhỏ phát triển thị trường. Sau đây là một số trở ngại chủ yếu đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ ở nước ta khi tham gia thương mại điện tử là: - Thiếu hiểu biết về thương mại điện tử và các ứng dụng của Web trên Internet - Không chắc chắn về lợi ích của thương mại điện tử đối với việc kinh doanh của mình. - Các giao dịch và thanh toán trực tuyến vẫn còn đang ở giai đoạn phôi thai và bị hạn chế bởi những mối lo ngại về an ninh - an toàn. - Mức độ phức tạp và chi phí của thương mại điện tử còn cao (do phương thức kinh doanh này mới ở giai đoạn đầu của sự phát triển). - Thiếu các sản phẩm phù hợp (các thiết bị và các phần mềm hỗ trợ thương mại) để thực hiện thương mại điện tử. - Thiếu một khung pháp lý hoàn chỉnh. Việc sử dụng thương mại điện tử của các doanh nghiệp vừa và nhỏ phụ thuộc vào khả năng họ nắm bắt được các cơ hội mà thương mại điện tử có thể mang lại cho doanh nghiệp cũng như tác dụng của cơ hội này đối với doanh nghiệp.Vì vậy khi lập chiến lược phát triển thương mại Internet của doanh nghiệp, việc sống còn là đừng quan tâm tới các kết quả công nghệ mà hãy quan tâm triển khai các ứng dụng trên mạng như thế nào để thúc đẩy được công việc kinh doanh. Khi lập chiến lược thương mại điện tử, cần phải chắc chắn rằng tất cả các quản trị viên cao cấp (tất cả cho tới Tổng giám đốc nếu có thể) là có liên quan. Các quản trị viên giao dự án phát triển thương mại điện tử một cách dễ dàng và đơn giản cho các bộ phận công nghệ thông tin hay bộ phận thị trường của doanh nghiệp là phạm phải sai lầm. Suy nghĩ về việc hiện diện trên Internet cũng giống như thiết lập sự có mặt tại một quốc gia mới. Khi định hướng khách hàng trên Internet, một Công ty cần phải lập tài liệu sao cho người quản trị có thể định lược chính xác các thuận lợi và bất lợi khi vào thị trường mới này. Việc đầu tiên mà tổ chức cần cân nhắc là: “cái gì là ích lợi chủ yếu không phải là về lĩnh vực kinh doanh trên mạng mà cho hoạt động kinh doanh chung của Công ty ?”. Một Công ty có thể nhằm đến các mục đích như: Theo đuổi sự gia tăng khối lượng bán của một sản phẩm nào đó, sự khuếch trương tên hãng, đẩy mạnh các mối quan hệ hợp tác đầu tư, các quan hệ với cộng đồng và với khách hàng, tăng cường dịch vụ khách hàng, giảm chi phí kinh doanh và hạ giá bán, mở rộng kênh bán hàng sang địa bàn mới hoặc có thể là sự tìm kiếm sự tiết giảm chi phí phân phối sản phẩm phi vật lý (như phần mềm máy tính, các tác phẩm âm nhạc, phim ảnh, các bản thiết kế kiến trúc.... Các sản phẩm này đều có thể chuyển giao một cách hoàn toàn điện tử). Và rất quan trọng trong khi soát lại xem liệu Internet có phải đúng là phương tiện cần thiết cho các mục tiêu của doanh nghiệp hay chưa ?. Thương mại điện tử không phải là một mỏ vàng tiềm năng để có thể đặt nên đó những mục tiêu không thực tế. Hiện nay có nhiều Web Site thương mại điện tử trực tuyến từ doanh nghiệp tới khách hàng của các nước trong khu vực cho đến nay chưa sinh lời. Nếu mục tiêu của doanh nghiệp là bán được nhiều hàng hơn nữa thì hãy xem Internet là kênh bán hàng thứ hai hỗ trợ cho các kênh và cách thức bán hàng truyền thống. Đương nhiên là việc dựa vào Internet để có thể bán được thêm bao nhiêu hàng tuỳ thuộc rất nhiều vào bản thân loại hình sản phẩm (sản phẩm có kết cấu vật lý đòi hỏi giao hàng tận nơi trong khi sản phẩm số hoá có thể chuyển giao ngay trên mạng), vào thị trường mà công ty hướng tới và vào ngân quĩ tiếp thị của doanh nghiệp. Một khi các mục tiêu của Công ty đã được lập, các thông số nhân khẩu của Internet sẽ phải được kiểm tra kỹ lưỡng. Thay vì hướng tới Internet như một thị thường lớn duy nhất của 150 triệu khách hàng, hãy phân loại Internet để tìm ra phần thị trường thích hợp nhất cho các dịch vụ và sản phẩm của Công ty. Nếu như Công ty chưa có nhiều kinh nghiệm trong việc bán hàng quốc tế thì trước tiên hãy hướng tới những thị trường có độ tập trung cao những người tham gia sử dụng mạng trực tuyến chẳng hạn như Nhật Bản (7triệu ), Đức (4 triệu), Phần Lan (3 triệu). Nhiệm vụ này chắc chắn là công việc chính cho đội ngũ Marketting của Công ty. ở phần lớn các thị trường Châu á, (Hồng Kông, ASEN và Australia) số liệu nhân khẩu học của các khách hàng Internet là rất hấp dẫn : khoảng 90% khách hàng có ít nhất thẻ tín dụng, trên 70% các khách hàng không phải là sinh viên, có thu nhập gấp đôi thu nhập cá nhân trung bình và 55-70% là đàn ông đều có học thức, đồng thời theo họ thì những thông tin liên quan đến mua bán qua Internet đạt hiệu quả hơn tiếp thị trực tiếp bằng thư. Đặc biệt, việc mua qua Internet rất hấp dẫn với những người này vì họ coi trọng sự thuận lợi hơn giá cả). Với điều kiện này, nếu một công ty thấy số liệu nhân khẩu học Internet không phù hợp với đối tượng khách hàng đang hướng tới thì việc tiến hành chiến lược thương mại điện tử với sự hiện diện của Internet là cực kỳ rủi ro. Tiếp theo là việc doanh nghiệp cần phải để hết tâm trí cho Web site sẽ được dựng lên. Sự thành công của thương mại điện tử vào thời điểm hiện nay không còn nằm mơ ở trong yếu tố công nghệ mà ở khả năng ứng dụng công nghệ để vượt qua các trở ngại trong việc mua sắm trên mạng. Đó chính là cách thức để đem lại tỷ lệ cao cho những người đến thăm trang Web trở thành những người mua sắm, và giữ vững sự trung thành của khách hàng đó. Thiết kế trang Web thế nào để thu hút được nhiều người viếng thăm nhất ngoài các vấn đề kỹ thuật thông thường cần quan tâm tới một số “chiêu” độc đáo, bắt mắt..... ví dụ như Công ty hãy xoá bỏ sự nhàm chán bởi sự đơn điệu của trang Web thông thường bằng cách tạo cho trang Web của Công ty có cái gì đó lạ lùng, thậm chí có thể kỳ cục (nhưng không được quá đơn giản hay ngây ngô bởi mọi người sẽ đánh giá thấp Công ty). Hãy cố gắng làm nổi bật địa chỉ của Công ty hơn một chút so với các trang khác (thông qua chế độ màu sắc, phông chữ hiển thị, hay một số kỹ thuật tạo hiệu ứng chữ ẩn hiện chẳng hạn). Ta biết rằng bên cạnh các cơ cấu tìm kiếm thông tin thông dụng như Yahho, Altavista, Amazone... hiện còn một số phần mềm hoạt động như các thám tử trên mạng (ví dụ Web Ferret) giúp cho người sử dụng tìm ra các địa chỉ Web chứa thông tin cần tìm kiếm nhanh chóng hơn đồng thời có các địa chỉ số thông tin hết sức cơ bản về trang Web đó mà không cần phải thực sự truy cập vào. Vậy thì tại sao Công ty lại không đưa ra một số lời tóm tắt, giới thiệu ấn tượng nhất về mình. Nhiều Công ty Việt Nam đã sai ở điểm này khi đơn giản chỉ lập các trang Web theo kiểu tờ giới thiệu sản phẩm, mà không thích hợp các khả năng bán hàng với thư điện tử tự động hoá, các loại công nghệ gây ấn tượng (wow - technology). Kế hoạch về nguồn lực là bước tiếp theo. Hãy nhớ sự hiện diện trên Internet không chỉ ở bộ phận Công nghệ thông tin. Nhân viên ở các bộ phận bán hàng và marketting cần phải có trong dự án, cần đào tạo và sử dụng các hoạ sĩ và người thiết kế trang Web. Một sai lầm lớn của các Công ty tham gia Web là việc lập kế hoạch không chính xác dẫn đến phí tổn của các trang Web vượt qua ngân quĩ mà doanh nghiệp dự kiến. Doanh nghiệp lưu tâm đầy đủ tới thời gian quản lý, đội ngũ tiếp thị hỗ trợ dự án, đội ngũ bán hàng, việc phát triển, cập nhật và nuôi Web site. Việc giao hàng quốc tế có lẽ là một trong những vấn đề khó khăn nhất vì đòi hỏi cả một mức giá cả phù hợp lẫn thời gian giao hàng nhanh chóng. Trong điều kiện đó, việc thuê các hãng chuyển phát nhanh hàng đầu thế giới như Federla Express, UPS hay DHL có thể là quá đắt đỏ. Thay vào đó doanh nghiệp có thể nghiên cứu các thị trường mục tiêu để có thể tìm ra một biện pháp tối ưu, chẳng hạn ký hợp đồng với các nhà vận chuyển ở từng địa bàn. Lợi ích của việc lập kế hoạch tốt cho mỗi giải pháp thương mại điện tử sẽ làm giảm phí tổn và bán được nhiều hàng. Trước khi tham gia thương mại điện tử doanh nghiệp rất nên xây dựng mạng nội bộ của doanh nghiệp mình (mạng Internet). Đây chính là mô hình mạng máy tính kiểu Internet thu nhỏ vào trong một cơ quan, xí nghiệp có nhiều mạng nhỏ nằm ở những vị trí khác nhau, và sử dụng những cách thức, phương tiện kỹ thuật như trong Internet để trao đổi thông tin. Thay vì cung cấp thông tin cho hết thảy mọi người, Internet chỉ mang thông tin đến với mọi người trong phạm vi Công ty bạn, bất kể nó nằm trong cùng một toà nhà hay rải rác trên một vài thành phố khác nhau. Mạng Internet có chi phí không cao nó cung cấp nhiều ứng dụng tiết kiệm có thể ảnh hưởng tích cực tới kết quả kinh doanh cuối cùng. Đặc biệt hơn nó giúp cho doanh nghiệp làm quen với cách thức điều hành hoạt động kinh doanh qua mạng. Nó giúp các nhân viên làm quen với các ứng dụng cơ bản của Web và thư điện tử. Nếu vận hành mạng Internet có hiệu quả, Công ty sẽ nhận thấy thư điện tử (E-mail) không chỉ cung cấp giải pháp truyền thông tin rẻ tiền giữa các nhân viên, điều hành viên, khách hàng và người mua mà nó còn cung cấp hệ thống sắp xếp hồ sơ tự động và giảm ghê gớm việc phải đánh máy lại và tăng khả năng tái sử dụng các tài liệu của Công ty. E-mail có thể tiết kiệm tiền đáng kể cho Công ty so với Fax dùng giấy và có người điều khiển. Một điểm cũng đáng lưu ý là World Wide Web là một biển thông tin mênh mông của rất nhiều lĩnh vực trong đó có cả lĩnh vực giải trí. Nó có thể đánh bẫy thời gian quí báu của các nhân viên. Để tránh cho các nhân viên suốt ngày thả hồn trên các tạp chí thời trang, khi lập chiến lược triển khai thương mại điện tử doanh nghiệp xác định cho được những người nào thuộc từng bộ phận thực sự cần phải vào mạng và việc vào mạng được thực hiện như thế nào. Internet có thể làm lợi cho Công ty theo nhiều cách. Nó có thể là công cụ hữu hiệu để tăng cường dịch vụ khách hàng, có thể đóng vai trò như một kênh bán hàng và tiếp thị mới hoặc thậm chí cung cấp hạ tầng cơ sở để tăng cường truyền thống kinh doanh. Dù sao trước khi tham gia vào thương mại điện tử, doanh nghiệp hãy tự đặt cho mình câu hỏi lớn: Tại sao ? tuỳ thuộc các nhà quản lý doanh nghiệp có thể trả lời gãy gọn tại sao - và như thế nào mà xác định sự quan trọng của Internet đối với doanh nghiệp. Bởi khi đã có sự thống nhất từ cấp cao nhất xuống dưới thì hiệu quả khai thác Internet của doanh nghiệp không còn chỉ là việc sử dụng hiệu quả của từng cá nhân mà trở thành hiệu quả sử dụng đồng bộ của cả tập thể. Nếu các quản trị cao cấp của doanh nghiệp không thể trả lời câu hỏi lớn trên thì cũng không có nghĩa là doanh nghiệp không thể kiếm lời từ Internet, nó chỉ đơn giản là doanh nghiệp chưa sẵn sàng dấn thân vào một dự án có thể tốn phí tiền bạc và thời gian. Lúc này điều nên làm là doanh nghiệp hãy dành thời gian để làm quen với Internet và World Wide Web. Hãy chú ý thăm càng nhiều Web site thương mại điện tử càng tốt. Khi có điều kiện hãy tham gia vào các diễn đàn thảo luận về thương mại điện tử và đăng ký các tạp chí E-mail về lĩnh vực thương mại điện tử. Khi mọi người trong công ty đã trở nên thật thoải mái với Internet và học hỏi được kinh nghiệm sử dụng Internet của các doanh nghiệp khác, thì các quản trị gia sẽ có thể bắt đầu suy ngẫm nhiều lý do hơn nữa tại sao công ty của mình cần phải tham gia mạng. Một khi các quản trị gia có thể xác định được điều này và chuẩn bị kế hoạch chiến lược có cấu trúc tốt, công ty hãy bắt đầu lên đường. II. Hoàn thiện môi trường hoạt động tạo điều kiện cho TMĐT phát triển 1. Xây dựng hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp lý cho TMĐT: TMĐT ở Việt Nam hiện nay chưa phát triển , số lượng trang Web phục vụ cho việc cung cấp thông tin kinh doanh và cơ hội giao thương còn rất ít, lại chưa được cập nhật thường xuyên. Thu nhập của ngừơi dân nước ta còn rất thấp nhưng cước truy cập Internet lại khá cao so với các nước trong khu vực ( gấp trên 3 lần ). Ngoài ra, các doanh nghiệp còn phải trả một mức phí khá cao so với lợi ích thu được để xây dựng trang web hoạc biến các trang web của họ thành website TMĐT. Mức chi phí cao này cũng là yếu tố hạn chế sự tham gia của các doanh nghiệp – nhân tố chính của TMĐT. Các quy định của pháp luật trong lĩnh vực TMĐT chủ yếu được ban hành vào năm 1997, nay đã trở nên sơ sài, không đủ để cung cấp một khuôn khổ pháp lý cần thiết để có thể theo kịp yêu cầu phát triển của lĩnh vực này. Để khắc phục tình trạng này cần phải xây dựng một hạ tầng cơ sở kinh tế và pháp lý cho TMĐT. Thứ nhất: Về kinh tế. Hình thành hệ thống tiêu chuẩn , hệ thống thông tin quốc gia tương ứng với quốc tế và nhất là khu vực ASEAN. Tạm thời Nhà nước nên bù lỗ trong kinh doanh TMĐT như giảm phí hoà mạng Internet. Cần có chương trình Marketing cho TMĐT tại các trường đại học, các thành phố lớn nhằm khuyến khích dân chúng tiếp cận với nền “kinh tế số hoá”. Hình thành hệ thống thanh toán tài chính tự động, thẻ thông minh, thẻ tín dụng…, tăng cường quảng cáo trên truyền hình và nêu rõ tiện ích của nó. * Mã hóa và tiêu chuẩn hoá cho các doanh nghiệp, hàng hóa dịch vụ cần thiết. Có chiến lược mã hoá quốc gia, làm cơ sở phát triển công nghệ mã hoá. Thứ hai: Về pháp lý. * Cần xây dựng các luật như luật về giá trị pháp lý của các giao dịch điện tử, xác thực và chứng nhận chữ ký điện tử , về bảo vệ quyền sở hữu, về chống xâm nhập trái phép vào các dữ liệu. * Hải quan và thuế: ở Mỹ và các nước phát triển , họ không quan tâm đến vấn đề thuế. Song với điều kiện Việt Nam, tình hình kinh tế không mạnh, kẻ thù còn dòm ngó, sự xâm nhập của văn hoá độc hại luôn tác động không tốt tới thuần phong mỹ tục Việt Nam. Do đó, hệ thống thuế quan nước ta cần phải đơn giản , dễ thực hiện hơn và phù hợp với hệ thống quốc gia và của các nước láng giềng. * Bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ. Thương mại trên Internet thường liên quan đến bán hay chuyển nhượng, nhưng một phần ( tức là licen se) quyền sở hữu trí tuệ để thúc đẩy TMĐT, người bán hàng phải tin tưởng rằng quyền sở hữu trí tuệ của họ sẽ không bị đánh cắp và người mua cũng biết rằng họ nhận được bản gốc. Vừa qua ở Việt Nam chúng ta , việc đánh cắp bản quyền xảy ra thường xuyên, không khuyến khích được người sáng tạo phần mềm. Vì vậy Chính phủ phải có luật bản quyền và các luật xử lý nghiêm minh các sai phạm. Nhà nước cũng cần thiết lập tiêu chuẩn phù hợp với tiêu chuẩn quốc tế cho việc xác định hiệu lực của quyền sử dụng bằng sáng chế. * Bảo mật: Tính riêng tư cá nhân và độ an toàn là yêu cầu đầu tiên của bảo mật. ở Việt Nam, tuy mới truy cập Internet, các hiện tượng xấu xảy ra chưa nhiều song nó lại đang phát triển và chưa có biện pháp ngăn chặn. Nhiều doanh nghiệp chưa tin tưởng vào hệ thống bảo mật nên e dè gia nhập Internet. Yêu cầu bảo mật trong thời gian tới: - Các mạng viễn thông phải đảm bảo an toàn tin cậy. - Phải có chương trình tiện hữu ích để bảo vệ các hệ thống thông tin lát nối mạng. Cần có những biện pháp hiệu quả để xác nhận và bảo đảm tính bảo mật của dữ liệu điện tử, tránh truy cập trái phép. - Đào tạo nâng cao trình độ người sử dụng. Tóm lại, pháp lý luôn là vấn đề nổi cộm trong điều luật Việt Nam hiện nay vì thực tế kinh nghiệm về TMĐT của ta còn quá ít. Do đó Nhà nước cần nghiên cứu kinh nghiệm của các nước xung quanh với điều kiện tương tự ta để rút ra những bài học cần thiết. 2. Phát triển nâng cấp công nghệ thông tin. Hiện nay, ở Việt Nam dịch vụ viễn thông quá đắt, là rào cản qúa trình tham gia TMĐT . Bên cạnh đó, nước ta vẫn còn duy trì hàng rào thuế quan ngay cả nhập những thiết bị điện tử cả phần cứng và phần mềm. Thứ nhất: Công nghệ tính toán. Như phần thực trạng đã nêu, công nghệ tính toán của ta quá nhỏ bé và đặc biệt lĩnh vực phần mềm chiếm tỷ trọng nhỏ Để khắc phục tình trạng này, chúng ta cần: * Khuyến khích quản lý dữ liệu có cấu trúc được quản lý bằng các cơ sở dữ liệu khác nhau (Base, Fox, Pascan, Access, Oracle…) tại các doanh nghiệp. * Triển khai mạng máy tính tại các hộ gia đình, các cơ quan xí nghiệp quốc doanh và tư nhân. - Mạng VINANET ( hiện phát triển thành Vietranet ) Bộ thương mại là mạng thông tin thương mại. Đây là mạng chuyên hiện lại các thông tin thương mại từ các nguồn tin của phóng viên trên khắp các nước của các hàng thông tấn lớn như AP, UPI, Router. - Mạng VCCINET thuộc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam. Mạng này cung cấp một cơ sở dữ liệu thông tin phong phú cho các doanh nghiệp hội viên trong cả nước bao gồm các thông tin về doanh nghiệp, sản phẩm thông tin xúc tiến thương mại và đầu tư, thông tin pháp luật, tư vấn, thị trường kinh tế thế giới, các dịch vụ có liên quan. - Mạng ECONET của thông tấn xã Việt Nam, đây là bản tin kinh tế Việt Nam của thế giới bằng hai ngôn ngữ Việt, Anh. * Thay đổi mô hình phân bố máy có thể là 60% ở cơ quan xí nghiệp, Nhà nước, 15% ở các cơ quan nghiên cứu và quốc phòng ( hiện này là 10% ) , 5% ở các hộ gia đình. * Có chính sách hợp lý khi nhận máy vi tính . * Tiêu chuẩn hoá đội ngũ lập trình viên: Để thực hiện mục tiêu đạt doanh số về xuất khẩu phần mềm 500 triệu USD vào năm 2005, các chuyên gia tin học ước tính Việt Nam cần phải có 25.000 lập trình viên. Trong khi đó , số lượng các lập trình viên hiện nay mới chỉ tính được ở con số vài nghìn. Số lượng các lập trình viên đã ít nhưng trình độ lại chưa cao. Đặc biệt đối với chuyên viên TMĐT, ngoài kiến thức về kỹ thuật còn đòi hỏi phải có thêm kiến thức về kinh doanh, thương mại. Để có thể xâm nhập vào thị trường phần mềm quốc tế, Nhà nước cần có chính sách đào tạo chuyên sâu cho đội ngũ lập trình viên, cả trước mắt và lâu dài. Thứ hai: Ngành truyền thông. Hướng phát triển của ngành Bưu chính viễn thông là không bị chèn ép trong cạnh tranh. Xây dựng các doanh nghiệp Bưu chính viễn thông hoạt động hiệu quả, đủ sức cạnh tranh , đứng vững trên thị trường doanh số đến năm 2010 đạt 1,25 tỷ USD và phấn đấu là 12-15 máy /100 dân. Để ngành truyền thông phát triển , cần phải: * Tăng tính tin cậy trong ngành bằng các bộ luật và bảo mật. * Giảm chi phí dịch vụ truyền thông. * Khuyến khích các doanh nghiệp nối mạng khi đã đủ điều kiện. Hiện nay VDC phát triển dịch vụ France Reaplay – dịch vụ nối mạng dữ liệu theo phương thức chuyển mạch gói, hoạt động ở mức liên kết giúp doanh nghiệp giảm chi phí cước và tăng cường khả năng chuyển đổi linh hoạt kết nối mạng máy với nhau. Muốn vậy phải khuyến khích các doanh nghiệp tham gia phát triển ngành truyền thông là yêu cầu bức thiết cho sự phát triển TMĐT ở nước ta. 3. Đào tạo nguồn nhân lực cho TMĐT. CNTT hiện là ngành được đào tạo ở nhiều trường nhất. Về số lượng , có gần 250 cơ sở đào tạo nhân lực CNTT từ trung cấp hoặc tương đương trở lên, số trường đại học có đào tạo cử nhân CNTT tăng từ 52 trường ( tháng 7/2001) lên 55 trường ( tháng 7/2002) tăng 5,7% so với con số tăng 24% trong năm 2001. Số các trung tâm đào tạo CNTT phi chính quy tăng từ 9 (năm 2000) lên 18 ( 2001) và 35 ( 2002), trong số đó các trung tâm Aptech chiếm 25% với số lượng 9 trung tâm. Sinh viên có thể có tấm bằng cử nhân CNTT với nhiều tên gọi khác nhau: Cử nhân tin học, cử nhân tin học quản lý, cử nhân tin học xây dựng… Về thựu tế, việc đào tạo chuyên ngành này sẽ giúp có được đội ngũ cán bộ tin học ứng dụng hiệu quả . Tuy nhiên, về chất lượng thì còn phải bàn lại vì không ít các trường lập khoa CNTT như một căn bệnh “phong trào”. Các cơ sở đào tạo đã vượt nhu cầu nhân lực về số lượng khả năng vài năm tới các trường ồ ạt tung ra hàng loạt chuyên viên CNTT chất lượng thấp là điều có thể nhìn thấy trước, nhưng trong bối cảnh đó , các cơ sở đào tạo chất lượng cao sẽ càng khẳng định được vai trò của mình đối với học sinh/sinh viên và nhà tuyển dụng qua sự khác biệt về chất lượng đầu ra. Quản lý nhà nước về đào tạo CNTT còn những bất cập như chưa thống nhất tên gọi ngành học , chương trình và nội dung đào tạo cho từng trình độ, chưa có tiêu chí chung về các điều kiện đảm bảo chất lượng về nội dung chương trình và trình độ của các chứng chỉ đào tạo tại các trung tâm đào tạo , bồi dưỡng tin học ở ngoài nhà trường. Từ thực tế trên cho thấy Nhà nước cần phải có chính sách hữu hiệu ngay từ bây giờ. Thứ nhất: Đào tạo chuyên gia CNTT. * Các khoa CNTT trọng điểm đã được sự đầu tư của Nhà nước cần mở rộng lớp đào tạo chuyên gia phần cứng và phần mềm để có thể tránh sự thiếu hụt . * Dần dần từng bước xây dựng hạ tầng CNTT vững chắc, tạo thuận lợi cho chuyên gia phần mềm có điều kiện phát huy. * Có chính sách tập hợp các chuyên gia tin học toàn quốc nhằm lập ra các đề án phát triển lớn , qui mô; phải có chính sách kinh tế thu hút họ lại. *Song song với việc đào tạo trong nước, cần mở rộng cho nghiên cứa tại nước ngoài. Nhưng nhất thiết phải có chính sách và cam kết đòi hỏi những người đi du học trở lại Việt Nam làm việc để tránh tình trạng chảy máu chất xám như hiện nay. Thứ hai: Liên kết với các tổ chức nước ngoài về đào tạo tin học cho TMĐT. - Tham gia các hội thảo của khu vực ASEAN cùng học hỏi kinh nghiệm . - Tranh thủ vốn đầu tư, liên doanh từ bên ngoài cùng với khoa học công nghệ từ phía nước ngoài. - Tìm kiếm nguồn tư liệu mới từ nước ngoài biên dịch phổ biến ngay. - Tập hợp các chuyên gia trong và ngoài nước xây dựng và cập nhật giáo trình đào tạo phù hợp với điều kiện Việt Nam. Thứ ba: Với dân chúng. - Có chương trình đào tạo tin học về tận các trường phổ thông. Cần có vốn để đầu tư trang thiết bị đảm bảo điều kiện dạy và học tin học để phát triển đồng bộ . - Đào tạo tin học cho mọi ngừơi không chỉ dừng lại ở bước đào tạo văn bản mà cần phải dạy cả ngôn ngữ lập trình. - Liên tục có các hội thảo và các cuộc thi nhằm nâng cao tầm hiểu biết và phát huy sáng tạo cho tin học nước nhà. - Nguồn nhân lực cho TMĐT là điều kiện sống còn lâu dài cho phát triển TMĐT, nó khẳng định được định hướng phát triển TMĐT có đúng đắn hay không. 4. Xây dựng tổ chức chuyên trách tư vấn. Quan điểm chỉ đạo và thực thi TMĐT liên quan đến rất nhiều ngành công nghệ sản xuất và quản lý kinh tế xã hội và an ninh quốc gia. Với nước ta cần có mô hình vừa có “Hội đồng quốc gia về TMĐT” như cơ quan tư vấn và vừa có “Uỷ ban quốc gia về TMĐT” như cơ quan pháp lý và điều hành. Đây là đầu mối quốc gia về kinh tế số hoá và TMĐT. * Hội đồng quốc gia về TMĐT: Gồm đại diện của các bộ ngành ( Bộ tài chính, Bộ kế hoạch và đầu tư, Bộ xây dựng, Bộ khoa học công nghệ và thông tin…..) và các doanh nghiệp, tin học, thương mại….là một tổ chức cần có để hội tụ được kiến thức và nhìn nhận từ nhiều góc cạnh. Hội đồng đóng vai trò tư vấn là chủ yếu. * uỷ ban quốc gia về TMĐT. uỷ ban này có chức năng và quyền hạn ra quyết định chỉ đạo và xử lý giải quyết. Hội đồng và Uỷ ban sẽ là đầu mối vạch chiến lược cũng như chương trình hành động trước mắt, đồng thời chỉ đạo thực hiện chiến lựơc, tránh được xu hướng thiếu toàn diện hoặc cho là chưa thể làm gì với TMĐT hoặc tiến hành qúa nóng vội không thu được kết quả lại để lại hậu quả về chính trị và an ninh sau này. Trong khi vạch chiến lược, Hội đồng quốc gia và Uỷ ban quốc gia về TMĐT sẽ tham khảo chiến lược chương trình đã có của các nước kết hợp với đặc thù Việt Nam Kết luận Sự phát triển TMĐT một mặt là kết quả tất yếu khách quan của quá trình “số hoá”toàn bộ hoạt động con người, một mặt là kết quả của sự nỗ lực chủ quan của từng điều kiện mỗi nước trên bình diện tạo môi trường pháp lý và đường lối chính sách đồng bộ cho kinh tế số hoá nói chung và TMĐT nói riêng. TMĐT mở ra cơ hội lớn, cùng với thách thức mới, tham gia TMĐT để tận dụng cơ hội từ đây, và hạn chế rủi ro khả dĩ, mỗi nước phải có chiến lược chung về TMĐT, có chương trình tổng thể phương án hành động từng bước, có tổ chức chuyên trách tư vấn. Song cách nhìn nhận đánh giá, cách chuẩn bị triển khai và bước đi của mỗi nứơc khác nhau tuỳ theo đặc điểm và ý đồ của từng nước. Khoá luận tốt nghiệp với đề tài “Một số biện pháp để thúc đẩy phát triển Thương mại điện tử ở Việt Nam ” đã đề cập đến một số vấn đề sau: 1. Đề cập tới những nội dung cơ bản về thương mại điện tử: như khái niệm chung, lợi ích của việc ứng dụng thương mại điện tử và những yêu cầu của Thương mại điện tử. 2. Khoá luận đã nghiên cứu tình hình phát triển thương mại điện tử trên thế giới, mức độ sẵn sàng tham gia điện tử của các nước. Đặc biệt, khoá luận đã đi sâu nghiên cứu, tìm hiểu thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam và dự báo những nhân tố thuận lợi, khó khăn ảnh hướng đến sự phát triển thương mại điện tử ở Việt Nam. 3. Trên cơ sở phân tích, đánh giá thực trạng ứng dụng thương mại điện tử ở Việt Nam, khoá luận đã đề xuất một số giải pháp cơ bản thúc đẩy hoạt động thương mại điện tử ở Việt Nam phát triển lên một tầm cao mới, phục vụ cho sự nghiệp CNH, HĐH đất nước. Như ở phần Lời nói đầu tác giả đã trình bày, do trình độ bản thân còn hạn chế, hơn nữa Thương mại điện tử lại là lĩnh vực mới nên trong khoá luận chưa đề cập tới hết các lĩnh vực ứng dụng Thương mại điện tử ở Việt Nam. Em mong rằng sẽ được tiếp tục nghiên cúu ở các đề tài rộng hơn. Nhận thức được tầm quan trọng của TMĐT trong việc phát triển kinh tế và hội nhập với xu hướng chung của khu vực và thế giới , chúng ta hy vọng rằng Việt Nam đang từng bước khắc phục khó khăn, tận dụng triệt để những lợi thế của mình để tham gia vào hoạt động TMĐT, thúc đẩy phát triển TMĐT ở Việt Nam, đòi hỏi các cấp các ngành từ trung ương tới địa phương phải có sự kết hợp thống nhất thể hiện trên chiến lược chung và chiến lược tổng thể, chiến lược hành động thống nhất và đồng bộ , góp phần tạo bước nhảy vọt cho nước nhà. Tài liệu tham khảo 1. Chuyên đề: “Bàn về cơ sở pháp lý của Thương mại điện tử ở Việt Nam”. Viện Nghiên cúu khoa học pháp lý – Bộ Tư pháp, năm 2000. 2.“Hội tụ viễn thông và công nghệ thông tin trong kỷ nguyên mới” – Tổng Công ty Bưu chính Viễn thông Việt Nam – Trung tâm thông tin Bưu điện Nhà xuất bản bưu điện, 8 – 2002. 3. “Kinh tế Việt Nam 2001” – Viện nghiên cứu quản lý kinh tế trung ương - Nhà xuất bản chính trị quốc gia 2002. 4.“Tăng trưởng kinh tế và chính sách xã hội ở Việt Nam trong quá trình chuyển đổi từ 1991 đến nay” – TS. Lê Đăng Doanh, TS. Nguyễn Minh Tú -Nhà xuất bản lao động 2001. 5. “Tạp chí bưu chính viễn thông”, tháng 11 – 2002. 6. “Tạp chí bưu chính viễn thông”, 9/2001. 7. “Thời báo kinh tế Sài Gòn”, 23/7/2002. 8. “Thời báo kinh tế Việt Nam” số 115, 27/12/2000. 9. “Thời báo kinh tế Việt Nam” ngày 7/2/2001. 10. “Thời báo kinh tế Việt Nam” ngày 23/12/2001. 11. “Thương mại điện tử với phát triển doanh nghiệp vừa và nhỏ”. Tiến sỹ Hà Hoàng Hợp – Nhà xuất bản Thống kê - Hà Nội 2001. 12. “Thương mại điện tử”. PGS.TS. Vũ Ngọc Cừ, ThS. Trịnh Thanh Lâm – Nhà xuất bản Giao thông vận tải, Hà Nội 2001. 13. “Thương mại điện tử cho doanh nghiệp”. Trịnh Lê Nam, Nguyễn Phúc Trường Sinh – Nhà xuất bản khoa học kỹ thuật 2001. 14. “Thương mại điện tử”. ThS. Bùi Đỗ Bích, ThS. Lại Huy Hùng, ThS. Bùi Thiên Hà - Nhà xuất bản bưu điện 2002. 15. Địa chỉ các Website có các vấn đề về TMĐT: Nam/i-today/tip/e-commerce/muc_luc.htm www.thuongmaidientu.com Nam/i-today

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc19378.DOC
Tài liệu liên quan