Khóa luận Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu

Để ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu đảm bảo được mục đích kinh doanh là “Lợi Nhuận “ thì ngoài việc cần chú ý tới những vấn đề pháp lý, cũng như một số giải pháp đã đề cập và phân tích ở các phần trên thì các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng phải đặc biệt chú ý tới các thông tin thương mại cần thiết sau: - Cung và cầu, sự biến động của các nhân tố và tác động của chúng lên sự biến động của giá cả. - Giá hàng nguyên liệu trong trao đổi với sản phẩm. - Thống kê về số lượng và giá trị tính theo giá CiF hàng nhập khẩu. - Giá cước vận tải. - Thuế và chi phí nhập khẩu. - Nước cung cấp (hoặc sản xuất ), nước xuất khẩu. - Danh mục các nhà sản xuất. - Đặc tính, tiêu chuẩn sản phẩm. - Nguồn thông tin về giá cả của các nhà sản xuất. - Quy định về giá xuất khẩu ở nước người xuất khẩu - Chỉ số giá được sử dụng trong công thức tính giá và do các tổ chức của các nước xuất khẩu công bố chính thức. - Đánh giá nhu cầu:Sự thiếu hụt hàng nhập khẩu và chu kỳ thời gian của nó. - Đánh giá môi trường kinh tế chung và triển vọng của nó. - Thông tin về cung và cầu toàn cầu của hàng hoá hoặc sản phẩm đang kinh doanh. - Giá cả hiện hành và xu hướng dự đoán. - Tình hình vận tải và phí vận chuyển. - Tỷ giá hối đoái và xu hướng. - Lãi xuất trong nước và ngoài nước - VV.VV. Những nguồn thông tin mà tính chất toàn diện và chiều sâu nội dung của nó gần sát với yêu cầu của tổ chức nhập khẩu ( không nênh thiếu hoặc quá thừa những thông tin không cần thiết ) Những nguồn thông tin mang tính chất thời sự, được xuất bản định kỳ với mức độ vừa phải Những nguồn thông tin được tín nhiệm theo truyền thống về sự thành công của nhà xuất bản và sự đanhs gia của người sử dụng theo thời gian Điều tra "Khảo sát kinh tế của các bộ “, tổng cục, viện nghiên cứu, ngân hàng thương mại, hiệp hội kinh tế, các tuần báo chuyên đề.

doc83 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1476 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
xuất khẩu không có thiện chí, bởi vì: - Trường hợp thứ nhất:( hợp đồng không có quy định về việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá) hàng có như thế nào thì giao như thế đó, Sau này người nhập khẩu phát hiện được hàng thiếu phẩm chất thì sẽ tính. - Trường hợp thứ hai: (Hợp đồng quy định việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá là ở bến đi) người xuất khẩu không buộc phải mời giám định chuyên nghiệp mà có thể tự mình kiểm tra phẩm chất hàng hoá và như thế ngay cả khi hàng xấu, người xuất khẩu cũng có thể đưa ra kết luận là hàng phù hợp với phẩm chất hàng ghi trong hợp đồng. -Trường hợp thứ ba: (Hợp đồng quy định phẩm chất hàng hoá ở bến đi là quyết định):trường hợp này tương tự như trường hợp thứ hai, chỉ có điều khắc là kết quả kiểm tra này ràng buộc người nhập khẩu sẽ rất khó khăn trong việc bác lại kết quả kiểm tra đó. Nếu quy định việc kiểm tra phẩm chất hàng hoá là ở bến đến, hoặc việc kiểm tra phẩm chất hàng được tiến hành ở bến đến do cơ quan giám X của nước người nhập khẩu thực hiện, hoặc kiểm tra hàng hóa ở bến đến là quyết định thì cũng chưa hoàn toàn bảo đảm chắc chắn người xuáat khẩu sẽ giao hàng đúng phẩm chất. Bởi vì do người xuất khẩu không phải kiểm tra hàng ở bến đi và khi không có hàng tốt, người xuất khẩu vẫn cứ giao hàng kém phẩm chất để lấy tiền hàng hoá đã, nếu ở bến đến người xuất khẩu không phát hiện ra thì người xuất khẩu chat lọt, còn nếu người nhập khẩu phát hiện ra thì cũng phải mất nhiều thời gian mới có thể giải quyết được, hoặc trong trường hợp người nhập khẩu không tiến hành đủ thủ tục pháp lý, đủ bằng chứng, người bán vẫn có thể bác lại rằng người bán đã giao hàng đúng phẩm chất. Từ những điểm nêu trên đối với người nhập khẩu, cách quy định tốt nhất về kiểm tra hàng hoá là: - Kiểm tra phẩm chất hàng hoá ở bến đi trước lúc hàng lên tàu (lên phương tiện vận tải )do người nhập khẩu tiến hành. Hoặc - Kiểm tra hàng hoá ở bến đi do cơ quan giám định Y của nước người xuất khẩu tiến hành, ở bến đến người mua mời cơ quan giám định phẩm chất hàng hoá và kết quả của lần giám định này là quyết định. Tuy nhiên, quy định theo cách nào tuỳ thuộc vào người xuất khẩu là ai, ưu thế của họ trên thương trường như thế nào và quan trọng nhất là tuỳ thuộc vào kết quả của đàm phán giữa hai bên. 1.3- Về điều khoản số lượng: Đây là điều khoản quy định mặt lượng của hàng hoá được mua bán. Trong điều khoản này, ng]ời nhập khẩu phải tính đến đơn vị tính số lượng, bởi vì đơn vị tính số lượng là một trong những nguyên nhân hay dẫn đến sự hiểu lầm giữa các bên giao dịch. Sở dĩ như vậy là vì trong buôn bán quốc tế, nhiều đơn vị đo lường có cùng một tên gọi nhưng ở mỗi nước lại có một nội dung khắc nhau. Ví dụ một bao bông ở Ai Cập là 330 kg, ở Brãin là 180 kg... Hơn nữa, việc áp dụng đồng thời nhiều hệ thống đo lường (các đơn vị hệ mét, các hệ thống đo lường của Anh, Mỹ... )trong buôn bán quốc tế cũng là một nguyên nhâ n đáng kể khác. Chẳng hạn như theo hệ thống Mét tấn (Metric ton), 1MT =1000kg, nhưng theo hệ thống đo lường củÂnh, Mỹ 1 Short ton =907, 184 kg và một Long ton =1016, 047 kg. Như vậy, khi quy định điều khoản số lượng, người nhập khẩu nên quy định rõ đơn vị số lượng và hiểu rõ nội dung các đơn vị đó ở từng thị trường để tránh nhầm lẫn có thể xảy ra. Ngoài ra, từng loại hàng hoá cụ thể đều có những đặc điểm riêng mà người nhập khẩu cần chú ý tới khi quy định điều khoản số lượng, trọng lượng để tránh những rắc rối có thể xảy ra sau này. Chẳng hạn đối với những hàng hoá tính số lượng theo cái, chiếc, ... người nhập khẩu cần chú ý quy định hàng hoá một cách cụ thể (ví dụ, trong hợp đồng nhập khẩu máy chop X- quang quy định “số lượng 3 máy “) để buộc người xuất khẩu giao đúng số lượng như trong hợp đồng. Đối với những hàng hoá có khối lượng lớn, có thể quy định số lượng một cách phỏng chừng (Ví dụ trong hợp đồng nhập khẩu bông quy định “khoảng 3000 MT “). Quy định phỏng chừng như vậy, tức là người nhập khẩu đã giúp người xuất khẩu tránh được những khó khăn sau này trong việc thực hiện hợp đồng. Tuy nhiên, khi quy định trọng lượng phỏng chừng như vậy, người nhập khẩu cần chú ý tới địa điểm xác định số lượng, trọng lượng. Nếu lấy trọng lượng được xác định ở nơi gửi hàng (trọng lượng bốc - shipped weight) làm cơ sở để xem xét người xuất khẩu chấp hành hợp đồng, hoặc để thanh toán tiền hàng thì người nhập khẩu phải chịu rủi ro xảy ra trong quá trình chuyên chở hàng hoá. Vì vậy khi quy định số lượng hàng hoá theo dung sai, người nhập khẩu nên quy định số lượng, trọng lượng tại cảng đến. Ngoài ra người nhập khẩu trong từng trường hợp cụ thể còn nên chú ý quy định giá hàng của khoản dung sai để tránh không cho người xuất khẩu lợi dụng sự biến động giá cả của thị trường để làm lơị cho mình. Đối với hàng hoá dễ hút ẩm, hay có độ ẩm không ổn định, trọng lượng của nó trong thời tiết ẩm thường lớn hơn trong thời tiết khô hanh nên có khi người xuât khẩu đã lợi dụng đặc điểm này để giao hàng đủ trọng lượng nhưng thực tế lại là giao thiếu vì hàng hoá có độ ẩm cao. Chẳng hạn trong một hợp đồng nhập khẩu Lưu huỳnh quy định giao hành 17000 MT, độ ẩm tối đa là 0. 5%. Tuy nhiên, người nhập khẩu đã nhận được 17850MT với độ ẩm rất cao là 6. 43%. Có thể thấy rằng Lưu huỳnh tuy giao vượt quá số lượng quy định của hợp đồng là 850 MT nhưng nếu tính trọng lượng của lưu huỳnh theo như quy định trong hợp đồng là 0. 5%, người xuất khẩu mới giao 16791 MT và thiếu 209 MT Lưu huỳnh so với hợp đồng. Người xuất khẩu vì vậy đã phải bồi thường thiẹt hại cho người nhập khẩu. Giả sử trong trường hợp này, người nhập khẩu quên không quy định độ ẩm cho lưu huỳnh là 0. 5%thì việc đòi người xuất khẩu bồi thường thiệt hại là rất khó thực hiện vì giữa hai bên đã không quy định độ ẩm tiêu chuẩn, người xuất khẩu có thể chỉ quan tâm đến việc giao đủ trọng lượng hàng mà không cần quan tâm đến đô ẩm của hàng là bao nhiêu. Vì vậy, trong hợp đồng nhập khẩu, loại hàng dễ hút ẩm, người nhập khẩu cần chú ý quy định độ ẩm tiêu chuẩn để trọng lượng của hàng hoá được tính theo trọng lượng thương mại - trọng lượng hàng hoá có độ ẩm tiêu chuẩn. Như vậy người nhập khẩu mới có thể tránh được những tranh cháp phát sinh sau này. 2. Về điều khoản giao hàng * Về thời hạn giao hàng: Thời hạn giao hàng là thời hạn mà người xuất khẩu phải hoàn thành nghĩa vụ giao hàng. Người nhập khẩu cần quy định trong hợp đồng với người xuất khẩu thời hạn giao hàng một cách cụ thể và rõ ràng, chẳng hạn giao hàng chậm nhất là ngày 30/1/2000, hoặc tháng 3/2000 hoặc quý i/2000... Không nên quy định thời hạn giao hàng một cách chung chung, chẳng hạn như giao hàng nhanh, giao hàng ngay lập tức, giao hàng càng sớm càng tốt... Bởi cách quy định chung chung như vậy được giải thích ở từng nơi, từng vùng, từng nghành là khác nhau. Ví dụ: ở Mỹ “giao ngay “là giao trong vòng 5 ngày kể từ khi ký kết hợp đồng, nhưng trong bản “Quy tắc thực hành thống nhất tín dụng chứng từ - UCP 500”của phòng thương mại quốc tế giải thích, từ ngữ đó được hiểu là: yêu cầu gửi hàng trong thừi gian 30 ngày kể từ ngày mở thư tín dụng. Người nhập khẩu còn có thể quy định thời hạn giao hàng còn phụ thuộc vào các điều kiện khác: Ví dụ như giao hàng trong vòng 30 ngày sau khi mở L/C... nhưng cần phải chú ý rằng sau đó phải quy định cụ thể thời hạn mở L/C. * Về việc quy định giao hàng thành bao nhiêu chuyến: Việc quy định rõ ràng số chuyến chuyển hàng sẽ giúp người nhập khẩu chủ động trong việc nhận hàng, có trước các kế hoạch hoặc sử dụng hàng... do đó người nhập khẩu nên quy định rõ ràng và cụ thể giao hàng sẽ được giao thành bao nhiêu chuyến. * Về việc tải dọc hàng: Nếu quy định cho phép chuyển tải hàng hoá dọc đường vận chuyển, người nhập khẩu sẽ gặp nhiều rủi ro như nhầm lẫn, mất mát hàng hoá trong lúc chuyển tải. Vì thế, người nhập khẩu tốt nhất nên quy định hàng hoá không được phép chuyển tải. * Về địa điểm giao hàng: Việc lựa chọn địa điểm giao hàng có liên quan chặt chẽ đến phương thức chuyên chở hàng hoá và điêù kiện cơ sở giao hàng. Vì vậy người nhập khẩu cần xác định địa điểm giao hàng sao cho phù hợp với điều kiện cơ sở giao hàng và phương thức chuyên chở hàng hoá. Người nhập khẩu nên xác định rõ ràng cả cảng đi và cảng đến (ví dụ CiF hải phòng thì chỉ biết cảng đến chứ không biết cảng đi ). * Về thông báo giao hàng: Người nhập khẩu nên có những thoả thuận về nghĩa vụ thông báo giao hàng của người xuất khẩu . Thoả thuận này quy đinh về số lần thông báo và nội dung cần thông báo. Thông báo giao hàng giúp cho người nhập khẩu theo dõi được tình hình thực hiện hợp đồng của người xuất khẩu, dự kiến được ngày hàng về cảng, số lượng hàng hoá thực giao, tên đại lý tàu biển ở cảng đến... , căn cứ vào đó để người nhập khẩu chuẩn bị trước các thủ tục nhập khẩu, chuẩn bị thước phương tiện vận tải, kho tàng và như vậy người nhập khẩu có thể hoàn thành nghĩa vụ nhập hàng của mình một cách dễ dàng hơn. Vì vậy quy định điều khoản giao hàng một cách rõ ràng và cụ thể sẽ giúp người nhập khẩu bảo vệ quyền lợi của mình. 3. Về điều khoản thanh toán Trong trường hợp quy định thanh toán bằng thư tín dụng (letter of credit-L/C), người nhập khẩu cần chú ý tới các vấn đề sau: * Lựa chọn ngân hàng mở L/C: Người nhập khẩu tốt nhất nên lựa chọn một nhân hàng trong nước thông thạo nghiệp vụ ngân hàng, có uy tín cao ở trong nước cũng như tren thế giới. Như thế, người nhập khẩu không những tạo cho người xuất khẩu cảm thấy yên tâm rằng mình chắc chắn sẽ được thanh toán mà còn tạo được ấn tượng tốt cho người xuất khẩu về sự đứng đắn trong quan hệ làm ăn cuả công ty mình. Hơn nữa, người xuất khẩu cũng không yêu cầu L/C phải được xác nhận tại một ngân hàng nổi tiếng trên thế giới, do đó người nhập khẩu không phải chịu phí xác nhậm L/C và thực hiện nghĩa vụ thanh toán sau này được dễ dàng hơn. Việc mở L/C đòi hỏi người nhập khẩu phải ký trước tiền ký quỹ và trả thủ tục phí. Nếu lựa chọn ngân hàng trong nước, người nhập khẩu không những nâng cao được uy tín của ngân hàng trong nước, mà còn tránh được sự đọng vốn ở nước ngoài. * Lựa chọn L/C dùng để thanh toán: Thông thường người xuất khẩu thích lựa chọn L/C không huỷ ngang, có xác nhận và miễn truy đòi vì nó đảm bảo cho người xuất khẩu chắc chắn thu được tiền hàng và không phải truy hoàn lại tiền. Tuy nhiên, người nhập khẩu chỉ nên sử dụng L/C không huỷ ngang vì nếu đồng ý sử dụng loại L/C có xác nhận sẽ phải chịu xác nhận phí rất cao. Người ra khi lựa chọn L/C, người nhập khẩu nên hạn chế loại L/C chuyển nhượng vì nếu L/C được chuyển nhượng cho một thương nhân không đáng tin cậy thì hợp đồng sẽ không được đảm bảo thi hành tốt, có thể dẫn tới những rắc rối sau này cho người nhập khẩu. Trong trường hợp phải dùng L/C chuyển nhượng, người nhập khẩu nên có ý tránh việc chuyển nhượng cho người thứ ba không cùng quốc gia so với ngươì được hưởng lợi đầu tiên vì động đến luật pháp của quốc gia về việc chuyển nhượng rất phức tạp, quy định rõ chi phí hưởng lợi do người hưởng lợi chịu. * Thời hạn hiệu lực của L/C: Là thời hạn mà ngân hàng mở L/C cam kết trả tiền cho người xuất khẩu trình bộ chứng từ thanh toán trong thời hạn phù hợp với L/C. Thời hạn của L/C tính từ ngày mở đến ngày hết hạn hiệu lực của L/C. Khi xác định thời hạn hiệu lực của L/C, cần phải chú ý rằng ngày giao hàng phải là ngày trong thời hạn hiệu lực của L/C. Ngày giao hàng cách ngày mở L/C một khoảng cách hợp lý để người xuất khẩu chuẩn bị, kiểm tra bộ chứng từ thanh toán và luân chuyển nó đến ngân hàng trả tiền. Như vậy khi quy định thời hạn hiệu lực của L/C, người nhập khẩu cần nên xác định thời hạn mở L/C một cách hợp lý để tránh đọng vốn và chủ yếu là để người xuất khẩu sớm giao hàng. * Bộ chứng từ thanh toán mà người xuất khẩu phải trình cho ngân hàng trả tiền: Là nội dung chính của một thư tín dụng, bởi bộ chứng từ quy định trong thư tín dụng là một bằng chứng của người xuất khẩu chứng minh mình đã hoàn thành nghĩa vụ giao hàng và làm đúng với những điều của thư tín dụng. Nếu bộ chứng từ đó phù hợp với thư tín dụng, ngân hàng sẽ tiến hành trả tiền cho người xuất khẩu. Bộ chứng từ này gồm những loại nào, nhiều hay ít phụ thuộc vào yêu cầu của người nhập khẩu và các yêu cầu này phải được thoả thuận trong hợp đồng. Khi quy định bộ chứng từ thanh toán trong hợp đồng, người nhập khẩu cần chú ý xác định các loại chứng tờ cần thiết, số lượng của mỗi loại, yêu cầu về việc ký phát từng loại đó... - Việc áp dụng “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ số 500 bản sửa đổi năm 1993 “Đây là văn bản pháp lý thông dụng về tín dụng chứng từ của phòng Thương mại Quốc tế. Tuy nhiên, việc sử dụng bản quy tắc này mang tính chất tuỳ ý. Do vậy, nếu các bên tham gia muốn áp dụng thì phải dẫn chiếu tới trong hợp đồng. Và chính vì nó là quy phạm tuỳ ý, nên ngay cả khi dẫn chiếu tới trong hợp đồng, các bên vẫn có thể thoả thuận để sửa đổi một hay nhiều nội dung nào đó. Ngoài ra cũng giống như Incoterms, khi dẫn chiếu cần phải chú ý ghi cụ thể là “Quy tắc và thực hành thống nhất về tín dụng chứng từ số 500, bản sửa đổi năm 1993 “Vì bản quy tắc này đã được sửa đổi nhiều lần. - Trong nhiều trường hợp không phải lúc nào người nhập khẩu cũng lựa chọn được những hợp đồng thuận lợi cho mình nhất, vì việc thoả thuận các điều kiện hợp đồng phụ thuộc vào ưu thế của các bên trên thị trường. Chẳng hạn nếu thị trường thuộc về người xuất khẩu (trường hợp giá cả hàng hoá là đối tượng của hợp đồng có xu hướng tăng... )người xuất khẩu sẽ lựa chọn những điều khoản có lợi cho mình nhất nhưng bất lợi cho người nhập khẩu. Tuy nhiên nếu có thể, người nhập khẩu nên cân nhắc những vấn đề đã đề cập ở trên để có thể thoả thuận những điều khoản thanh toán có lợi cho mình nhất. 4.Về điều khoản bảo hành Nó bảo vệ lợi ích của người nhập khẩu và vì thế nhà nhập khẩu phải có những quan tâm thích đáng tới những vấn đề này. Trong điều khoản này, người nhập khẩu phải: - Xác định phạm vi đảm bảo của người xuất khẩu: ví dụ, cần quy định rõ, người xuất khẩu phải đảm bảo hàng hoá có khả năng làm việc bình thường, hay đảm bảo hàng hoá phù hợp với tiêu chuẩn ban hành và có khả năng làm việc tốt, hay đảm bảo cả tính hiện đại, tính kinh tế của hành hoá... - Xác định thời hạn bảo hành: Người nhập khẩu phải quy định thời những thời gian hàng hoá được bảo hành và mốc tính thời gian bảo hành. Thời gian bảo hành có thể dài hay ngắn phụ thuộc vào tính chất của ngoài hoá, tập quán của nghành hàng và cả vào tương quan giữa hai bên trên thị trường. Thời gian bảo hành có thể tính từ ngày hàng hoá được giao cho người nhập khẩu, hay từ khi đưa vào khai thác, sử dụng, trong trường hợp hàng hoá là máy móc, thiết bị... - Tránh nhiệm của người xuất khẩu trong thời hạn bảo hành: Người nhập khẩu phải quy định rõ, trong thời hạn này, nếu phát hiện thấy hàng hoá có những khuyết tật trong phạm vi được bảo hành hoặc không phù hợp vơí quy định trong hợp đồng thì người xuất khẩu phải chịu trách nhiệm như thế nào (sửa chữa khuyết tật của hàng hoá, thay thế hàng đã giao bằng hàng hoá mới phù hợp với hợp đồng, hoặc giảm giá hàng đã giao... ) - Người nhập khẩu cũng cần quan tâm đến nơi bảo hành sẽ được thực hiện Vì những hàng hoá là thiết bị máy móc thiết bị sẽ cồng kềnh , khoảng cách giữa hai bên mua bán rất xa nhau, chi phí vận chuyển lớn... nên không thể lúc nào cũng đưa hàng hoá đến cơ sở bảo hành ở nước người xuất khẩu được. - Ngoài ra, người nhập khẩu có thể quy định rõ ràng việc phân định chi phí vận chuyển máy móc, phụ tùng thay thế đến nơi bảo hành, chi phí đi lại, lưu trú của nhân viên bảo hành, hay việc bồi thường các phí tổn trong thời gian hàng hoá là máy móc ngừng hoạt động để sửa chữa, thay thế... 5. Về đièu khoản bất khả kháng ở điều khoản này người nhập khẩu phải thoả thuận với người xuất khẩu cách giải quyết khi gặp trường hợp bất khả kháng. Người nhập khẩu cần chú ý tới những vấn đề sau: Quy định bên gặp bất khả kháng phải thông báo ngay cho bên kia về trường hợp bất khả kháng. Quy định cơ quan có thẩm quyền xác định về trường hợp bất khả kháng. Quy định việc khắc phục hậu quả. Nếu có quy định việc kéo dài thời gian thực hiện hợp đồng thì phải quy định khoảng thời gian đó là bao nhiêu để nếu trường hợp bất khả kháng kéo dài quá thời hạn đó thì một bên sẽ được tuyên bố huỷ hợp đồng và được miễn trách. iii. Những giải pháp hạn chế rủi ro đối với việc thực hiện hợp đồng nhập khẩu 1. Những giải pháp đối với nghĩa vụ mà người nhập khẩu thực hiện theo hợp đồng nhập khẩu - Đối với việc mở L/C Hiện nay có rất nhiều các hợp đồng xuất nhập khẩu đã lựa chọn thư tín dụng (L/C) là phương thức thanh toán do những ưu điểm của nó. Khi hợp đồng quy định việc thanh toán được thực hiện bằng L/C, một trong những công việc đầu tiên mà người nhập khẩu làm trong bước thực hiện hợp đồng là việc mở L/C. Khi làm thủ tục mở thư tín dụng, ngươì nhập khẩu cần chú ý tới những vấn đề sau: - Thời hạn mở L/C:Người nhập khẩu nên cân nhắc thời điểm mở L/C(ví dụ không nên mở L/C ngay sau khi ký kết hợp đồng mua bán vì không loại trừ trường hợp bên bán không có khả năng giao hàng). Hơn nữa, việc mở L/C quá sớm còn làm cho người nhập khẩu còn đọng vốn. Tuy nhiên, nếu người nhập khẩu mở L/C quá chậm sẽ gây khó khăn cho việc giao hàng. Vì vậy, người nhập khẩu nên lựa chọn một thời hạn mở L/C hợp lý trước ngày giao hàng vừa đủ thời gian để cho người xuất khẩu chuẩn bị hàng và giao hàng đúng thời hạn, vừa tránh được việc đọng vốn. - L/C nên mở bằng điện hay bằng thư. - L/C được mở qua ngaqan hàng nào:Nếu trong hợp đồng hai bên đã có sự thoả thuận trước thì người nhập khẩu phải ghi rõ đơn xin mở L/C. Nếu chưa có sự thoả thuận trước, thì người nhập khẩu có thể bỏ trống để ngân hàng mở L/C tự lựa chọn một số ngân hàng đại lý của họ. Xác định loại L/C căn cứ vào quy định của hợp đồng. Ghi rõ tên, địa chỉ đầy đủ và địa chỉ điện tín của người hưởng lợi thư tín dụng. - Số tiền của L/C vừa phải được ghi bằng số, vưà phải được ghi bằng chữ, số tiền bằng chữ và bằng số phải thống nhất với nhau. Tên của đon vị tiền tệ phải ghi rõ và phù hợp với hợp đồng. - Thời hạn hiệu lực của L/C:Người nhập khẩu khẩu phải mở thư tín dụng có thời hạn hiệu lực theo đúng thời hạn hiệu lực của hợp đồng. Nếu người nhập khẩu mở L/C có thời hạn hiệu lực sai khắc với quy định hợp đồng thì người xuất khẩu khi kiểm tra L/C thấy sai khác sẽ yêu cầu người nhập khẩu sửa đổi thư tín dụng theo đúng yêu cầu đã quy định trong hợp đồng. Như vậy, việc mở L/C có thời hạn hiệu lực đúng với thời hạn hiệu lực đã quy định trong hợp đồng sẽ giúp người nhập khẩu không mất thời gian sửa đổi và để người xuất khẩu có ấn tượng không tốt về doanh nghiệp của mình. -Thời hạn trả tiền của L/C (Date of payment)Là thời hạn trả tiền ngay hay trả tiền về sau. Thời hạn này hoàn toàn phụ thuộc vào quy định của hợp đồng. Thời hạn trả tiền có thể nằm trong thời hạn hiệu lực của L/C nếu như trả tiền ngay, hoặc có thể nằm ngoài thời hạn của L/C nếu như trả tiền có kỳ hạn. Song nếu là hối phiếu có kỳ hạn nó phải được xuất trình để chấp nhận trong thời hạn hiệu lực của L/C. - Thời hạn giao hàng (Dade of shipment) cũng được ghi vào L/C và do hợp đồng mua bán, ký kết giữa hai bên quy định. - Chứng từ thanh toán:Mỗi loại chứng từ thanh toán thường qua ba bản, nếu người nhập khẩu cần nhiều hơn có thể yêu cầu trong L/C. Bộ chứng từ có thể bao gồm: 1- Vận đơn đường biển gốc (Original Bill of lading ) 2- Hoá đơn thương mại (invoice) 3- Giấy chứng nhận số lượng (Citificate of quantity) 4- Giấy chứng nhận chất lượngCertificate of quality) 5- Giấy chứng nhận xuất xứ(Certificate of origin ) 6- Bảng kê chi tiết (Speclfication) 7- Phiếu đóng gói(Packing list) 8- Bảo hiểm đơn insurance polist) v... vv.. Người nhập khẩu theo nhu cầu của mình có thể đưa ra các yêu cầu riêng cho từng loại chứng từ, chẳng hạn 3/3 bản gốc vận đơn sạch đường biển, 2 bản gốc giấy chứng nhận xuất xứ do phòng Thương mại và Công nghiệp cấp, 2 bản gốc giấy chứng nhận phẩm chất do người sản xuất cấp... Trong trường hợp khoảng cách giữa người mua và người bán gần nhau, hành trình của hàng hoá nhanh hơn hành trình của chứng từ, người nhập khẩu có thể yêu cầu người xuất khẩu gửi 1/3bộ B/L gốc cùng với một bộ chứng từ gửi hàng không thể thanh toán được đến trước để người nhập khẩu có thể nhận hàng ngay khi hàng đến cảng đích Trong trường hợp này người nhập khẩu cần quy định rằng bộ chứng từ thanh toán mà nhười xuất khẩu sẽ xuất trình phải bao gồm cả biên lai chứng minh đã gửi 1/3 bộ L/C gốc cùng một bộ chứng từ gửi hàng không thể thanh toán được. -Về nội dung của hàng hoá: Tất cả các nội dung về hàng hoá như tên hàng, trọng lượng, quy cách phẩm chất, ký mã hiệu... đều được ghi một cách cụ thể trong L/C. Tuy nhiên, riêng có quy cách phẩm chất của hàng hoá có thể ghi “như đã quy định trong hựp đồng số X (As stipulated in the Contract No X”) nếu những quy định về quy cách phẩm chất của hàng hoá là rất chi tiết, cụ thể và phức tạp, khó có thể đưa vào L/C được. - Cách vận tải, nơi giao nhận, nơi bốc hàng... cũng phải được đưa vào trong L/C theo như đã quy định trong hợp đồng mua bán. - Số liệu, ngày ký và hai bên ký kết hợp đồng mua bán phải được ghi rõ vì hợp đồng mua bán là cơ sở để ngươì nhập khẩu mở thư tín dụng. Cần lưu ý khi mở L/C, người nhập khẩu có thể đưa vào L/C những điểm sửa đổi, bổ xung hợp đồng nếu khi ký kết hợp đồng do sơ suất đã quy định bất lợi cho mình. Nếu người xuất khẩu nước ngoài không kiểm tra L/C mà giao hàng hoặc kiểm tra mà không yêu cầu sửa đổi L/C thì những điểm sửa đổi bổ sung đó đã được chấp nhận. Nhưng nếu người xuất khẩu yêu cầu sửa đổi lại L/C thì người nhập khẩu phải điện thoả thuận thêm với người xuất khẩu, giải thích những điểm sửa đổi bổ sung đó, đề nghị người xuất khẩu chấp nhận. Còn nếu người xuất khẩu cương quyết không đồng ý thì người nhập khẩu cần phải cân nhắc, có thể quyết định theo một trong hai cách: Cách thứ nhất, sửa đổi L/C để cho người xuất khẩu giao hàng, nếu không người xuất khẩu không giao hàng, quy kết người nhập khẩu vi phạm nghĩa vụ L/C, tuyên bố huỷ hợp đồng, đòi phạt hoặc bồi thường thiệt hại. Cách thứ hai, nếu sửa đổi L/C thì số thiệt hại lớn hơn so với số tiền phạt do không thực hiện hợp đồng, hoặc mất giá cả hàng hoá vào lúc đó hạ xuống hơn mức tiền phạt thì không nên sửa L/C, chấp nhận trả tiền phạt sau này thì tốt hơn. Mở L/C là nghĩa vụ theo hợp đồng của người nhập khẩu (nếu hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C ). Vì vậy việc thực hiện không đúng (mở L/C chậm ), hay không thực hiện nghĩa vị này (không mở L/C ) là sự vi phạm hợp đồng của người nhập khẩu. Nó có thể dẫn tới những hậu quả như gây thiệt hại cho bên bán, hay làm chấm rứt giao dịch... và người nhập khẩu như vậy sẽ phải gánh chịu toàn bộ trách nhiệm do việc vi phạm hợp đồng của mình. Chẳng hạn như trường hợp hợp đồng mua bán xi măng Trung quốc số JET/HNi/98/06 ký ngày 30/03/1998 giữa hai công ty sau đây: Gọi là công ty A và công ty B. Theo hợp đồng, bên mua (Công ty A) phải mở thư tín dụng chậm nhất là ngày 08/04/1998 qua ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam tới ngân hàng thông báo là Banque National de Paris 20 Collyer Quay Tung Centre, Singapore 0104. Hàng giao theo điều kiện C&F cảng Đà Nẵng. Thực hiện hợp đồng, bên bán nên bán (Công ty B) đã giao 11564 MT xi măng lên tàu MUKACUEVO, vận đơn số 98 LXO 322 ký ngày 30/3/1998. Tàu đến cảng Đà Nẵng ngày 05/04/1998 nhưng do công ty A chưa mở L/C nên việc dỡ hàng không thể thực hiện được. Công ty B đã giục công ty A mở L/C nhưng đến ngày 19/04/1998 công ty B vẫn không tiến hành mở L/C. Do đó, công ty B đã bán lại lô hàng đó cho MEXiMCO Khánh Hoà Việt Nam, và tiến hành khiếu lại công ty A đòi bồi thường thiệt hại. Trong văn bản tự bảo vệ ngày 26/11/1998, công ty A đã trình bày rằng: Công ty B đã chào bán lô hàng này cho nhiều đơn vị Việt Nam nhưng đều bị từ chối. Để tháo gỡ khó khăn cho công ty B vì hàng đã được bốc lên tàu, công ty A đã ký hợp đồng mua lô hàng đó ngày 30/03/1998. Ký xong hợp đồng, Công ty A không mở được L/C do Ngân hàng Nông nghiệp Việt Nam xét thấy thương vụ không có hiệu quả nên rứt khoát không cho mở L/C. Tuy nhiên, công ty A đã giúp công ty B về thủ tục để tàu váo cảng và sau đó công ty B đã bán lại lô hàng đó cho công ty MEXiCO Khánh Hoà. Sau khi xem xét vụ kiện, hội đồng trọng tài đã phân tích sự việc như sau:Việc công ty A không mở L/C theo quy định của hợp đồng là một vi phạm nghĩa vụ hợp đồng. Việc ngân hàng nông nghiệp Việt Nam dứt khoát không cho mở L/C không phải là căn cứ miễn trách nhiệm về việc vi phạm hợp đồng. Vì vậy công ty A phải chịu mọi trách nhiệm về những thiệt hại do việc vi phạm hợp đồng của mình gây ra như tiền phạt do không dỡ hàng và tàu phải chờ, tiền giảm giá do bán lại hàng, lãi suất trên tổng số thiệt hại từ ngày công ty B phát đơn kiện đầu tiên (21/06/1998) đến ngày ban trọng tài xét xử (18/01/1999), cùng với chi phí trọng tài, tổng cộng lên tới 36. 751, 47 USD. Đây quả thật là một thiệt hại rất lớn và cũng là bài học kinh nghiệm để các đơn vị nhập khẩu xem xét, rút kinh nghiệm, tránh việc vi phạm nghĩa vụ mở L/C theo hợp đồng. - Về làm thủ tục nhập khẩu: Giấy phép nhập khẩu là một biện pháp quan trọng để nhà nước quản lý nhập khẩu. Thông thường, việc xin giấy phép nhập khẩu là nghĩa vụ theo hợp đồng của người nhập khẩu. Nếu không hợp đồng sẽ chấm dứt vì hàng hoá sẽ không được vượt qua biên giới vào Việt Nam, và vì những thủ tục này thuộc nghĩa vụ của người nhập khẩu, nên người nhập klhẩu sẽ phải chịu mọi tổn thất do rủi ro này gây ra. Vậy, người nhập khẩu trong mọi trường hợp phải cố gắng hoàn tất mọi thủ tục này để tránh các thiệt hại phát sinh sau này. 2. Những giải pháp đối với việc thực hiện nghĩa vụ xuất khẩu của người xuất khẩu nước ngoài. Mỗi hợp đồng xuất nhập khẩu đều có những đặc điểm riêng biệt của nó. Việc dự đoán các khả năng vi phạm hợp đồng của bên bán quả là một công việc khó khăn. Song nhìn chung, người xuất khẩu nước ngoài thường hay vấp phải một số lỗi sau đây mà người nhập khẩu phải đặc biệt chú ý tới: 2.1-Về việc người xuất khẩu giao hàng chậm: Giao hàng đúng thời hạn là một trong những nghĩa vụ theo hợp đồng mà người xuất khẩu phải thực hiện. Việc người xuất khẩu chậm giao hàng (Tức đã hết thời hạn giao hàng trong hợp đồng, người xuất khẩu nước ngoài vẫn không giao hàng. ). Việc chậm giao hàng này có thể dẫn tới hai trường hợp sau: - Người xuất khẩu giao hàng chậm (Tức là người xuất khẩu sẽ giao hàng sau khi hết hạn giao hàng một khoảng thời gian nhất định ) hoặc - Người xuất khẩu sẽ không giao hàng. Khi người xuất khẩu giao chậm hàng, người nhập khẩu cần phải tiến hành những công việc sau để bảo vệ quyền lợi cho mình: * Đầu tiên khi gần đến thời hạn giao hàng, người nhập khẩu điện nhắc nhở người xuất khẩu giao hàng. * Nếu đã hết thời hạn giao hàng mà người xuất khẩu vẫn chưa giao hàng thì người nhập khẩu phải lập tức gửi đi một bức điện báo cho người xuất khẩu biết về việc đã hết thời hạn giao hàng, đồng thời gian hạn giao hàng thêm một số ngày nhất định và giục người xuất khẩu giao hàng ngay. Còn đối với hợp đồng có thời hạn giao hàng cố định (ví dụ thời hạn giao hàng bán hoa tươi để bán vào dịp lễ mùng 8/3) thì không thể điện hàng hoá thêm được mà phải tuyên bố với người xuất khẩu huỷ hợp đồng. * Thông thường sau khi gửi đi bức điện giục người xuất khẩu giao hàng như thế, người nhập khẩu phải chờ một khoảng thời gian hợp lý, để người xuất khẩu thực hiện nghĩa vụ giao hàng. Trong khoảng thời hạn này, nếu người xuất khẩu giao hàng, người nhập khẩu sẽ nhận hàng và phạt người xuất khẩu giao chậm hàng (nếu trong hợp đồng có ghi phạt giao hàng chậm ) hoặc yêu cầu người xuất khẩu phải bồi thường thiệt hại do việc giao hàng chậm. *Nếu hết thời hạn gia hạn thêm mà người xuất khẩu vẫn không giao hàng thì người nhập khẩu có thể tuyên bố với người xuất khẩu là huỷ hợp đồng vì không thể chừ đợi lâu hơn nữa và buộc người xuất khảu phải nộp phạt hoặc bồi thường thiệt hại phát sinh do việc không giao hàng. Tuy nhiên, nếu vẫn cần hàng, người nhập khẩu có thể gia thêm hạn giao hàng hoặc chờ cho đến khi người xuất khẩu giao hàng rồi mới tiến hành khiếu nại, yêu cầu người xuất khẩu nộp phạt hoặc bồi thường các thiệt hại do giao hàng chậm. Khi người xuất khẩu giao hàng chậm, để có thể buộc người xuất khẩu bồi thường thiệt hại phát sinh, người nhập khẩu nhất thiết phải có các chứng từ có giá trị pháp lý sau chứng minh rằng người xuất khẩu đã giao hàng chậm: Vận đơn đường biển (B/L): là một chứng từ vận tải bao gồm có 3 chức năng là:biên lai nhận hàng để chở, chứng từ sở hữu hàng hoá, và là bằng chứng của hợp đồng vận tải. Do đó trên vận đơn có ghi rõ ngày mà người gửi hàng xếp hàng lên tàu. Như vậy, qua vận đơn đường biển, có thể xác định được ngày mà người xuất khẩu kết thúc việc giao hàng lên tàu, so sánh với thời hạn giao hàng trong hợp đồng hay trong L/C, người nhập khẩu qua đó có thể chứng minh người xuất khẩu có thể xác định thời hạn giao hàng đúng thời hạn hay không. - Thông đạt sẵn sàng (NOR): Thông thường khi tàu đến cảng thì lập tức tàu sẽ gửi thông đạt sẵn sàng cho người gửi hàng, sau đó kể từ ngày nhận được chấp nhận của người gửi hàng thì chủ tàu sẽ tính thời hạn bốc hàng. Đây là t trường hợp hợp đồng quy định thời hạn giao hàng trong một khoảng thời gian xác định nào đó. Dựa vào ngày tàu gửi NOR cho người xuất khẩu thì người nhập khẩu có thể xác định một cách chính xác thời hạn giao hàng được tính bắt buộc từ ngày nào và đối chiếu với ngày ký B/L để chứng minh việc người xuất khẩu có chậm trễ trong việc giao hàng hay không. Ví dụ:Thuyền trưởng giao NOR ngày 15/08/1998, người xuất khẩu nhận NOR ngày 16/08/1998, bốc hàng lên tàu mất 4 ngày, nhưng B/L lại ký vào ngày mùng 04/08/1998, song thời hạn giao hàng chậm nhất trong hợp đồng quy định là ngày 05/08/1998. Trong trường hợp này rõ ràng người xuất khẩu đã giao hàng chậm 15 ngày chứ không phải giao hàng đúng thời hạn. Thu thập các chứng từ chứng minh người xuất khẩu giao hàng chậm trên là việc làm hết sức quan trọng đối với nhà nhập khẩu bởi nó sẽ quyết định sự thành công hay thất bại do việc giao hàng chậm trễ gây lên. 2.2- Về việc giao hàng thiếu số lượng, trọng lượng: Như chúng ta đã biết, hàng hoá là đối tượng của hợp đồng xuất nhập khẩu thường phải vượt qua nửa chặng đường rất xa từ nước người xuất khẩu sang nước người nhập khẩu. Việc hàng hoá bị thiếu hụt so với trong hợp đồng có thể là do lỗi của người xuất khẩu, nhưng cũng có thể do lỗi của bên thứ ba. (người vận tải ). Vì vậy, khi nhận hàng, nếu phát hiện thấy sự thiếu hụt về số lượng, trọng lượng, người nhận hàng cần phải xác định sự thiếu hụt đó là do lỗi của ai (bên bán hay bên thứ ba ) để có các biện pháp sử lý kịp thời. Để chứng minh được việc hàng hoá thiếu hụt về số lượng, trọng lượng là do người xuất khẩu, người nhận hàng có thể dựa vào các căn cứ sau: -Vận đơn đường biển (B/L): do một trong ba chức năng của B/L là biên lai nhận hàng, trên B/L bao giờ cũng ghi số lượng hàng hoá thực tế đã xếp lên tàu ở cảng bốc hàng là bao nhiêu. Vì vậy căn cứ vào B/L có thể xác định được số lượng hàng xếp lên tàu ở cảng bốc thực tế là bao nhiêu do người xuất khẩu đã giao. So sánh số lượng hàng hoá ghi trong hợp đồng với số lượng hàng hoá ghi trong B/L, nếu thấy số lượng hàng hoá ghi trong B/L ít hơn thì rõ ràng là người xuất khẩu đã giao thiếu hàng. - Biên bản giám định số lượng, trọng lượng: Nếu biên bản này do cơ quan giám định cấp mà kết luận rằng hàng hoá bị thiếu trong các bao kiện cond nguyên đai, kẹp chì, hay hàng hoá bị thiếu so với phiếu đóng gói hoặc số lượng, trọng lượng được ghi trong bao kiện... thì rõ ràng việc giao thiếu hàng thuộc trách nhiệm của người xuất khẩu. Khi đã xác định hàng hoá là thiếu hụt do người xuất khẩu giao thiếu, thông thường người nhập khẩu thực hiện các công việc sau: * Lập tức gửi đi ngay một bức điện thông báo cho người xuất khẩu biết về tình trạng thiếu hụt về soó lượng, trọng lượng của hàng hoá. * Trong trường hợp đối với hàng rời hay không đồng bộ giao một chuyến, hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C, việc giao thiếu hàng của người xuất khẩu quá mức dung sai cho phép trong L/C có thể dẫn đến việc người xuất khẩu không được ngân hàng thanh to0án do xét thấy bề mặt của chứng từ (thể hiện là số lượng hàng ghi trên vận đơn )không phù hợp với L/C. Thông thường ngân hàng sẽ hỏi ý kiến người nhập khẩu về vấn đề này. Trong trường hợp này người nhập khẩu nên chỉ thị cho ngân hàng trả tiền cho người xuất khẩu số tiền tương ứng với phần hàng thực giao để lấy chứng từ đi nhận hàng. Sau đó, nếu vẫn có nhu cầu về số hàng giao thiếu, người nhập khẩu có thể yêu cầu người xuất khẩu giao bù cho đủ số hàng còn thiếu và thanh toán bằng TTR và yêu cầu người xuất khẩu bồi thường các thiệt hại phát sinh. * Trường hợp hàng hoá đồng bộ, nếu hàng giao thiếu là những bộ phận, phụ tùng, đồ thay thế... người nhập khẩu có thể yêu cầu người xuất khẩu giao hàng bù cho đủ phần thiếu với chi phí của người xuất khẩu và bồi thường các thiệt hại phát sinh. Nếu hàng giao thiếu là những bộ phận quan trọng, chủ chốt và do thiếu phần này, hàng giao không hoạt động được, người nhập khẩu phải yêu cầu người xuất khẩu giao hàng ngay lập tức phần hàng còn thiếu này, yêu cầu người xuất khẩu bồi thường các thiệt hại do đình trệ sản xuất và các chi phí phát sinh khác. Nếu người xuất khẩu lúc này không có khả năng giao nốt số hàng còn thiếu, người nhập khẩu có thể đề nghị tự mua số hàng này với chi phí của người xuất khẩu. Trường hợp nếu người xuất khẩu im lặng hay từ chối đề nghị đó thì nhười xuất khẩu phải khởi kiện người xuất khẩu để bảo vệ quyền lợi của mình. Người xuất khẩu giao hàng thiếu số lượng hay trọng lượng tức là người xuất khẩu đã vi phạm hợp đồng. Cũng như các trường hợp khác:Khi người xuất khẩu vi phạm hợp đồng, điều quan trọng nhất mà người nhập khẩu cần phải chú ý đó là việc thu thập các chứng từ để chứng minh việc vi phạm hợp đồng của người xuất khẩu. Có như vậy, người nhập khẩu mới có thể thành công khi thương lượng hay kiện người xuất khẩu về việc vi phạm hợp đồng. 2.3-Về việc giao hàng kém phẩm chất. Giao hàng đúng quy cách phẩm chất như đã quy định trong hợp đồng là nghĩa vụ quan trọng mà người xuất khẩu phải thực hiện. Tuy nhiên, đây là nghĩa vụ mà người xuất khẩu hay vi phạm nhất khi thực hiện các hợp đồng xuất nhập khẩu. Khi người xuất khẩu giao hàng kém phẩm chất (giao hàng có phẩm chất sai khác so với phảm chất đã được quy định trong hợp đồng ), người nhập khẩu phải tiến hành các bước sau: - Người nhập khẩu phải mời cơ quan giám định đến giám định phẩm chất hàng hoá một cách kịp thời theo quy định của hợp đồng nhập khẩu. Cơ quan giám định có thể là cơ quan giám định trong hoặc ngoài nước. ở Việt Nam, theo quyết định số 1343/TM-PC của bộ Thương mại ra ngày 07/11/1994 về quy chế giám định hàng hoá xuất nhập khẩu, việc giám định hàng hoá xuất nhập khẩu vào Việt Nam sẽ do các tổ chức giám định độc lập và trung lập của Việt Nam được bộ thương mại cho phép hoạt động trong lĩnh vực này và các tổ chức giám định nước ngoài hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam thực hiện. Nếu hợp đồng quy định, hoặc hai bên mua bán cùng chỉ định một giám định nước ngoài giám định hàng hoá nhập khẩu vào Việt Nam, thì tổ chức giám định này phải uỷ thác qua một tổ chức giám định của Việt Nam, và tổ chức giám định của Việt Nam này sẽ đứng ra làm các thủ tục xuất nhập cảnh và xuất nhập khẩu cho các chuyên gia giám định nước ngoài và các phương tiện giám định nước ngoài vào Việt Nam. Cơ sở để giám định là tiêu chuẩn Việt Nam thuộc diện phải bắt buộc phải áp dụng, ngoài ra còn có các tiêu chuẩn quốc tế và các quy định mà các bên thoả thuận trong hợp đồng. Nếu biên bản giám định này kết luận hàng kém phẩm chất so với quy định của hợp đồng thì phải khiêú nại ngay người xuất khẩu, đưa ra các yêu cầu cụ thể, kèm theo biên bản giám định. Người nhập khẩu có thể đưa ra các yêu cầu như sau: - Buộc người nhập khẩu nhận hàng lại và trả lại tiền hàng cùng với các chi phí phát sinh khác trong trường hợp hàng giao sai mẫu tropng hợp đồng, hàng hoá không còn có thể sửa chữa được nữa hoặc hàng hoá có phẩm chất xấu tới mức không thể đáp ứng được mục đích sử dụng của hợp đồng, đặc biệt là đối với những mặt hàng dễ bị hư hỏng như hàng tươi sống. - Có thể chấp nhận toàn bộ lô hàng đó nhưng buộc người xuất khẩu phải nhân nhượng giảm giá hàng hay bồi thường các thiệt hại phát sinh trong trường hợp hàng giảm giá trị sử dụng như hàng tiêu dùng hay những mặt hàng mà phẩm chất được quy định theo chỉ tiêu kỹ thuật. - Buộc người xuất khẩu phải thay thế hàng khuyết tật bằng hàng mới có chất lượng phù hợp với hợp đồng với chi phí của mình trong trường hợp đã giao không thể sửa chữa được nhưng người nhập khẩu rất cần hàng và không muốn huỷ hợp đồng... - Buộc người xuất khẩu phải sửa chữa hàng đã giao và giảm giá hàng trong trường hợp đối tượng của hợp đồng là máy móc, thiết bị có thể sửa chữa được. Nếu người xuất khẩu chấp nhận và thực hiện theo các yêu cầu đưa ra trong đơn khiếu nại thì quyền lợi của người mua đã được đảm bảo. Nếu người xuất khẩu im lặng hoặc trả lời không chấp nhận thì người nhập khẩu phải mời người xuất khẩu sang nước mình để giải quyết vấn đề. Nếu người xuất khẩu chấp nhận sang thì hai bên có thể giải quyết thương lượng theo các cách. - Giảm giá hàng không cần giám định lại nếu người bán sau khi xem hàng không nhận là hàng kém phẩm chất và người nhập khẩu đồng ý. - Cả hai bên cùng làm giám định (hoặc cả hai bên cùng mời giám định thứ ba (giám định quốc tế )làm giám định hàng hoá. Kết quả của việc giám định này sẽ giàng buộc cả hai bên. Nếu kết quả giám định này kết luận phẩm chất của hàng hoá phù hợp với quy định trong hợp đồng thì người nhập khẩu phải chấm rứt việc đi khiếu nại. Nhưng nếu biên bản giám định kết luận hàng hoá có phẩm chất kém hơn so với hợp đồng thì người xát khẩu phải thực hiện các yêu cầu trong đơn khiếu nại của người nhập khẩu, nếu người xuất khẩu không thực hiện, người nhập khẩu phải tiến tới khởi kiện để bảo vệ quyền lợi của mình. Tuy nhiên, trong bất kỳ trường hợp nào, điều quan trọng mà người nhập khẩu cần phải chú ý là việc thu thập các chứng từ có giá trị pháp lý ràng buộc cả hai bên chứng minh việc hàng hoá có phẩm chất kếm hơn so với quy định của hợp đồng. Nếu không thực hiện việc này, người nhập khẩu có thể gặp phải những tranh chấp rất khó giải quyết. Chẳng hạn như trường hợp một công ty của Việt Nam, gọi là công ty A đã ký một hợp đồng nhập khẩu bột mỳ của ấn độ số CI/PHUYEN-VTH/95 SP 70 ngày 16/10/1998. Hợp đồng quy định chất lượng của hàng hoá sẽ được kiểm tra ở cảng đi và biên bản giám định có tính chất quyết định. Khi giao hàng ở cảng Thành phố Hồ Chí Minh, thuyền trưởng đã ký vào biên bản hàng dễ vỡ hư hỏng _COR ngày 30/12/1998 xác nhận 8919 bao bị ẩm ướt, rách vỡ, cứng... Sau đó ngày 04/01/1999, Công ty A đã mời ViNACONTROL đến làm giám định tổn thất số hàng ghi trong COR. ViNACONTROL đã cấp biên bản giám định tổn thất số hàng tổn thất với tổng số là 222, 421 MT là tổn thất xảy ra trên tàu trước khi dỡ hàng do nước ngọt gây ra. Tiếp đó công ty A lại mời VINACONTROL giám định bột mỳ để trong kho của mình. ViNACONTROL đã cấp biên bản giám định số 30160 A-G3, trong đó kết luận 57, 75 MT bột mỳ bị cứng, vón cục trước khi bốc xếp xuống hầm tàu tại cảng bốc hàng. Qua nhiều lần thương lượng không có hiệu quả, ngày 27/07/1999 công ty A đã khởi kiện ra trọng tài đòi bên bán phải bồi thường thiệt hại. Tuy nhiên uỷ ban trọng tài đã phân tích sự việc đó là: Do biên bản giám định chất lượng ở cảng đi có tính chất quyết định mà bên mua đã không yêu cầu bên bán làm biên bản giám định đối tịch (hay biên bản giám định quốc tế )nên biên bản giám định số 30160 A-G3 do ViNACONTROL cấp không có giá trị pháp lý ràng buộc bên bán và do đó, biên bản giám định hàng hoá ở cảng đi có giá trị cuối cùng. Vì vậy, yêu cầu của người nhập khẩu về việc buộc người xuất khẩu phải chịu trách nhiệm về 57, 75MT bột mỳ kém phẩm chất là không hợp lý và bị bác bỏ. Như vậy người nhập khẩu trong trường hợp trên phải chịu mọi tổn thất lớn do sơ xuất không mời giám định thứ ba làm giám định đối tịch cho hàng hoá mặc dù đã quy định rằng biên bản giám định phẩm chất ở bến đi có tính chất quyết định. 2.4- Về việc giao sai loại hàng so với quy định trong hợp đồng. Giao sai loại hàng so với quy định trong hợp đồng tức là giao hàng có mục đích sử dụng khác hẳn vơí mục đích sử dụng của loại hàng hoá quy định trong hợp đồng. Chẳng hạn, đối tượng mua bán là gạo nhưng người xuất khẩu lại giao Ngô. Hay với hợp đồng mua hoá chất axit axetic quy định hàm lượng chất chủ yếu phải là 99, 5%, tỷ lệ tất cả các hợp chất khác đều phải nhỏ hơn phần triệu, nếu người xuất khẩu giao loại axit axetic hàm lượng chất chủ yếu chỉ chiếm 98% thì tức là người xuất khẩu đã giao sai hàng bởi vì: - axit axetic 99,5% là hoá chất tinh khiết phân tích, dùng làm hoá chất để phân tích các hoá chất khác phục vụ cho mục đích nghiên cứu. - axit axetic có hàm lượng chất chủ yếu nhỏ hơn 99,5% là hoá chất không thể dùng làm hoá chất chuẩn để phân tích các hoá chất khác. Nó chỉ được dùng với mục đích công nghiệp như để sản xuất các hoá chất... Khi người xuất khẩu giao sai hàng, người nhập khẩu có thể áp dụng chế tài huỷ hợp đồng. Tuy nhiên, việc xác định người xuất khẩu giao sai loại hàng và việc người xuất khẩu giao hàng kém phẩm chất nhiều khi rất khó phân biệt. Khi gặp phải trương hợp người xuất khẩu giao sai loại hàng, người nhập khẩu trước hết cần phải chứng minh rằng người xuất khẩu đã giao sai loại hàng, so với quy định trong hợp đồng. Khi đã chứng tỏ được người xuất khẩu vi phạm nghĩa vụ hợp đồng như vậy, người nhập khẩu có thể có những cách giải quyết sau: - Buộc người bán thay thế hàng đúng quy định của hợp đồng và chịu các thiệt hại phát sinh. - Hoặc buộc người xuất khẩu phải nhận lại hàng, trả lại tiền hàng và bồi thường các thiệt hại phát sinh. 2.5- Về việc người xuất khẩu lập bộ chứng từ không phù hợp với L/C: Khi hợp đồng quy định thanh toán bằng L/C, để được thanh toán, người xuất khẩu phải lập một bộ chứng từ phù hợp hoàn toàn với L/C. Một bộ chứng từ thanh toán phù hợp với yêu cầu của L/C thì phải đạt được các yêu cầu sau: - Các chứng từ phải phù hợp với luật lệ và tập quán mà hai nước ký kết hợpp đồng đang áp dụng. - Nội dung và hình thức của chứng từ thanh toán phải lập theo đúng yêu cầu đề ra trong L/C, không được tự ý làm trái các quy định đó. - Những nội dung và các số liệu có liên quan giữa các chứng từ về hàng, số lượng, trọng lượng, giá cả, tổng trị giá, tên của người hưởng lợi... phải rõ ràng, thống nhất, không mâu thuẫn với nhau. Khi lập bộ chứng từ thanh toán, nếu người xuất khẩu vi phạm một trong những yêu cầu trên thì bộ chứng từ thanh toán đó sẽ được coi là không phù hợp và vì thế sẽ bị ngân hàng từ chối thanh toán. Như vậy , người nhập khẩu cũng sẽ không nhận được hàng vì không có các chứng từ hàng hoá để đi nhận hàng. Trong trường hợp phát hiện ra bộ chứng từ không phù hựp như vậy, ngân hàng bao giừ cũng hỏi ý kiến người nhập khẩu, người nhập khẩu có thể giải quyết vấn đề đó theo những trường hợp sau đây: - Yêu cầu người xuất khẩu ngay lập tức sửa chữa những sai sót hoặc bổ sung những chứng từ còn thiếu trong thơì hạn hiệu lực của L/C để người nhập khẩu nhận được các chứng từ đi nhận hàng. - Trường hợp bộ chứng từ có sai sót không đáng kể, người nhập khẩu có thể chấp nhận thanh toán bộ chứng từ, lấy chứng từ để đi nhận hàng. Trường hợp bộ chứng từ sai sót nghiêm trọng (chẳng hạn khiến người nhập khẩu không thể nhận được hàng ) người nhập khẩu từ chối thanh toán bộ chứng từ đó. - Trường hợp trên B/L ghi số trọng lượng lớn hơn số trọng lượng ghi trong L/C: Thông thường trong trường hợp như thế này để đảm bảo thanh toán tiền hàng theo hợp đồng, người nhập khẩu ký phát hai hối phiếu (một hối phiếu có số tiền bằng số tiền của L/C, một có số tiền vượt quá số tiền của L/C ) Trong trường hợp này ngân hàng cũng sẽ hỏi ý kiến người nhập khẩu. Người nhập khẩu có thể chấp nhận bộ chứng từ như vậy, tuy nhiên nếu không có nhu cầu với số hàng giao thừa, người nhập khẩu có thể từ chối thanh toán số hàng đó và trả lại số hàng đó cho người xuất khẩu vơí chi phí của anh ta. iV. Một số giải pháp khác đối với các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu nhằm hạn chế rủi ro trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Để ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu đảm bảo được mục đích kinh doanh là “Lợi Nhuận “ thì ngoài việc cần chú ý tới những vấn đề pháp lý, cũng như một số giải pháp đã đề cập và phân tích ở các phần trên thì các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu cũng phải đặc biệt chú ý tới các thông tin thương mại cần thiết sau: - Cung và cầu, sự biến động của các nhân tố và tác động của chúng lên sự biến động của giá cả. - Giá hàng nguyên liệu trong trao đổi với sản phẩm. - Thống kê về số lượng và giá trị tính theo giá CiF hàng nhập khẩu. - Giá cước vận tải. - Thuế và chi phí nhập khẩu. - Nước cung cấp (hoặc sản xuất ), nước xuất khẩu. - Danh mục các nhà sản xuất. - Đặc tính, tiêu chuẩn sản phẩm. - Nguồn thông tin về giá cả của các nhà sản xuất. - Quy định về giá xuất khẩu ở nước người xuất khẩu - Chỉ số giá được sử dụng trong công thức tính giá và do các tổ chức của các nước xuất khẩu công bố chính thức. - Đánh giá nhu cầu:Sự thiếu hụt hàng nhập khẩu và chu kỳ thời gian của nó. - Đánh giá môi trường kinh tế chung và triển vọng của nó. - Thông tin về cung và cầu toàn cầu của hàng hoá hoặc sản phẩm đang kinh doanh. - Giá cả hiện hành và xu hướng dự đoán. - Tình hình vận tải và phí vận chuyển. - Tỷ giá hối đoái và xu hướng. - Lãi xuất trong nước và ngoài nước - VV......VV... Những nguồn thông tin mà tính chất toàn diện và chiều sâu nội dung của nó gần sát với yêu cầu của tổ chức nhập khẩu ( không nênh thiếu hoặc quá thừa những thông tin không cần thiết ) Những nguồn thông tin mang tính chất thời sự, được xuất bản định kỳ với mức độ vừa phải Những nguồn thông tin được tín nhiệm theo truyền thống về sự thành công của nhà xuất bản và sự đanhs gia của người sử dụng theo thời gian Điều tra "Khảo sát kinh tế của các bộ “, tổng cục, viện nghiên cứu, ngân hàng thương mại, hiệp hội kinh tế, các tuần báo chuyên đề. Thông báo về chính sách xuất nhập khẩu của Chính phủ Các ấn phẩm của chính phủ về thống kê thương mại và kinh tế Báo cáo của các đại diện thương mại ở nước ngoài và của các tổ chức nước ngoài ở nước mình Các danh mục và hướng dẫn về luật lệ buôn bán, cơ cấu thuế, thủ tục hải quan và luôn được bổ xung thông tin mới nhất Văn phòng đại diện ở nước ngoài và đại diện thương mại nước ngoài tại nước mình Phòng thương mại của các hiệp hội kinh doanh và công nghiệp trong và ngoài nước Đại lý tại địa phương của những người cung cấp hàng ngoài nước Các nhà nhập khẩu khác cùng kinh doanh các sản phẩm tương tự Hội chợ thương mại, triển lãm... Các tổ chức dịch vụ (ngân hàng, vận tải ... ) Kết luận Qua nghiên cứu lý luận và thực tiễn hoạt động kinh doanh xuất nhập khẩu của các doanh nghiệp và nghiệp vụ liên quan tới quá trình đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu, chúng ta có thể thấy rằng các sự cố, rủi ro trong quá trình này trong nhiều trường hợp đối với nhiều nhà kinh doanh nhập khẩu là không thể tránh khỏi. Vì vậy vấn đề đặt ra cho các nhà kinh doanh nhập khẩu là làm sao có thể ngăn chặn từ xa các rủi ro, đảm bảo kết quả kinh doanh mong đợi. Quá trình đàm phán ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu là một quá trình tương đối phức tạp. Ngay từ các bước nghiên cứu thị trường, chọn đối tác, tới bước đàm phán, thoả thuận để đi đến ký kết và thực hiện hợp đồng luôn nảy sinh các yêu cầu đòi hỏi người nhập khẩu phải xem xét, nghiên cứu kỹ. Do đó, để trở thành một nhà kinh doanh am hiểu về nghiệp vụ, pháp luật, ngoại ngữ cũng như nghệ thuật đàm phán kinh doanh sẽ là một yếu tố quan trọng giúp cho các nhà nhập khẩu thành công trong mọi giao dịch. Nội dung của hợp đồng nhập khẩu cũng là một yếu tố giữ vai trò chủ chốt trong việc thành công hay thất bại của một giao dịch kinh doanh, bởi hợp đồng là một văn bản pháp lý quan trọng điều chỉnh quan hệ giữa người nhập khẩu và xuất khaảu nước ngoài. Ký kết được một hợp đồng nhập khẩu hợp pháp, chặt chẽ, đầy đủ, rõ ràng, người nhập khẩu bước đầu đã đảm bảo được quyền lợi của mình sẽ không bị vi phạm Với một hợp đồng như vậy, người nhập khảu không chỉ phòng ngừa được ý định vi phạm hợp đồng của người xuất khẩu mà khi ngươì xuất khẩu vẫn cố tình vi phạm hợp đồng, người nhập khẩu có thể dựa vào chính hợp đồng để buộc người xuất khẩu nước ngoài bồi thường cho mình tất cả những thiệt hại có thể phát sinh. Như vậy với một mong muốn phần nào giúp các doanh nghiệp kinh doanh xuất nhập khẩu tránh được rủi ro trong quá trình ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu đảm bảo được mục đích kinh doanh là lợi nhuận, luận văn đã đi sâu phân tích các nghiệp vụ liên quan đến một hợp đồng nhập khẩu nhằm đưa ra một số giải pháp hạn chế rủi ro cho các doanh nghiệp trong việc ký kết và thực hiện hợp đồng nhập khẩu. Tài liệu tham khảo 1. Giáo trình kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - PGS Vũ Hữu Tửu, NXB Giáo dục 1998 2. Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại - PGS Nguyễn Thị Mơ, PTS Hoàng Ngọc Thiết, NXB Giáo dục 1994 3. Làm thế nào để tránh rủi ro Pháp lý khi mua bán - Nocole Perry, NXB Pháp luật 4. Những quy định Pháp lý của Việt Nam và Công ước quốc tế về giao nhận hàng hoá Xuất Nhập khẩu - NXB TP HCM, 1993 5. Incoterm 1990 và hướng dẫn sử dụng incoterm 1990 6. Hướng dẫn thực hành kinh doanh Xuất Nhập khẩu tại Việt Nam - PGS - TS Võ Thanh Thu, TS Đoàn Thị Hồng Vân , NXB Thống kê 7. Thực tiễn giải quyết tranh chấp phát sinh từ hợp đồng Xuất Nhập khẩu -Bài học kinh nghiệm. —Trường Đại học Ngoại thương , 1997 8. Cẩm nang nghiệp vụ Xuất Nhập khẩu, NXB TP HCM 1993 9. Giáo trình thanh toán quốc tế –PTS Đinh Xuân Trình , NXB Giáo dục 1996 10. Quyết định số 2578/QĐ -TĐC của Bộ trưởng Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường ngày 28/10/1996 về việc kiểm tra nhà nước về việc kiểm tra nhà nước đối với chất lượng hàng hoá xuất nhập khẩu. 11. Quyết định số 1343 /TM-PC của bộ Thương mại -ra ngày 07/11/1994 về quy chế giám định hàng hoá xuất nhập khẩu. 12. Báo thương mại các số năm 1999-2000. 13. Luật thương mại - nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 14. Công ước Viên năm 1980. 15. Công ước Lahay năm 1964.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docluan van tot nghiep.doc
Tài liệu liên quan