Khóa luận Một số rào cản về luật pháp và văn hóa đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp

Người dân Mỹ nói chung và thương nhân Mỹ nói riêng rất có tinh thần tôn trọng pháp luật. Mọi mối quan hệ nếu nảy sinh tranh chấp rất có thể được xem xét, phán xử tại toà án Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ là nước có hệ thống luật pháp vô cùng phức tạp, chủ yếu lại là luật án lệ (case law), khiến cho các thương nhân Việt Nam rất khó nắm bắt. Do đó để tránh vướng vào những rào cản do không hiểu luật, để bảo vệ quyền lợi của mình trước pháp luật, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự trợ giúp tư vấn của các luật sư. Sự tư vấn đúng lúc của họ sẽ rất có lợi cho các doanh nghiệp và cũng để các doanh nghiệp tránh được những rắc rối, tổn hại về uy tín hay tiền của. Mặt khác, không đâu trên thế giới này có nhiều toà án và luật sư như ở Mỹ. Tại Mỹ cũng không một vị giám đốc nào dám ký một hợp đồng mà không có luật sư của công ty kiểm tra trước. Vì thế, các đối tác Mỹ sẽ tỏ ra nghi ngờ khi thấy đại diện của đối tác Việt Nam sẵn sàng ký các hợp đồng do phía họ soạn thảo mà không có sự kiểm tra trước của các luật sư. Họ lo ngại rằng phía Việt Nam vì không đọc kỹ hợp đồng mà đã ký nên không đảm bảo khả năng thực hiện hợp đồng. Về phía Việt Nam, hàng loạt mẫu hợp đồng do đối tác đưa ra thường gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đàm phán. Không thể xem xét kỹ càng các hợp đồng này mà không có các luật sư. Vì vậy, có thể coi luật sư là một phần tất yếu trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam.

doc103 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1609 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số rào cản về luật pháp và văn hóa đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
an toàn vệ sinh và sức khoẻ của người tiêu dùng Mỹ. Từ năm 1998, chương trình kiểm soát dư lượng thuỷ sản nuôi đã được thực hiện trên các vùng nuôi tập trung của Việt Nam, kết quả giám sát thường xuyên được gửi đến Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ (FDA) và chương trình này đã được chính FDA công nhận. Sau khi các phương tiện thông tin đại chúng Mỹ làm rùm beng về chất lượng cá Catfish Việt Nam, vào tháng 11/2000, một đoàn 20 thành viên gồm các giáo sư của trường đại học Aubum, một số công ty nuôi và chế biến cá nheo Mỹ do Chủ tịch Hiệp hội nuôi cá nheo của Bang Alabama dẫn đầu đã sang Việt Nam tìm hiểu tình hình nuôi và chế biến cá tra và cá Basa tại các bè cá, ao nuôi và các nhà máy chế biến tại An Giang và Cần Thơ. Đoàn đã đánh giá tốt về công nghệ nuôi, chế biến, điều kiện đảm bảo an toàn vệ sinh thực phẩm của cá da trơn Việt Nam. Thứ ba, với việc buộc tội Việt Nam đã sử dụng tên cá Catfish trên nhãn hiệu hàng hoá để tạo sự nhầm lẫn đối với người tiêu dùng Mỹ, Mỹ muốn lưu ý đến vấn đề bảo hộ quyền sở hữu công nghiệp được ghi nhận trong luật pháp Mỹ. Tuy vậy, lập luận này cũng bị bác bỏ do: Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam khẳng định rằng các doanh nghiệp chế biến và xuất khẩu cá Tra và cá Basa của Việt Nam hoàn toàn không muốn hai loài cá trên của Việt Nam bị nhầm là cá nheo nuôi của Mỹ. Cá tra và cá Basa của Việt Nam là các loài cá đặc hữu của vùng Đồng bằng Châu thổ sông Mekong thuộc giống Pangasius, họ Pangasidae, bộ Siluriformer- bộ cá gồm hơn 2500 loài cá da trơn, phân bố trên khắp Thế giới, kể cả cá nheo Mỹ (Iclalurus punctatus). Về mặt khoa học và tập quán thương mại, không thể lấy tên một nhóm sản phẩm lớn của thuỷ sản Thế giới để dành riêng một loài nào trong số đó. Việc Mỹ muốn rằng chỉ có loài cá nheo Mỹ mới được mang tên Catfish là không thoả đáng. Về phía mình, các doanh nghiệp Việt Nam đã thực hiện nghiêm túc quyết định số 178/1999/QĐ-TTg của Thủ tướng chính phủ và các quy định của Bộ Thuỷ sản, Bộ Thương Mại về việc ghi nhãn mác hàng hoá. Trên tất cả các bao bì của sản phẩm thuỷ sản xuất khẩu đều ghi rõ dòng chữ tiếng Anh “Sản phẩm của Việt Nam” hoặc “Sản xuất tại Việt Nam” và thực hiện việc ghi đầy đủ cả tên khoa học lẫn tên thương mại theo đúng quy định của cơ quan quản lý nhà nước có thẩm quyền của Mỹ là Cục Quản lý Thực phẩm và Dược phẩm Hoa Kỳ đối với các sản phẩm xuất khẩu vào thị trường Mỹ. Cụ thể là: Đối với cá Basa- tên khoa học là Pangasius Bocourti, tên thương mại: Basa; Đối với cá tra- tên khoa học là Pangasius Hipophthalmus, tên thương mại: Swai Striped Catfish, Sutchi Catfish. Rõ ràng là quyết định của Hạ viện Mỹ đã đi ngược lại luận cứ khoa học và tập quán khoa học thông thường trên thế giới, đi ngược lại lợi ích của đông đảo người tiêu dùng Mỹ, chỉ nhằm bảo vệ lợi ích một nhóm nhỏ các chủ trại nuôi cá nheo của Mỹ. Vụ tranh chấp thương hiệu Cà phê Trung Nguyên 1/ Diễn biến Cà phê Trung Nguyên hiện là một nhãn hiệu cà phê rất được ưa chuộng ở Việt Nam và cũng đã được xuất khẩu sang Singapore, Nhật Bản, Hồng Kông, Trung Quốc, Úc…Tháng 7/2000, Trung Nguyên và Rice Field Corp. bắt đầu đàm phán về việc nhập khẩu cà phê Trung Nguyên sang Mỹ. Tháng 1/2001, hợp đồng đầu tiên được ký và cà phê Trung Nguyên đã có mặt trên thị trường Mỹ. Đến lúc này Trung Nguyên mới nghĩ đến việc đăng ký bảo hộ thương mại của mình. Thật bất ngờ, Rice Field Corp. đã nộp hồ sơ đăng ký từ tháng 10/2000 với nhãn hiệu “Trung Nguyên- Cà phê hàng đầu Buôn Mê Thuột” bằng tiếng Việt. Tháng 8/2001, Trung Nguyên lập tức khẩn trương nộp hồ sơ đăng ký với nhãn hiệu “Trung Nguyên- Nguồn cảm hứng sáng tạo mới” (bằng tiếng Anh) và yêu cầu tuyên bố vô hiệu đối với hồ sơ của Rice Field Corp. Chưa thấy hồ sơ nào được công nhận và vụ việc đang được các cơ quan chức năng của Mỹ xem xét. 2/ Phân tích Trong trường hợp của Trung Nguyên nổi lên một vấn đề lớn, đó là vấn đề thương hiệu và bảo hộ thương hiệu. Xét trên phương diện luật pháp, Trung Nguyên đã vướng vào một rào cản mà hiện nay cũng đang rất bức xúc trong nhiều vụ tranh chấp giữa các doanh nhân Việt Nam và Mỹ. Xét từ góc độ văn hoá thì vấn đề nằm ở chỗ Trung Nguyên chưa thực sự hiểu rõ về thị trường Mỹ cũng như đối tác đang làm ăn với mình. Do chưa hiểu rõ về thị trường Mỹ nên Trung Nguyên đã không nhận thức được tầm quan trọng của vấn đề thương hiệu và bảo hộ thương hiệu trên thị trường mới mẻ này. Cũng chính vì chưa nghiên cứu kỹ về đối tác nên Trung Nguyên đã quá tin tưởng, để đối tác "hớt tay trên". Trên thực tế, Trung Nguyên có nhiều cơ hội để thắng với việc áp dụng điều khoản 6bis Công ước Paris vì nhãn hiệu cà phê Trung Nguyên được coi là nổi tiếng ở Việt Nam, tuy vậy Trung Nguyên vẫn phải chịu hậu quả khá nặng nề do việc không quan tâm đủ đến vấn đề bảo hộ thương hiệu. Thiệt hại ước tính của Trung Nguyên trong vụ việc này lên đến gần một triệu USD, bao gồm các khoản phí thuê luật sư và thiệt hại do chiến lược kinh doanh mở rộng thị trường tại Mỹ bị chậm lại. Ngoài vụ Catfish và cà phê Trung Nguyên nói trên, còn nhiều vụ tranh chấp khác xảy ra trong thời gian vừa qua trong hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ. Ví dụ, trong ngành dệt may, Việt Tiến đã bị một Việt Kiều ở Mỹ đăng ký mất thương hiệu, Vinataba thì chưa xuất khẩu đã bị đăng ký sở hữu ở hàng chục nước. Các nhãn hiệu nổi tiếng của Việt nam như Vinatea, Vinacafe, bia Sài Gòn đều đã bị đăng ký ở nước ngoài, đặc biệt là Mỹ. Tôm Việt Nam vừa bị kiện là bán phá giá tại Mỹ,... Thực tế đó đòi hỏi các nhà xuất khẩu Việt Nam phải có cái nhìn nghiêm túc hơn về vấn đề rào cản và cấp thiết phải tìm ra những giải pháp vượt qua các rào cản nếu muốn đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu trên thị trường Mỹ. CHƯƠNG III MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM VƯỢT QUA RÀO CẢN LUẬT PHÁP VÀ VĂN HOÁ ĐỂ ĐẨY MẠNH XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 1. TRIỂN VỌNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 1.1 Những bước tiến mới trong quan hệ thương mại giữa hai nước Từ bình thường hoá quan hệ đến một Hiệp định thương mại song phương là một bước tiến dài trong lịch sử quan hệ hai nước nói chung và lịch sử quan hệ thương mại Việt- Mỹ nói riêng. Sau khi lệnh cấm vận được chính thức bãi bỏ, quan hệ thương mại hai nước đã có những chuyển biến rõ rệt. Để tạo điều kiện cho các doanh nghiệp Mỹ xâm nhập thị trường Việt Nam một cách dễ dàng hơn, tiếp đó chính quyền Clinton đã ban hành một loạt các điều chỉnh có tính chất nới lỏng trong chính sách kinh tế của mình đối với Việt Nam. Chẳng hạn như: Bộ Thương mại Mỹ đã chuyển Việt Nam từ nhóm Z lên nhóm Y với ít hạn chế thương mại hơn; Cơ quan Kiểm soát Tài sản nước ngoài của Mĩ (OFAC) cũng sửa đổi những quy định liên quan đến việc giao dịch tài chính và đảm bảo buôn bán bình thường với nước ta như: bỏ quy định phong toả hàng hoá và tài khoản của Việt Nam, cho phép các công ty Việt Nam đầu tư và xuất khẩu sang thị trường Mỹ; Bộ Vận tải và Bộ Thương mại Mỹ cũng đã tuyên bố bãi bỏ lệnh cấm tàu biển và máy bay Mỹ vận chuyển hàng hoá sang Việt Nam;... Đặc biệt, ngày 11/7/1995 đã đi vào lịch sử với việc Mỹ chính thức tuyên bố bình thường hoá quan hệ ngoại giao với Việt Nam, mở ra những cơ hội tốt đẹp cho phát triển các mối quan hệ, trong đó có quan hệ thương mại giữa hai nước. Kể từ đó, hai bên đã tổ chức nhiều cuộc tiếp xúc đi đến thoả thuận cùng nhau giữ mối liên lạc thường xuyên nhằm hỗ trợ cho doanh nghiệp hai nước đẩy mạnh hoạt động thương mại và đầu tư. Hai bên đã trao đổi với nhau không ít những thông tin hữu ích để đi đến bình thường hoá quan hệ về kinh tế thương mại, thông qua việc cử các phái đoàn xúc tiến thương mại, các doanh nghiệp sang thăm dò tìm hiểu thị trường của nhau. Hàng nghìn đoàn đại biểu bao gồm các doanh nhân từ khắp nơi trên đất Mỹ đã đến Việt Nam tìm kiếm cơ hội làm ăn, trong số đó có cả các phái đoàn cấp cao do Thống đốc bang, Thị trưởng thành phố hay Tổng giám đốc các tập đoàn lớn của Mỹ dẫn đầu. Về phía Việt Nam, Chính phủ Việt Nam cũng đã tổ chức cho hàng trăm doanh nhân sang du lịch tìm hiểu thị trường Mỹ và rất nhiều trong số này hiện đã có cơ sở vững chắc trên đất Mỹ. Một hoạt động xúc tiến thương mại tiêu biểu là việc tổ chức các cuộc triển lãm hàng xuất khẩu. Triển lãm hàng xuất khẩu đầu tiên của Việt Nam tại Mỹ được tổ chức lần đầu tiên ở San Francisco- Triển lãm VIETEXPORT’94 cũng đã gây được tiếng vang lớn. Với hơn 70 doanh nghiệp tham dự, Việt Nam đã phần nào giới thiệu cho nhân dân và các doanh nghiệp Mĩ về tiềm năng xuất khẩu của nước mình. Những nỗ lực không mệt mỏi của cả hai phía đã mang lại kết quả xứng đáng. Vào ngày 13/7/2000, Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ đã được ký kết, quy định một cách chi tiết kế hoạch cắt giảm hàng rào thương mại giữa hai nước. Theo đó, Việt Nam sẽ cắt giảm dần dần và hạn chế hàng rào thương mại đối với Mỹ. Ngược lại, ngay sau khi phê chuẩn Hiệp định, Mỹ sẽ cho Việt Nam hưởng quy chế Tối Huệ Quốc (quy chế quan hệ thương mại bình thường). Hiệp định này đã được Quốc hội Mỹ và Quốc hội Việt Nam phê chuẩn, chính thức có hiệu lực từ ngày 10/12/2001. Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ là một thành tựu lớn trong quan hệ thương mại giữa hai quốc gia. Hiệp định có hiệu lực sẽ mang lại cho hoạt động xuất khẩu của Việt Nam những cơ hội và thách thức mới. Điều đó đòi hỏi Chính phủ và đặc biệt là các doanh nghiệp Việt Nam phải có sự tìm hiểu, tính toán kỹ lưỡng và xây dựng được một lộ trình thích hợp để đưa hoạt động xuất khẩu đạt hiệu quả cao trong điều kiện hội nhập và cạnh tranh quốc tế ngày càng gay gắt. 1.2 Những cơ hội và thách thức chủ yếu 1.2.1 Cơ hội (i) Cơ hội mở rộng thị trường Thị trường Mỹ, như đã phân tích ở trên là thị trường lớn và hấp dẫn nhất. Mỹ có nền kinh tế hùng mạnh nhất Thế giới với tổng sản phẩm quốc nội (GDP) năm 2000 là 9500 tỷ USD. Trong 10 năm liên tục, kinh tế Mỹ luôn duy trì được tốc độ tăng trưởng cao chưa từng có trong lịch sử của mình kể từ sau Chiến tranh Thế giới thứ II (trung bình 3- 4%) và trong 5 năm gần đây, kinh tế Mỹ luôn được xếp là nền kinh tế có sức cạnh tranh nhất thế giới. Chỉ xét riêng một chỉ tiêu sau đây cũng có thể thấy sức mạnh kinh tế Mỹ: Mỹ chỉ cần tăng trưởng kinh tế 1% thì đã tạo ra một giá trị tuyệt đối lớn hơn giá trị tuyệt đối của 15% tăng trưởng của Trung Quốc. Chính tốc độ tăng trưởng này đã khiến cho nhu cầu và khả năng mua sắm hàng hoá của nhân dân Mỹ liên tục gia tăng. Kim ngạch nhập khẩu hàng năm của Mỹ rất lớn, chỉ tính riêng năm 1999 nhập khẩu đã đạt trên 1.228 tỷ USD, trong đó nhập khẩu hàng hoá tiêu dùng cá nhân (quần áo, giày dép, đồ điện gia dụng…) là 1.030 tỷ USD. Tổng dung lượng nhập khẩu hàng hoá của Mỹ hiện nay là lớn nhất Thế giới, hơn cả Liên minh Châu Âu (EU). Khi hiệp định có hiệu lực, Việt Nam sẽ được hưởng ưu đãi thương mại và do đó có điều kiện thuận lợi trong việc mở rộng thị trường. Chẳng hạn, trước hiệp định, doanh nghiệp Việt Nam xâm nhập thị trường Mỹ rất khó khăn do phải cạnh tranh không bình đẳng, hàng hoá Việt Nam phải chịu mức thuế suất rất cao. Khi Hiệp định được thực thi thì mọi hàng rào được dỡ bỏ, các doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam được đối xử bình đẳng trên thị trường Mỹ. Theo số liệu của Bộ Thương mại, tổng mức thuế đánh vào hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ (42 mặt hàng) khi được hưởng MFN sẽ được giảm từ 35% xuống còn 4,9%). Trong điều kiện này, Việt Nam có khả năng xuất khẩu tốt hơn và dự kiến kim ngạch xuất khẩu sẽ đạt khoảng 2,8-3 tỷ USD vào đầu năm 2005. (ii) Cơ hội về đầu tư Phần này đề cập đến tác động của cơ hội đầu tư đến xuất khẩu. Việc tăng cường thu hút đầu tư và chuyển giao công nghệ từ Mỹ và các nước tạo điều kiện để Việt Nam nâng cao chất lượng hàng hoá, tăng năng suất lao động, hạ giá thành sản phẩm. Nhiều nước, trước hết là các nước trong khu vực như Hàn Quốc, Nhật, Singapore, Thái Lan,… sẽ tăng cường đầu tư vào Việt Nam vì hàng hoá sản xuất tại Việt Nam xuất khẩu vào Mỹ có mức thuế suất thấp hơn. Bên cạnh đó, bản thân các nhà đầu tư Mỹ cũng sẽ vào Việt Nam nhiều hơn để tận dụng những lợi thế ở thị trường này sản xuất ra hàng hoá, sau đó xuất khẩu trở lại Mỹ và sang các nước khác. (iii) Cơ hội về việc làm và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực Hiệp định được thực thi sẽ tạo cơ hội cho xuất khẩu và từ đó, tạo điều kiện mở rộng sản xuất, đa dạng hoá ngành nghề, tăng cơ hội việc làm cho người lao động Việt Nam. Những thuận lợi mới về quan hệ đầu tư và thương mại sẽ giúp thu hút nhiều công ty nước ngoài, đặc biệt là những công ty lớn của Mỹ mở rộng hoạt động sang Việt Nam, thuê lao động Việt Nam. Do được cọ xát, học hỏi và đào tạo mà trình độ chuyên môn, nghiệp vụ, trình độ quản lý kinh doanh của người Việt Nam sẽ có cơ hội được cải thiện hơn. (iv) Cơ hội hợp tác tăng xuất khẩu sang Mỹ Mỹ là một trong những nền kinh tế phát triển nhất thế giới. Do đó khi Mỹ chú trọng vào phát triển các khu vực kinh tế mới và những ngành kinh tế mới, Mỹ sẽ chuyển các ngành sản xuất hàng hoá thông thường cho các nước khác và Việt Nam có thể tận dụng cơ hội này. Trong giai đoạn trước, theo mô hình “Đàn sếu bay”, Mỹ đã chuyển nhượng sản xuất sang Nhật Bản và một số nước Châu Âu khác, xuất khẩu trở lại Mỹ những mặt hàng có chi phí lao động thấp như dệt may, giày dép, thiết bị máy móc cơ bản, tivi, video,… Những mặt hàng này gần đây cũng được Mỹ chuyển sang các nước Châu Á khác như Đài Loan, Hàn Quốc, Singapore, sau đó là các nước ASEAN khác và hiện nay là Trung Quốc, Bangladesh và Việt Nam. 1.2.2 Thách thức (i) Về tiêu chuẩn chất lượng Các mặt hàng công nghiệp Việt Nam khi xuất vào thị trường Mỹ, cũng như xuất sang thị trường các nước công nghiệp phát triển khác đều phải đạt tiêu chuẩn quốc tế hoặc tiêu chuẩn tương đương. Đây là một khó khăn lớn đối với các mặt hàng công nghiệp Việt Nam vì hiện tại, số các doanh nghiệp Việt Nam được cấp công nhận những tiêu chuẩn này còn rất ít. Mặt khác, khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ, hàng Việt Nam, đặc biệt là các mặt hàng thực phẩm, đồ gỗ,... phải đảm bảo những yêu cầu rất khắt khe về chất lượng, vệ sinh. (ii) Về tính chất phức tạp của thị trường Mỹ Để hàng hoá Việt Nam vào được thị trường Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam ngoài việc nắm vững nhu cầu thị trường còn phải làm quen với tập quán, tác phong khi đàm phán, ký kết hợp đồng với các nhà kinh doanh Mỹ, phải tìm hiểu và nắm vững chính sách ngoại thương và hệ thống luật pháp của Mỹ. Điều này đặc biệt cần thiết do Mỹ là quốc gia có hệ thống luật pháp và chính sách thương mại vô cùng rắc rối và phức tạp. (iii) Về chênh lệch trình độ phát triển Nước ta vẫn đang trong quá trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế từ nông nghiệp sang công nghiệp, dịch vụ. Lao động nông nghiệp ở nước ta còn chiếm tỷ lệ rất cao. Hiện tại, Việt Nam vẫn là một trong số các nước thuộc nhóm nghèo nhất Thế giới. Với xuất phát điểm như vậy, việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế và xây dựng một nền kinh tế tri thức để có sự tương đồng với các đối tác là khó khăn không nhỏ. Cùng với trình độ đời sống vật chất, trình độ sản xuất không cao là một hệ thống luật pháp, chính sách quản lý kinh tế thương mại chưa hoàn chỉnh. Trình độ và năng lực cán bộ của ta còn nhiều hạn chế. Đây cũng là một trở ngại lớn đối với việc đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Tóm lại những bước tiến mới trong quan hệ thương mại hai nước, đặc biệt là Hiệp định thương mại Việt- Mỹ được kí kết đã mở rộng cánh cửa vào thị trường Mỹ cho các doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam. Dù vậy, trên thực tế vẫn còn không ít những rào cản, trở ngại, thách thức. Xuất khẩu sang Mỹ có tăng trưởng tương xứng với những thành tựu trên phương diện ngoại giao hay không, điều đó còn tuỳ thuộc vào việc các doanh nghiệp Việt Nam nhận thức, tận dụng những cơ hội và khắc phục những rào cản đó như thế nào. 2. PHƯƠNG HƯỚNG PHÁT TRIỂN HOẠT ĐỘNG XUẤT KHẨU CỦA VIỆT NAM SANG THỊ TRƯỜNG MỸ 2.1 Phương hướng và mục tiêu tổng quát cho hoạt động xuất khẩu nói chung Tại kỳ họp Quốc hội thứ 10 khoá X, Quốc hội đã thông qua Nghị quyết về kế hoạch 5 năm 2001-2005, xác định mục tiêu của cả nước là tăng tổng sản phẩm quốc nội (GDP) bình quân hàng năm là 7,5%/năm, trong đó, mục tiêu của riêng năm 2002 là 7- 7,3%. Trong nền kinh tế thị trường, giữa tăng trưởng tổng sản phẩm quốc nội và tăng tổng kim ngạch xuất khẩu có mối quan hệ tỷ lệ chặt chẽ. Trong điều kiện sức mua của người dân trong nước còn thấp, xuất khẩu đóng vai trò đặc biệt quan trọng đối với GDP. Qua số liệu thống kê, từ năm 1987 đến 2000, trừ một số năm cá biệt, ở nước ta, tổng kim ngạch xuất khẩu thường tăng cao hơn nhịp độ tăng tổng sản phẩm quốc nội với tỷ lệ 2/1 hoặc hơn nữa. Nói cách khác, tăng 1% GDP đòi hỏi phải tăng 2% tổng kim ngạch xuất khẩu trở lên. Do vậy Quốc hội cũng xác định mục tiêu tăng tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam trong giai đoạn 2001- 2005 là ở mức 14- 16%/ năm, năm 2002 là 10-13%. Các mục tiêu chủ đạo về kim ngạch và cơ cấu xuất khẩu cũng đã được nêu rõ trong Chiến lược phát triển Xuất nhập khẩu thời kỳ 2001-2010, theo đó: + Về kim ngạch: mục tiêu đề ra cho năm 2010 là khoảng 55 tỷ USD, gấp hơn 4 lần kim ngạch của năm 2000. Để đạt mục tiêu này, xuất khẩu phải tăng trưởng với tốc độ bình quân khoảng 15%/ năm. Đây là bài toán không dễ bởi xuất phát điểm của thời kỳ 2001-2010 đã cao hơn nhiều so với thời kỳ 1991-2010. Với những hạn chế còn tồn tại trong nhiều lĩnh vực, đặc biệt là những hạn chế mang tính cơ cấu thì việc gia tăng giá trị tuyệt đối ở mức trên 2 tỷ USD/ năm đòi hỏi phải nỗ lực cao độ. + Về cơ cấu: bản chiến lược đề ra định hướng tổng quát cho thời kỳ 2001- 2010 là tiếp tục tăng tỷ trọng của sản phẩm chế biến, chế tạo, chú trọng phát triển các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và trí thức cao, giảm dần tỷ trọng hàng thô. Theo hướng đó, đến năm 2010, tỷ trọng của nhóm hàng nguyên nhiên liệu và nông lâm hải sản sẽ giảm xuống còn khoảng 19-21% so với trên 40% hiện nay. Tỷ trọng của các mặt hàng chế biến, chế tạo sẽ tăng từ 30% lên khoảng 40-45% , trong đó chủ yếu là dệt may, giày dép, thủ công Mỹ nghệ, thực phẩm chế biến, sản phẩm gỗ, hoá phẩm tiêu dùng, sản phẩm cơ khí, điện và sản phẩm nhựa. Phần còn lại sẽ là các sản phẩm có hàm lượng công nghệ và chất xám cao như điện tử tin học. Mục tiêu kim ngạch đề ra cho nhóm này là 6-7 tỷ USD vào năm 2010, chiếm khoảng 12-14% kim ngạch xuất khẩu. + Về thị trường, các mục tiêu về kim ngạch, tốc độ và cơ cấu đã đặt ra yêu cầu cụ thể cho công tác thị trường. Để đáp ứng những mục tiêu này, công tác thị trường trong thời gian tới cần đi theo hướng: tích cực chủ động mở rộng thị trường, đa dạng hoá và đa phương hoá quan hệ với các đối tác để phòng ngừa các chấn động đột ngột; tận dụng mọi khả năng để tăng mức xuất khẩu trên các thị trường đã có song song với việc đẩy mạnh xuất khẩu vào các thị trường có tiềm năng nhưng hiện còn đang chiếm tỷ trọng nhỏ; tăng cường thâm nhập các thị trường mới như thị trường Mỹ, Mỹ Latinh, Châu Phi,... Trong đó, chủ động thâm nhập thị trường chỉ có thể trên cơ sở sức cạnh tranh của hàng xuất khẩu, của các doanh nghiệp được nâng cao. Song vấn đề chủ động phải được thực hiện không chỉ từ phía các doanh nghiệp mà còn phải từ phía Chính phủ thông qua các hoạt động hỗ trợ nhất định như hoạch định chiến lược và tổ chức thâm nhập thị trường một cách bài bản. Còn đa phương hoá vừa là điều kiện, kết quả của đa dạng hoá cơ cấu, vừa là giải pháp để phòng ngừa các chấn động đột ngột. Đa phương hoá hoàn toàn không có nghĩa là dàn đều tỷ trọng xuất khẩu trên tất cả các thị trường một cách tràn lan theo hướng “trăm hoa đua nở” mà cần phải được hiểu là cân bằng quan hệ với các đôí tác, tránh lệ thuộc quá nhiều vào một bạn hàng nào đó. Đa phương hoá nhưng vẫn phải duy trì tốc độ tăng trưởng trên tất cả các thị trường, tức là cần đạt được một tỷ trọng thị trường hợp lý thông qua kích thích tốc độ tăng trưởng trên tất cả các thị trường trọng điểm, không đơn thuần là chuyển dịch kim ngạch từ nơi này sang nơi khác. Với định hướng chung như vậy, Nhà nước ta dự kiến tỷ trọng cho các thị trường xuất khẩu như sau: Châu Á 46-50% Trong đó Nhật Bản 17-18% ASEAN 15-16% Trung Quốc, Đài Loan, Hồng kông 14-16% Châu Âu 27-30% Trong đó EU 25-27% SNG và Đông Âu 3-5% Bắc Mỹ (chủ yếu là Mỹ) 15-20% Australia và New Zealand 5% Các khu vực khác 2% 2.2 Phương hướng và mục tiêu đối với thị trường Mỹ Căn cứ vào những phương hướng và mục tiêu đề ra, có thể thấy rằng thị trường Mỹ giữ một vai trò đặc biệt quan trọng đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam trong thời gian tới. Theo những nhà hoạch định chiến lược của Việt Nam và các chuyên gia phân tích kinh tế, trong giai đoạn 2001-2010, xuất khẩu vào thị trường Bắc Mỹ, mà chủ yếu là thị trường Mỹ cần phải tăng mạnh để đạt được tỷ trọng vào khoảng 15- 20% vào năm 2010 so với 5-6% như hiện nay. Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam vào Mỹ theo dự tính phải đạt tới 8-10 tỷ USD so với khoảng hơn 1 tỷ như hiện nay. Những mặt hàng xuất khẩu chính của Việt Nam vào thị trường Mỹ sẽ là dệt may, giày dép, sản phẩm nhựa, sản phẩm cơ khí- điện, sản phẩm gỗ, đồ thủ công mỹ nghệ, hải sản, cà phê, hạt tiêu, nhân điều, chè, gia vị, rau quả và thực phẩm chế biến. Những mục tiêu nêu trên là hoàn toàn hợp lý và không quá tham vọng nhưng cũng đòi hỏi những nỗ lực rất lớn từ phía Doanh nghiệp và Chính phủ Việt Nam. Để hoàn thành những mục tiêu đó, trước mắt, phía Việt Nam cấp thiết phải có những giải pháp để loại bỏ những rào cản đang cản trở trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang Mỹ, mở đường cho hoạt động này phát triển ngày càng mạnh mẽ hơn. 3. MỘT SỐ GIẢI PHÁP VƯỢT QUA RÀO CẢN LUẬT PHÁP VÀ VĂN HOÁ 3.1 Các giải pháp vĩ mô từ phía Nhà nước Tăng cường các công tác tạo môi trường kinh doanh thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu sang Mỹ 1/ Đàm phán cắt giảm các hàng rào thương mại Trong phần trên, chúng ta đã đề cập đến vấn đề rào cản pháp lý do các quy định hạn chế xuất khẩu và bảo hộ của Mỹ. Những rào cản đó hoàn toàn có thể được loại bỏ hoặc giảm bớt nhờ hoạt động đàm phán của Nhà nước. Trong thời gian qua, Nhà nước ta đã thực hiện rất tốt công tác đàm phán với thị trường Mỹ. Việc Mỹ bỏ lệnh cấm vận đối với Việt Nam cho đến việc ký kết Hiệp định Thương mại song phương Việt- Mỹ là những thành công lớn của phía Nhà nước. Với cam kết của Mỹ cho Việt Nam hưởng quy chế Tối Huệ quốc được ghi nhận trong bản Hiệp định, hàng rào thuế quan đối với hàng hoá Việt Nam đã được cắt giảm đáng kể. Tuy nhiên, trong thời gian tới, Nhà nước cần phát huy chức năng này hơn nữa, đặc biệt là đàm phán để phía Mỹ nới lỏng các hàng rào phi thuế như hạn ngạch, lệ phí và đàm phán để thống nhất các tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn thực phẩm,... của hai nước nhằm tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho hàng Việt Nam xuất khẩu sang thị trường này. 2/ Cải thiện môi trường pháp lý trong nước Trước hết, Việt Nam cần sửa đổi các quy định liên quan trực tiếp đến hoạt động xuất khẩu. Như đã phân tích ở phần trước, các thương nhân Mỹ chỉ mong muốn được giao dịch trực tiếp với các đối tác Việt Nam chứ không phải với nhiều cấp, ngành như hiện nay. Cơ chế quản lý hoạt động xuất khẩu của Việt Nam vẫn còn rất phức tạp và chồng chéo đang là một vấn đề khiến họ lo ngại. Vì vậy, để tạo thuận lợi cho hoạt động xuất khẩu, Việt Nam cần có nhiều sự điều chỉnh. Ví dụ như: để đơn giản hoá cơ chế quản lý và cấp phép xuất khẩu, Nhà nước cần rà soát, giảm thiểu danh mục quản lý hàng hoá theo chuyên ngành; công khai hoá chính sách pháp luật liên quan đến xuất khẩu để doanh nghiệp có thể tự chủ hơn trong hoạt động kinh doanh của họ; phân định rõ hơn chức năng của các cơ quan quản lý, bãi bỏ những quy định sai thẩm quyền,... Cải thiện môi trường pháp lý còn nhằm tăng cường thu hút đầu tư nâng cao năng lực sản xuất trong nước, đặc biệt là năng lực sản xuất hàng xuất khẩu. Những hàng rào tiêu chuẩn kỹ thuật, vệ sinh, an toàn thực phẩm rất khắt khe được quy định cụ thể trong luật Mỹ cũng như đời sống cao và thói quen tiêu dùng của người Mỹ đòi hỏi hàng xuất khẩu của Việt Nam phải có chất lượng cao tương ứng. Muốn vậy, Việt Nam phải tích cực cải tiến nền sản xuất trong nước. Khi nguồn vốn trong nước còn quá nhỏ bé thì việc thu hút vốn đầu tư từ bên ngoài là một hoạt động có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Việc tăng cường thu hút đầu tư nước ngoài không chỉ giúp giải quyết vấn đề thiếu vốn mà còn có tác động mạnh đến trình độ công nghệ và năng lực của đội ngũ lao động. Vì vậy, Việt Nam cần chú ý cải thiện môi trường đầu tư để thu hút đầu tư trực tiếp, đặc biệt là thu hút đầu tư từ các tập đoàn xuyên quốc gia và các nhà sản xuất theo phương thức “Chìa khoá trao tay”. Trong số các yếu tố của môi trưòng đầu tư, đáng quan tâm nhất đối với Việt Nam là môi trường pháp lý. Nhà nước ta cần nỗ lực hoàn thiện hệ thống luật pháp sao cho ngày càng gần luật quốc tế và phải đảm bảo được tính ổn định, chặt chẽ của luật pháp vì một trong những lý do khiến nhà đầu tư nước ngoài còn ngần ngại chính là sự mâu thuẫn và thay đổi liên tục trong hệ thống luật pháp của chúng ta. 3.1.2 Thông tin thương mại xúc tiến xuất khẩu Ngoài chức năng đàm phán nhằm giảm bớt các rào cản đối với hoạt động xuất hàng sang Mỹ của các doanh nghiệp xuất khẩu Việt Nam, Nhà nước còn cần thực hiện tốt chức năng thông tin thị trường và xúc tiến xuất khẩu. Tác dụng của hoạt động thông tin thương mại là: giúp các doanh nghiệp xuất khẩu của ta nắm được những thông tin về thị trường Mỹ, nắm được hệ thống luật pháp và nền văn hoá Mỹ, từ đó tránh được hoặc khắc phục được những rào cản do tính chất phức tạp của những yếu tố này mang lại, tiếp cận nhanh chóng với thị trường Mỹ hơn. Trong thời gian tới, Nhà nước Việt Nam cần tăng cường mạnh mẽ công tác thu thập, nghiên cứu và phổ biến thông tin về thị trường Mỹ, từ tình hình chung cho đến các chính sách, quy định cụ thể về hoạt động xuất nhập khẩu của Mỹ. Việc phổ biến thông tin cho các doanh nghiệp Việt Nam có thể được tiến hành thông qua các hoạt động sau: Nhà nước lập các Website thông tin về thị trường Mỹ, đặc biệt là hoàn thiện trang chủ của Bộ Thương mại và tăng cường phát hành tài liệu theo chuyên đề. Nhà nước cần thường xuyên phối hợp với Chính phủ và các tập đoàn, công ty Mỹ tổ chức các cuộc hội thảo, các hội trợ triển lãm giới thiệu về thị trường Mỹ, lối sống, thói quen tiêu dùng của người Mỹ,... Trong đó Bộ Thương mại và Cục Xúc tiến thương mại phải thực hiện tốt vai trò chỉ đạo và tổ chức quản lý. Chức năng xúc tiến thương mại của Nhà nước cũng không kém phần quan trọng. Chức năng này được thực hiện chủ yếu bởi Bộ Thương mại và Tham tán thương mại. Tại thị trường Mỹ, Tham tán thương mại phải thực sự là tác nhân gắn kết doanh nghiệp xuất khẩu trong nước và các khách hàng Mỹ. Xúc tiến thương mại còn có thể thông qua việc thiết lập hệ thống các trung tâm thương mại tại các thành phố lớn như New York, Los Angeles, Boston... nhằm tạo cầu nối giảm chi phí giao dịch cho các công ty xuất nhập khẩu trong nước. Các trung tâm này do Nhà nước đứng ra bảo trợ hoặc kết hợp với các công ty Mỹ và Việt Kiều tổ chức. Bên cạnh đó, thương vụ cũng cần phát huy hơn nữa các biện pháp xúc tiến thương mại khác như phối hợp với các công ty trong nước tổ chức các cuộc triển lãm giới thiệu hàng hoá Việt Nam, lập hồ sơ về các công ty xuất khẩu của Việt Nam, mở Website giới thiệu hàng hoá Việt Nam trên mạng Internet,... Đặc biệt, nhà nước ta cũng mới lập ra một tổ chức mà hiện nay được coi như ngôi nhà chung của các doanh nghiệp tại thị trường Mỹ, đó chính là Trung tâm Xúc tiến Thương mại và đầu tư mang tên “VIET NAM EXPO” có trụ sở tại Long Beach- Canifornia- Mỹ. Trung tâm này được thành lập nhằm mục đích hỗ trợ cho các thành phần kinh tế Việt Nam đẩy mạnh xuất khẩu, tìm kiếm bạn hàng, thu hút vốn đầu tư từ thị trường Mỹ thông qua việc giới thiệu các loại sản phẩm, dịch vụ, dự án gọi vốn đầu tư nước ngoài của Việt Nam tới thị trường Mỹ. 3.1.3 Hỗ trợ cho các doanh nghiệp tăng cường đầu tư ra nước ngoài Hàng hoá của Việt Nam xuất sang thị trường Mỹ chịu sự hạn chế của các cơ chế quản lý nhập khẩu của Mỹ. Những rào cản này có thể được giảm bớt nếu hàng hoá được sản xuất trực tiếp tại Mỹ. Trong những năm gần đây, một số doanh nghiệp Việt Nam đã bắt đầu đủ sức vươn ra thị trường nước ngoài. Ngoài xuất khẩu trực tiếp, một số doanh nghiệp đã bắt đầu có nhu cầu mở các văn phòng giao dịch hoặc thậm chí đầu tư trực tiếp tại nước ngoài. Vì vậy, Nhà nước cần sớm có chính sách hỗ trợ doanh nghiệp đầu tư ra thị trường bên ngoài, cụ thể là Mỹ, đặc biệt là đầu tư trong khâu hoàn thiện nông sản, thực phẩm (thí dụ như chế biến và đóng gói chè, mỳ ăn liền,…) để tránh các hàng rào thuế quan và phi thuế quan do Mỹ đặt ra. Ngoài ra, Nhà nước cũng cần xoá bỏ thủ tục cấp phép thành lập văn phòng đại diện tại nước ngoài và đơn giản hoá thủ tục mở tài khoản để tạo thuận lợi cho giao dịch trên thị trường ngoài. 3.2 Các giải pháp về phía doanh nghiệp 3.2.1 Tăng cường tiếp cận, tìm hiểu về thị trường Mỹ Doanh nghiệp Việt Nam cần tăng cường tiếp cận, thu thập và phân tích thông tin về thị trường Mỹ. Việc thu thập và xử lý thông tin có ý nghĩa hết sức quan trọng đối với hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đặc biệt là những doanh nghiệp kinh doanh xuất khẩu sang thị trường Mỹ vì đối với Việt Nam, Mỹ là một thị trường còn rất mới, có nền văn hoá rất khác biệt với Việt Nam và một hệ thống luật pháp hết sức phức tạp. Doanh nghiệp Việt Nam có thể thu thập thông tin về thị trường Mĩ bằng các hình thức khác nhau, từ nhiều nguồn khác nhau. Tại Việt Nam, doanh nghiệp có thể tìm đến các địa chỉ sau: - Thương vụ thuộc Sứ quán Việt Nam tại Mỹ Phòng Bắc Mỹ- Vụ Âu Mỹ thuộc Bộ Thương mại Việt Nam Ban Xúc tiến thương mại Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Các Hiệp hội ngành hàng Doanh nghiệp cũng có thể thu thập thông tin từ các địa chỉ trên mạng, từ Website của Chính phủ, Bộ thương mại, Ngân hàng Dữ liệu quốc gia Mỹ,... Ngoài ra, thông tin về thị trường Mỹ còn có thể được tìm thấy qua các báo cáo nghiên cứu thị trường của các tập đoàn, các nhóm chuyên gia, các hiệp hội của Mỹ, qua các cơ quan phát triển của Nhà nước ở từng tiểu bang, qua các công ty tư vấn thương mại của Mỹ,... Những thông tin mà doanh nghiệp Việt Nam cần tìm hiểu bao gồm:: tình hình cung cầu trên thị trường Mỹ, các chính sách thương mại của Mỹ, hệ thống luật pháp Mỹ cùng các văn bản quy định hiện hành (đặc biệt là pháp luật thương mại mà cụ thể là các quy định hạn chế quản lý nhập khẩu, các luật lệ tập quán có thể trực tiếp điều chỉnh các hợp đồng xuất khẩu ký kết giữa thương nhân Việt Nam và thương nhân Mỹ, các hàng rào tiêu chuẩn của Mỹ), văn hoá Mỹ (đặc biệt là phong tục tập quán kinh doanh, thói quen tiêu dùng của người Mỹ), những thông tin về bạn hàng, đối thủ cạnh tranh,... Thông tin chuyên đề về từng lĩnh vực có thể tìm kiếm qua các địa chỉ cụ thể sau: - : thông tin về thị trường Mỹ. - :Thông tin về luật pháp Mỹ. - : Hỏi đáp về luật pháp Mỹ. - : Các thủ tục pháp lý khi xuất hàng sang Mỹ. - : Các vấn đề về Hiệp định thương mại Việt- Mỹ. - : thông tin về bạn hàng và đối thủ cạnh tranh. - : thông tin về các tập quán và cơ chế xuất nhập khẩu... Hình thức tìm kiếm thông tin trực tiếp và hiệu quả nhất là các doanh nghiệp Việt Nam tiếp xúc với thị trường Mĩ thông qua các hoạt động như cử người tham gia vào các phái đoàn sang nghiên cứu thị trường, tham gia triển lãm giới thiệu hàng xuất khẩu Việt Nam trên đất Mỹ, tham gia các cuộc hội thảo tiếp xúc với các đoàn đại biểu, các doanh nghiệp Mỹ,... 3.2.2 Xây dựng chính sách mặt hàng xuất khẩu hợp lý và thực hiện tiêu chuẩn hoá sản phẩm Chất lượng sản phẩm xuất khẩu vừa phải thoã mãn người tiêu dùng về mặt thực tế, vừa phải thoả mãn những quy định luật pháp của nước nhập khẩu. Thị trường Mỹ là thị trường có mức sống cao nên tương đối khó tính. Bởi vậy, các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất khẩu hàng hoá sang Mỹ cần xem xét một cách nghiêm túc chất lượng các sản phẩm có tiềm năng xuất khẩu của mình cũng như các điều kiện để được thị trường Mỹ chấp nhận. Bước đầu, do người tiêu dùng Mỹ chưa quen với hàng Việt Nam nên các doanh nghiệp cần chọn những mặt hàng có tính cạnh tranh cao và ít bị khống chế bởi các quy định pháp lý cũng như ít chịu ảnh hưởng khi thay đổi điều kiện thời tiết khí hậu. Về lâu dài, các doanh nghiệp phải có chính sách mặt hàng thích hợp dựa trên những thông tin thị trường sản phẩm chính xác, đảm bảo uy tín với người tiêu dùng Mỹ. Có như vậy mới có thể được người tiêu dùng Mỹ chấp nhận và mới có thể làm ăn lâu dài trên thị trường này được. Một trong những rào cản lớn đối với hàng hoá Việt Nam khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ là hàng rào tiêu chuẩn hết sức nghiêm ngặt của Mỹ. Để vượt qua rào cản này, khi đã xác định rõ các sản phẩm xuất khẩu chiến lược của mình, các doanh nghiệp Việt Nam phải tập trung tiêu chuẩn hoá sản phẩm. Các doanh nghiệp phải tuân thủ một cách nghiêm túc các quy định trong các tiêu chuẩn quốc tế mà Mỹ áp dụng như GMP (Tiêu chuẩn thực hành sản xuất tốt), HACCP (Tiêu chuẩn xác định tình trạng nguy hiểm) và ISO 9000. HACCP là một loại tiêu chuẩn được dùng để kiểm nghiệm hàng nhập khẩu của Mỹ. Chương trình kiểm soát vệ sinh an toàn chất lượng này được áp dụng với nhiều loại hàng trong đó có thuỷ sản, thực phẩm,... và từ lâu đã nổi tiếng vì sự khó khăn của nó cũng như việc nó không chấp nhận một tiêu chuẩn quốc tế nào khác, kể cả tiêu chuẩn kiểm tra chất lượng của EU. Muốn xây dựng được HACCP theo quy định của Mỹ, doanh nghiệp Việt Nam cần đảm bảo đầy đủ các điều kiện sản xuất bao gồm nhà xưởng, kho tàng, dây chuyền sản xuất, máy móc thiết bị và cả con người theo các quy định cơ bản GMP (Good Manufacture Procedure) và của SSOP (Sanitation Standard Operating Procedure- Tiêu chuẩn vệ sinh). 3.2.3 Đăng ký thương hiệu tại thị trường Mỹ Những vụ tranh chấp lớn xảy ra trong thời gian vừa qua đã giúp cho các doanh nghiệp rút ra bài học là phải quan tâm đúng mức đến vấn đề thương hiệu. Nếu một hãng có uy tín của Việt Nam không đăng ký nhãn hiệu cho sản phẩm của mình, để một công ty khác cũng đăng ký nhãn hiệu đó thì điều này gây tác hại giống như trường hợp hàng giả, hàng nhái. Hậu quả là người tiêu dùng dễ nhầm lẫn hàng của các hãng này với hãng khác kém chất lượng, dẫn đến tẩy chay cả hàng chính hãng, hoạt động xuất khẩu do đó gặp rất nhiều khó khăn. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam phải quan tâm nhiều hơn đến vấn đề bảo vệ thương hiệu. Khi bắt đầu có ý định thương mại hóa sản phẩm trên thị trường Mỹ là phải nộp đơn đăng ký bảo hộ thương hiệu lên USPTO để tránh trường hợp bị đối tác Mỹ “hớt tay trên”. Hiện nay, nhiều doanh nghiệp Việt Nam xuất hàng sang Mỹ qua trung gian, sản phẩm của doanh nghiệp mang các thương hiệu khác nhau do đối tác đặt nên nhiều doanh nghiệp chưa thấy được tầm quan trọng của việc đăng ký thương hiệu. Tuy vậy, nếu các doanh nghiệp dự định một chiến lược kinh doanh dài hạn, muốn nâng cao vị thế cho sản phẩm của mình và không phải dính líu vào bất cứ một vụ tranh chấp nào thì việc đầu tiên các doanh nghiệp phải nghĩ đến là xây dựng một nhãn hiệu cho riêng mình trên đất Mỹ. Mặt khác, chi phí đăng ký thương hiệu của Mỹ không cao và thà tốn vài nghìn USD lúc đầu còn hơn là mất hàng triệu USD khi có tranh chấp phát sinh. Một số điều cần chú ý khi đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ là: - Giá đăng ký nhãn hiệu hàng hóa trực tiếp tại Mỹ khoảng 1600 USD cho một nhãn hiệu (hay một nhóm nhãn hiệu). - Cơ quan để các doanh nghiệp nộp đơn đăng ký tại Mỹ là “Cục Sáng chế và Thương hiệu” (USPTO) ( mọi khiếu nại, đình chỉ, huỷ bỏ cũng có thể liên lạc tại USPTO. USPTO cũng cho phép đăng ký qua mạng (chi phí có thể thấp hơn), nhưng dù đăng ký trực tiếp hay qua mạng, doanh nghiệp cũng phải có địa chỉ liên lạc tại Mỹ. - Các thông tin cần chuẩn bị cho việc đăng ký nhãn hiệu hàng hoá bao gồm: Mẫu nhãn hiệu hàng hoá; Mẫu nhãn sản phẩm; Mô tả công dụng sản phẩm, Nhóm đăng ký bảo hộ; Ngày sử dụng tại Mỹ (hoặc ngày muốn sử dụng tại Mỹ). Ngoài ra, trước khi tiến hành đăng ký, doanh nghiệp nên kiểm tra xem nhãn hiệu của mình có ai đăng ký chưa. Nếu nhãn hiệu sản phẩm chưa được đăng ký mà mới chỉ được nộp đơn lên USPTO thì bất kỳ ai cũng có thể phản đối việc đăng ký trong vòng 30 ngày kể từ ngày nhãn hiệu hàng hóa được đăng trên công báo (hoặc dài hơn nếu được USPTO chấp nhận) với một lý do, trong đó có lý do mình là người sử dụng nhãn hiệu từ trước và cần phải chứng minh qua những bằng chứng về ngày sử dụng đầu tiên ở bất cứ đâu và ở tại Mỹ. Vì vậy, doanh nghiệp phải lưu giữ đầy đủ các chứng từ có liên quan đến hàng hoá hay dịch vụ sử dụng nhãn hiệu như hợp đồng, hoá đơn, vận đơn,… Đối với các mặt hàng không thể đề tên công ty, logo, nói chung là nhãn hiệu hàng hoá lên sản phẩm (ví dụ như tranh thêu tay) thì có thể dùng các chứng từ trên để chứng minh nhãn hiệu đã được sử dụng trước. Doanh nghiệp thiết kế Website có đăng ký tên miền, logo và qua mạng đã có được những hợp đồng bán hàng thì Website có thể được coi là bằng chứng sử dụng nhãn hiệu. Doanh nghiệp muốn đăng ký nhãn hiệu tại Mỹ nhưng được biết có một cửa hàng tại đấy trùng tên thì doanh nghiệp cần xét xem sản phẩm hay dịch vụ có bị trùng không. Nếu không trùng thì nhanh chóng đăng ký, còn nếu trùng mà người sử dụng trước không có khiếu nại gì thì vẫn không ảnh hưởng đến việc đăng ký. 3.2.4 Thực hiện tốt các quy định về nhãn mác, bao bì, xuất xứ. Các doanh nghiệp Việt Nam phải nắm vững những quy định về nhãn mác, bao bì vì Mỹ có những quy định rất chi tiết và khắt khe về vấn đề này. Nhãn hàng hoá đối với các hàng tiêu dùng nhất thiết phải có mã số mã vạch; thực phẩm dược phẩm phải ghi rõ thành phần hoá học chủ yếu, hướng dẫn sử dụng, hạn sử dụng, hướng dẫn bảo quản; hàng dệt may phải ghi rõ thành phần cotton là bao nhiêu,... Đặc biệt là các doanh nghiệp cần nắm vững các quy định về ghi nhãn của FDA- Cơ quan Quản lý Thực phẩm, dược phẩm của Mỹ như: “Nhãn phải được ghi bằng tiếng Anh, các thông tin chủ yếu phải ghi ở vị trí trưng bày, dễ thấy khi mặt hàng được bày bán, đơn vị đo lường ghi theo hệ Anh- Mỹ và theo hệ quốc tế SI,...” Ngoài ra, sản phẩm phải được bao gói phù hợp với yêu cầu của Mỹ. Mỹ cấm sử dụng một số loại vật liệu trong khi khuyến khích sử dụng một số loại vật liệu khác có khả năng tái chế. Các nhà xuất khẩu Việt Nam nên tìm hiểu thông tin về các loại vật liệu bao bì được nhà nhập khẩu chấp nhận. Các doanh nghiệp Việt Nam cũng cần chú ý tới khâu xuất xứ để hàng dễ dàng được thông quan. Nước Mỹ là nước có quy định việc ghi xuất xứ hàng hoá khá cụ thể. Chẳng hạn, đối với sản phẩm có đa số chi tiết được sản xuất ở một nước thứ ba nhưng việc lắp ráp phức tạp thì khi xuất sang Mỹ phải ghi xuất xứ ở nước lắp ráp. Đối với sản phẩm có đa số chi tiết được sản xuất ở nước thứ ba nhưng việc lắp ráp không phức tạp khi xuất sang Mỹ ghi xuất xứ là chính nơi sản xuất chi tiết đó. Doanh nghiệp nước ngoài đến Mỹ sản xuất muốn lấy nhãn “Made in USA” thì 97% linh kiện của sản phẩm phải được sản xuất tại Mỹ,... 3.2.5 Giải quyết tốt vấn đề “Trách nhiệm sản phẩm” trên thị trường Mỹ Sự khinh suất, thiếu cẩn trọng của nhiều doanh nghiệp đã phải trả giá đắt trong những vụ kiện của người tiêu dùng Mỹ. Một giải pháp khá hữu hiệu cho vấn đề này và đã được nhiều nhà xuất khẩu lớn của Việt Nam thực hiện trong thời gian gần đây là việc mua bảo hiểm thương mại đối với các hàng hoá xuất khẩu tại các Công ty bảo hiểm có tiếng. Các nhà xuất khẩu Việt Nam nên mua bảo hiểm rủi ro khi xuất hàng sang Mỹ. Những công ty cung cấp loại hình bảo hiểm này thường là các công ty bảo hiểm quốc tế lớn. Mặt khác, trong các vụ kiện về trách nhiệm sản phẩm, toà án tiểu bang thường hay thiên vị người tiêu dùng Mỹ, không khách quan như toà án liên bang. Tuy vậy, theo luật pháp Mỹ thì ở các tiểu bang, một nhà sản xuất hoặc xuất khẩu nước ngoài chỉ phải hầu toà nếu có “mối liên hệ tối thiểu” với tiểu bang nơi người tiêu dùng Mỹ khởi kiện. Do đó, các nhà xuất khẩu Việt Nam khi đưa hàng vào Mỹ nên hạn chế các quan hệ có tính thủ tục hay những hợp đồng pháp lý riêng rẽ với tiểu bang nhỏ. Một điểm mà các doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý nữa là hệ thống phân phối ở Mỹ. Hệ thống phân phối ở Mỹ được chia thành hai loại: Các đại lý và nhà phân phối. Trách nhiệm của hai hệ thống được phân biệt rạch ròi. Đại lý là người bán trung gian ăn hoa hồng không có trách nhiệm gì về sản phẩm, còn nhà phân phối phải có trách nhiệm đối với sản phẩm mà mình nhận phân phối cho một doanh nghiệp nào đó. Do đó, nhà xuất khẩu Việt Nam có thể quyết định chỉ bán sản phẩm thông qua nhà phân phối Mỹ độc lập, đồng thời tránh đặt cơ sở sản xuất trực tiếp trên lãnh thổ Mỹ. Trong hợp đồng, nhà sản xuất có thể tìm cách hạn chế trách nhiệm hoặc chuyển trách nhiệm cho nhà phân phối. Tuy nhiên điều khoản nói trên là rất khó thương lượng và việc chuyển giao rủi ro có thể không có giá trị vì hiệu quả của nó còn phụ thuộc vào phán quyết của toà án. 3.2.6 Tăng cường công tác tiếp thị sản phẩm Một trong những trở ngại đáng kể đối với các doanh nghiệp Việt Nam khi xuất hàng sang thị trường Mỹ là việc các thương nhân Mỹ và người tiêu dùng Mỹ đặc biệt coi trọng uy tín của nhà cung cấp và các mối quan hệ làm ăn lâu dài. Trong khi đó, các nhãn hiệu sản phẩm và các doanh nghiệp Việt Nam còn tương đối xa lạ đối với thị trường Mỹ. Thêm vào đó, theo đánh giá của nhiều chuyên gia nước ngoài thì điểm yếu nhất của các doanh nghiệp Việt Nam là cách tiếp thị và quảng bá sản phẩm của mình. Hiện nay, các doanh nghiệp Việt Nam thường tiếp thị sản phẩm của mình một cách “thủ công”. Theo các chuyên gia, cách tốt nhất là các doanh nghiệp tham gia các hội chợ triển lãm Mỹ. Tuy nhiên, trước khi sang Mỹ phải tìm hiểu thị trường này thật kỹ thông qua các văn phòng đại diện tại Việt Nam hay một số nước lân cận để tiết kiệm tiền và thời gian tìm hiểu. Đặc biệt, như lời của ngài Sam Korsmoe thuộc công ty Mekong Sources thì: “Phải dùng thương mại điện tử để làm ăn trong thời buổi toàn cầu hoá này. Lập một Website riêng để giới thiệu quảng bá cho doanh nghiệp và sản phẩm của mình sẽ rất hiệu quả, tiện lợi và tiết kiệm được chi phí”. 3.2.7 Tăng cường đầu tư ra thị trường ngoài Một trong những biện pháp có thể giúp các doanh nghiệp Việt Nam khắc phục những hàng rào thuế và phi thuế của Mỹ một cách hiệu quả là sản xuất hàng hoá ngay tại thị trường Mỹ. Hiện nay đã có một số doanh nghiệp Việt Nam bắt đầu đầu tư sang thị trường Mỹ. Tuy nhiên, biện pháp này đòi hỏi doanh nghiệp phải có năng lực kinh tế nhất định, phải am hiểu luật pháp Mỹ một cách sâu sắc. Hơn nữa, sản phẩm mà doanh nghiệp sản xuất phải có chất lượng cao để đảm bảo cho doanh nghiệp không gặp nhiều rắc rối về vấn đề trách nhiệm sản phẩm trên thị trường Mỹ. Một số vấn đề doanh nghiệp Việt Nam cần chú ý khi xuất hàng sang Mỹ Ngoài những biện pháp trên, sâu đây là một số vấn đề các doanh nghiệp cần chú ý để tránh vướng phải những rắc rối, vướng mắc khi xuất hàng sang thị trường Mỹ, góp phần nâng cao hiệu quả kinh tế của hoạt động này: 1/ Sử dụng luật sư trong giao dịch với đối tác Mỹ Người dân Mỹ nói chung và thương nhân Mỹ nói riêng rất có tinh thần tôn trọng pháp luật. Mọi mối quan hệ nếu nảy sinh tranh chấp rất có thể được xem xét, phán xử tại toà án Mỹ. Tuy nhiên, Mỹ là nước có hệ thống luật pháp vô cùng phức tạp, chủ yếu lại là luật án lệ (case law), khiến cho các thương nhân Việt Nam rất khó nắm bắt. Do đó để tránh vướng vào những rào cản do không hiểu luật, để bảo vệ quyền lợi của mình trước pháp luật, các doanh nghiệp Việt Nam cần có sự trợ giúp tư vấn của các luật sư. Sự tư vấn đúng lúc của họ sẽ rất có lợi cho các doanh nghiệp và cũng để các doanh nghiệp tránh được những rắc rối, tổn hại về uy tín hay tiền của. Mặt khác, không đâu trên thế giới này có nhiều toà án và luật sư như ở Mỹ. Tại Mỹ cũng không một vị giám đốc nào dám ký một hợp đồng mà không có luật sư của công ty kiểm tra trước. Vì thế, các đối tác Mỹ sẽ tỏ ra nghi ngờ khi thấy đại diện của đối tác Việt Nam sẵn sàng ký các hợp đồng do phía họ soạn thảo mà không có sự kiểm tra trước của các luật sư. Họ lo ngại rằng phía Việt Nam vì không đọc kỹ hợp đồng mà đã ký nên không đảm bảo khả năng thực hiện hợp đồng. Về phía Việt Nam, hàng loạt mẫu hợp đồng do đối tác đưa ra thường gây rất nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp Việt Nam khi đàm phán. Không thể xem xét kỹ càng các hợp đồng này mà không có các luật sư. Vì vậy, có thể coi luật sư là một phần tất yếu trong hoạt động xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam. 2/ Thận trọng trong việc ra các quyết định ký kết hợp đồng với đối tác Mỹ Một hiện tượng rất gây “dị ứng” đối với các doanh nghiệp nước ngoài, đặc biệt là các doanh nghiệp Mỹ là tình trạng “hứa liều” của các doanh nghiệp Việt Nam. Tình trạng này khiến cho nhiều doanh nghiệp Mỹ ngần ngại giao dịch với các đối tác Việt Nam. Trên thực tế, các doanh nghiệp Việt Nam phần lớn là nhỏ và vừa (các doanh nghiệp lớn thường có quy chế hoạt động chặt chẽ và tầm nhìn lâu dài nên thận trọng hơn) nên khi có đối tác muốn ký hợp đồng thì đặt bút ký ngay mà không suy nghĩ hoặc suy nghĩ rất ít về tính khả thi của hợp đồng. Các doanh nghiệp Việt Nam thường lạm dụng từ “Có” trong mọi trường hợp mà không lường trước được khả năng thực sự của mình. Đối với thương nhân Mỹ, đôi khi từ “Không” lại gây ấn tượng tốt hơn. Do vậy, một điều các doanh nghiệp Việt Nam cần ghi nhớ nếu không muốn thất bại khi giao dịch với đối tác Mỹ là phải biết tự kiềm chế trước những hợp đồng béo bở. 3/ Tham gia các hiệp hội và phối hợp chặt chẽ với các ban ngành liên quan Thị trường Mỹ là một thị trường mới đối với các doanh nghiệp Việt Nam. Vì vậy, các doanh nghiệp Việt Nam nên tổ chức thành các hiệp hội để có thể nâng cao sức mạnh và ưu thế của mình (ví dụ ngành thuỷ sản có Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam- VASEP). Các Hiệp hội ngành hàng là các tổ chức phi Chính phủ, được thành lập trên cơ sở tự nguyện nhằm tập hợp và đại diện cho các doanh nghiệp sản xuất, chế biến, kinh doanh trong từng ngành hàng. Doanh nghiệp cần tận dụng các chức năng của Hiệp hội này như: thống nhất hành động trong các doanh nghiệp hội viên nhằm tổ chức sản xuất, chế biến, tiêu thụ sản phẩm một cách có hiệu quả nhất, đảm bảo lợi ích cho toàn ngành; phối hợp nỗ lực đấu tranh của các doanh nghiệp thành viên khi phát sinh tranh chấp với phía nước ngoài,... Có thể thấy, trong những vụ tranh chấp phát sinh gần đây, các hiệp hội ngành hàng có ý nghĩa đặc biệt quan trọng. Bên cạnh đó, khi tranh chấp nổ ra, các doanh nghiệp cũng cần huy động sự tham gia của các ban ngành liên quan (Chẳng hạn như trong tranh chấp thương hiệu là Bộ Thương mại, Cục Sở hữu Công nghiệp, Bộ Khoa học Công nghệ và Môi trường,..) để giúp bảo vệ lợi ích của mình được tốt nhất. KẾT LUẬN “Cuộc chiến Catfish” giữa các nhà xuất khẩu cá tra và cá Basa Việt Nam với Hiệp hội Các chủ trại cá nheo Mỹ; cà phê Trung Nguyên bị chính đối tác của mình tranh mất nhãn hiệu và rất nhiều vụ tranh chấp xảy ra ngay khi Hiệp định Thương mại Việt- Mỹ được ký kết và bắt đầu có hiệu lực đã nhấn mạnh với các nhà xuất khẩu Việt Nam rằng: Hiệp định mở ra nhiều cơ hội làm ăn cho các doanh nghiệp Việt Nam song cũng là khởi đầu của nhiều thách thức mới. Làm ăn với một đối tác đầy tiềm năng nhưng khó tính như Mỹ, các doanh nghiệp Việt Nam sẽ phải đối mặt với không ít khó khăn. Hoạt động thương mại phát triển, giao dịch giữa doanh nghiệp hai nước ngày càng nhiều một mặt khiến cho các rào cản bộc lộ rõ hơn trong thực tiễn, mặt khác cũng khiến cho các bên phải quan tâm thích đáng hơn đến vấn đề rào cản thương mại. Hệ thống luật pháp vô cùng phức tạp và nền văn hoá hết sức đa dạng của Mỹ cùng với những sự khác biệt, thậm chí đối lập giữa hai quốc gia đã dựng lên rất nhiều rào cản luật pháp và văn hoá đối với hoạt động xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường Mỹ. Để vượt qua những rào cản này, phía Việt Nam cần nỗ lực rất nhiều, trong đó, các doanh nghiệp phải chủ động giữ vai trò chủ chốt, bên cạnh đó cũng không thể thiếu sự giúp đỡ, hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức, hiệp hội ngành hàng liên quan. Có như vậy, Việt Nam mới có thể đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu sang thị trường Mỹ, hoàn thành những mục tiêu trên thị trường chiến lược này, góp phần thực hiện những mục tiêu kinh tế xã hội của cả nước nói chung./. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO I. Tài liệu tiếng Việt A. Sách Lê Văn Chưởng, Cơ sở văn hoá Việt Nam, Trường Đại học Khoa học Tự nhiên, TP Hồ Chí Minh 1996 Nguyễn Thị Mơ- Hoàng Ngọc Thiết, Giáo trình Pháp luật trong hoạt động kinh tế đối ngoại, NXB Giáo dục, 1997 Hữu Ngọc, Hồ sơ văn hoá Mỹ, NXB Thế Giới, Hà Nội 2000 Trần Ngọc Thêm, Cơ sở văn hoá Việt Nam, NXB Giáo dục 1996 Đinh Văn Tiến- Phạm Quyền, Tìm hiểu để hợp tác kinh doanh với Mỹ, NXB Thống kê, 1997 Nhiều tác giả, Muôn mặt nước Mỹ: những điều chủ yếu cần biết về nước Mỹ ngày nay, NXB Trẻ, 1994 Bộ luật Thương mại thống nhất của Mỹ- UCC (Uniform Commercial Code of USA) Bộ Thương mại, Đề tài: Chính sách và giải pháp phát triển thị trường hàng xuất khẩu của Việt Nam thời kỳ 2001-2010, Hà Nội, 2001 Bộ Thương mại, Một số cơ chế và tập quán cần biết khi xuất khẩu sang thị trường Mỹ, Hà Nội, 2001 Bộ Thương mại, Hiệp định thương mại Việt Nam- Hoa Kỳ, 2001 Bộ Tài chính Mỹ- Tổng cục Hải quan, Xuất khẩu vào thị trường Mỹ, 2001 Trung tâm thông tin VCCI, Tìm hiểu để hợp tác và kinh doanh với Hoa Kỳ, 1997. Phòng thông tin văn hoá- Đại sứ quán Hợp chủng quốc Hoa Kỳ, Hiệp định thương mại song phương Việt Nam- Hoa Kỳ đã có hiệu lực, Hà Nội, 2002 Kỷ yếu Hội nghị khoa học trường ĐHNT, Chủ đề: Đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá Việt Nam vào thị trường Âu- Mỹ, Hà Nội, 2002 Hội nghị khoa học khoa kinh tế ngoại thương trường ĐHNT, Nền kinh tế Mỹ- Tác động của nó đến nền kinh tế thế giới và hoạt động kinh tế đối ngoại của Việt Nam, Hà Nội, 2001. B. Báo và Tạp chí Báo Thương mại, Số 22-29/ 2002 Thời báo Kinh tế Sài Gòn, Số 56/2002 Tạp chí Châu Mỹ ngày nay, Số 1,3,4,5/ 2002 Tạp chí Kinh tế Châu Á- Thái Bình Dương, Số 2/2002 Tạp chí Kinh tế và phát triển, Số 56/2002 Tạp chí Nghiên cứu Châu Á, Số 2/ 2002 Tạp chí Ngoại thương, Số 4+5/ 2002 Tạp chí Những vấn đề kinh tế Thế giới, Số 1/ 2002 Tạp chí Phát triển kinh tế, Số 136/2002 II. Tài liệu tiếng nước ngoài A. Sách 1. Will Martin, The effect of the U.S granting MFN status to Vietnam, World Bank, Washington D.C, USA, 1999. B. Báo và Tạp chí ASIA Week 2000-2001 The ASean Wall Street Journal, 12/2001. C. Các Website uspto.gov /wwwfbtacrsrpt.pdf /wwwhcatfish011231.html Số liệu: Bộ Thương mại Việt Nam, Niên giám thống kê, Bộ Thương mại Hoa Kỳ./.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc19412.doc
Tài liệu liên quan