Khóa luận Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam

LỜI NÓI ĐẦU - 1 - CHƯƠNG I - 4 - NHỮNG VẤN ĐỀ LÝ LUẬN CHUNG VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI - 4 - 1. Khái niệm đầu tư nước ngoài, các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp ra nước ngoài - 4 - 1.1. Khái niệm đầu tư - 4 - 1.2. Khái niệm đầu tư trực tiếp nước ngoài - 5 - 1.3. Khái niệm các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI - 6 - 2. Tầm quan trọng của các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam - 7 - 3. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khuôn khổ các điều ước quốc tế điển hình mà Việt Nam đã ký kết hoặc tham gia - 9 - 3.1. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI trong khuôn khổ các cam kết của Hiệp hội các quốc gia Đông Nam Á (ASEAN) - 10 - 3.2. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trong Hiệp định thương mại Việt nam – Hoa Kỳ 2000 - 11 - 3.3. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khuôn khổ các quy định của Tổ chức Thương mại thế giới (WTO) - 12 - 3.4. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trong khuôn khổ các cam kết của Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương (APEC) - 14 - 3.5. Các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài trong một số Hiệp định về khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Chính phủ Việt Nam và nước ngoài - 16 - CHƯƠNG II - 19 - THỰC TRẠNG CỦA PHÁP LUẬT VIỆT NAM VỀ CÁC BIỆN PHÁP BẢO ĐẢM VÀ KHUYẾN KHÍCH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI - 19 - 1. Thực trạng của pháp luật Việt Nam về các biện pháp bảo đảm đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - 19 - 1.1. Bảo đảm quyền sở hữu tài sản hợp pháp - 19 - 1.2. Bảo đảm đối xử bình đẳng giữa các nhà đầu tư - 20 - 1.3. Bảo đảm cơ chế giải quyết tranh chấp phát sinh từ hoạt động đầu tư trực tiếp nước ngoài - 21 - 1.4. Bảo đảm việc chuyển lợi nhuận và thu nhập hợp pháp khác của nhà đầu tư ra nước ngoài - 23 - 1.5. Bảo đảm quyền lợi của nhà đầu tư khi có những thay đổi về chính sách pháp luật - 24 - 1.6. Những biện pháp bảo đảm đầu tư trực tiếp nước ngoài khác - 25 - 2. Thực trạng của pháp luật Việt Nam về các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - 27 - 2.1.Ưu đãi về tài chính - 28 - 2.1.1. Thuế thu nhập DN - 28 - 2.1.2. Thuế chuyển lợi nhuận ra nước ngoài - 30 - 2.1.3. Thuế xuất nhập khẩu - 30 - 2.1.4. Thuế giá trị gia tăng - 31 - 2.1.5. Một số ưu đãi tài chính khác - 31 - 2.2. Các ưu đãi liên quan đến chính sách sử dụng đất, mặt nước, mặt biển - 32 - 2.3. Ưu đãi chính sách ngoại hối - 35 - 2.3.1. Bảo đảm cân đối ngoại tệ - 36 - 2.3.2. Më vµ sö dông tµi kho¶n t¹i c¸c ng©n hµng ViÖt Nam - 37 - 2.3.3. Mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài - 37 - 2.4. Các biện pháp hỗ trợ về thủ tục hành chính - 38 - 2.5. Một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài khác - 38 - 2.5.1. Ưu đãi chuyển lỗ kinh doanh - 38 - 2.5.2. Từng bước giảm giá hàng hoá, dịch vụ - 39 - 2.5.3. Tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu - 39 - 2.5.4. Ưu đãi đối với vấn đề sử dụng đất - 40 - CHƯƠNG III - 42 - TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM, PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THU HÚT - 42 - ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM - 42 - 1. Khái quát chung về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam - 42 - 1.1. Tình hình FDI trước khi ban hành Luật đầu tư năm 2005 - 43 - 1.2. Tình hình FDI sau khi ban hành Luật dầu tư năm 2005 - 45 - 2. Các giải pháp, kiến nghị nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới - 46 - 2.1. Các giải pháp chung - 46 - 2.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách có liên quan đến hoạt động đầu tư - 46 - 2.1.2. Mở rộng quan hệ hợp tác, xúc tiến ký kết các hiệp định song phương và đa phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư - 47 - 2.1.3. Các giải pháp khác - 49 - 2.2. Các giải pháp cụ thể - 49 - 2.2.1. Về thủ tục đăng ký và thành lập doanh nghiệp - 50 - 2.2.2. Về phân cấp quản lí và cấp giấy chứng nhận đầu tư - 50 - 2.2.3. Về thời gian cấp phép thành lập DN - 50 - 2.2.4. Chính sách về thuế - 51 - 2.2.5. Chính sách giảm chi phí cho DN FDI - 52 - 2.2.6. Chính sách đất đai - 52 - 2.2.7. Chính sách chuyển giao công nghệ - 52 - 2.2.8. Chính sách tài chính, tín dụng và ngoại hối cần: - 53 - 2.2.9. Về lao động và tiền lương - 53 - 2.2.10. Về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ - 53 - 2.2.11. Lĩnh vực đầu tư và hình thức đầu tư - 54 - 2.2.12. Về giải thể và phá sản DN - 54 - 2.2.13. Về khiếu kiện và giải quyết tranh chấp - 54 - KẾT LUẬN - 55 - DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO - 57 - CÁC CHỮ VIẾT TẮT - 59 -

doc64 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1600 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Một số vấn đề lý luận và thực tiễn về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
/NĐ-CP ngày 23/7/2004 sửa đổi, bổ sung Nghị định số 158/2003/NĐ-CP). Nhìn chung, Nhà nước Việt Nam chủ trương miễn giảm thuế giá trị gia tăng đối với một số hàng hoá, hoạt động phục vụ đầu tư nhất định, như máy móc, thiết bị chuyên dùng trong nước chưa sản xuất được; hoạt động chuyển giao công nghệ. Bên cạnh đó, đối với một số hàng hoá liên quan trực tiếp đến đầu tư như hàng hoá xuất khẩu cũng được xem xét miễn thuế hoặc chỉ áp dụng mức thuế xuất bằng 0%. 2.1.5. Một số ưu đãi tài chính khác Ngoài những ưu đãi trong nghĩa vụ tài chính đối với Nhà nước Việt Nam kể trên, dự án có vốn đầu tư nước ngoài còn nhận được một số ưu đãi khác liên quan đến vấn đề về chuyển lỗ kinh doanh, khấu hao tài sản. Trong quá trình hoạt động, nhà đầu tư sau khi đã quyết toán thuế đối với có quan thuế mà bị lỗ thì được chuyển lỗ sang những năm sau; lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế thu nhập DN. Tuy nhiên, việc chuyển lỗ này không được thực hiện quá 5 năm (Điều 34 Luật đầu tư năm 2005). Các nhà đầu tư có thể thực hiện chuyển lỗ theo các phương pháp chuyển lỗ dàn đều (tỉ lệu 20%/năm) hoặc chuyển lỗ liên tục. Đối với vấn đề trích khấu hao tài sản cố định, Nhà nước Việt Nam cho phép các nhà ĐTNN được chủ động quy định tỉ lệ khấu hao tài sản cố định (là tỉ lệ phần trăm giữa số tiền khấu hao hàng năm so với nguyên giá tài sản cố định) nhưng không vượt khung tỉ lệ tối đa theo quy định của Bộ tài chính. Trong quá trình trích khấu hao tài sản cố định, do những yếu tố khách quan cần thực hiện tỉ lệ khấu hao vượt khung tối đa nêu trên, các nhà ĐTNN cần báo cáo Bộ tài chính, nếu xem xét thấy hợp lý Bộ tài chính sẽ chấp nhận tỉ lệ trích khấu hao này. Như vậy, trong vấn đề trích khấu hao tài sản cố định, Nhà nước Việt Nam cũng đã dành những ưu đãi nhất định cho các dự án có vốn đầu tư nước ngoài nhằm mang lại lợi ích cho các nhà đầu tư trong quá trình thực hiện dự án đầu tư tại Việt Nam. Về vấn đề khấu hao tài sản cố định, Luật đầu tư năm 2005 quy định tại Điều 35: “Dự án đầu tư trong lĩnh vực, địa bàn ưu đãi đầu tư và dự án kinh doanh có hiệu quả được áp dụng khấu hao nhanh đối với tài sản cố định, mức khấu hao tối đa là hai lần mức khấu hao theo chế độ khấu hao tài sản cố định”. 2.2. Các ưu đãi liên quan đến chính sách sử dụng đất, mặt nước, mặt biển Những ưu đãi liên quan đến chính sách sử dụng đất, mặt nước, mặt biển có thể nói là vấn đề mà các nhà ĐTNN đặc biệt quan tâm. Nhất là ưu đãi tài chính về tiền thuê đất, mặt nước là, mặt biển một trong những quan tâm hàng đầu của nhà đầu tư vì đây là bộ phận cấu thành đáng kể của chi phí sản xuất, do đó ảnh hưởng đến việc mở rộng hay thu hẹp quy mô và mặt bằng sản xuất của DN có vốn ĐTNN và ảnh hưởng trực tiếp đến lợi nhuận thu được của nhà đầu tư. Nhận thức được điều này, Nhà nước ta đã có những ưu đãi đáng kể về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển đối với các dự án ĐTNN nhằm tạo điều kiện và khuyến khích nhà đầu tư yên tâm sản xuất và tích cực mở rộng quy mô sản xuất kinh doanh. Chính phủ đã có quy định việc miễn hoặc giảm tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển đối với các dự án FDI đầu tư vào địa bàn có điều kiện kinh tế - xã hội khó khăn và đặc biệt khó khăn. Tiếp đó, Quyết định 189 ngày 24/ 11/2000 của Bộ trưởng Bộ tài chính về việc ban hành bản quy định về tiền thuê đất, mặt nước, mặt biển áp dụng đối với các hình thức ĐTNN tại Việt Nam đã từng bước cụ thể hoá các quy định của luật như sau: Giá thuê đất: Được quy định tại Điều 3 Quyết định 189 như sau: Đối với đất đô thị: (Đất nội thành phố, nội thị xã, thị trấn theo quy định) Đơn vị tính: USD/m2/năm Loại đô thị Mức giá tối thiểu Mức giá tối đa Loại 1 01 12 Loại 2 0,8 9,2 Loại 3 0,6 7,2 Loại 4 0,35 4,2 Loại 5 0,18 2,16 Đối với đô thị có địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn, giá thuê đất được xác định bằng 50% mức quy định chung. Riêng đối với thị trấn thuộc các vùng này, giá thuê đất được áp dụng mức tối thiểu của khung giá quy định nói trên. §èi víi ®Êt cña c¸c x· tiÕp gi¸p ®« thÞ: Đơn vị tính: USD/m2/năm Loại xã Mức giá tối thiểu Mức giá tối đa 1. Tiếp giáp với nội đô thị loại 1 2. Tiếp giáp với nội đô thị loại 2 0,18 0,1 0,18 0,6 Các vùng còn lại: Đơn vị tính: USD/m2/năm Loại xã Mức giá tối thiểu Mức giá tối đa Đồng bằng Trung du Miền núi 0,06 0,03 0,01 0,36 0,18 0,06 Đối với đất trong KCN, KCX, KCNC: Giá thuê đất được tính bằng 80% mức giá áp dụng đối với đất đô thị đất không phải đô thị. - Đối với đất tại các vùng núi đá, đồi trọc, đất xấu khó sử dụng, nếu sử dụng cho các dự án không phải là sản xuất công nghiệp, dịch vụ, du lịch, thương mại thì đơn giá thuê đất được tính từ 30 đến 100USD/ ha/ năm. * Miễn giảm tiền thuê đất (Điều 8 Quyết định 189/2000): - Miễn tiền thuê đất trong thời gian xây dựng cơ bản. - Các dự án đầu tư theo hợp đồng BOT, BTO, BT được miễn giảm tiền thuê đất theo quy định của Chính phủ. - Các dự án trồng rừng, trong thời gian kinh doanh còn được giảm 90% tiền thuê đất phải nộp. - Miễn tiền thuê đất phải nộp kể từ ngày xây dựng cơ bản hoàn thành đưa dự án vào hoạt động như sau: + 7 năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn kinh tế - xã hội khó khăn, dự án thuộc danh mục lĩnh vực đặc biệt khuyến khích đầu tư và khuyến khích đầu tư. + 11 năm đối với dự án đầu tư vào địa bàn kinh tế xã hội đặc biệt khó khăn. - Đối với dự án gặp khó khăn phải tạm ngừng hoạt động, tạm ngừng xây dựng cơ bản thì được miễn tiền thuê đất như sau: + Dự án phải tạm ngừng xây dựng cơ bản thì được miễn tiền thuê đất đối với diện tích đất xây dựng dự án đó trong thời gian tạm ngừng xây dựng theo xác nhận của cơ quan cấp phép đầu tư. + Dự án đang sản xuất, kinh doanh phải tạm ngừng sản xuất kinh doanh thì được miễn tiền thuê đất trong thời gian tạm ngừng hoạt động sản xuất kinh doanh theo sự xác nhận của cơ quan cấp phép đầu tư. Trong trường hợp nộp tiền thuê đất một lần cho nhiều năm ngay trong năm đầu thì được giảm tiền thuê đất như sau: Nộp gộp 5 năm thì được giảm 5% số tiền thuê đất của 5 năm đó. Nộp gộp cho thời gian trên 5 năm thì cứ mỗi năm tăng thêm được giảm đi 1% tổng số tiền thuê đất phải nộp của thời gian đó, nhưng tổng mức giảm không vượt quá 25% tổng số tiền thuê đất phải nộp của thời gian đó. Trường hợp nộp tiền thuê đất cho toàn bộ thời gian thuê đất trên 30 năm thì được giảm 30% số tiền thuê đất phải nộp (áp dụng với tất cả các dự án có vốn ĐTNN tại Việt Nam). Điều 45 Quyết định 189 quy định: Giá thuê đất cho mỗi dự án được ổn định ít nhất là 5 năm. Khi điều chỉnh tăng thì mức tăng không vượt quá 15% của mức quy định lần trước, nếu dự án thuê đất chưa đủ 5 năm kể từ thời điểm xác định giá thuê đất lần trước thì vẫn áp dụng giá thuê đất hiện tại đến khi đủ 5 năm mới tính lại theo mức giá mới. Với quy định này, pháp luật đã bảo đảm cho các nhà ĐTNN hoàn toàn yên tâm về mức giá thuê đất ưu đãi ngay cả khi có sự điều chỉnh của pháp luật về mức thuế này. * TiÒn thuª mÆt n­íc, mÆt biÓn Căn cứ vào khoản 3 Điều 3 Quyết định 189 thì mức giá thuê như sau: - Đối với mặt nước sông hồ, vịnh tiền thuê từ 75 đến 525 USD/ha/năm. Riêng các công trình kiến trúc xây dựng trên mặt nước thuộc nội đô thị thì áp dụng đơn giá thuê đất với đất đô thị. - Mặt biển có đơn giá tiền thuê đất từ 150 đến 600 USD/ha/năm. Đối với trường hợp thuê đất có diện tích sử dụng không cố định thì áp dụng mức tiền thuê từ 1500 đến 7500 USD/ha/năm. . Tóm lại, chính sách pháp luật về khuyến khích đầu tư của Việt Nam không chỉ có những ưu đãi đáng kể về giá thuê đất, mặt nước, mặt biển đối với nhà ĐTNN mà còn có những ưu đãi về thời hạn miễn giảm thuế và chế độ áp dụng trong những trường hợp dự án gặp khó khăn. Đây là một trong những chế định luật quan trọng có tác dụng khuyến khích nhà ĐTNN đầu tư đầu tư vào trong nước, đồng thời khuyến khích khai thác, sử dụng có hiệu quả các nguồn tài nguyên, đầu tư, khai thác có trọng điểm. 2.3. Ưu đãi chính sách ngoại hối Chính sách ngoại hối là một bộ phận quan trọng trong chính sách tiền tệ quốc gia xuất phát từ những ảnh hưởng lớn lao của ngoại hối đối với đời sống kinh tế xã hội. Đối với nhà ĐTNN thì chính sách ngoại hối của nước tiếp nhận đầu tư là điều kiện hàng đầu để xem xét có đầu tư hay không. Nhà đầu tư nước ngoài chỉ đầu tư khi chính sách này bảo đảm được cán cân thanh toán quốc tế để họ có thể chuyển các khoản lợi nhuận có được từ hoạt động đầu tư về nước cũng như thực hiện các giao dịch trong hoạt động đầu tư của mình. Nhận thức được điều này đồng thời đẩy mạnh việc thu hút FDI, Việt Nam đã không ngừng cải cách chính sách pháp luật về ngoại hối. Đặc biệt với sự ra đời của Luật Đầu tư năm 2005 đã đưa ra những quy định về quản lý ngoại hối có ý nghĩa to lớn trong việc khuyến khích thu hút FDI vào Việt Nam. Tiếp đó, Nghị định 108/2006/NĐ-CP đã từng bước cụ thể hoá những quy định về quản lý ngoại hối đối với những DN có vốn ĐTNN. 2.3.1. Bảo đảm cân đối ngoại tệ Trong thực tiễn giao lưu dân sự hay thương mại kinh tế, do ngoại tệ có ảnh hưởng trực tiếp đến việc hình thành tỷ giá hối đoái, kim ngạch xuất nhập khẩu hàng hoá và sức mua của đồng tiền nội địa nên mọi quốc gia đều tìm cách kiểm soát rất chặt chẽ đối với ngoại tệ lưu thông trên thị trường. Điều 33 Luật ĐTNN năm 1996 quy định: "DN có vốn đầu tư nước ngoài, bên nước ngoài tham gia hợp đồng hợp tác kinh doanh tự bảo đảm nhu cầu về tiền nước ngoài trong hoạt động của mình". Quy định này đã trở thành rào cản pháp lý đối với các nhà ĐTNN trong quá trình đầu tư thực hiện các dự án xây dựng công trình kết cấu hạ tầng hay những dự án đặc biệt quan trọng có nhu cầu ngoại tệ rất cao. Để tháo gỡ những khó khăn trên, Luật Đầu tư năm 2005 đã sửa đổi bổ sung vấn đề này. Điều 16 Luật đầu tư năm 2005 quy định nhà đầu tư có: "quyền mua ngoại tệ: 1. Nhà đầu tư được mua ngoại tệ tại tổ chức tín dụng được quyền kinh doanh ngoại tệ để đáp ứng cho giao dịch vãng lai, giao dịch vốn và các giao dịch khác theo quy định của pháp luật về quản lý ngoại hối. 2. Chính phủ bảo đảm cân đối hoặc hỗ trợ cân đối ngoại tệ đối với một số dự án quan trọng trong lĩnh vực năng lượng, kết cấu hạ tầng giao thông, xử lý chất thải”. Qua đó, pháp luật đã mở rộng giới hạn hoạt động mua ngoại tệ cho các nhà ĐTNN, bên hợp doanh nước ngoài không chỉ ở ngân hàng thương mại mà còn ở bất cứ ngân hàng nào được phép kinh doanh ngoại tệ. Như vậy, việc tạo điều kiện cho các nhà ĐTNN, bên hợp doanh được phép mua ngoại tệ tại các ngân hàng, đồng thời đảm bảo hỗ trợ cân đối ngoại tệ của Chính phủ đã có tác dụng khuyến khích thu hút FDI vào Việt Nam, đặc biệt là đầu tư vào các dự án lớn đòi hỏi nhiều ngoại tệ như các dự án xây dựng kết cấu hạ tầng và các dự án quan trọng khác theo chương trình của Chính phủ. Ngoài ra, quy trình như vậy còn nhằm phù hợp với các quy định của WTO về việc loại bỏ các trở ngại, hạn chế các DN tiếp cận nguồn ngoại tệ của ngân hàng nhất là khi nước ta hiện nay đó trở thành thành viên của WTO. 2.3.2. Më vµ sö dông tµi kho¶n t¹i c¸c ng©n hµng ViÖt Nam Mở và sử dụng tài khoản tại các ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam được quy định cụ thể tại Điều 61 Luật đầu tư năm 2005 như sau: "Nhà đầu tư được mở tài khoản ngoại tệ và tài khoản tiền đồng Việt Nam tại ngân hàng được phép hoạt động tại Việt Nam” và “Việc mở, sử dụng và đóng tài khoản tại các ngân hàng trong nước và nước ngoài theo quy định của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam.” Thông tư 04/2001 TT - NHNN 18/05/2001 của Ngân hàng nhà nước Việt Nam đã hướng dẫn chi tiết như sau: Trong trường hợp đặc biệt, theo yêu cầu của bên cho vay nước ngoài, DN có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài được phép mở thêm tài khoản để tiếp nhận vốn vay và trả nợ khoản vay nước ngoài - DN có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài được phép mở và sử dụng tài khoản tiền gửi ngoại tệ tại các ngân hàng được phép để phục vụ cho hoạt động của mình. - DN có vốn ĐTNN và bên hợp doanh nước ngoài hoạt dộng tại Việt Nam được mở tài khoản tiền gửi bằng Việt Nam đồng tại các ngân hàng. Qua các quy dịnh trên có thể thấy Nhà nước Việt Nam đã cố gắng hết sức tạo thuận lợi cho các nhà ĐTNN được phép mở và sử dụng tài khoản tại các ngân hàng Việt Nam. 2.3.3. Mở và sử dụng tài khoản ngoại tệ ở nước ngoài Điều 61 Luật Đầu tư năm 2005 quy định: "Trong trường hợp được Ngân hàng Nhà nước Việt Nam chấp thuận, nhà đầu tư được mở tài khoản tại ngân hàng ở nước ngoài”. Quy định này nhằm đáp ứng được nhu cầu về ngoại tệ của các nhà ĐTNN, tạo điều kiện thuận lợi để họ có thể thực hiện các giao dịch khi cần thanh toán bằng tài khoản ở nước ngoài. Điều này thể hiện thiện chí của Việt Nam trong khuyến khích thu hút đầu tư vào trong nưíc. 2.4. Các biện pháp hỗ trợ về thủ tục hành chính Cùng với việc ban hành các biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài khác, Nhà nước Việt Nam cũng đã ban hành các biện pháp hỗ trợ về thủ tục hành chính nhằm tạo ra môi trường đầu tư thông thoáng hơn, đặc biệt là giảm bớt các rào cản về hành chính và tạo điều kiện thuận lợi hơn cho các nhà ĐTNN trong khi đầu tư vào Việt Nam. Cụ thể về thủ tục hành chính, chúng ta đã có các biện pháp hỗ trợ như sau: - Tạo ra đầu mối duy nhất để các nhà đầu tư nước ngoài có thể liên hệ xin cấp phép đầu tư, hay còn gọi là cơ chế một cửa, nhằm làm cho nhà ĐTNN có thể tiến hành các thủ tục một cách nhanh chóng; - Từng bước thực hiện rút ngắn thời gian cấp phép đầu tư cho các dự án FDI; - Thực hiện việc cải thiện cách thức đăng ký cấp phép đầu tư để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho các nhà ĐTNN. Theo đó, Việt Nam đã thực hiện thành công việc cấp phép ĐTNN qua mạng Internet. Nếu bộ hồ sơ hợp pháp thì chỉ sau 48 giờ là nhà ĐTNN có thể nhận giấy chứng nhận đầu tư; - Thành lập Cục đầu tư nước ngoài, điều này đã hạn chế được nhược điểm mà các nhà ĐTNN thường đánh giá về Việt Nam là thiếu sự hợp tác giữa các cơ quan hành chính Nhà nước trong việc giải quyết các vấn đề của nhà đầu tư… Có thể nói các biện pháp hỗ trợ về thủ tục hành chính có vai trò to lớn trong việc xúc tiến FDI tại Việt Nam bởi chính sự thông thoáng và nhanh gọn sẽ góp phần làm cho các nhà ĐTNN muốn đầu tư vào Việt Nam. 2.5. Một số biện pháp khuyến khích đầu tư trực tiếp nước ngoài khác 2.5.1. Ưu đãi chuyển lỗ kinh doanh Nhằm tạo điều kiện giúp đỡ các nhà ĐTNN đang gặp khó khăn trong quá trình sản xuất kinh doanh, Luật Đầu tư năm 2005 có quy định: “DN có vốn đầu tư nước ngoài sau khi quyết toán với cơ quan thuế mà bị lỗ thì được chuyển lỗ sang năm sau, số lỗ này được trừ vào thu nhập chịu thuế”. Chính điều này đã tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư gặp khó khăn đối với dự án, nhất là khi mới bắt đầu triển khai thực hiện dự án. 2.5.2. Từng bước giảm giá hàng hoá, dịch vụ Theo Quyết định số 53 của Thủ tướng Chính phủ ban hành ngày 26/03/1999 thì giá một số loại hàng hoá và dịch vụ được áp dụng theo một biểu giá thống nhất và dần loại bỏ sự phân biệt giữa DN trong nước và DN có vốn ĐTNN như giá bán điện, giá cước viễn thông, giá nước sạch... Quy định này của Chính phủ là nhằm xoá bỏ sự phân biệt giữa DN trong nước và DN có vốn ĐTNN, đồng thời tạo điều kiện pháp lý thúc đẩy thu hút FDI vào Việt Nam. 2.5.3. Tạo điều kiện thuận lợi trong hoạt động xuất khẩu Trong những năm qua, Chính phủ Việt Nam đã và đang tiếp tục thực hiện việc khuyến khích các hoạt động xuất nhập khẩu đối với các daonh nghiệp có vốn ĐTNN xuất khẩu sản phẩm ra thị trường nước ngoài. DN Việt Nam có vốn ĐTNN được quyền tự mình xuất khẩu các sản phẩm làm ra hoặc uỷ thác xuất khẩu sản phẩm cho bên đại lý của bên nước ngoài hoặc tổ chức kinh tế Việt Nam theo sự thoả thuận của các bên; tự mình hoặc uỷ thác tiêu thụ các sản phẩm được phép tiêu thụ tại thị trường Việt Nam, không bị giới hạn về địa bàn tiêu thụ; được quyền nhận uỷ thác xuất khẩu, quyền nhận làm đại lý tiêu thụ sản phẩm cho DN khác có cùng loại sản phẩm sản xuất tại Việt Nam. Về vấn đề này, theo Thông tư 22 của Bộ Tài chính ban hành ngày 05/12/2001 hướng dẫn thực hiện về xuất nhập khẩu và các hoạt động thương mại khác của các DN có vốn ĐTNN thì DN có vốn ĐTNN làm thủ tục xuất khẩu tại cơ quan hải quan mà không phải duyệt kế hoạch xuất khẩu tại Bộ Thương mại hoặc cơ quan được Bộ Thương mại uỷ quyền. Đặc biệt, DN có vốn ĐTNN sản xuất hàng xuất khẩu đủ điều kiện quy định thì được lập kho bảo thuế. Đây là kho phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu đang chờ xuất khẩu được xây theo cơ chế pháp lý hải quan đặc biệt. Theo đó, hàng hoá, nguyên liệu, vật tư đưa vào Kho bảo thuế chưa thuộc diện phải nộp thuế nhập khẩu điều. Thực chất đây là hình thức được nợ thuế nhập khẩu của DN có vốn ĐTNN. DN có vốn ĐTNNN và Bên hợp doanh có quyền nhập khẩu vào Việt Nam thiết bị, máy móc, phương tiện vận tải, vật tư gắn liền với hoạt động đầu tư và nhằm bảo đảm các hoạt động sản xuất kinh doanh trong khuôn khổ giấy phép đầu tư. Pháp luật đảm bảo cho DN chế xuất được bán vào thị trường nội địa các sản phẩm sản xuất tại DN, bao gồm: Nguyên liệu, bán thành phẩm cho các DN trực tiếp sản xuất hàng xuất khẩu, hàng hoá mà trong nước có nhu cầu nhập khẩu, phế liệu, phế phẩm có giá trị thương mại… Như vậy, quy định này không những hoàn toàn phù hợp với thông lệ quốc tế thể hiện chính sách khuyến khích sản xuất hàng xuất khẩu của nước ta mà còn tạo điều kiện thuận lợi cho DN chủ động trong việc nhập khẩu nguyên liệu, hàng hoá phụ vụ sản xuất hàng xuất khẩu. 2.5.4. Ưu đãi đối với vấn đề sử dụng đất Luật Đầu tư năm 2005 đã có những quy định nhằm mở rộng và tạo điều kiện thuận lợi cho nhà ĐTNN trong vấn đề sử dụng đất nhằm mục đích tăng thêm tính hấp dẫn cho môi trường đầu tư của Việt Nam. Theo các quy định của pháp luật Việt Nam thì: - Trong trường hợp nhà đầu tư được Nhà nước Việt Nam cho thuê đất, Uỷ ban nhân dân tỉnh nơi có dự án đầu tư có trách nhiệm tổ chức bồi thường, giải phóng mặt bằng, hoàn thành các thủ tục cho thuê đất. Chi phí bồi thường, giải toả được tính vào vốn đầu tư của dự án. - Trường hợp Bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, bên Việt Nam có trách nhiêm bồi thường, giải phóng mặt bằng và hoàn tất thủ tục để được quyền sử dụng đất. Chi phí do bồi thường giải phóng mặt bằng được tính trong phần vốn góp của bên Việt Nam. Quy định như trên là hoàn toàn hợp lý vì nó không những góp phần nâng cao trách nhiệm của các bên mà còn tao điều kiện để DN mau chóng đi vào hoạt động. - DN có vốn ĐTNN được quyền thế chấp giá trị quyền sử dụng đất và tài sản gắn liền với đất trong thời hạn thuê đất, thuê lại đất tại tổ chức tín dụng Việt Nam, chi nhánh ngân hàng nước ngoài hoạt động tại Việt Nam và ngân hàng liên doanh giữa Việt Nam với nước ngoài để vay vốn kinh doanh theo quy định của pháp luật. Cụ thể: + DN có vốn ĐTNN đã trả tiền thuê đất nhiều năm, nếu thời hạn thuê đất đã được trả tiền còn lại ít nhất 05 năm. + DN liên doanh mà bên Việt Nam góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, nếu thời hạn góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất còn lại ít nhất 05 năm. Tóm lại, qua các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư nêu trên, có thể khẳng định pháp luật về đầu tư bên cạnh những hạn chế nhất định thì đã thể hiện một bước tiến bộ vượt bậc trong chính sách về thu hút FDI. Nhờ đó, góp phần thúc đẩy tăng trưởng kinh tế của đất nước, tạo đà phát triển đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước, hướng tới lý tưởng "dân giàu, nước mạnh, xã hội công bằng, dõn chủ văn minh". CHƯƠNG III TÌNH HÌNH ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM, PHƯƠNG HƯỚNG GIẢI PHÁP VÀ KIẾN NGHỊ NHẰM THU HÚT ĐẦU TƯ TRỰC TIẾP NƯỚC NGOÀI TẠI VIỆT NAM 1. Khái quát chung về tình hình đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam Sau hơn 20 năm đổi mới, Việt Nam có quyền tự hào về một nền kinh tế có triển vọng và viễn cảnh tươi sáng. Với việc Hoa Kỳ tháo bỏ cấm vận đối với Việt Nam năm 1994, việc gia nhập ASEAN, gia nhập APEC, ký Hiệp định thương mại Việt - Hoa Kỳ và đặc biệt là sự kiện Việt Nam trở thành thành viên thứ 150 của WTO và Hoa Kỳ trao cho Việt Nam Quy chế thương mại bình thường vĩnh viễn (PNTR) cho Việt Nam, đã đưa Việt Nam lên một vũ đài lịch sử - vũ đài của sự hội nhập toàn diện và đầy đủ vào nền kinh tế thế giới. Tất cả các sự kiện đó có tác động to lớn đến tình hình thu hút FDI và triển khai các hoạt động FDI tại Việt Nam trong thời gian qua. Đêm 16/10/2006, Liên hợp quốc mới công bố bản Báo cáo Đầu tư Thế giới 2006, trong đó Việt Nam vẫn nằm trong trong top 10 Châu Á (biểu đồ bên dưới) về thu hút vốn FDI, tương tự như năm 2004. Tuy nhiên, một số chỉ tiêu cho thấy thứ hạng của Việt Nam trên thế giới đang giảm dần. 10 nước thu hút FDI cao nhất châu Á trong hai năm 2004 và 2005. Đơn vị tính là tỉ USD (nguồn: UNCTAD) (Nguồn: Vietnamnet- www.VNN.VN) Theo cách tính của Tổ chức Thương mại và Phát triển Liên hợp quốc (UNCTAD), dòng vốn FDI vào Việt Nam là 1,61 tỉ USD năm 2004 và 2,02 tỉ USD năm 2005. Bản báo cáo dài 366 trang phân tích chi tiết các xu hướng đầu tư nước ngoài của các quốc gia và vùng lãnh thổ, các khu vực, các ngành nghề. Tuy báo cáo không phân tích nhiều về Việt Nam, một vài số liệu của UNCTAD cũng đáng để chúng ta phải lưu ý. Cũng qua thống kê của Cục đầu tư nước ngoài - Bộ kế hoạch và đầu tư, ta có thể thấy bức tranh tổng quan về dòng FDI Việt Nam từ khi đổi mới cho đến nay như sau: 1.1. Tình hình FDI trước khi ban hành Luật đầu tư năm 2005 Trong thập niên 80 và đầu thập niên 90 của thế kỷ XX: Dòng FDI vào Việt Nam còn nhỏ. Đến năm 1991, tổng vốn FDI ở Việt Nam mới chỉ là 213 triệu đôla Mỹ. Tuy nhiên, con số FDI đăng ký đã tăng mạnh từ 1992 và đạt đỉnh điểm vào 1996 với tổng vốn đăng ký lên đến 8,6 tỷ đôla Mỹ. Sự tăng mạnh mẽ của FDI này là do nhiều nguyên nhân. Các nhà đầu tư nước ngoài bị thu hút bởi tiềm năng của một nền kinh tế đang trong thời kỳ chuyển đổi với một thị trường phần lớn còn chưa được khai thác. Thêm vào đó, các nhà đầu tư nước ngoài còn bị hấp dẫn bởi hàng loạt các yếu tố tích cực khác như lực lượng lao động dồi dào, giá nhân công rẻ và tỷ lệ biết chữ cao… Bên cạnh những yếu tố bên trong còn có các yếu tố bên ngoài đóng góp vào việc gia tăng của FDI. Thứ nhất là làn sóng vốn chảy dồn về các thị trường mới nổi trong những năm 80 và đầu những năm 90. Trong các thị trường này, Đông Nam Á là một điểm chính nhận FDI. Năm 1990, các nước Đông Nam Á thu hút 36% tổng dòng FDI đến các nước đang phát triển. Thứ hai là dòng vốn nước ngoài vào các nền kinh tế quá độ khối xã hội chủ nghĩa trước đây, nơi mà họ cho rằng đang có các cơ hội kinh doanh mới và thu lợi nhuận. Thứ ba là các nước mạnh trong vùng (cụ thể là Ma-lai-xi-a, Singapo, Thái-lan,…) đã bắt đầu xuất khẩu vốn. Là một nền kinh tế đang trong thời kỳ quá độ ở Đông Nam Á, Việt Nam có được lợi thế từ các yếu tố này. Trong khoảng thời gian 1991-1996: FDI đóng một vai trò quan trọng trong việc tài trợ cho sự thiếu hụt trong tài khoản vãng lai của Việt Nam và đã có những đóng góp cho cán cân thanh toán quốc tế của Việt Nam. Trong giai đoạn 1997-1999: Việt Nam đã trải qua một giai đoạn tụt dốc của nguồn FDI đăng ký, cụ thể là 49% năm 1997, 16% năm 1998 và 59% năm 1999, một phần là do khủng hoảng tài chính châu Á. Năm nước đầu tư lớn nhất vào Việt Nam đều từ khu vực châu Á và phải đối mặt với những khó khăn thực sự tại quốc gia của mình. Để bảo đảm cho hoạt động kinh doanh tại nước mình, các nhà đầu tư này đã buộc phải huỷ hoặc hoãn các kế hoạch mở rộng ra nước ngoài. Cuộc khủng hoảng cũng buộc các nhà đầu tư phải sửa đổi thấp đi chỉ tiêu mở rộng sang châu Á. Cuộc khủng hoảng cũng đã dẫn đến việc đồng tiền của các nước Đông Nam Á bị mất giá. Việt Nam, do vậy, cũng trở nên kém hấp dẫn đối với những dự án tập trung vào xuất khẩu. Hơn nữa, các nhà đầu tư nước ngoài cũng nhận ra rằng các dự kiến về nhu cầu của thị trường đã bị thổi phồng. Các bức rào cản cho việc kinh doanh cũng trở nên rõ ràng hơn. Giai đoạn 2000-2002: Giá trị FDI đăng ký tăng trở lại vào năm 2000 với mức 25,8% và 2001 với mức 22,6%, nhưng vẫn chưa được hai phần ba so với năm 1996. FDI đăng ký tăng vào năm 2001 và 2002 là kết quả của dự án đường ống Nam Côn Sơn (2000) với tổng vốn đầu tư là 2,43 tỷ USD, và Dự án xây dựng – kinh doanh – chuyển giao Phú Mỹ (2001) với tổng vốn đầu tư là 0,8 tỷ USD. Năm 2002, FDI đăng ký lại giảm xuống còn khoảng 1,4 tỷ USD, đạt khoảng 54,5% của mức năm 2001. 1.2. Tình hình FDI sau khi ban hành Luật dầu tư năm 2005 - Tình hình thu hút FDI năm 2006: + Về vốn đăng ký: Trong năm 2006, cả nước đã thu hút được trên 10,2 tỷ USD vốn đăng ký mới, tăng 57% so với năm 2005 và đạt mức cao nhất từ khi ban hành Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam năm 1987 đến nay, vượt mức kỷ lục đã đạt được vào năm 1996 là 8,6 tỷ USD. Trong tổng vốn ĐTNN đăng ký năm 2006 có gần 8 tỷ USD vốn đăng ký của hơn 800 dự án mới và hơn 2,2 tỷ USD vốn tăng thêm của 440 lượt dự án đầu tư mở rộng sản xuất kinh doanh. Như vậy, cả vốn đăng ký của các dự án mới và vốn đầu tư mở rộng sản xuất đều tăng mạnh so với năm 2005, trong đó vốn đăng ký của các dự án mới tăng tới 77%. + Về vốn thực hiện: Cùng với việc gia tăng vốn đăng ký, vốn đầu tư thực hiện năm 2006 cũng đạt mức cao nhất trong vòng 20 năm qua. Tiến độ giải ngân vốn ĐTNN trong năm 2006 được đẩy nhanh, nhất là đối với các dự án tăng vốn đầu tư mở rộng sản xuất. Tổng vốn ĐTNN thực hiện trong cả năm ước đạt trên 4,1 tỷ USD, tăng 24,2% so với năm 2005. - Tình hình thu hút đầu tư năm 2007: Năm 2007, vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) vào Việt Nam đạt 20,3 tỷ USD, tăng 69,1% so năm 2005 và vượt 56% so với kế hoạch năm. Tổng vốn thực hiện cũng đạt kết quả khả quan là 4,6 tỷ USD, tăng 12,2% so với năm 2007, vượt 2,2% kế hoạch năm (4,5 tỷ USD). Trong 12 tháng, cả nước có 1.406 dự án được cấp giấy chứng nhận đầu tư, với tổng vốn đầu tư đăng ký lên 17,6 tỷ USD, tăng 68,8% về số dự án và 94% về vốn đăng ký so với năm 2007. Số lượt dự án tăng vốn trong 12 tháng qua cũng đạt 361 lượt dự án, với tổng vốn tăng thêm hơn 2,65 tỷ USD, bằng 74,3% về số dự án và 91,2% về vốn bổ sung so với năm 2006. Như vậy, dòng FDI năm 2007 đã đạt mức cao nhất từ trước đến nay. Chỉ tính riêng năm 2007, dòng FDI chảy vào Việt Nam đã bằng 20 năm đổi mới.Với 20 năm triển khai Luật Đầu tư nước ngoài (1988 - 2008) và 20,3 tỷ USD FDI năm 2007, một con số trùng hợp đầy ý nghĩa, khẳng định sự quan tâm chưa từng có của các nhà đầu tư nước ngoài đến thị trường Việt Nam. Tuy vậy để thu hút FDI nhiều hơn nữa trong thời gian tới, tác giả xin đề xuất một số giải pháp dưới đây. 2. Các giải pháp, kiến nghị nhằm thu hút đầu tư trực tiếp nước ngoài trong thời gian tới 2.1. Các giải pháp chung Có thể thấy hiệu quả thu hút đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua là chưa cao, trong khi tiềm năng hấp dẫn của môi trường đầu tư ở Việt Nam là rất lớn. Nguyên nhân cơ bản là do chính sách và pháp luật về bảo đảm và khuyến khích đầu tư của nước ta còn thiếu tính cụ thể, tính ổn định và tính thống nhất nên đã gây khó khăn cho cả nhà đầu tư và cơ quan quản lí. Trong khi đó, các nước trong khu vực đã nhanh chân hơn ta trong cải cách pháp luật về bảo đảm và khuyến khích đầu tư, nên tính cạnh tranh của môi trường đầu tư cũng cao hơn nước ta. Trước tình hình đó, sự ra đời của Luật Đầu tư năm 2005 là một nỗ lực của Việt Nam nhằm khẳng định quyết tâm, tiến mạnh vào nền kinh tế khu vực và thế giới, nâng cao năng lực cạnh tranh cho môi trường đầu tư tại Việt Nam. Ra đời trong bối cảnh Việt Nam đang khẩn trương tiến hành những vòng đàm phán quan trọng gia nhập WTO và thực thi các cam kết quốc tế nên việc thực thi Luật Đầu tư năm 2005 sẽ đáp ứng được sự mong đợi của các nhà đầu tư về một khung pháp lí minh bạch và thống nhất. Từ đó, xin kiến nghị một số giải pháp cơ bản như sau: 2.1.1. Hoàn thiện hệ thống pháp luật, chính sách có liên quan đến hoạt động đầu tư Có thể nói pháp luật Việt Nam quy định các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư thông thoáng hơn so với nhiều nước khác. Tuy nhiên, các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư hiện hành vẫn còn tạo ra những khó khăn trong quá trình áp dụng do các văn bản hướng dẫn thi hành hoạt động đầu tư còn ban hành chậm, chưa rõ ràng, một số cơ chế về quản lý đầu tư nước ngoài còn chưa phù hợp với tình hình cụ thể trong nước. Bởi vậy, cần phải tạo ra môi trường pháp luật cho hoạt động đầu tư tại Việt Nam theo hướng đồng bộ hóa về luật, tăng ưu đãi tài chính cho nhà đầu tư, đi đôi với việc kiểm soát chặt chẽ những điều kiện liên quan đến sự phát triển ổn định, bền vững cho phù hợp với tình hình trong nước và thông lệ quốc tế. Chính phủ cần nhanh chóng banh hành thêm các Nghị định bổ sung Nghị định 108/2006/ NĐ-CP để hướng dẫn thi hành thêm các vấn đề về FDI phát sinh trong quá trình triển khai Luật Đầu tư năm 2005 để tạo cơ sở pháp lí cho hoạt động đầu tư trong thời gian tới; đồng thời chỉ đạo các Bộ, Ngành liên quan khẩn trương ban hành các thông tư hướng dẫn cụ thể. Tiếp tục rà soát, hủy bỏ những văn bản trái với Luật Đầu tư năm 2005 và thông lệ quốc tế. Tiếp tục hoàn hiện pháp luật đầu tư theo hướng tránh sự chồng chéo, mâu thuẫn giữa các luật. Mặc dù hoạt động đầu tư đã được điều chỉnh thống nhất bằng Luật Đầu tư năm 2005, các DN có vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài và các DN trong nước đã có một sân chơi bình đẳng, nhưng trong quá trình thực hiện không tránh khỏi những bất cập, bởi vậy các Bộ, Ngành liên quan luôn phải bám thực tiễn để rút kinh nghiệm, từ đó đưa ra những sửa đổi bổ sung hợp lý trong nhiều chính sách bảo đảm và ưu đãi của Nhà nước: Bảo đảm về vốn, chính sách đất đai, chính sách thuế và hỗ trợ tài chính, chính sách lao động và tiền lương, chính sách thị trường và tiêu thụ sản phẩm, chính sách công nghệ… 2.1.2. Mở rộng quan hệ hợp tác, xúc tiến ký kết các hiệp định song phương và đa phương về khuyến khích và bảo hộ đầu tư Mỗi quốc gia có khuynh hướng phát triển của mình, nhưng giữa các quốc gia luôn có những lợi ích chung thống nhất, nên cần thiết phải có sự liên kết, hợp tác với nhau để cùng tồn tại và phát triển. Xu thế hợp tác quốc tế đã làm cho các nước có xu hướng xích lại gần nhau hơn, các hệ thống pháp luật từ đó cũng ảnh hưởng qua lại với nhau ở mức độ nhiều hơn. Hợp tác quốc tế tạo ra những quy tắc xử sự chung mà nếu mỗi quốc gia không tuân theo sẽ bị loại bỏ cuộc chơi mang tính toàn cầu. Vì vậy, các quốc gia buộc phải mở rộng giao lưu hợp tác, đấu tranh để cùng được tham gia xây dựng lên những quy tắc chung nhằm đảm bảo quyền lợi cho chính mình. Cho đến nay, Việt Nam đã ký được khoảng trên dưới 90 Hiệp định thương mại song phương, trên dưới 50 Hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư và khoảng 40 Hiệp định tránh đánh thuế hai lần với các nước và vùng lãnh thổ, có trên 70 nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Việt Nam đã sớm nhận thức được hội nhập kinh tế quốc tế là xu thế khách quan, bao trùm hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế nói chung và thu hút đầu tư nói riêng, vừa thúc đẩy hợp tác, vừa tăng sức ép cạnh tranh lẫn nhau giữa các nền kinh tế. Trước xu thế đó, chúng ta phải chủ động hội nhập kinh tế quốc tế, từng bước thu hẹp và tiến tới xóa bỏ sự khác biệt về một số chính sách và quy định của pháp luật Việt Nam với pháp luật của một số nước khác trong khu vực. Đồng thời đẩy mạnh việc ký kết các hiệp định song phương và đa phương nhằm đẩy mạnh tiến độ thu hút FDI vào Việt Nam, tránh nguy cơ tụt hậu và chịu những thua thiệt của người đi sau. Đồng thời, để sớm đưa Luật Đầu tư năm 2005 áp dụng trong thực tiễn, phù hợp với thông lệ quốc tế cần phải có những cải cách theo hướng: Mở cửa thị trường nội địa cho hàng hóa, dịch vụ, vốn… của nước ngoài vào Việt Nam; từng bước cắt giảm thuế quan đối với một số loại hàng hóa, xáo bỏ chính sách bảo hộ đối với hàng hóa, dịch vụ của các DN trong nước; nâng cao quản lí Nhà nước trong vấn đề sở hữu trí tuệ; tiến hành minh bạch hóa việc hoạch định, ban hành và thực thi chính sách quy định pháp luật của đất nước về kinh tế, thương mại và những lĩnh vực có liên quan, nâng cao an toàn pháp lý cho các tổ chức các nhân nước ngoài; nội luật hóa một số quy định của các Công ước và Hiệp định quốc tế về đầu tư mà Việt Nam tham gia hoặc ký kết vào pháp luật đầu tư Việt Nam; tiếp tục xây dựng và hoàn thiện cơ chế thực thi pháp luật cho phù hợp với những điều kiện mới, đặc biệt là thực thi các cam kết quốc tế về quan hệ đầu tư. Như vậy, quá trình xây dựng và ký kết các hiệp định hợp tác nhằm thúc đẩy thu hút đầu tư của Việt Nam hiện nay là xuất phát từ nhiều lí do khác nhau, trong đó quan trọng nhất là để đưa pháp luật về đầu tư của Việt Nam tiến dần tới những tiêu chuẩn chung của các nước trong khu vực và thế giới. Từ đó làm cho pháp luật đầu tư Việt Nam hài hòa với pháp luật các nước tạo điều kiện thuận lợi cho Việt Nam trong quá trình hợp tác quốc tế trong lĩnh vực đầu tư. 2.1.3. Các giải pháp khác Ngoài các giải pháp trên, tác giả cũng xin đề xuất một số giải pháp sau: - Cần phải có sự quản lý thống nhất hơn nữa các hoạt động đầu tư giữa các ngành, các địa phương; - Cần phải tham khảo và pháp điển hóa một số quy định về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư phổ biến trên thế giới như biện pháp về cơ chế bảo lãnh đặc biệt dành cho những dự án đầu tư quy mô lớn, có tính chất quan trọng, có ý nghĩa to lớn đối với sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước. Nhưng do thường liên quan đến chế độ sở hữu trí tuệ, đòi hỏi vốn lớn hoặc có độ rủi ro quá cao nên các dự án này khó được triển khai, nhất là những dự án về cơ sở hạ tầng đặc biệt quan trọng; - Nâng cao chất lượng của các văn bản quy phạm pháp luật về hoạt động FDI; - Nhà nước cần hết sức quan tâm đến việc tuyên truyền, phổ biến Luật Đầu tư năm 2005 và các quy định cũng như các cam kết hội nhập của Việt Nam; - Tăng cường trách nhiệm của các cơ quan, tổ chức, đơn vị nhất là ở cơ sở trong việc tổ chức thi hành pháp luật về FDI, tăng cường công tác giám sát, kiểm tra và xử lý kịp thời, nghiêm minh các hành vi vi phạm pháp luật về FDI; - Minh bạch hóa các quy trình và thủ tục hành chính đối với FDI hơn nữa; - Xây dựng và công khai hóa chiến lược thu hút và sử dụng vốn FDI. 2.2. Các giải pháp cụ thể Để hoàn thiện chính sách về bảo đảm và ưu đãi đầu tư, Việt Nam cần phải có kế hoạch rà soát thường xuyên chính sách đầu tư nhằm phát hiện những vấn đề gây trở ngại đến hoạt động đầu tư, bao gồm từ quá trình thành lập, hoạt động sản xuất kinh doanh cho đến khi giải thể DN, để từ đó có những thay đổi phù hợp. Trong giai đoạn hiện nay, để thực thi Luật Đầu tư năm 2005 được hiệu quả, cần phải tập trung giải quyết một số vấn đề sau: 2.2.1. Về thủ tục đăng ký và thành lập doanh nghiệp Hiện nay, thủ tục đăng ký và thành lập DN còn gây trở ngại đối với các nhà đầu tư. Khi thành lập DN nhà đầu tư phải qua rất nhiều cửa, làm rất nhiều thủ tục và chờ đợi rất lâu để có được giấy phép thành lập DN. Do đó, trong thời gian tới cần phải tiếp tục đẩy mạnh chính sách “một cửa” đối với thủ tục thành lập DN. Tức là nhà đầu tư chỉ cần nộp hồ sơ xin phép thành lập tại một cơ quan nhà nước có thẩm quyền, cơ quan này sẽ chịu trách nhiệm giải quyết trong thời gian sớm nhất. Vừa qua, Việt Nam đã thành lập Cục đầu tư trực tiếp nước ngoài là cơ quan đầu mối giải quyết các vấn đề về FDI, do vậy cần nhanh chóng thành lập cơ quan như vậy ở địa phương để thuận tiện trong quá trình cấp phép đầu tư. Cơ quan đầu mối này ở địa phương sẽ bao gồm đại diện các Sở, Ban, Ngành có liên quan đến việc cấp phép đầu tư. 2.2.2. Về phân cấp quản lí và cấp giấy chứng nhận đầu tư Tiếp tục phân cấp mạnh mẽ về quản lí Nhà nước đối với hoạt động đầu tư cũng như việc cấp giấy chứng nhận đầu tư. Cụ thể, phân cấp quản lí hoạt động đầu tư cho UBND các Tỉnh, Thành phố và các Ban quản lí khu công nghiệp theo nguyên tắc tập trung, thống nhất về quy hoạch, cơ cấu, chính sách và cơ chế quản lí; tăng cường hướng dẫn, kiểm tra và giám sát của các Bộ, Ngành trung ương. Đối với cấp giấy chứng nhận đầu tư, cần phải phân cấp mạnh cho Cục đầu tư trực tiếp nước ngoài, UBND cấp Tỉnh, Thành phố và Ban quản lý khu công nghiệp trong việc cấp giấy chứng nhận đầu tư thông qua một đầu mối mà không phụ thuộc vào quy mô hoạt động của DN, trừ những trường hợp những dự án nhạy cảm ảnh hưởng đến an ninh quốc phòng, văn hóa đạo đức, thuần phong mỹ tục... 2.2.3. Về thời gian cấp phép thành lập DN Các Bộ, Ngành cần phối kết hợp để thực hiên cấp giấy phép thành lập DN và giấy chứng nhận đầu tư đúng thời hạn luật định. Đồng thời tiếp tục nghiên cứu cơ chế rút ngắn thời gian cấp phép các loại giấy này để đáp ứng yêu cầu của các nhà đầu tư. 2.2.4. Chính sách về thuế Tiếp tục rà soát chính sách về thuế để đảm bảo những ưu đãi nhất đối với nhà đầu tư nước ngoài. Cụ thể: - Thực hiện giảm thuế suất thuế thu nhập DN, sao cho đảm bảo không làm ảnh hưởng tới nguồn thu của ngân sách Nhà nước và khuyến khích được sản xuất phát triển và nguồn vốn FDI. - Ban hành nhanh chóng các văn bản hướng dẫn Luật thuế thu nhập cá nhân và phải nhanh chóng thống nhất thuế suất giữa người nước ngoài và người Việt Nam ở mức độ hợp lý vì trước khi ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân thì thuế thu nhập đối với người có thu nhập cao vẫn còn những đối xử thiếu công bằng giữa người Việt Nam và người nước ngoài, chưa bao quát hết các khoản thu nhập cá nhân. Việc ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân là cần thiết để hỗ trợ cải cách nộp thuế cho DN. Đồng thời, việc ban hành Luật thuế thu nhập cá nhân cần phải đảm bảo tính cạnh tranh trong thu hút FDI, đồng thời đảm bảo khuyến khích được các tầng lớp xã hội tích cực đầu tư vào nền kinh tế. - Về Thuế xuất nhập khẩu, nhằm khuyến khích xuất khẩu, chính sách thuế xuất nhập khẩu cần phải được thực hiện theo hướng bảo hộ có chọn lọc, có thời gian và điều kiện thích hợp. Riêng đối với DN đầu tư nước ngoài, nhất là các DN FDI thì cần phải có chính sách hỗ trợ xuất khẩu bằng các biện pháp hợp lý, đồng thời vẫn duy trì chính sách khuyến khích về thuế thu nhập đối với tài sản cố định của DN FDI. - Về Thuế giá trị gia tăng (VAT), để thực hiện mục tiêu thu ngân sách vẫn khuyến khích đầu tư phát triển, cần phải mở rộng diện ưu đãi đồng thời với việc cắt giảm các đối tượng chịu thuế VAT. Do đó, nên áp dụng thống nhất mức thuế suất 10% là hợp lý để thực hiện các mục tiêu cắt giảm sau khi hội nhập quốc tế. Cho phép nguyên vật liệu không sản xuất ở Việt Nam được miễn thuế VAT nhằm thúc đẩy hơn nữa hoạt động đầu tư FDI ngoài phát triển. 2.2.5. Chính sách giảm chi phí cho DN FDI Cần nghiên cứu để đưa ra các biện pháp giảm chi phí hoạt động so với các nước khác trong khu vực như: Tiền lương, giá đất… cho các DN tiến hành đầu từ vào Việt Nam, nhất là các DN FDI. Hiện nay theo báo cáo của JETRO tại diễn đàn DN Việt Nam vào tháng 6 năm 2004, chi phí thuê văn phòng tại Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh vào khoảng 20USD/m2/tháng, cao hơn so với Băngcốc, Jacácta… Cước điện thoại và chi phí vận tải của Việt Nam cao gấp đôi so với khu vực. Bên cạnh đó, cần phải nhanh chóng triển khai và triển khai triệt để việc xóa bỏ chế độ hai giá giữa DN trong nước và DN nước ngoài. 2.2.6. Chính sách đất đai Để tạo điều kiện hơn nữa cho nhà đầu tư FDI trong việc sử dụng đất, tác giả xin kiến nghị những giải pháp sau: - Tiếp tục rà soát và xem xét lại giá cho thuê đất, miễn giảm tiền thuê đất trong một số năm đầu để tạo thuận lợi cho DN; - Giải quyết dứt điểm về đền bù giải phóng mặt bằng đang gây ách tắc trong quá trình triển khai dự án FDI; - Ban hành chính sách về giá thuê đất, giá đền bù, giải phóng mặt bằng hợp lí, không phân biệt đối xử giữa các dự án FDI và trong nước tránh đẩy giá thuê đất thực tế lên cao; - Cho phép các DN FDI được lựa chọn nhiều hình thức sử dụng đất hơn nữa. Đồng thời, tạo điều kiện gia hạn sử dụng đất và được hưởng các quyền như các DN trong nước đối với các DN FDI và phải thực hiện triệt để việc cho phép các DN FDI được thế chấp giá trị quyền sử dụng đất; - Cần phải triệt để chấm dứt cơ chế các DN trong nước góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất, chuyển sang chế độ Nhà nước cho thuê đất để tạo thuận lợi cho các DN FDI trong khi xử lý các vấn đề tài chính có liên quan tới các DN trong nước. 2.2.7. Chính sách chuyển giao công nghệ Tiếp tục rà soát và hoàn thiện chính sách chuyển giao công nghệ để tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư nước ngoài trong quá trình chuyển giao công nghệ vào Việt Nam. Hướng dẫn các cơ quan hữu quan thực hiện triệt để các quy định của Luật Chuyển giao công nghệ năm 2006 theo hướng có lợi cho các nhà ĐTNN, đặc biệt là các nhà FDI nhằm thu hút công nghệ hiện đại của các DN FDI thuận lợi hơn. 2.2.8. Chính sách tài chính, tín dụng và ngoại hối cần: - Nhanh chóng thực hiện mục tiêu tự do hóa chuyển đổi ngoại tệ đối với các giao dịch vãng lai; - Xây dựng hoàn thiện các quy định về đảm bảo vay vốn, cầm cố, thế chấp bảo lãnh để các DN FDI có thể vay vốn của ngân hàng trong nước và quốc tế; - Mở rộng hơn nữa khả năng các DN FDI tham gia vào thị trường vốn; được vay tín dụng kể cả trung và dài hạn tại các tổ chức tín dụng hoạt động tại Việt Nam; - Từng bước mở rộng thị trường bất động sản cho các nhà đầu tư nước ngoài. 2.2.9. Về lao động và tiền lương - Tiếp tục hoàn thiện chính sách lao động và tiền lương đối với hoạt động đầu tư FDI. Giải quyết thỏa đáng các tranh chấp lao động và tiền lương. Nhấn mạnh vào việc hoàn thiện các văn bản quy định về tuyển dụng, đào tạo, đề bạt, sa thải, các văn bản xử lí tranh chấp lao động, tiền lương, thu nhập… ; - Hoàn thiện bộ máy hành pháp về quản lí lao động trong các dự án FDI; - Phát huy vai trò của cơ quan thanh tra lao động trong việc kiểm tra, giám sát việc thực hiện chính sách lao động và tiền lương của các dự án FDI, đồng thời sửa đổi các chính sách về lao động và tiền lương cho thích hợp; 2.2.10. Về bảo hộ quyền sở hữu trí tuệ Tiếp tục thực thi tốt quyền sở hữu trí tuệ ở Việt Nam bằng cách tăng cường vai trò quản lí Nhà nước trong lĩnh vực sở hữu trí tuệ, tham gia các Công ước về quyền sở hữu trí tuệ. Quan trọng nhất là chuẩn bị một cơ sở pháp lí thật tốt và vững chắc thi hành Hiệp định về sở hữu trí tuệ của WTO (TRIPS) trong bối cảnh Việt Nam chính thức trở thành thành viên của WTO. 2.2.11. Lĩnh vực đầu tư và hình thức đầu tư Cần có chính sách xử lí linh hoạt các hình thức đầu tư để tăng cường mức độ tham gia của các nhà FDI. Hạn chế danh mục các dự án đầu tư có điều kiện đối với các dự án FDI. Xử lí linh hoạt cho phép chuyển đổi DN liên doanh trong một số trường hợp sang DN 100% vốn nước ngoài. 2.2.12. Về giải thể và phá sản DN Đảm bảo thủ tục giải thể và phá sản DN FDI nhanh chóng, không gây cản trở về thủ tục hành chính đối với các nhà đầu tư. Cần ban hành quy chế pháp lí về chế độ thanh lí tài sản đối với DN FDI giải thể hoặc phá sản một cách cụ thể và rõ ràng. 2.2.13. Về khiếu kiện và giải quyết tranh chấp - Tiếp tục nghiên cứu chính sách, để nhà ĐTNN có thể khiếu kiện ra Tòa án hoặc cơ quan tài phán khác những quyết định hành chính của cơ quan nhà nước có thẩm quyền mà không phụ thuộc vào cấp giải quyết khiếu nại của cơ quan đó; - Tăng cường và mở rộng vai trò giải quyết tranh chấp của tổ chức và Trọng tài thương mại; - Nên giải quyết các tranh chấp theo Công ước giải quyết tranh chấp giữa nhà đầu tư nước ngoài với nước tiếp nhận đầu tư (Công ước ISCID) để bảo đảm quyền và lợi ích hợp pháp của nhà đầu tư nước ngoài khi đầu tư vào Việt Nam. KẾT LUẬN Pháp luật về các biện pháp bảo đảm và khuyến khích đầu tư FDI có ý nghĩa vô cùng quan trọng trong việc cải thiện mạnh mẽ môi trường pháp lý kinh doanh ở Việt Nam. Vấn đề thu hút FDI không chỉ đòi hỏi sự vận động nội tại của nền kinh tế trong nước mà còn đòi hỏi một cơ chế chính sách, pháp luật đồng bộ theo hướng ngày càng hoàn thiện nhằm đáp ứng yêu cầu của sự phát triển kinh tế đất nước và hội nhập kinh tế khu vực cũng như thế giới. Luật Đầu tư năm 2005 và các văn bản hướng dẫn đã phản ánh đường lối, chính sách phát triển kinh tế của Đảng và Nhà nước trong giai đoạn tới, đồng thời cũng tuân thủ khá đầy đủ quan điểm, tư tưởng chỉ đạo và yêu cầu thực tiễn đặt ra đối với việc xây dựng luật pháp về FDI. Bên cạnh đó, Luật Thương mại 2005, Luật DN năm 2005, và nhiều luật chuyên nghành khác đã tạo môi trường pháp lý ngày càng hấp dẫn và thông thoáng đối với các nhà FDI. Thực tế cho thấy, việc huy động nguồn lực FDI cho tăng trưởng kinh tế ngày càng gia tăng là minh chứng đúng đắn cho sự thành công của đường lối đổi mới, thể hiện hiệu quả của hệ thống pháp luật về đầu tư đã được hình thành và tiếp tục hoàn thiện. Những yêu cầu mới của sự nghiệp cải cách là phát triển kinh tế - xã hội, của công cuộc đẩy mạnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, chủ động hội nhập kinh tế quốc tế đã và đang đòi hỏi phải tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp lý và chính sách đầu tư để tăng cường huy động tối đa FDI. Để tăng trưởng kinh tế nhanh và bền vững, sớm đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, đòi hỏi tổng vốn đầu tư của toàn xã hội trong thời kỳ kế hoặch 5 năm 2006 - 2010 phải đạt trên 2.200.000 tỷ đồng (tương đương với 139,4 tỷ USD theo tỷ giá năm 2007), bằng khoảng 40% GDP năm 2007. Đó là một nhiệm vụ hết sức nặng nề và khó khăn. Muốn thực hiện thành công nhiệm vụ trên đòi hỏi phải tiếp tục tạo lập các yếu tố và hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường, hoàn thiện hệ thống pháp luật, tạo ra môi trường đầu tư thuận lợi, đảm bảo sự bình đẳng, tự do trong hoạt động đầu tư kinh doanh, gắn cải cách trong nước với mở cửa, hội nhập, nâng cao khả năng cạnh tranh và tạo ra sự hấp dẫn đối với mọi thành phần kinh tế, cả trong và ngoài nước. Đây cũng là đòi hỏi tất yếu khách quan của việc xây dựng và ban hành Luật Đầu tư năm 2005 để tiếp tục hoàn thiện thể chế kinh tế thị trường theo yêu cầu thực tiễn của hoạt động đầu tư và yêu cầu hội nhập kinh tế quốc tế. Luật Đầu tư năm 2005 tiếp tục luật hóa và thể hiện rõ hơn các biện pháp bảo đảm và khuyến khích FDI có tính cạnh tranh lành mạnh hơn, có sự bảo đảm, hỗ trợ của nhà nước đối với hoạt động FDI, vừa phù hợp với điều kiện kinh tế Việt Nam, vừa phù hợp với lộ trình các cam kết quốc tế. Tuy nhiên, như đã đề cập và phân tích ở trên, Luật Đầu tư năm 2005 vẫn còn một số hạn chế nhất định, đã ảnh hưởng không nhỏ đến năng lực thu hút vốn FDI ở Việt Nam. Do vậy, muốn thực hiện những mục tiêu, đường lối, chính sách đầu tư đã được đề ra trong Văn kiện Đại hội Đảng X thì điều thiết yếu hiện nay là phải khắc phục được những hạn chế đó, nhanh chóng đưa Luật Đầu tư năm 2005 vào thực tiễn cuộc sống một cách có hiệu quả. Trong khuôn khổ Khóa luận tốt nghiệp này, tác giả hy vọng sẽ góp phần giải quyết những hạn chế còn tồn tại, qua đó giúp Việt Nam xây dựng được một cơ chế thu hút FDI hiệu quả và thu hút ngày một nhiều hơn các nguồn vốn đầu tư, tăng thêm sức hấp dẫn và cạnh tranh cho môi trường đầu tư Việt Nam, thúc đẩy khuyến khích các nhà đầu tư nước ngoài mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam, từ đó góp phần đưa Việt Nam trở thành một địa chỉ thu hút đầu tư FDI đáng tin cậy trong khu vực và trên trường quốc tế, hướng tới mục tiêu đến năm 2020 cơ bản trở thành một nước công nghiệp (theo tinh thần của Đại hội Đại biểu Toàn quốc lần thứ X của Đảng). DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ VIII; Văn kiện đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX; Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi bổ sung một số điều theo nghị quyết của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25.12.2001); Các hiệp định khuyến khích và bảo hộ đầu tư giữa Việt Nam với các nước; Hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa kỳ năm 2000; Hiệp định ASEAN về khuyến khích và bảo hộ đầu tư; Hiệp định tránh đánh thuế hai lần; Các hiệp định về đầu tư của Tổ chức thương mại thế giới; Công ước MIGA về bảo đảm đầu tư; Các cam kết trong khuôn khổ Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á – Thái Bình Dương - APEC Hiến pháp năm 1992 (được sửa đổi bổ sung một số điều theo nghị quyết của Quốc hội khóa X, kỳ họp thứ 10 thông qua ngày 25.12.2001); Luật Đầu tư năm 2005, và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật Đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 1987 và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật khuyến khích đầu tư trong nước 1998 (sửa đổi ngày 20/5/1998)và các văn bản hướng dẫn thi hành; Luật Đầu tư nước Cộng hoà Rumani; Luật Đầu tư nước Cộng hoà Mexico; Các văn bản pháp luật hiện hành về thuế; Luật đất đai và các các văn bản hướng dẫn thi hành; Giáo trình Tư pháp quốc tế - Trường Đại học Luật Hà Nội, 2006; Giáo trình Luật đầu tư - Trường Đại học Luật Hà Nội, 2007; Giáo trình Luật thuế - Trường Đại học Luật Hà Nội, H.2005; Giáo trình quan hệ kinh tế quốc tế - Trường đại học Luật Hà Nội, 2003; Giáo trình kinh tế đầu tư – Trường đại học kinh tế quốc dân 2003; ThS.Nguyễn Văn Tuấn: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài với phát triển kinh tế ở Việt Nam”, Nxb Tư pháp, H.2005; TS.Đinh Trọng Thịnh: “Các công cụ tài chính và vị thế của Việt Nam trong khu vực đầu tư ASEAN”. Nxb Tài chính, H.2005; PGS.TS. Đinh Văn Ái – TS.Đỗ Đức Minh: “ Chính sách thuế quan của Việt Nam trong tiến trình hội nhập”, Nxb Tài chính, H.2002; ThS.Nguyễn Khánh Ly: Hoàn thiện pháp luật đầu tư nhằm thực thi nguyên tắc đối xử quốc gia theo hiệp định thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ”, Nxb Công an nhân dân, H.2004; Trần Xuân Tùng: “Đầu tư trực tiếp nước ngoài ở Việt Nam, thực trạng và giải pháp”, Nxb Chính trị quốc gia, H.2005; Báo đầu tư điện tử, www.vir.com.vn, trang kinh tế - đầu tư Báo điện tử Đảng Cộng sản Việt Nam, Báo Kinh tế Việt Nam, báo Đầu tư và thời báo Kinh tế Việt Nam; Tạp chí Luật học (Trường Đại học Luật Hà Nội). CÁC CHỮ VIẾT TẮT TIẾNG ANH AFTA Asean Free Trade Area Khu vực mậu dịch tự do ASEAN AIA Asean Investment Agrerement APEC Asia Pacific Economic Coopertion Diễn đàn hợp tác kinh tế Châu Á - Thái Bình Dương ASEAN Asean South East Association of Nations Hiệp hội các nước Đông Nam Á ASEM Asia Europe Meeting Diễn đàn hợp tác Á - Âu BTA Bilateral Trade Agreement Hiệp định Thương mại Việt Nam – Hoa Kỳ FDI Foreign Direct Investment Đầu tư trực tiếp nước ngoài MIGA Multilateral Investment Guarantee Agency Tổ chức bảo đảm đầu tư đa biên USD United State Dollar Đồng đô la Mỹ WB World Bank Ngân hàng thế giới WTO World Trade Organization Tổ chức thương mại thế giới VAT Value Added Tax Thuế giá trị gia tăng GDP General Domestic Product Tổng sản phẩm quốc nội TIẾNG VIỆT CGCN Chuyển giao công nghệ CNH Công nghiệp hoá CHXHCN Cộng hoà xã hội chủ nghĩa DN Doanh nghiệp ĐTNN Đầu tư nước ngoài HĐH Hiện đại hóa KCN Khu công nghiệp KCX Khu chế xuất KCNC Khu công nghệ cao SHCN Sở hữu công nghiệp UBND Uỷ ban nhân dân MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (40).doc
Tài liệu liên quan