Khóa luận Nghiên cứu hoạt động của một số Tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam

Vai trò của các TĐTC trong xu thế toàn cầu hóa là hết sức quan trọng. Với đặc thù là một tổ hợp kinh tế theo mô hình công ty mẹ - con có quy mô lớn về vốn và tài sản, hoạt động kinh doanh đa ngành và nhiều chức năng, các tập đoàn có những ưu thế nhất định trong kinh doanh, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, nâng cao năng lực tài chính, năng lực kinh doanh và cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế. Từ nghiên cứu các TĐTC trên thế giới đã rút ra những kinh nghiệm trong quá trình hình thành và phát triển TĐTC ở Việt Nam để các tập đoàn hoạt động có hiệu quả và làm nòng cốt trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội. Trước những đòi hỏi cấp bách và những thách thức lớn của quá trình hội nhập, cụ thể là việc thực hiện những cam kết song phương và đa phương về lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các NHTM Việt Nam đang đứng trước những sự lựa chọn mang tính cốt tử trong việc xác định chiến lược kinh doanh và cách thức đổi mới mô hình hoạt động. Việc các NHTM có lựa chọn, xây dựng ngân hàng trở thành một TĐTC - NH đa năng hay không là phụ thuộc vào chiến lược riêng biệt của từng NHTM. Tuy nhiên, để trở thành các TĐTC mạnh, có thể đứng vững, phát triển và hội nhập với nền tài chính - ngân hàng khu vực và thế giới đòi hỏi một quá trình lao động sáng tạo và bền bỉ của các cấp quản lý vĩ mô và của bản thân từng ngân hàng.

doc102 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1515 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu hoạt động của một số Tập đoàn tài chính trên thế giới và kinh nghiệm cho Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
g thị lại là con người tham vọng. Ông thấy thị trường nào cũng béo bở cả, sản phẩm nào cũng có thể bán được cả. Vì vậy, Maurice Greenberg quyết tâm xây dựng AIG thành tập đoàn bảo hiểm tài chính toàn phần. Với bất kỳ đối tượng khách hàng nào, dù là cá nhân hay là công ty, AIG đều đưa ra được những sản phẩm bảo hiểm, tài chính phù hợp. Tổng giá trị tài sản của tập đoàn AIG lên tới 168 tỉ USD. Dưới sự chèo lái tài giỏi của Chủ tịch Greenberg, hoạt động của AIG luôn rất hiệu quả trước sự khâm phục của giới phân tích và các đối thủ cạnh tranh. Tỉ suất lợi nhuận của AIG luôn luôn thuộc loại cao nhất trong giới kinh doanh bảo hiểm. Năm 2003, AIG đã tự lập kỷ lục lợi nhuận ròng với 9,3 tỷ USD. Thế nhưng, kết quả kinh doanh của năm 2004 còn ngoạn mục hơn nhiều, 11 tỉ USD, tăng hơn 19,1% so với năm 2003. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm nhân thọ, AIG đã đạt doanh thu lớn, chiếm tỉ lệ đáng kể trong toàn bộ cơ cấu kinh doanh của tập đoàn. Bên cạnh các hoạt động kinh doanh bảo hiểm, AIG còn là nhà cung cấp các dịch vụ tài chính toàn phần. Trong bảng xếp hạng những thương hiệu phát triền tốt năm 2007 của Interbrand kết hợp với Business Week thì thương hiệu AIG đứng ở vị trí 47. 5. Bài học kinh nghiệm cho Việt Nam từ nghiên cứu các Tập đoàn tài chính trên thế giới Qua nghiên cứu 4 TĐTC trên, trong đó có 2 tập đoàn trong lĩnh vực tài chính - ngân hàng và 2 tập đoàn trong lĩnh vực tài chính - bảo hiểm, có thể thấy mặc dù mỗi tập đoàn đều có hướng đi và cách thức tiếp cận thị trường khác nhau nhưng nhìn chung thành công của các tập đoàn ở khâu tổ chức tài chính, tiềm lực tài chính, chiến lược kinh doanh nhằm giành giật thị trường trước đối thủ cạnh tranh. Tiềm lực tài chính đóng vai trò vô cùng quan trọng trong hoạt động kinh doanh của các tập đoàn. Nhờ có nó, mà các tập đoàn có thể đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật hiện đại, mở rộng mạng lưới kinh doanh thông qua các công ty con, chi nhánh của mình ở trong nước và ngoài nước. Ngoài ra còn phải kể đến các vụ mua bán, sáp nhập với các công ty đang trên đà phát triển hay các công ty đang bên bờ phá sản nhưng đã có thị trường vững chắc, từ đó mà thương hiệu của tập đoàn ngày càng len lỏi vào mọi ngõ ngách của thế giới. Việc hoạch định ra chiến lược kinh doanh dựa trên sự nhạy bén trong am hiểu thị trường đã đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của người tiêu dùng. Các sản phẩm được tung ra với công nghệ ngày càng cao, được thiết kế linh hoạt, sáng tạo, được quảng bá rộng rãi và phù hợp với thị hiếu từng thị trường, thu nhập của người dân. Bên cạnh đó là chiến lược phục vụ khách hàng nhiệt tình, chu đáo. Ngày nay, hầu như tất cả các tập đoàn và công ty nổi tiếng trên thế giới đều có dịch vụ chăm sóc khách hàng đặc biệt. Nhờ vậy, họ có thể kiểm soát được lượng khách hàng của mình, đánh giá được khách hàng tiềm năng, theo từng bước chân phát triển của khách hàng. Đặc biệt trong lĩnh vực bảo hiểm, một lĩnh vực nhạy cảm, chế độ chăm sóc khách hàng là công cụ hữu hiệu giúp các tập đoàn tung ra được các sản phẩm đánh đúng vào tâm lý khách hàng. Cơ cấu tổ chức chặt chẽ, linh hoạt và kiểm soát được mọi hoạt động của các công ty thành viên. Các công ty thành viên hoàn toàn chủ động trong việc hoạch định chiến lược phát triển của mình và được công ty mẹ hỗ trợ về mặt tài chính khi có nhu cầu. Vì vậy, các công ty con không phải lo vấn đề thiếu vốn trong hoạt động của mình. Trong hội đồng quản trị và ban điều hành thường có một số thành viên không tham gia vào công tác quản trị điều hành của tập đoàn. Điều này đảm bảo tính khách quan, minh bạch và dân chủ trong tập đoàn. Cùng với cơ cấu tổ chức là hệ thống kiểm soát nội bộ chặt chẽ nhằm chống tham nhũng, lạm dụng chức vụ tham ô tài sản, do đó duy trì sự đúng đắn của báo cáo tài chính, đảm bảo các thông tin tài chính có tính trung thực. Cấu trúc tổ chức của tập đoàn có thể phân thành 4 loại cơ bản: Cấu trúc đơn giản với việc công ty mẹ chi phối trực tiếp các công ty con thông qua việc nắm giữ cổ phần; cấu trúc kiểm soát đồng cấp là mô hình mà các công ty đồng cấp có thể có sự đầu tư kiểm soát lẫn nhau; cấu trúc kiểm soát bắc cầu với việc công ty mẹ có thể đầu tư trực tiếp vào công ty cháu (công ty con cấp 2) do công ty cháu có tầm quan trọng đặc biệt cần phải có sự kiểm soát trực tiếp từ công ty mẹ; cấu trúc hỗn hợp là mô hình phức tạp về sở hữu, có sự kết hợp của tất cả các quan hệ sở hữu cổ phần ở các mô hình trên và thường được thấy ở tập đoàn công nghiệp đa quốc gia. Đối với các Tập đoàn tài chính - bảo hiểm, mô hình tập đoàn thường được tổ chức theo cấu trúc đơn giản, với các công ty con thực hiện kinh doanh trong các lĩnh vực bảo hiểm phi nhân thọ, bảo hiểm nhân thọ, ngân hàng, chứng khoán, đầu tư tài sản, đào tạo. Công ty mẹ Bảo hiểm phi nhân thọ Bảo hiểm nhân thọ Quỹ đầu tư Ngân hàng Trung tâm đào tạo Chứng khoán Tín thác và đầu tư Sơ đồ: Mô hình tiêu biểu của một TĐTC – Bảo hiểm Kinh nghiệm hình thành các tập đoàn cho thấy, việc hình thành các tập đoàn được thực hiện thông qua một số phương thức cơ bản sau: Thu hút các nhà đầu tư chiến lược, cổ phần hoá và thành lập các công ty con Chuyển giao hoạt động kinh doanh, hoán đổi cổ phần, mở rộng quy mô hoạt động Các công ty lớn thôn tính các công ty nhỏ thông qua việc sáp nhập, hợp nhất, mua lại công ty Các công ty tự nguyện đàm phán, tự nguyện sáp nhập, hợp nhất thành một công ty mới lớn hơn; hoặc liên kết xung quanh một công ty lớn hơn được tôn lên làm công ty đầu đàn. Một trong những thành công của các TĐTC là họ biết đánh bóng thương hiệu của mình. Một sự kết hợp thương hiệu mạnh có thể làm gia tăng giá trị tập đoàn và thiết lập kế hoạch lâu dài, tạo dựng một vị thế độc đáo trên thị trường và đánh bóng tên tuổi của công ty và đặc biệt làm tăng tiềm năng lãnh đạo trong tập đoàn. Bởi thế, sự kết hợp thương hiệu có sẽ làm gia tăng ảnh hưởng lên tài sản hữu hình và tài sản vô hình dẫn tới việc thương hiệu sẽ vượt trội thông qua tập đoàn. Một tập đoàn mạnh là tập đoàn luôn tạo được hình ảnh trong tâm trí người dùng. Những TĐTC quốc tế như HSBC, Citigroup, Prudential, … là những điển hình như vậy. Thương hiệu giúp tập đoàn khai thác nhiều quyền lợi. Đầu tiên, một sự kết hợp thương hiệu mạnh là bề mặt của chiến lược kinh doanh, thể hiện được mục đích mà tập đoàn nhắm tới và điều mà tập đoàn muốn mọi người biết về mình trên thương trường. Nói một cách ví von đó là cái dù cho hoạt động của cả tập đoàn, bao gồm tầm nhìn, giá trị, tính cách, vị trí và hình ảnh của tập đoàn. Ví dụ như HSBC đã áp dụng một chiến lược tập đoàn hết sức bài bản. HSBC sử dụng một thông điệp chung cho toàn thế giới dựa trên câu Slogan đơn giản “Ngân hàng Thế giới am hiểu địa phương”. Nền tảng đó cho phép tập đoàn HSBC đã có thể vượt qua những rào cản khi xâm nhập vào những nền văn hoá khác nhau. CHƯƠNG III: MỘT SỐ GIẢI PHÁP XÂY DỰNG VÀ PHÁT TRIỂN CÁC TẬP ĐOÀN TÀI CHÍNH Ở VIỆT NAM I. Một số đề xuất phát triển Tập đoàn tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt 1. Hiện trạng phát triển thị trường bảo hiểm Việt Nam Trong 12 năm qua (1994 – 2006), thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có sự phát triển vượt bậc, không chỉ về doanh thu mà cả về mạng lưới, không chỉ ở số lượng mà chất lượng cũng được nâng lên, các quy định quản lý của nhà nước ngày càng hoàn thiện, hoạt động của doanh nghiệp ngày càng hiệu quả. Tính đến hết năm 2006, thị trường bảo hiểm Việt Nam đã có sự góp mặt của 37 doanh nghiệp, trong đó có 21 doanh nghiệp bảo hiểm phi nhân thọ, 7 doanh nghiệp bảo hiểm nhân thọ, 1 doanh nghiệp tái bảo hiểm và 8 doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Tổng doanh thu toàn ngành năm 2006 chiếm khoảng 1,82% GDP, đạt 17,752 tỷ đồng, tăng 14,08% so với năm 2005. Sự phát triển của thị trường bảo hiểm trong xu thế hội nhập đòi hỏi sự phát huy nội lực đến mức cao nhất của từng doanh nghiệp cũng như sự hoàn thiện trong cơ chế chính sách, hệ thống văn bản pháp luật của các cơ quan quản lý. Bảo hiểm Việt Nam hiện có tốc độ phát triển nhanh và còn rất nhiều tiềm năng chưa được khai thác. Đường lối mở cửa hội nhập, phát triển kinh tế mọi thành phần của Nhà nước, hệ thống pháp luật ngày càng được hoàn thiện đồng bộ, thu nhập dân cư ngày càng khá hơn là môi trường thuận lợi cho kinh doanh bảo hiểm phát triển. Tuy nhiên, thị trường phát triển vẫn chưa tương xứng với tiềm năng. Vài năm gần đây, bảo hiểm nhân thọ phát triển chậm đi, ngoài nguyên nhân khách quan cũng có những nguyên nhân chủ quan. Giá trị thực tế đầu tư của các công ty bảo hiểm vẫn thấp hơn so với tổng nguồn vốn có thể đầu tư từ quỹ dự phòng nghiệp vụ và vốn chủ sở hữu. Nhìn chung, các công ty bảo hiểm chưa có tổ chức đầu tư chuyên nghiệp, hoạt động đầu tư chưa tập trung mà còn khá phân tán. Mặc dù, các công ty bảo hiểm tại Việt Nam được phép đầu tư vào nhiều lĩnh vực, nhưng trên thực tế, danh mục đầu tư của các công ty bảo hiểm còn nghèo nàn và chủ yếu tập trung vào hình thức tiền gửi ngân hàng và trái phiếu Chính phủ. Trong suốt một thời gian dài, tại phần lớn các công ty bảo hiểm, hoạt động đầu tư không được tách riêng mà thường được giao cho bộ phận tài chính - kế toán thực hiện. Bên cạnh đó, các văn bản pháp luật về hoạt động bảo hiểm vẫn chưa hoàn thiện và còn gây nhiều khó khăn cho các doanh nghiệp bảo hiểm Việt Nam nhất là trong giai đoạn Việt Nam đã là thành viên của WTO. Điều này sẽ là một cản trở cho thị trường bảo hiểm Việt Nam phát triển. 2. Giải pháp phát triển Tập đoàn tài chính – Bảo hiểm Bảo Việt 2.1 Cơ chế chính sách của Nhà nước cho việc phát triển thị trường bảo hiểm nói chung Thị trường bảo hiểm Việt Nam đang trong quá trình tiếp cận các chuẩn mực quốc tế, muốn hội nhập phải có lộ trình; để phát triển thị trường bảo hiểm rất cần có các thể chế rõ ràng, hoàn thiện cơ chế chính sách về hoạt động kinh doanh bảo hiểm, bảo đảm tính chủ động và tự chịu trách nhiệm của các công ty bảo hiểm. Nhà nước cần sớm ban hành quy định cụ thể về hoạt động đầu tư nguồn vốn chủ sở hữu nhằm đảm bảo nguồn vốn này được sử dụng an toàn, hiệu quả và đảm bảo khả năng thanh toán của công ty bảo hiểm. Chính phủ và Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các văn bản hướng dẫn về hoạt động cho vay đối với các công ty bảo hiểm, tạo khuôn khổ pháp lý hoàn chỉnh cho các công ty bảo hiểm thực hiện hoạt động cho vay theo Luật kinh doanh bảo hiểm. Bộ Tài chính và Ngân hàng Nhà nước sớm ban hành các văn bản quy định về tỷ lệ tài sản rủi ro so với tổng tài sản của công ty bảo hiểm và hướng dẫn việc trích lập dự phòng rủi ro cho hoạt động đầu tư nói chung và hoạt động tín dụng nói riêng để các công ty bảo hiểm có cơ sở thực hiện và có cơ chế để xử lý rủi ro khi rủi ro phát sinh. Đơn giản hoá các thủ tục hành chính trong phê duyệt và thực hiện các dự án đầu tư, nhất là các dự án đầu tư bất động sản; nâng dần và đi tới xoá bỏ hạn chế về đầu tư gián tiếp, đặc biệt là tỷ lệ góp vốn của các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài trong các doanh nghiệp trong nước… Nhà nước có chính sách khuyến khích người dân tham gia bảo hiểm nhân thọ, ưu tiên phát triển các sản phẩm bảo hiểm nhân thọ có tính chất đầu tư dài hạn; khuyến khích các công ty bảo hiểm nghiên cứu triển khai các sản phẩm bảo hiểm nông, lâm, ngư nghiệp, chú trọng mở rộng phạm vi hoạt động đến các vùng sâu, vùng xa. Nghiên cứu để tiến tới áp dụng quy định về định giá danh mục đầu tư nhằm xác định chính xác chất lượng đầu tư và gắn chất lượng đầu tư với khả năng thanh toán của các công ty bảo hiểm. Nhà nước có cơ chế, chính sách để các công ty bảo hiểm tự bổ sung vốn điều lệ cho phù hợp với tính chất hoạt động và quy mô kinh doanh của doanh nghiệp. Nhà nước không trực tiếp đầu tư thêm vốn vào lĩnh vực môi giới bảo hiểm. Công ty bảo hiểm được thành lập quỹ đầu tư, quỹ tín thác mà Công ty quản lý theo quy định của pháp luật. Cần cho phép những công ty bảo hiểm lớn thành lập NHTM và các NHTM thành lập công ty bảo hiểm. Họ sẽ trở thành TĐTC mạnh như mô hình của các nước trong khu vực và thế giới. Khuyến khích các doanh nghiệp trong nước mở rộng phạm vi hoạt động kinh doanh, kể cả ở thị trường bảo hiểm quốc tế và khu vực, tham gia góp vốn vào các Công ty bảo hiểm, môi giới bảo hiểm, tái bảo hiểm đang hoạt động thành công ở nước ngoài và thành lập các Công ty con kinh doanh bảo hiểm ở nước ngoài. Những hạn chế mang tính phân biệt đối xử về đầu tư giữa công ty bảo hiểm trong và ngoài nước cần được xoá bỏ. Các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài sử dụng phí bảo hiểm thu được để đầu tư tại Việt Nam được áp dụng các cơ chế, chính sách về đầu tư các công ty bảo hiểm trong nước. Việc cấp phép thành lập cho các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài hoạt động tại Việt Nam phải phù hợp với quy mô, yêu cầu phát triển của thị trường, lộ trình hội nhập và các cam kết quốc tế. Khuyến khích các công ty bảo hiểm hiện đại hoá công nghệ quản lý kinh doanh, đào tạo đội ngũ cán bộ có đủ trình độ theo các chuẩn mực quốc tế, được thuê chuyên gia trong nước và ngoài nước để quản lý một số lĩnh vực hoạt động theo đúng quy định của pháp luật. Nhà nước giám sát hoạt động kinh doanh bảo hiểm thông qua hệ thống các chỉ tiêu về hoạt động của các công ty bảo hiểm và kiểm tra, xử lý vi phạm theo pháp luật, không can thiệp hành chính vào hoạt động của các doanh nghiệp. Đặc biệt, cần chú trọng kiểm tra việc cho vay mượn theo hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nhằm đảm bảo cho vay đúng mục đích, đúng đối tượng, tránh thất thoát tài sản… 2.2 Về phía Bảo Việt Kể từ tháng 1/2006, hoạt động kinh doanh của Bảo Việt đã được tổ chức theo mô hình TĐTC với vốn điều lệ là 3.000 tỷ VND (tức 200 triệu USD). Bảo Việt đang phấn đấu để trở thành TĐTC đa ngành hàng đầu Việt Nam, hoạt động chính trên lĩnh vực bảo hiểm và đầu tư tài chính, chiếm thị phần lớn nhất về bảo hiểm, có tiềm lực tài chính mạnh, trình độ công nghệ và trình độ quản lý tiên tiến, có khả năng cạnh tranh và hội nhập quốc tế, liên tục tăng trưởng, hiệu quả và phát triển bền vững. 2.2.1 Về tổ chức hoạt động Phát triển mạng lưới đại lý bảo hiểm chuyên nghiệp, doanh nghiệp môi giới bảo hiểm và các kênh phân phối khác. Đa dạng hoá các loại hình doanh nghiệp môi giới bảo hiểm. Hiện nay đã có 8 công ty bảo hiểm nhân thọ trên thị trường Việt Nam, do vậy quá trình kinh doanh ngày càng cạnh tranh gay gắt. Việc hạch toán độc lập của Bảo Việt Nhân thọ sẽ tạo thêm sức bật mới cho Bảo Việt từng bước thực hiện việc chuyên môn hoá cao trong các lĩnh vực kinh doanh bảo hiểm, đầu tư tài chính đồng thời tạo được sức mạnh đa ngành của cả tập đoàn. Việc chuyên môn hoá này cũng sẽ giúp Bảo Việt Nhân thọ có điều kiện nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc khách hàng, thiết kế sản phẩm bảo hiểm nhân thọ đáp ứng nhu cầu thiết thực, gần gũi và vì lợi ích của hàng triệu người dân Việt Nam. Mục tiêu của Bảo Việt là đem đến cho khách hàng những sản phẩm tài chính tích hợp chất lượng cao - dịch vụ 1 cửa, vượt trội so với các nhà cung cấp khác. 2.2.2 Đối phó với cạnh tranh Hiện nay thị trường bảo hiểm Việt Nam còn 95% thị trường chưa được khai thác. Đây là cơ hội lớn cho các công ty bảo hiểm quốc tế nhảy vào thị trường nước ta. Hơn nữa, theo cam kết gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO), thị trường bảo hiểm Việt Nam sẽ thực sự mở cửa hoàn toàn kể từ ngày 1/1/2008. Kể từ mốc thời gian này, các công ty bảo hiểm có vốn đầu tư nước ngoài sẽ được phép cung cấp dịch vụ bảo hiểm bắt buộc ở nước ta. Và như vậy, các doanh nghiệp bảo hiểm trong nước, trong đó có Bảo Việt, sẽ phải đối mặt với thách thức không nhỏ là cạnh tranh với các doanh nghiệp bảo hiểm nước ngoài “nhiều tiền, lắm kinh nghiệm”. Đứng trước nguy cơ này, tập đoàn Bảo Việt cần phải có những chính sách và hướng đi thích hợp để đối phó với sự cạnh tranh của các tập đoàn quốc tế mạnh như Prudential, AIA (Mỹ), ACE (Mỹ). Bảo Việt cần tập trung vào các công việc chính như: phát triển nguồn nhân lực có chất lượng cao phù hợp với yêu cầu phát triển của TĐTC; bảo hiểm kinh doanh đa ngành; tăng cường và đổi mới ứng dụng tin học trong quản lý, trong đó chú trọng xây dựng hệ thống tin học quản lý điều hành chung cho cả Tập đoàn và đổi mới ứng dụng tin học quản lý tài chính kế toán, tin học quản lý các lĩnh vực kinh doanh mới như bảo hiểm nhân thọ, ngân hàng, quản lý quỹ... Có như vậy, Bảo Việt mới nâng cao chất lượng sản phẩm và dịch vụ cung cấp cho khách hàng, liên tục tạo ra sự khác biệt, tăng cường năng lực cạnh tranh, chuyên nghiệp hoá trong quản trị điều hành kinh doanh và giữ vững vị thế là Tập đoàn cung cấp các dịch vụ tài chính - Bảo hiểm hàng đầu tại Việt Nam và khu vực. - Về sản phẩm: Để phát triển một danh mục sản phẩm bảo hiểm đa dạng của từng nhóm đối tượng phục vụ khách hàng thuộc phân đoạn thị trường mục tiêu với mức phí bảo hiểm hợp lý và cạnh tranh, Bảo Việt cần nghiên cứu nhu cầu bảo hiểm của khách hàng thuộc từng phân đoạn thị trường mục tiêu để xây dựng chiến lược sản phẩm đúng đắn và kế hoạch thực hiện cho từng nhóm sản phẩm, loại sản phẩm riêng biệt. Bên cạnh đó, tập đoàn cũng nghiên cứu thiết kế các sản phẩm bảo hiểm mới mà thị trường Việt Nam chưa triển khai như bảo hiểm trách nhiệm sản phẩm…; thực hiện chính sách khuyến khích, hỗ trợ trong việc triển khai các sản phẩm mới; mặt khác, cần rà soát lại toàn bộ danh mục sản phẩm hiện có của Bảo Việt để có những cải tiến, kết cấu lại sản phẩm phù hợp với nhu cầu thị trường và đặc thù của Bảo Việt. Việc đưa các ý tưởng sáng tạo vào khâu thiết kế sản phẩm có ý nghĩa quan trọng trong việc tạo ra sự khác biệt trong sản phẩm của Bảo Việt so với sản phẩm của đối thủ cạnh tranh, chẳng hạn phát triển sản phẩm bảo hiểm trọn gói cho một nhóm đối tượng khách hàng đặc thù như các doanh nghiệp vừa và nhỏ, hộ gia đình… - Về dịch vụ khách hàng: xây dựng các giải pháp cung cấp dịch vụ khách hàng liên hoàn và đồng bộ trong suốt một chu trình bảo hiểm, từ khâu khai thác, giám định, bồi thường tới các dịch vụ giá trị tăng thêm sau bán hàng; xây dựng, củng cố mạng lưới tiếp nhận khai báo tai nạn, giải quyết bồi thường; Thiết lập đường dây nóng hoặc trung tâm dịch vụ khách hàng qua điện thoại nhằm giải đáp mọi thắc mắc và đưa ra ý kiến tư vấn cho khách hàng một cách kịp thời đối vớí mọi vấn đề liên quan tới sản phẩm của Bảo Việt. - Về thị trường: Xác định, đánh giá tiềm năng các địa bàn trọng điểm để phát triển mạng lưới kinh doanh phù hợp; Thực hiện phân đoạn thị trường, xác định khách hàng mục tiêu của từng phân đoạn thị trường; Xây dựng thị trường chiến lược cho từng giai đoạn cụ thể nhằm tập trung nguồn lực ở mức cao nhất; Xâm nhập, mở rộng và phát triển thị trường cả trong và ngoài nước. - Về lĩnh vực kinh doanh: Tiếp tục mở rộng các lĩnh vực tài chính khác như ngân hàng, cho thuê tài chính, bảo hiểm y tế cộng đồng, bất động sản... 2.2.3 Tận dụng lợi thế Ở Việt Nam, đa số người dân hầu như chưa hiểu biết về lĩnh vực bảo hiểm, nên sự tiếp nhận với sản phẩm bảo hiểm cũng gặp nhiều trục trặc, lắm khi dẫn tới hiểu lầm. Trong khi, quan niệm về bảo hiểm nhân thọ chỉ mới xuất hiện ở Việt Nam từ năm 1996, chưa thể đòi hỏi tỉ lệ hiểu biết cao hơn được. Vì vậy, Bảo Việt cần có những buổi thảo luận, tuyên truyền để nâng cao nhận thức cho người dân, giúp người dân không còn xa lạ với thuật ngữ bảo hiểm. Tiềm năng thị trường để Bảo Việt khai thác là rất lớn. Ngày nay khi mà đời sống của người dân ngày càng được cải thiện, thu nhập tăng nhất là khu vực thành thị, người dân ngày càng quan tâm hơn đến việc tích luỹ, phòng ngừa rủi ro, tai nạn, chăm lo giáo dục cho con em họ trong tương lai. Do đó, họ có nhu cầu mua bảo hiểm để đảm bảo cuộc sống tương lai của mình và gia đình mình. Đây là cơ hội để Bảo Việt tung ra những sản phẩm phù hợp với nhu cầu của người tiêu dùng, thúc đẩy hoạt động kinh doanh phát triển mạnh trong thời gian tới. Bảo Việt cần nghiên cứu xây dựng các sản phẩm bảo hiểm, sản phẩm tài chính và sản phẩm bảo hiểm tài chính kết hợp phù hợp với nhu cầu đa dạng của khách hàng. Bảo Việt cũng cần rà soát, cải tiến thủ tục bồi thường để tạo thuận lợi cho khách hàng, đồng thời, đảm bảo tuân thủ chặt chẽ các quy định của nhà nước và hạn chế đến mức thấp nhất khả năng trục lợi bảo hiểm. Mặt khác, tâm lý của người dân Việt Nam thường mua thích mua sản phẩm bảo hiểm của những công ty Việt Nam. Bảo Việt cần tận dụng lợi thế này để tạo lòng tin cho người tiêu dùng. Bởi vì các sản phẩm của các công ty bảo hiểm quốc tế thường đa dạng và có những chính sách ưu đãi khá hấp dẫn cho khách hàng. Ưu thế của các tập đoàn bảo hiểm quốc tế là họ có tiềm lực vốn mạnh, có bề dày kinh nghiệm chinh chiến nhiều thị trường thế giới và có đội ngũ nhân viên năng động, sáng tạo, tài giỏi đến từ nhiều quốc gia trên thế giới. Chính vì vậy, mỗi bước sơ hở trên thị trường là các tập đoàn này có thể chiếm lĩnh được. Tập đoàn Bảo Việt tuy tiềm lực chưa mạnh bằng các Tập đoàn bảo hiểm lớn trên thế giới nhưng họ có lợi thế là sân nhà, hiểu được nhu cầu và tâm lý của người dân Việt Nam. 2.2.4 Công tác quản lý Đối với công tác quản lý, Bảo Việt cần đẩy mạnh việc giáo dục tư tưởng, ý thức chính trị và phẩm chất đạo đức cho toàn thể cán bộ công nhân viên, cũng như đội ngũ cán bộ lãnh đạo kế cận; tiếp tục chỉ đạo các đơn vị, Công ty bảo hiểm thuộc hệ thống Bảo Việt thực hiện công tác thực hành tiết kiệm, chống lãng phí theo đúng các văn bản hướng dẫn, chỉ đạo của Đảng và Nhà nước. Mô hình phân cấp quản lý giữa các đơn vị thành viên cần tiếp tục được hoàn thiện cho hợp lý, dễ quản lý và mang lại hiệu quả kinh doanh. Bên cạnh đó, vấn đề xây dựng văn hoá doanh nghiệp cũng cần chú trọng. Hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp Việt Nam còn ít quan tâm đến vấn đề này, nhất là các doanh nghiệp vừa và nhỏ. Bảo Việt hiện là một tập đoàn có quy mô lớn, do vậy văn hoá doanh nghiệp là nền tảng để Bảo Việt phát triển đi lên có định hướng. Nó sẽ tạo nên một nét đặc trưng riêng của Bảo Việt là ưu thế khi Bảo Việt mở rộng thị trường sang các nước khác trên thế giới. 2.2.5 Hoạt động đầu tư tài chính Hoạt động đầu tư là một lĩnh vực hoạt động có tầm quan trọng sống còn đối với việc duy trì và phát triển của một doanh nghiệp nói chung và của Tập đoàn Bảo Việt nói riêng. Hoạt động đầu tư không những giúp Bảo Việt có được khoản lợi nhuận thường xuyên trong khi vẫn đảm bảo khả năng thanh toán các hợp đồng bảo hiểm mà còn giúp quảng bá rộng rãi hình ảnh của Tập đoàn Bảo Việt trên thị trường tài chính - bảo hiểm. Đồng thời, trong điều kiện cạnh tranh gay gắt, đầu tư chính là một loại vũ khí lợi hại giúp Bảo Việt đứng vững và tiếp tục phát triển. Bảo Việt cần chuyên nghiệp hoá hoạt động đầu tư tài chính, đa dạng hoá danh mục đầu tư (đầu tư vào thị trường tiền tệ, bất động sản, chứng khoán, đầu tư vào cho các tổ chức là khách hàng của Bảo Việt nhằm mục đích hỗ trợ khai thác bảo hiểm…); tăng cường kiểm soát rủi ro trước và sau khi đưa ra quyết định đầu tư để đảm bảo an toàn cho nguồn vốn đầu tư; cân đối dòng tiền tạo ra từ hoạt động đầu tư tài chính với nhu cầu chi trả bảo hiểm để quản lý rủi ro mất cân đối giữa tài sản và trách nhiệm. 2.2.6 Quan hệ cộng đồng Bảo Việt cần tiếp tục đưa ra các chương trình hay các hoạt động xã hội cho cộng đồng. Điều này sẽ là sợi dây tình cảm gắn kết Bảo Việt với người dân. Các chương trình mà Bảo Việt có thể xây dựng như: tặng học bổng cho học sinh, sinh viên có thành tích xuất sắc trong học tập, các chương trình từ thiện cho trẻ em có hoàn cảnh khó khăn, tài trợ tài chính đối với công tác xã hội,... Bên cạnh đó cần đẩy mạnh công tác truyền thông kể cả truyền thông động và tĩnh. Việc mở rộng quan hệ cộng đồng sẽ giúp nâng cao uy tín và thương hiệu của Bảo Việt. II. Giải pháp xây dựng Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam 1. Những thuận lợi và khó khăn trong việc xây dựng Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam 1.1 Khó khăn Xây dựng và phát triển thành TĐTC - NH trong điều kiện hiện tại của nền kinh tế nước ta là một thử thách khó khăn đối với các NHTM Việt Nam. Thứ nhất, TĐTC - NH ở thời điểm hiện tại chưa hội tụ đầy đủ các yếu tố, điều kiện cấu thành cho sự ra đời và phát triển của TĐTC - NH, trong đó, quan trọng nhất là cơ chế quản lý lĩnh vực ngân hàng chưa chuyển hẳn sang cơ chế kinh tế thị trường mà còn nặng tính mệnh lệnh, hành chính và bao cấp. Tiềm lực tài chính của các NHTM chưa mạnh: sản phẩm dịch vụ còn đơn điệu, nghèo nàn và chưa có thương hiệu; loại hình sở hữu ngân hàng mới bước đầu được đa dạng hoá và chưa phát triển theo chiều sâu. Môi trường, thể chế phục vụ các hoạt động của TĐKT chưa hoàn thiện, chất lượng thấp, không phù hợp với thông lệ quốc tế… Hơn thế, việc thành lập ồ ạt, mang tính phong trào và mệnh lệnh hành chính các Tổng công ty 90, 91 thời gian qua đã và đang lộ dần những bất cập về phương thức quản trị và điều hành TĐKT, nhất là quản trị và điều hành mối quan hệ giữa công ty mẹ và công ty con; hiệu quả kinh tế chưa đạt được mục tiêu như mong đợi. Thứ hai, những bất cập trong nội tại ngành ngân hàng là rào cản lớn nhất trong xây dựng TĐTC - NH mạnh ở Việt Nam. Quá trình đổi mới cơ cấu và cổ phần hoá các NHTM diễn ra quá chậm chạp. Điều đó đã hạn chế chủ trương thực hiện đa sở hữu ngành, đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ ngân hàng. Về thực chất, các NHTM nhà nước vẫn chi phối hầu hết các dịch vụ trên thị trường tiền tệ. Bởi vậy, tính cạnh tranh trên thị trường tín dụng chưa cao, hạn chế hiệu quả kinh tế. Hệ thống ngân hàng, nhất là NHTM nhà nước hoạt động trong tình trạng kém phát triển, thể hiện rõ ở một số điểm sau: Tiềm lực tài chính của toàn hệ thống ngân hàng không mạnh. Tổng vốn NHTM nhà nước chỉ khoảng 15.500 tỷ đồng, tương đương với 1 tỷ USD, bình quân 3.100 tỷ đồng/ngân hàng. Tổng tài sản của hệ thống ngân hàng trên GDP chỉ khoảng 70%, thấp thua xa so với Thái Lan (145,8%), Malaixia (193,5%) và chỉ bằng 1/3 của Trung Quốc (211,1%). Tổng số vốn tự có của hệ thống ngân hàng chỉ trên 1 tỷ USD. Trong đó, Agribank có số vốn tự có lớn nhất cũng chỉ khoảng 290 triệu USD. So với các ngân hàng khác trên thế giới thì hệ thống ngân hàng Việt Nam quá nhỏ bé (HSBC có tổng vốn tự có là 25,78 tỷ USD, Citibank Châu Á là 21 tỷ USD). Hiệu quả kinh doanh của hệ thống ngân hàng chưa cao. Khả năng sinh lời thấp: tỷ lệ lãi ròng sau thuế trên tổng tài sản (ROA) bình quân chỉ đạt 0,65%. Trong khi đó, tỷ lệ ROA của các nước Châu Á - Thái Bình Dương là 0,94%; của các nước Đông Nam Á là 0,77%. Nếu so sánh ROA trung bình của Việt Nam với ROA thế giới, ở Việt Nam chỉ đạt 88%. Tỷ lệ sinh lời bình quân trên vốn tự có (ROE) của các NHTM Việt Nam chỉ đạt 6,54% so với chuẩn quốc tế (trung bình từ 12 - 15%). Rủi ro trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng còn lớn. Tỷ lệ nợ xấu (nợ quá hạn thông thường, nợ khó đòi trong hoặc đã quá hạn, nợ chờ xử lý, nợ kinh doanh do được phép của Chính phủ) chiếm tỷ trọng còn cao. Bên cạnh đó, hầu hết các NHTM, nhất là NHTM nhà nước đã dùng vốn ngắn hạn với tỷ trọng lớn (40 - 50%) để cho vay tín dụng trung và dài hạn, vượt quá giới hạn an toàn cho phép từ 10 - 20%, càng làm tăng mức độ rủi ro ngân hàng. Mức độ an toàn vốn chưa cao. Theo chuẩn mực quốc tế, hệ số này ở mức tối thiểu là 8%. Trong khi đó, hệ số an toàn vốn của hệ thống NHTM Việt Nam chỉ đạt 4,5%. Nguồn: Nghiên cứu Kinh tế số 342/2006 Năng lực quản lý, trình độ khoa học - công nghệ, đội ngũ cán bộ phục vụ hoạt động kinh doanh của hệ thống ngân hàng còn nhiều hạn chế. Chất lượng của các văn bản luật chưa cao, mang đậm dấu ấn của cơ chế mệnh lệnh hành chính và xin cho. Cung tiền của Ngân hàng Trung ương chưa đảm bảo tính chủ động hoàn toàn theo yêu cầu phát triển tất yếu của nền kinh tế thị trường. Bên cạnh đó, nhiều ngân hàng chưa công khai, minh bạch hoá các thông tin tài chính, tuân thủ các quy định của báo cáo tài chính, kiểm toán độc lập theo tiêu chuẩn quốc tế. Mặc dù, công nghệ đã được đổi mới so với thời kỳ bao cấp nhưng chỉ số công nghệ của hệ thống ngân hàng Việt Nam chỉ đạt 0,47, thấp hơn các nước trong khu vực như: Trung Quốc: 0,35; Thái Lan: 0,07; Singapore: 1,95. Năng lực công nghệ thấp dẫn đến khả năng liên kết, hợp tác, phát triển để nâng cao hiệu quả kinh doanh còn yếu; chưa hỗ trợ tốt, phản ứng nhanh, nhạy với các mối quan hệ kinh tế đang dần đi vào chiều sâu của quá trình hội nhập trong lĩnh vực ngân hàng. Các cán bộ công chức được tuyển dụng vào làm việc thường chỉ có một chuyên môn sâu, chủ yếu là chuyên ngành tài chính - tiền tệ. Trong khi đó, nền kinh tế càng tiến sâu vào hội nhập lại càng đòi hỏi có một đội ngũ cán bộ, công chức có kiến thức liên ngành tốt như: Luật kinh tế, Kinh tế học, Kinh tế công cộng, Tài chính công, Ngoại ngữ… mới đáp ứng được yêu cầu cao của công việc. Những bất cập nội tại chủ yếu trên đây của ngành ngân hàng đã tác động tiêu cực tới sự hình thành, phát triển TĐTC - NH trong thời gian tới. Thứ ba, nền tảng để xây dựng cho sự hình thành TĐTC - NH còn yếu kém. Cơ chế điều hành của TĐKT (đang thử nghiệm) theo mô hình công ty mẹ - công ty con nói chung, Tập đoàn tài chính - Bảo hiểm Bảo Việt nói riêng mang đậm dấu ấn của thời bao cấp mệnh lệnh, hành chính mà chưa chuyển hẳn sang có chế kinh tế thị trường, có sự quản lý của nhà nước pháp quyền. Công ty mẹ can thiệp quá sâu vào công ty con, còn công ty con thì ỷ lại, trông chờ vào sự hỗ trợ của công ty mẹ, thiếu quyết đoán và độc lập trong hoạt động kinh doanh của mình. Ngoài ra, việc chậm trễ ban hành những văn bản hướng dẫn thực hiện cơ chế quản trị - điều hành TĐKT có tác động tiêu cực tới việc xây dựng của TĐTC - NH. Thứ tư, hiệu quả kinh tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp nhà nước kém hiệu quả, có ảnh hưởng tiêu cực tới sự hình thành TĐTC - NH. Hiện trạng kinh doanh kém hiệu quả của doanh nghiệp nhà nước là mầm mống dẫn đến rủi ro, không trả được nợ ngân hàng, làm tăng nhanh tỷ lệ nợ xấu ở các NHTM nhà nước, ảnh hưởng tiêu cực tới tính bền vững trong hoạt động kinh doanh của ngân hàng cũng như trong việc hình thành TĐTC - NH ở Việt Nam. Thứ năm, chưa hình thành được mối quan hệ gắn kết chặt chẽ giữa Chính phủ, ngành ngân hàng với các bộ, ngành có liên quan trong việc thực hiện chủ trương xây dựng TĐKT nói chung, TĐTC - NH mạnh nói riêng. Hình thành các TĐTC là một quá trình lâu dài, đòi hỏi phải hội đủ các yếu tố cần thiết. Chặng đường mà các NHTM Việt Nam còn phải trải qua theo mô hình phát triển thành TĐTC - NH phía trước còn rất nhiều chông gai. 1.2 Thuận lợi TĐTC không còn quá xa lạ với những nước công nghiệp phát triển trên thế giới như Mỹ, Nhật Bản, các nước EU… Đây cũng là sự hướng đến của các NHTM Việt Nam - đang đứng trước một xu thế tất yếu của hội nhập và cạnh tranh. Hiện nay, bên cạnh những khó khăn, việc hình thành TĐTC - NH ở Việt Nam lại có những thuận lợi sau: Thứ nhất là sự đổi mới sâu sắc trong tư duy kinh tế của Đảng, Nhà nước thúc đẩy việc xây dựng và phát triển TĐTC - NH ở Việt Nam. Từ khi tiến hành sự nghiệp đổi mới (1986), Đảng và Nhà nước ta đã chủ trương đổi mới toàn diện, sâu rộng nền kinh tế quốc dân, trong đó có các NHTM. Song, phải đến thập kỷ 90 (thế kỷ XX) ở Việt Nam mới manh nha xuất hiện chủ trương xây dựng TĐKT. Bằng các quyết định: Quyết định 90/TTg-CP và Quyết định 91/TTg-CP của Thủ tướng Chính phủ, việc thí điểm TĐKT đã được thực thi. Đó chính là bước khởi đầu cho sự ra đời, phát triển TĐKT nói chung, TĐTC nói riêng. Trước xu hướng toàn cầu hoá, hội nhập kinh tế quốc tế, tại Đại hội Đại biểu toàn quốc lần thứ IX, Đảng ta chỉ đạo tiến một bước trong chủ trương xây dựng TĐKT: “Thúc đẩy việc hình thành một số TĐKT và Tổng công ty nhà nước mạnh, hoạt động đa ngành, đa lĩnh vực”, trong đó có ngành chính, có nhiều chủ sở hữu, sở hữu nhà nước giữ vai trò chi phối. Trong lĩnh vực tài chính: “Tạo lập môi trường tài chính lành mạnh, thông thoáng nhằm giải phóng và phát triển các nguồn lực tài chính, tiềm năng sản xuất của các doanh nghiệp, tầng lớp dân cư”. Đối với lĩnh vực ngân hàng: “Cơ cấu lại hệ thống ngân hàng. Phân biệt chức năng của Ngân hàng Nhà nước và NHTM Nhà nước, chức năng cho vay của ngân hàng với chức năng kinh doanh tiền tệ của NHTM”. Thứ hai, thực tiễn vận động, phát triển của các Tổng công ty theo mô hình công ty mẹ - công ty con cũng như việc thí điểm hình thành TĐTC - Bảo hiểm thời gian qua đã đem lại nhận thức rất quan trọng, có ý nghĩa thiết thực đối với việc hình thành, phát triển TĐTC - NH ở Việt Nam. Thứ ba, sự trưởng thành từng bước của ngành ngân hàng là nhân tố bên trong thúc đẩy mạnh mẽ sự hình thành, phát triển TĐTC - NH. Thời gian qua, ngành ngân hàng dã thực hiện đổi mới, cấu trúc lại hệ thống theo hướng tinh gọn về tổ chức; tăng cường về tiềm lực tài chính, khoa học - công nghệ, phát triển nguồn nhân lực; hoàn thiện cơ chế, chính sách quản trị và điều hành các dịch vụ ngân hàng. Sự đổi mới đó đã đem lại những kết quả quan trọng, nổi bật là: Mạng lưới tổ chức tín dụng lớn mạnh không ngừng. Toàn hệ thống ngân hàng ở Việt Nam có 5 NHTM nhà nước; 1 ngân hàng chính sách xã hộ; 31 NHTM cổ phần đô thị; 4 NHTM cổ phần nông thôn; 37 chi nhánh ngân hàng nước ngoài; 4 ngân hàng liên doanh; 46 văn phòng đại diện tài chính, tín dụng nước ngoài ở Việt Nam; ngoài ra, còn có các công ty trực thuộc ngân hàng như Công ty chứng khoán, công ty cho thuê tài chính, công ty quản lý nợ và khai thác tài sản Nguồn: www.tuoitre.com.vn, ngày 19/10/2007 . Với mạng lưới rộng lớn, ngân hàng đã góp mặt ở 100% số huyện, thị trong cả nước. Như vậy, phát triển thị phần, thị trường trong nước là một điểm mạnh nổi trội của ngành ngân hàng. Các loại hình sở hữu ngân hàng từng bước đa dạng hoá. Hiện nay, trong hệ thống ngân hàng Việt Nam, không chỉ có loại hình NHTM nhà nước, mà xuất hiện khá nhiều loại hình sở hữu khác, như NHTM cổ phần đô thị, NHTM nông thôn, ngân hàng liên doanh… Đặc biệt, sự xuất hiện của chi nhánh ngân hàng nước ngoài; các văn phòng đại diện tài chính, tín dụng nước ngoài tại Việt Nam, chứng tỏ chủ trương đa dạng hoá loại hình sở hữu ngân hàng của Đảng, Nhà nước ta đã và đang được thực thi và đó cũng là một minh chứng thể hiện sự cam kết của Chính phủ trong quá trình tự do hoá dịch vụ ngân hàng. Đây là điều kiện cần để xây dựng TĐTC – Ngân hàng ở Việt Nam. Việc thực hiện tách bạch hoạt động tín dụng cho vay theo chính sách với hoạt động kinh doanh tín dụng thương mại là bước tiến trong cải cách ngân hàng của Việt Nam. Thứ tư, toàn cầu hoá và hội nhập kinh tế quốc tế tạo ra những yếu tố thuận lợi về phát triển thị trường; di chuyển rộng rãi các luồng vốn, công nghệ, lao động chất lượng cao… 2. Giải pháp phát triển Tập đoàn tài chính – Ngân hàng ở Việt Nam 2.1 Giải pháp vĩ mô 2.1.1 Một số vấn đề pháp lý về mô hình TĐTC - NH ở Việt Nam Kể từ khi Việt Nam gia nhập WTO thì việc xây dựng các TĐTC - NH là yêu cầu cấp thiết để các tổ chức tín dụng có tiềm lực tài chính đủ mạnh, đủ sức cạnh tranh với các tổ chức tín dụng nước ngoài. Tuy nhiên, để có thể xây dựng mô hình và thành lập được các TĐTC - NH lớn mạnh, thì các cơ quan nhà nước hữu quan cần giải quyết một số vấn đề pháp lý sau: Chính phủ cần xây dựng và ban hành Nghị định về tiêu chí phân loại tập đoàn, mô hình tổ chức quản lý và hoạt động của tập đoàn, đặc biệt là mối quan hệ giữa tập đoàn với các đơn vị thành viên làm cơ sở pháp lý gốc cho việc thành lập, tổ chức quản lý và hoạt động của các TĐKT nói chung và TĐTC - NH nói riêng. Một điểm quan trọng là văn bản này phải làm rõ sự khác biệt giữa nhóm công ty tổ chức theo mô hình công ty mẹ - công ty con và nhóm công ty tổ chức theo mô hình tập đoàn. Luật các tổ chức tín dụng sửa đổi cần có quy định về loại hình tổ chức tín dụng theo mô hình TĐTC - NH. Về chính sách phát triển các tổ chức tín dụng, bên cạnh việc cổ phần hoá các NHTM Nhà nước, Nhà nước cần có định hướng cho phép một số NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần lớn xây dựng, hình thành các TĐTC - NH với phạm vi kinh doanh đa năng bao trùm hầu hết các dịch vụ ngân hàng, bảo hiểm, chứng khoán, cho thuê tài chính, phát hành thẻ, quản lý tài sản… Việc hình thành các TĐTC - NH lớn là xu hướng chung ở nhiều nước trên thế giới và mô hình tập đoàn cũng là mô hình tổ chức quản lý của nhà cung cấp dịch vụ tài chính hàng đầu thế giới - những đối thủ cạnh tranh tiềm năng của các NHTM trong khi Việt Nam gia nhập WTO. Mặt khác, việc cho phép một số NHTM Nhà nước chuyển đổi thành mô hình tập đoàn để đa dạng hoá hình thức tổ chức quản lý của các NHTM và đáp ứng nhu cầu phát triển tự thân của một số NHTM Nhà nước. Để mô hình TĐTC - NH có tính khả thi cao, với tư cách là cơ quan giám sát hoạt động ngân hàng, Ngân hàng Nhà nước cần nghiên cứu xây dựng và ban hành các quy chế dưới luật định về cơ cấu tổ chức, quản trị, điều hành của tập đoàn ngân hàng theo thông lệ quốc tế để đảm bảo có thể giám sát hoạt động của TĐTC - NH và sự an toàn cho cả hệ thống ngân hàng, cũng như đảm bảo môi trường kinh doanh cạnh tranh lành mạnh và minh bạch trong lĩnh vực ngân hàng. Cuối cùng, việc lựa chọn mô hình tổ chức quản lý và hoạt động kinh doanh của các NHTM chỉ là điều kiện cần. Để có thể xây dựng được các ngân hàng có tiềm lực tài chính lớn, có khả năng cạnh tranh cao, hoạt động đa năng thì không những đòi hỏi bản thân mỗi ngân hàng phải lựa chọn được chiến lược phát triển phù hợp, khai thác được thế mạnh của mình, mà còn cần sự hỗ trợ mạnh mẽ của các cơ quan hữu quan trong việc xây dựng và thực thi có hiệu quả các chính sách, pháp luật liên quan đến tổ chức và hoạt động ngân hàng. 2.1.2 Môi trường kinh tế vĩ mô Thời gian qua, môi trường kinh tế vĩ mô của Việt Nam chưa thực sự ổn định, nền kinh tế thị trường phát triển ở trình độ thấp, khung thể chế đảm bảo cho hoạt động của các thành phần kinh tế chưa đồng bộ. Do đó, chúng ta phải hoàn thiện việc cổ phần hoá các doanh nghiệp đồng bộ với việc xây dựng các TĐKT, trong đó có lĩnh vực ngân hàng. Song song với nó là tăng cường quản lý nhà nước trong lĩnh vực kinh tế nói chung và lĩnh vực tài chính - ngân hàng nói riêng để giảm thiểu rủi ro, tránh những thất bại đáng tiếc do sự cạnh tranh của những doanh nghiệp nước ngoài đối với các TĐTC - NH Việt Nam. 2.2 Giải pháp vi mô Một TĐTC khác với một NHTM thông thường ở chỗ tính đa năng và phạm vi hoạt động rộng khắp ở các quốc gia. Vì vậy, để xây dựng một TĐTC vững mạnh ở Việt Nam cần lưu ý một số điểm sau: 2.2.1 Thực hiện các biện pháp tăng quy mô vốn điều lệ và vốn tự có Hiện nay, tiềm lực về vốn của các NHTM Việt Nam chưa đủ để có thể xây dựng thành công một TĐTC đa năng, vì một trong những yêu cầu đầu tiên của việc hình thành những TĐTC là phải xây dựng một “tấm đệm” đủ dày về vốn. Trước mắt, chúng ta chỉ tập trung những giải pháp xây dựng thành công mô hình TĐTC ở các NHTM nhà nước; xúc tiến có hiệu quả việc cổ phần hoá các NHTM nhà nước để tăng vốn chủ sở hữu. Tăng vốn tự có của các NHTM từ nguồn lợi nhuận để lại; phát hành cổ phiếu, trái phiếu; sáp nhập, hợp nhất, mua lại. Xử lý các NHTM cổ phần yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả các biện pháp giải thể, phá sản. Bảo đảm duy trì mức vốn tự có của các NHTM phù hợp với quy mô tài sản có trên cơ sở thực hiện tỷ lệ an toàn vốn tối thiểu 8% trong trung hạn và 10% trong dài hạn. 2.2.2 Hoàn thành việc cổ phần hoá đối với các NHTM nhà nước Các NHTM hiện nay đang trong quá trình cổ phần hoá, tuy nhiên quá trình này cần được đẩy nhanh hơn nữa theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế - xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Khi thực hiện cổ phần hoá, các NHTM cần thuê các công ty có uy tín của nước ngoài đánh giá đúng tài sản có của mình, đặc biệt là tài sản cố định theo giá thị trường và các chuẩn mực quốc tế để tăng vốn tài sản có và vốn tự có của các NHTM nhà nước. Việc sáp nhập và hợp nhất những ngân hàng với nhau hay giữa ngân hàng và bảo hiểm cần có sự cân nhắc về việc chọn đối tượng sáp nhập. Có thể nói, đây là một phương pháp hữu hiệu, thiết thực trong nền kinh tế thị trường, nó mang lại nhiều lợi ích cho hệ thống ngân hàng như: Làm tăng quy mô vốn nhanh chóng, làm tăng khả năng thực hiện đa dạng dịch vụ và thực hiện một cách chuyên nghiệp các dịch vụ tài chính khác nhau, các định chế tài chính có thể tự cứu lấy nhau trước khi cần sự can thiệp của nhà nước. 2.2.3 Nâng cao hiệu quả kinh doanh của ngân hàng Một là, xây dựng những chiến lược kinh doanh lâu dài đối với các NHTM; đa dạng hoá danh mục sản phẩm, bằng cách thay thế những sản phẩm ngân hàng truyền thống bằng những sản phẩm ngân hàng hiện đại, từ đó tạo dựng thương hiệu cho các sản phẩm và thương hiệu của các TĐTC - NH. Hai là, các NHTM cần chú ý phát triển mạng lưới, tập trung xây dựng các chi nhánh lớn trong nước, xây dựng hệ thống công ty con và chi nhánh, xây dựng các đại lý và công ty con ở nước ngoài. Mở rộng mạng lưới thông qua việc hình thành các công ty hoạt động trong các lĩnh vực có liên quan và có khả năng hỗ trợ cho hoạt động của NHTM như công ty bảo hiểm nhân thọ, Công ty quản lý quỹ đầu tư chứng khoán, Công ty tài chính và dịch vụ chuyển tiền… Các công ty là các kênh phân phối sản phẩm, góp phần tận dụng lợi thế sẵn có của ngân hàng trong việc nắm bắt các cơ hội mở ra từ quá trình mở cửa và hội nhập kinh tế quốc tế. 2.2.4 Chú trọng nâng cao trình độ công nghệ Chúng ta cần xây dựng, tổ chức, tăng cường nguồn nhân lực; phát triển sản phẩm hiện đại phù hợp cho từng ngân hàng đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần tăng cường quản trị hệ thống thông tin về khách hàng, của đối thủ cạnh tranh, thông tin bảo mật… Ngoài ra, cần có một hệ thống thanh toán hiện đại liên ngân hàng để thực hiện việc thanh toán các khách hàng khác hệ thống được nhanh gọn hơn. 2.2.5 Xây dựng mô hình phát triển các TĐTC – Ngân hàng Hiện nay, mô hình quản trị điều hành tại các NHTM Nhà nước về thực chất là mô hình của doanh nghiệp Nhà nước (Tổng công ty nhà nước). Mô hình này đã bộc lộ không ít khuyết điểm, do vậy, việc chuyển sang mô hình NHTM cổ phần đều được tổ chức thành 2 cấp: trụ sở chính và chi nhánh. Tại hội sở chính, mô hình kết cấu chung bao gồm: Hội đồng quản trị, ban giám đốc điều hành, các phòng ban chức năng. Tuy nhiên, hội đồng quản trị chưa thực sự đóng vai trò là cơ quan quản lý cao nhất của NHTM, chưa tập trung được thông tin về hoạt động của ngân hàng. Chức năng, quyền hạn của hội đồng quản trị chưa được xác định rõ ràng, thiếu sự gắn kết thường xuyên giữa hội đồng quản trị và ban giám đốc điều hành. Xuất phát từ tình hình thực tế hiện nay, việc sớm xác định và lựa chọn mô hình TĐTC - NH từ các NHTM nhà nước cần được xác định dựa trên những nguyên tắc sau: Kế thừa và phát huy những ưu điểm của mô hình tổ chức hiện hành Không dập khuôn máy móc mô hình của ngân hàng nước ngoài Không gây xáo trộn lớn đến hoạt động kinh doanh Tập trung chức năng quản lý cần thiết và chủ yếu tại ngân hàng gốc của tập đoàn Bộ máy gọn nhẹ, không trùng lắp, chồng chéo về chức năng, nhiệm vụ Phù hợp với luật pháp Việt Nam và thông lệ quốc tế Xây dựng phương án xử lý nợ xấu cho các NHTM nhà nước nhằm xử lý dứt điểm nợ xấu, đồng thời coi đây là một trong những nội dung chủ yếu để tăng cường năng lực tài chính cho các ngân hàng Có giải pháp bổ sung nguồn vốn điều lệ cho các NHTM nhà nước trước khi tiến hành cổ phần hoá Theo nguyên tắc trên, TĐTC - NH hình thành từ NHTM nhà nước theo mô hình hỗn hợp giữa cấu trúc Holding với cấu trúc nhất thể (tập trung quyền lực), hoạt động theo mô hình công ty mẹ - công ty con, vừa tập trung vừa phân quyền, nhưng hướng tới hiệu quả tổng thể của tập đoàn. Cụ thể là: - TĐTC - NH là tổ hợp ngân hàng mẹ và các công ty con; - Ngân hàng mẹ có tư cách pháp nhân, kế thừa quyền và nghĩa vụ hợp pháp của NHTM nhà nước trước khi chuyển đổi. Bộ máy quản lý của ngân hàng mẹ chính là bộ máy của tập đoàn. Tập đoàn sử dụng bộ máy điều phối của ngân hàng mẹ làm cơ quan giúp việc quản lý điều hành và tư vấn chuyên môn. Cấu trúc của ngân hàng mẹ gồm: Hội đồng quản trị thực hiện chức năng quản lý tập đoàn; tổng giám đốc thực hiện chức năng điều hành tập đoàn; ban kiểm soát thức hiện chức năng kiểm tra, giám sát hoạt động của tập đoàn; văn phòng tập đoàn và các ban chức năng là bộ phận tham mưu giúp việc cho ban lãnh đạo tập đoàn; - Các công ty con độc lập trực tiếp kinh doanh dịch vụ tài chính phi ngân hàng. 2.2.6 Phát triển dịch vụ ngân hàng Một là, phát triển các dịch vụ trên thị trường tài chính, chủ yếu trên thị trường chứng khoán. Các ngân hàng có thể phối hợp với các công ty chứng khoán thực hiện dịch vụ cho vay cầm cố cổ phiếu, cầm cố chứng khoán để đầu tư chứng khoán. Bên cạnh đó, các ngân hàng cần tiếp tục triển khai nghiệp vụ lưu ký chứng khoán, thanh toán bù trù chứng khoán và ngân hàng giám sát. Hai là, phát triển dịch vụ ngân hàng bán lẻ tiện ích và hiện đại. Theo đó, dịch vụ ngân hàng bán buôn là dành cho công ty, tập đoàn kinh doanh,... còn dịch vụ ngân hàng bán lẻ là dành cho khách hàng cá nhân. Các ngân hàng cần thực hiện kế hoạch tăng tiện ích của tài khoản cá nhân (như thanh toán hoá đơn tiền điện, điện thoại, tiền lương hưu,... Ba là, mở rộng các dịch vụ ngân hàng quốc tế để nâng cao chất lượng dịch vụ: kinh doanh vàng trên tài khoản nước ngoài, dịch vụ Option về kinh doanh cà phê kỳ hạn trên thị trường nước ngoài, bao thanh toán (Factoring), quyền chọn tiền tệ, hoán đổi lãi suất, quản lý vốn trên tài khoản của khách hàng, dịch vụ chuyển tiền kiều hối,... 2.2.7 Về nhân lực Cần quan tâm đến vấn đề đào tạo đội ngũ cán bộ chủ chốt để có thể vận hành tập đoàn. Nhân lực lãnh đạo là vấn đề quan trọng và tiên quyết để đảm bảo các tập đoàn được quản trị một cách phù hợp với thông lệ, tránh được những rủi ro về kinh tế và pháp lý trong điều kiện nước ta hội nhập sâu rộng vào kinh tế thế giới. Tóm lại, phát triển thành một TĐTC đa năng là một mục tiêu chiến lược của các NHTM Việt Nam. Vì vậy, các NHTM cần phải nghiên cứu kỹ lưỡng để chọn hướng đi cho phù hợp, để trong tương lai, các NHTM chủ chốt Việt Nam sẽ trở thành những TĐTC vững mạnh trong khu vực và thế giới. KẾT LUẬN Vai trò của các TĐTC trong xu thế toàn cầu hóa là hết sức quan trọng. Với đặc thù là một tổ hợp kinh tế theo mô hình công ty mẹ - con có quy mô lớn về vốn và tài sản, hoạt động kinh doanh đa ngành và nhiều chức năng, các tập đoàn có những ưu thế nhất định trong kinh doanh, đáp ứng tốt hơn nhu cầu của khách hàng, nâng cao năng lực tài chính, năng lực kinh doanh và cạnh tranh trong điều kiện hội nhập kinh tế. Từ nghiên cứu các TĐTC trên thế giới đã rút ra những kinh nghiệm trong quá trình hình thành và phát triển TĐTC ở Việt Nam để các tập đoàn hoạt động có hiệu quả và làm nòng cốt trong việc thúc đẩy kinh tế xã hội. Trước những đòi hỏi cấp bách và những thách thức lớn của quá trình hội nhập, cụ thể là việc thực hiện những cam kết song phương và đa phương về lĩnh vực tài chính - ngân hàng, các NHTM Việt Nam đang đứng trước những sự lựa chọn mang tính cốt tử trong việc xác định chiến lược kinh doanh và cách thức đổi mới mô hình hoạt động. Việc các NHTM có lựa chọn, xây dựng ngân hàng trở thành một TĐTC - NH đa năng hay không là phụ thuộc vào chiến lược riêng biệt của từng NHTM. Tuy nhiên, để trở thành các TĐTC mạnh, có thể đứng vững, phát triển và hội nhập với nền tài chính - ngân hàng khu vực và thế giới đòi hỏi một quá trình lao động sáng tạo và bền bỉ của các cấp quản lý vĩ mô và của bản thân từng ngân hàng. Với Bảo Việt, hy vọng kinh nghiệm về tổ chức và điều hành của các TĐTC lớn là bài học hữu ích để vận dụng vào quá trình phát triển Bảo Việt thành TĐTC đa năng theo đúng mục tiêu và kế hoạch mà tập đoàn đặt ra. TÀI LIỆU THAM KHẢO Quốc hội (2005), Luật Doanh nghiệp, hiệu lực từ ngày 10/07/2006. Trần Văn Hiền (Số 5/2006), Tài chính Doanh nghiệp, 7-8. TS. Ngô Minh Châu (9/2006), Tạp chí Ngân hàng, 1-2. TS. Nguyễn Đình Nguộc (8/2006), Tạp chí Ngân hàng, 3-5. TS. Đỗ Thị Hồng Hạnh và Vũ Thị Hồng Nhung (10/2006), Tạp chí Ngân hàng, 28-31. ThS. Hoàng Thị Tuyết (Số 4, 4/2005), Chứng khoán Việt Nam, 32-35. Vũ Xuân Thanh (Số 24, 12/2006), Tạp chí Ngân hàng, 15-18. ThS. Lê Thị Huyền Diệu (Số 6/2006), Tạp chí Ngân hàng, 17-19. GS.TSKH. Vũ Huy Từ (Số 1/2007), Tổ chức Nhà nước, 18-19. TS. Hoàng Huy Hà (12/2006), Tài chính, 20-23. ThS. Đoàn Thái Sơn (Số 22, 11/2006), Tạp chí Ngân hàng, 5-7. Phạm Thị Khanh (Số 342, 11/2006), Nghiên cứu Kinh tế, 18-29. Doãn Hữu Tuệ (Số 349, 6/2007), Nghiên cứu Kinh tế, 62-71. www.citigroup.com www.prudential.com.vn www.prudential.com www.hsbc.com www.wikipeida.org/wiki/HSBC www.mizuho-fg.co.jp/english (14/10/2002). www.wikipedia.org/wiki/citigroup www.vnn.vn/cntt/doanhnghiep (2/6/2004). www.vnn.vn/kinhte/taichinh (1/3/2006). www.vnn.vn/kinhte/taichinhnganhang (8/4/2003). www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=94302&CatId=26 (22/06/2006). www.baoviet.com.vn (2/1/2003). www.inpro.vn/content/view/110/2/ (22/06/2007). (15/09/2005). www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsId=85521&CatId=26 (30/3/2007) www.vnn.vn/kinhte/2005/02/371796/ (1/2/2005). www.vnmedia.vn/newsdetail.asp?NewsID=44438&CatId=25 (10/11/2006). www.dddn.com.vn/Desktop.aspx/TinTuc/The-gioi/Tu_30-3_thuong_hieu_Citigroup_doi_thanh_Citi/?SearchTerms=citigroup (1/4/2007). www.kiemtoan.com.vn/modules.php?name=News&file=article&sid=252 (28/04/2006) www.taichinhvietnam.com/taichinhvietnam/modules.php?name=News&file=article&sid=9767 (11/07/2007). www.lantabrand.com/search.html?slgroup=all&page=1&id=1&news=1644&txt_search=HSBC (13/08/2005). www.vneconomy.vn/?home=detail&page=category&cat_name=06&id=077644b234d79c (25/01/2007). www.moi.gov.vn/News/detail.asp?Sub=4&id=32233 (31/07/2007) www.dddn.com.vn/Desktop.aspx/Tin-DN/Thi-Truong/Ky_vong_cua_HSBC/ (23/05/2007). www.mof.gov.vn/Default.aspx?tabid=612&ItemID=882 (14/5/2003). (17/8/2007). DANH MỤC CÁC TỪ VIẾT TẮT TĐKT: Tập đoàn kinh tế TĐTC: Tập đoàn tài chính TĐTC - NH: Tập đoàn tài chính - Ngân hàng SL: Số lượng TNHH: Trách nhiệm hữu hạn CHLB Đức: Cộng hoà Liên bang Đức HĐQT: Hội đồng quản trị BGĐ: Ban giám đốc BHNT: Bảo hiểm nhân thọ BHPNT: Bảo hiểm phi nhân thọ NHTM: Ngân hàng thương mại DANH MỤC BẢNG BIỂU Tên Nội dung Trang Bảng 1 Kết quả hoạt động kinh doanh của một số TĐTC lớn nhất thế giới năm 2006 20 Bảng 2 Quy mô TĐTC so với các TĐKT khác trong 10 tập đoàn lớn nhất thế giới năm 2006 24 Bảng 3 Mô hình tổ chức quản lý của tập đoàn ở một số nước 29 Bảng 4 Kết quả hoạt động kinh doanh bảo hiểm của Bảo trong thị trường bảo hiểm Việt Nam giai đoạn 2004 - 6/2007 40 Bảng 5 Kết quả kinh doanh của Citigroup từ năm 2002 -2006 47 Biểu đồ Lợi nhuận của từng lĩnh vực kinh doanh năm 2006 của Citigroup 48 Sơ đồ Mô hình tiêu biểu của một Tập đoàn tài chính - bảo hiểm 68 MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLVNH015.doc
Tài liệu liên quan