Khóa luận Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái – loại hình du lịch câu cá tại tỉnh Hà Tây

Cùng với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đang diễn ra với tốc độ chóng mặt như hiện nay, nhu cầu đi du lịch của một bộ phận lớn cư dân, đặc biệt là cư dân đang sinh sống và làm việc tại các đô thị, khu công nghiệp cũng đang có xu hướng tăng lên. Với điểm đến là những vùng thiên nhiên yên tĩnh, những hồ nước trong xanh, những vườn cây xoà bòng mát du lịch câu cá là một loại hình du lịch hướng tới thiên nhiên, giúp con người nghỉ ngơi, thư giãn, giải toả căng thẳng, phục hồi sức khoẻ, đồng thời cũng giúp con người hoà nhập với thiên nhiên, khám phá thiên nhiên và khám phá chính bản thân mình. Do vậy loại hình này ngày càng được ưa chuộng.

doc71 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1463 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Nghiên cứu phát triển du lịch sinh thái – loại hình du lịch câu cá tại tỉnh Hà Tây, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
hiểu về bản sắc của những dân tộc anh em. Trong tương lai, khi Bằng Tạ-Đầm Long được đầu tư khoa học hơn, đa dạng hơn, khu du lịch này sẽ có thể phát huy những lợi thế của mình, đáp ứng nhu cầu của những du khách yêu thích du lịch sinh thái. 2.2.1.1.7 Hồ Tiên Sa Hồ Tiên Sa hay còn gọi là Hồ Hóc Cua nằm ngay cạnh vườn Quốc gia Ba Vì, với tổng diện tích là 151 ha trong đó có hơn 100 ha là rừng đệm của vườn Quốc gia.Hồ Tiên Sa được bao quanh bởi con đường rợp bóng cây xanh với nhiều loịa cây ăn quả, cây lấy gỗ khác nhau. Trong khu du lịch có nuôi thú thuần dưỡng cùng nhiều loài chim tạo nên một phong cảnh thanh bình, sống động.Hệ thống nhà nghỉ, dịch vụ lưu trú gồm có 5 nhà sàn, 4 nhà nghỉ kiên cố đạt tiêu chuẩn 1-3 sao. Quanh hồ có hơn 30 lều câu cá với nhiêu loại cá như trắm, rô phi, chép, mè, trôi…thu hút rất nhiều khách du lịch. Ngoài ra còn có nhiều khu dành cho thể thao như bể bơi, hệ thống cầu trượt, thác nước…Trong tương lai, khu du lịch Hồ Tiên Sa sẽ được đầu tư xây dựng thêm nhiều hạng mục công trình khác như : nhà nghỉ, vườn chim, thú, các công trình vui chơi giải trí… 2.2.1.1.8 Trang trại Vân Canh Nằm trên dịa phận xã Vân Canh, huyện Hoài Đức, Hà Tây, trang trại Vân Canh đựoc xây dựng từ 1995, chủ sở hữu là ông Phạm Công Cường và Vợ là bà Nguyễn Thị Quyết. Trang trại không lớn lắm chỉ khoảng 3 ha nhưng có lợi thế nằm rất gần Hà Nội (cách Hà Đông 6 km, cách Cầu Diễn 5 km).Diện tích này khá lý tưởng cho mô hình du lịch câu cá trang trại, với một lượng khách vừa phải. Trang trại có 3 hồ với diện tích 9000 m2, 4000 m2 và 1000 m2 . Hồ nhỏ đang được chuẩn bị cải tạo thành bể bơi theo nhu cầu của khách. Xung quanh hồ có các lều để khách nghỉ ngơi, câu cá, ăn uống. Ngoài một ngôi nhà lớn được làm theo kiểu cổ dành cho khách tham quan chiêm ngưỡng, trang trại còn có hai nhà sàn với diện tích 150m2, một nhà nghỉ 5 phòng và một ngôi nhà ở của chủ nhân. Một ngày, trang trại Vân Canh có thể phục vụ tố đa một lượng khách khoảng 500 người. Điều làm cho du khách thích thú nhất ở Vân Canh là sự yên tĩnh, hài hoà, thanh bình giữa hồ nước, nhà sàn, lều trại, đảo nhỏ và các loại cây ven hồ. Trong khung cảnh xanh tươi ấy, du khách có thể câu cá một cách yên tĩnh trong các lều nhỏ xinh xắn nằm dưới những tán cây xanh, sau đó gọi những mâm cơm gia đình giản dị để thưởng thức thành quả mình vừa câu được. Do điều kiện dịch vụ lưu trú chư đảm bảo và vị trí rất gần hà Nội nên chủ trang trại chưa tổ chức dịch vụ lưu trú qua dêm cho khách. 2.2.1.1.9 Trang trại Song Phương vườn Toạ lạc ngay trên trục dường Láng- Hoà Lạc, Song Phương vườn có diện tích khoảng 5 ha đựoc ngăn thành từng khu rõ rệt. Ba ao cá dài nối với nhau ở chính giữa, bao quanh là các lều trại nhỏ dành cho khách câu cá, nghỉ ngơi thư giãn. Xung quanh là những vườn cây xanh mát cung cấp hoa trái cho khách, vừa tạo cảnh quan trong lành, yên tĩnh gần gũi với thiên nhiên. Tuy nhiên sức chứa của trang trại chỉ giới hạn khoảng 150 khách một ngày với loại khách gia đình hoặc nhóm nhỏ. Mô hình trang trại bước đầu có có được những thành công nhưng quan trọng hơn, nó đã giúp biến những khu đất hoang hoá, lầy lội thành một địa chỉ du lịch sinh thái, mặt khác khai thác tiềm năng sẵn có ở những nơi có cảnh quan tự nhiên với một số vốn vừa phải. Với cách đầu tư đúng hướng này, chỉ trong một thời gian ngắn nữa chúng ta sẽ có thể thấy nhiều mô hình tương tự mọc lên ở mảnh đất Hà Tây này. 2.2.1.2 Hoạt động tiếp thị quảng cáo Qua điều tra ban đầu, cùng với sự quan sát đánh giá, có thể nhận định rằng thị trường dành cho du lịch sinh thái- loại hình du lịch câu cá tại Hà Tây đang bị bỏ ngỏ. Chưa thấy có sự tham gia của bất kỳ một doanh nghiệp du lịch nào trong khi nhu cầu của thị trường là tương đối rõ rệt và tiềm năng của Hà Tây là rất lớn. Trên các ấn phẩm, các thông tin quảng cáo dành cho du lịch câu cá rất hạn chế, hầu hết chỉ dành cho du lịch câu biển và cũng chỉ giới hạn ở các biển miền Trung và phía Nam. Du khách dường như không được cung cấp thông tin gì về loại hình du lịch cũng như tiềm năng rất lớn của các tỉnh miền Bắc, trong đó có Hà Tây. Nguyên nhân của việc này là do các tỉnh miền trong có lợi thế với những bãi biển đẹp, giàu tiềm năng thuỷ hải sản. Song bên cạnh đó cũng phải kể tới sự nhanh nhẹn, nắm bắt nhu cầu thị trường cùng với sự tự tin, mạnh dạn khai thác của những doanh nghiệp du lịch miền Nam. Trong khi đó, loại hình du lịch câu cá, đặc biệt là câu cá nước ngọt ở miền Bắc chỉ được coi là một bộ phận của du lịch cuối tuần nên khâu tuyên truyền quảng cáo rất hạn chế, thông tin manh mún và thiếu tính chuyên nghiệp. Trên phương tiện thông tin Internet, tình hình có khá hơn nhưng lại càng khẳng định những nhận xét trên về thị trường miền Bắc nói chung và Hà Tây nói riêng là chính xác. Trong trang web: “4so9.com”, một trong những trang web lớn nhất dành cho loại hình du lịch câu cá với một số luợng lớn thành viên ở khắp các tỉnh thành trong cả nước, trung bình mỗi ngày có khoảng 1000 lượt truy cập, thông tin quảng cáo rất nhiều và đa dạng nhưng chỉ có duy nhất một bài của một hãng lữ hành miền Nam quáng cáo cho tour du lịch câu biển tại Vũng tàu ( truy cập ngày 3/3/2005 ). Theo nguồn thông tin mà tác giả nhận được thông qua các thành viên của Câu lạc bộ câu cá Hà Nội (cũng trên trang web 4so9.com), khách đi câu biết đến các địa điểm du lịch chủ yếu thông qua bạn bè, đồng nghiệp là chính; họ thường tự tổ chức những chuyến đi câu và gần như không biết đến bất kỳ một công ty ở Hà Nội nào có tour du lịch câu cá. Thực tế khi viết bài này, tác giả cũng đã rất nhiều lần tìm kiếm thông tin về du lịch sinh thái-loại hình du lịch câu cá tại Hà Tây trên mạng Internet nhưng kết quả thu được chỉ là những thông tin về các khu du lịch nghỉ dưõng, khu du lịch cuối tuần… Như vậy có thể thấy rằng, sự yếu kếm trong khâu tuyên truyền quảng cáo chính là một yếu tố ảnh hưởng rất lớn, cản trở sự phát triển của loại hình du lịch câu cá. 2.2.1.3 Hoạt động kinh doanh Tại Hà Tây hiện nay, có hai mô hình khai thác loại hình du lịch câu cá khác nhau đó là: du lịch câu cá kiểu trang trại và du lịch câu cá tại những khu du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần. Cả hai mô hình này đều có những ưu điểm và nhược điểm riêng của mình nhưng đều có một điểm chung đó là du lịch câu cá mới chỉ được coi như một loại hình du lịch giải trí thuần tuý mà chưa nhìn nhận dưới góc độ của du lịch sinh thái. Mô hình du lịch câu cá tại những khu du lịch nghỉ dưỡng cuối tuần Tiêu biểu cho những mô hình loại này có thể kể tới khu du lịch Thác Đa, Suối Hai, Đồng Mô, khu du lịch Quan Sơn, Tản Đà, khu rừng tự nhiên Bằng Tạ-Đầm Long, Hồ Tiên Sa. Trong đó có những khu du lịch mới được đầu tư và đưa vào khai thác vài năm nay dưới dạng một khu du lịch cuối tuần. Chính vì vậy, ta có thể bắt gặp rất nhiều yếu tố nhân tạo trong những khu du lịch dạng . Đây chính là một trong những yếu tố khiến những người ham thích du lịch sinh thái, loại hình du lịch câu cá còn ngần ngại khi lựa chọn điểm đến. Bên cạnh đó còn phải nói tới yếu tố giá cả, nếu như ở các trang trại, du khách chỉ phải bỏ ra khoảng từ 20-30 nghìn cho một buổi câu (sáng hoặc chiều), thì ở các khu du lịch trên giá cho một giờ câu là 30- 50 nghìn hoặc được tính trọn gói với các dịch vụ khác như du thuyền, bơi lội…Ngoài khu du lịch Thác Đa và Tản Đà được đầu tư khá quy mô khoa học và hợp lý, với số lượng dịch vụ đa dạng, chất lượng dịch vụ tương đối cao, thoả mãn nhu cầu của du khách nói chung, còn ở những nơi khác tình trạng đầu tư manh mún, dịch vụ đơn điệu không thu hút được khách du lịch khá phổ biến. Mặt khác, phải kể tới sự lãng phí nguồn tài nguyên mặt nước có thể thấy ở nhiều nơi như Hồ Suối hai, Hồ Tiên Sa, Hồ Quan Sơn… Trong việc khai thác du lịch sinh thái, loại hình du lịch câu cá ở tất cả các khu du lịch kể trên, điểm đến nổi bật nhất là khu du lịch rừng tự nhiên Bằng Tạ-Đầm Long. Do có lợi thế là khu rừng nguyên sinh được khai thác nhằm mục đích phục vụ hoạt động du lịch sinh thái và nghiên cứu tự nhiên của Ba Vì nên quang cảnh ở đây còn rất nguyên sơ và hoang dã. Bên cạnh đó, ngoài khai thác dịch vụ câu cá phục vụ những du khách có niềm ham mê đối với thú vui tao nhã này, tại khu du lịch Bằng Tạ- Đầm Long du khách còn có thể tham quan khu chợ quê hoặc thuê xe đến thăm bản của dân tộc Mường cách đó 2 km để tham quan, tìm hiểu văn hoá và mua sắm…. Từ đây, du khách cũng có thể dễ dàng tới tham quan Hồ Suối Hai, vườn cò Ngọc Nhị…gần và thuận tiện hơn những khu du lịch khác. Do điều kiện bảo tồn và diện tích có hạn nên hiện nay Bằng Tạ- Đầm Long chưa có nhiều khách. Vào mùa hè, lượng khách cũng đạt tới 1400 khách/ ngày mà vẫn đảm bảo yêu cầu về sinh thái và môi trường. Đội ngũ nhân viên ở đây chỉ khoảng 20 người vừa bảo vệ rừng vừa phục vụ khách, trong đó quá nửa là dân địa phương nên ý thức về cộng đồng, về bảo tồn tài nguyên du lịch khá tốt. Trong tương lai, khi du lịch câu cá được nhìn nhận đúng đắn hơn dưới góc độ là một loại hình du lịch sinh thái, những mô hình như Bằng Tạ- Đầm Long sẽ phát triển hơn nữa, phổ biến hơn nữa, đáp ứng nhu cầu của du khách đồng thời khai thác được tiềm năng sẵn có của tỉnh Hà Tây. Mô hình du lịch câu cá trang trại ưu điểm nổi bật nhất của mô hình này chính là giá cả phải chăng, tạo được cho du khách cảm giác gần gũi với tự nhiên, với phong cảnh làng quê Việt Nam. Các trang trại hầu hết đều được cải tạo từ những khu đất hoang hoá, với một diện tích vừa phải nhưng người đầu tư đã rất khéo léo khi tạo ra được khung cảnh xanh mát, trong lành và yên tĩnh cùng với sự hài hoà giữa vườn cây, ao cá, nhà nghỉ…Các trang trại này hiện thu hút một lượng lớn du khách tới nghỉ ngơi thư giãn và câu cá, đặc biệt là những dịp cuối tuần. Nhưng nhược điểm của mô hình câu cá trang trại là không khai thác được tiềm năng của văn hoá bản địa, đây là một sự thiếu hụt rất lớn khiến cho mô hình câu cá trang trại chưa thực sự trở thành một sản phẩm du lịch sinh thái theo đúng nghĩa của nó. Một hạn chế khác là với quy mô trang trại gia đình, diện tích nhỏ nên hầu hết các trang trại đều chưa đáp ứng được nhu cầu lưu trú của du khách. Tuy nhiên, để đáp ứng nhu cầu ngày càng tăng của du khách, trong khi việc lựa chọn điểm đến vẫn là một khó khăn thì mô hình câu cá trang trại là một cách khai thác hiệu quả và có nhiều thuận lợi như vốn đầu tư không lớn, có thể xây dựng được ở nhiều nơi gần đô thị, khu công nghiệp. Vấn đề đặt ra là phải tiếp thị quảng cáo, tạo điều kiện thuận lợi về cơ chế quản lý, sự quan tâm từ các cấp lãnh đạo để mô hình này phát huy được tiềm năng của mình. 2.2.1.4 Vấn đề bảo vệ môi trường Vấn đề bảo vệ môi trường luôn được quan tâm hàng đầu trong hoạt động du lịch bởi vì bảo vệ môi trường chính là bảo vệ nguồn tài nguyên du lịch, yếu tố cơ bản để hình thành nên các điểm du lịch, khu du lịch. Bảo vệ môi trường đặc biệt quan trọng đối với loại hình du lịch sinh thái vì tài nguyên của du lịch sinh thái rất thường nhạy cảm với các tác động từ bên ngoài. Đối với loại hình du lịch câu cá, các tác động đối với môi trường phổ biến là: cải tạo ao hồ, xây dựng cơ sở hạ tầng từ phía người đầu tư, quản lý và hoạt động vô ý thức xả rác thải của du khách. Tại các địa điểm kinh doanh loại hình du lịch câu cá ở Hà Tây hiện nay, vệ sinh môi trường và giáo dục ý thức bảo vệ môi trường cho du khách chưa được quan tâm đúng mức . Đặc biệt là trong những dịp cuối tuần, do lượng khách tăng lên đột ngột nên có thể thấy cảnh nước đục, rác rưởi trôi nổi trên các ao hồ. Điều này gây cảm giác khó chịu cho du khách đồng thời làm giảm sức hấp dẫn của du lịch câu cá. Bên cạnh đó tình trạng người dân địa phương khai thác trái phép tài nguyên tự nhiên, các loại động thực vật quý hiếm để bán cho du khách cũng là một vấn đề đáng lo ngại. 2.2.1.5 Sự tham gia của cộng đồng địa phương Trong một số khu du lịch sinh thái tại Hà Tây, nhà quản lý đã rất quan tâm tới việc sử dụng lao động địa phương trong công tác bảo vệ môi trường, hướng dẫn, hoặc phục vụ trực tiếp du khách. Bên cạnh đó người dân địa phương còn được khuyến khích sản xuất các sản phẩm thủ công truyền thống hoặc tham gia bán hàng tại các khu chợ quê. Dân cư địa phương được tạo công ăn việc làm với mức lương tương đối ổn định, đời sống dần dần cải thiện. Tuy nhiên, tại một số nơi lại diễn ra cảnh người dân địa phương chèo kéo, xô xát với khách du lịch… hoặc tình trạng chấp đất đai với khu du lịch. Chỉ khi giải quyết được những vấn đề trên, cùng với việc quản lý bền vững, hỗ trợ bảo tồn và có giáo dục môi truờng thì du lịch câu cá mới thực sự được xem là du lịch sinh thái. .2 Nhu cầu đối với loại hình du lịch câu cá 2.2.2.1 Phiếu thăm dò ý kiến du khách Đề tài đã bước đầu nghiên cứu về thói quen và nhu cầu của khách du lịch đối với loại hình du lịch câu cá thông qua hình thức phỏng vấn trực tiếp và thông qua một bảng hỏi bao gồm 24 câu hỏi đóng (dạng câu hỏi có sẵn câu trả lời để lựa chọn). + Mục đích điều tra : Tìm hiểu về nhu cầu và thói quen của khách du lịch đối với loại hình du lịch câu cá + Đối tượng điều tra : Khách du lịch + Phương pháp điều tra : Kết hợp giữa phương pháp quan sát, phỏng vấn trực tiếp và trả lời bảng hỏi. + Số bảng hỏi phát ra : 200 phiếu + Số bảng hỏi thu về : 171 phiếu 2.2.2.2 Tổng hợp phiếu thăm dò theo các chỉ tiêu về du khách câu cá Bảng 1 : Tổng hợp 1 số chỉ tiêu cơ bản về khách du lịch câu cá ( bao gồm 6 câu hỏi từ câu 19 đến câu 24 ) Chỉ tiêu 19: Nơi sinh sống hiện tại của du khách Hà Tây Hà Nội Khác Đơn vị: % 26.3 67.8 5.9 Chỉ tiêu 20: Độ tuổi của du khách Dưới 18 18 – 30 30 – 55 Trên 55 7.0 45.0 34.5 13.5 Chỉ tiêu 21: Giới tính của du khách Nam Nữ 94.7 5.3 Chỉ tiêu 22: Trình độ học vấn của du khách Trung học Sơ cấp Trung cấp, cao đẳng Đại học Trên đại học Khác 7.6 4.1 28.1 44.4 8.8 7.0 Chỉ tiêu 23: Nghề nghiệp của du khách Công nhân, viên chức Thương nhân Học sinh, sinh viên Hưu trí Nghề khác 36.8 19.9 25.2 13.0 18.0 Chỉ tiêu 24: Thu nhập bình quân hàng tháng của du khách < 500.000 Đ 500.000 – 1.000.000 Đ 1.000.000 – 2.000.000 Đ 2.000.000 – 5.000.000 Đ 5.000.000 – 10.000.000 Đ > 10.000.000 Đ 21.1 22.2 31.0 16.4 7.0 2.3 Nhận xét chung Qua bảng tổng hợp trên, ta có thể rút ra một số nhận xét như sau: Thị trường chủ yếu đối với loại hình du lịch câu cá tại Hà Tây là Hà Nội và một phần là từ Hà Tây, khách du lịch phổ biến là nam thanh niên và nam trung niên, với trình độ học vấn tương đối cao, nghề nghiệp và mức sống khá ổn định Bảng 2 : Tổng hợp một số chỉ tiêu liên quan trực tiếp tới nhu cầu và thói quen của khách du lịch ( bao gồm 18 câu hỏi từ câu 1 tới câu 18 ) Chỉ tiêu 1: Mức độ thường xuyên đi du lịch câu cá của du khách Thường xuyên Không thường xuyên Rất ít Chưa bao giờ Đơnvị: % 12.3 48.0 32.7 7.0 Chỉ tiêu 2: Quy mô nhóm của du khách Một mình Hai người Từ hai người trở lên 18.1 36.3 45.6 Chỉ tiêu 3: Bạn đồng hành trong chuyến đi Gia đình Bạn bè Cơ quan Đối tượng khác 5.3 46.8 9.2 8.7 Chỉ tiêu 4: Hình thức chuyến đi Tự tổ chức Mua tour của các công ty du lịch Hình thức khác 83.6 00.0 16.4 Chỉ tiêu 5: Địa phương có điểm du lịch câu cá ưa thích Hà Tây Hà Nội Nơi khác 81.3 14.0 4.7 Chỉ tiêu 6: Nguồn thông tin về điểm du lịch câu cá Phương tiện thông tin đại chúng Bạn bè, người thân Quảng cáo du lịch Nguồn khác 7.6 74.3 5.3 12.8 Chỉ tiêu 7: Mục đích chuyến du lịch câu cá của du khách Thưởng thức món cá câu được Nghỉ ngơi, thư giãn Tham quan, vui chơi Mở rộng hiểu biết Mục đích khác 1.8 59.1 17.0 15.2 6.9 Chỉ tiêu 8: Điểm du lịch câu cá ưa thích Bãi biển Các khu du lịch sinh thái Trang trại, nhà vườn 18.1 18.7 63.2 Chỉ tiêu 9: Thời gian du lịch câu cá ưa thích Tháng 1 – tháng 3 Tháng 4 – tháng 6 Tháng 7 – tháng 9 Tháng 10 – tháng 12 15.8 26.9 43.3 14.0 Chỉ tiêu 10: Thời gian thực hiện chuyến du lịch câu cá 1 ngày 1.5 ngày 2 ngày > 2 ngày 39.1 21.1 27.5 12.3 Chỉ tiêu 11: Chi phí trung bình theo đầu người < 100.000 Đ 100.000 – 200.000 Đ 200.000 – 500.000 Đ 500.000 – 1.000.000 Đ > 1.000.000 Đ 15.8 32.2 35.1 11.1 5.8 Chỉ tiêu 12: Phương tiện di chuyển phổ biến Ô tô của công ty du lịch Ô tô riêng Xe máy Xe đạp Phương tiện khác 00.0 12.9 72.4 5.3 9.4 Chỉ tiêu 13: Khoảng cách phù hợp cho chuyến du lịch câu cá < 20 km 20 – 70 km > 70 km 35.8 56.1 8.1 Chỉ tiêu 14: Yếu tố ảnh hưởng tới việc lựa chọn địa điểm du lịch câu cá ? Hồ câu có nhiều cá Khoảng cách tới điểm du lịch Chi phí Số lượng dịch vụ Chất lượng dịch vụ Khác 17.5 9.4 12.3 3.5 52.0 5.3 Chỉ tiêu 15: Mức độ tham gia các hoạt động ngoài câu cá Thường xuyên Thỉnh thoảng Đôi khi Không bao giờ 62.8 19.3 17.9 7.0 Chỉ tiêu 16: Yếu tố cản trở việc thực hiện chuyến du lịch câu cá Thời gian Thời tiết Tiền bạc Sức khoẻ Yếu tố khác Không có gì cản trở 43.3 22.2 12.9 6.4 13.5 1.7 Chỉ tiêu 17: Mức độ cần thiết của du lịch câu cá Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết 10.5 25.7 50.9 12.9 Chỉ tiêu 18: Mức độ hài lòng của du khách về chất lượng dịch vụ tại các điểm du lịch câu cá ? Rất hài lòng Hài lòng Bình thường Không hài lòng Không ý kiến 3.5 28.1 53.8 11.7 2.9 Các chỉ tiêu liên quan trực tiếp tới nhu cầu và thói quen của khách du lịch đối với loại hình du lịch câu cá được thể hiện qua 18 biểu đồ dưới đây Chỉ tiêu 1 Thường xuyên Không thường xuyên Rất ít Chưa bao giờ 12.3% 48% 32.2% 7% Nhận xét: Nhu cầu về du lịch câu cá là có thực và khá rõ ràng. Tuy nhiên, còn một số lượng lớn du khách chưa biết đến hoặc rất ít khi đi du lịch câu cá. Mức độ thường xuyên đi du lịch câu cá Chỉ tiêu 2 Một mình Hai người Từ hai người trở lên 18.0% 36.3% 45.6% Nhận xét: Du khách thường có xu hướng đi du lịch câu cá từ hai người trở lên Quy mô nhóm khi đi du lịch câu cá Chỉ tiêu 3 Gia đình Bạn bè Cơ quan Đối tượng khác 5.3% 46.8% 9.2% 8.7% Nhận xét: Xu hướng đi du lịch câu cá với bạn bè là chủ yếu, sau đó là cơ quan và đối tượng khác Bạn đồng hành trong chuyến đi Chỉ tiêu 4 Tự tổ chức Mua tour Khác 83.6% 00.0% 16.4% Nhận xét: Các công ty du lịch chưa tổ chức được loại tour du lịch câu cá, đây là một thị trường lớn còn bỏ ngỏ Hình thức chuyến đi Chỉ tiêu 5 Hà Tây Hà Nội Khác 81.3% 14% 4.7% Nhận xét: Hà Tây là một điểm du lịch câu cá được ưa thích so với Hà Nội và các địa phương khác Địa phương có điểm dlịch câu cá ưa thích Chỉ tiêu 6 PTTT đại chúng Bạn bè người thân Quảng cáo du lịch Nguồn khác 7.6% 74.3% 5.3% 12.8% Nhận xét: Nguồn thông tin cá nhân vẫn chiếm vị trí quan rọng, ảnh hưởng từ quảng cáo du lịch và pttt đại chúng còn quá yếu Nguồn thông tin về điểm du lịch câu cá Chỉ tiêu 7 Thưởng thứ món cá câu được 1.8% Nghỉ ngơi thư giãn 59.1% Tham quan vui chơi 17% Mở rộng hiểu biết 15.2% Khác 6.9% Nhận xét: khách du lịch đi câu cá phần lớn nhằm mục đích nghỉ ngơi thư giãn Mục đích chuyến du lịch câu cá Chỉ tiêu 8 Biển Trang trại, Nhà vườn Khu du lịch sinh thái 18.1% 63.2% 18.7% Nhận xét: Khách du lịch thích đến cáctrang trại, nhà vườn để câu cá nhất, sau đó là các khu du lịch sinh thái và bãi biển Điểm đến du lịch câu cá ưa thích Chỉ tiêu 9 Tháng 1-3 Tháng 4-6 Tháng 7-9 Tháng 10-12 16% 27% 43% 14% Nhận xét: Mùa du lịch câu cá vẫn tập trung chủ yếu vào mùa hè và mùa thu Thời gian du lịch câu cá ưa thích Chỉ tiêu 10 1 ngày 1.5 ngày 2 ngày > 2 ngày 39.1% 21.1% 27.5% 12.3% Nhận xét: Độ dài chuyến đi phổ biến là từ 1 đén 2 ngày.Tuy nhiên một số lượng không nhỏ khách đi du lịch câu cá dài hơn hai ngày Thời gian thực hiện chuyến dl câu cá Chỉ tiêu 11 <100.000 100.000-200.000 200.000-500.00 500.000-1.000.000 >1.000.000 15.8% 32.2% 35.1% 11.1% 5.8% Nhận xét: Chi phí cho mỗi chuyến đi du lịch câu cá còn ở mức trung bình, nguyên nhân là do số lượng và chất lượng dich vụ chưa đáp ứng được nhu cầu của du khách Chi phí trung bình theo đầu người Chỉ tiêu 12 Ô tô của công ty du lịch Ô tô riêng Xe máy Xe đạp Khác 0.0% 12.9% 72.4% 5.3% 9.4% Nhận xét: Phương tiện đi lại phổ biến nhất vẫn là xe máy, tỷ lệ đi bằng ô tô riêng cũng tương đối cao trong khi các công ty du lịch lại không tham gia vào dịch vụ này Phương tiện di chuyển phổ biến Chỉ tiêu 13 < 20 km 20km –70 km > 70 km 35.8% 56.1% 8.1% Nhận xét: Khoảng cách phổ biến la từ 20 đến 70 km, điều đó cho thấy khoảng cách không phải là một yếu tố rất quan trọng trong việc lựa chọn điểm đến Khoảng cách phù hợp Chỉ tiêu 14 Nhiều cá Khoảng cách Chi phí Số lương dv Chất lượng dv Khác 17.5% 9.4% 12.3% 3.5% 52% 5.3% Nhận xét: Chất lượng dịch vụ và hồ câu là hai yếu tố được du khách quan tâm hàng đầu, tiếp theo là yếu tố chi phí và khoảng cách Yếu tố ảnh hưởng tới việc lựa chọn địa điểm dl Chỉ tiêu 15 Thường xuyên Thỉnh thoảng Đôi khi Không bao giờ 62.8% 19.3% 17.9% 7% Nhận xét: Khách du lịch rất hào hứng tham gia nhưng hoạt động khác ngoài câu cá. Chỉ có một số ít không bao giờ tham gia Mức độ tham gia các hoạt động ngoài câu cá Chỉ tiêu 16 Không có gì cản trở Yêú tố khác Sức khoẻ Tiền bạc Thời tiết Thời gian 1.7% 13.5% 6.4% 12.9% 22.2% 43.3% Nhận xét: Hai yếu tố gây cản trở nhất là thời gian và thời tiết nhưng đay là là hai yếu tố ngoài tầm kiểm soát của con người Yếu tố cản trở chuyến du lịch câu cá Chỉ tiêu 17 Rất cần thiết Cần thiết Bình thường Không cần thiết 10.5% 50.9% 25.7% 12.9% Nhận xét: Nhu cầu về du lịch câu cá khá rõ rệt, đây chính là một thị trường rất lớn cho các công ty du lịch Mức độ cần thiết của du lịch câu cá Chỉ tiêu 18 Rất hài lòng Hài lòng Bình thường Không hài lòng Không ý kiến 3.5% 28.1% 5.8% 11.7% 4.9% Nhận xét: Mức độ hài lòng của du khách phần lớn chi dừng lại ở mức trung bình và trên trung bình. Điều này cho thấy sự cần thiết phải nâng cao chất lượng dịch vụ tại các điểm du lịch câu cá Mức độ hài lòng của du khách về chất lượng tại các điểm du lịch câu cá Một số nhận xét Qua kết quả thăm dò ở trên ta có thể thấy rằng nhu cầu đối với du lịch sinh thái- loại hình du lịch câu cá là có thực và có chiều hướng tăng lên theo sự phát triển của những đô thị công nghiệp đông đúc và ô nhiễm. Việc đi du lịch câu cá không thường xuyên là do chưa có sự tuyên truyền quảng bá, sự vào cuộc của các công ty du lịch. Mặt khác do sản phẩm du lịch loại này còn nghèo nàn, chưa đáp ứng được nhu cầu của khách du lịch đang ngày một tăng lên. Chương 3 : một số giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái – loại hình du lịch câu cá tại tỉnh hà tây 3.1 Quan điểm định hướng phát triển du lịch sinh thái Hà Tây 3.1.1 Quan điểm phát triển du lịch sinh thái Hà Tây 3.1.1.1 Phát triển du lịch sinh thái nhằm góp phần bảo vệ môi trường (tự nhiên và văn hoá - xã hội) Có thể nói du lịch là một ngành kinh tế có nhiều tác động tới môi trường hơn cả bởi vì việc khai thác các tài nguyên du lịch phụ thuộc tất lớn vào con người bao gồm cả những người hoạt động kinh doanh du lịch lẫn cả khách du lịch. - Như chúng ta đã biết du lịch sinh thái được coi là cầu nối giữa con người với thiên nhiên. Để có thể hấp dẫn thu hút được ngày càng nhiều khách tới tham quan, các cơ sở kinh doanh du lịch ngoài việc củng cố các cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, cơ sở vật chất kỹ thuật cũng như chất lượng đội ngũ phục vụ còn luôn chú trọng tới việc bảo tồn và phát triển các giá trị tự nhiên lẫn giá trị nhân văn. Công tác bảo tồn được tập trung vào các vườn quốc gia (ở đây là vườn quốc gia Ba Vì) cũng như các loài động thực vật quý hiếm có rải rác trong khu vực núi Ba Vì. - Để có thể phục vụ tốt nhu cầu du khách lựa chọn loại hình du lịch này, các nhà kinh doanh du lịch đã phải tăng cường công tác làm sạch môi trường thông qua việc kiểm soát chất lượng không khí, nước, đất, tiếng ồn, rác thải... lên kế hoạch quy hoạch cảnh quan, xây dựng, duy tu các công trình kiến trúc, thực hiện phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, khuyến khích làm tốt và thường xuyên khẩu hiệu “xanh - sạch - đẹp” tại các khu du lịch. - Ngoài việc tự bảo vệ và cải thiện môi trường của các đơn vị kinh doanh du lịch, tại mỗi điểm du lịch, khách du lịch cũng được hướng dẫn không xâm hại tới môi trường cảnh quan như chặt cây, phá rừng vứt rác thải bừa bãi, không săn bắt các loài động vật... qua đó mà môi trường sinh thái ngày một được bảo vệ tốt hơn. - Du lịch sinh thái phát triển còn tạo ra khả năng hỗ trợ bảo tồn các di tích lịch sử, văn hoá, duy trì và phát triển các nghệ thuật văn hoá, các lễ hội, các làng nghề truyền thống của nhiều địa phương, đóng góp kinh phí một cách trực tiếp hoặc gián tiếp cho việc phát triển các bảo tàng, nhà hát, các hoạt động văn hoá (kể cả văn hoá ẩm thực), khôi phục niềm tin và lòng tự hào dân tộc, phát huy và bảo vệ tính đa dạng văn hoá đặc biệt đối với Hà Tây là nơi nổi tiếng với nhiều di tích lịch sử đình, đền, chùa, huyền thoại Sơn tinh Thuỷ tinh và nhiều đồng bào dân tộc sinh sống (chủ yếu là người Mường) thông qua việc các du khách (đặc biệt là du khách nước ngoài) thích chiêm ngưỡng và tôn trọng các nét văn hoá khu vực này. Ngoài ra việc phát triển du lịch đã tạo điều kiện cho du khách và người dân địa phương có dịp giao lưu, trao đổi văn hoá giữa các vùng, qua đó làm phong phú thêm bản sắc văn hoá của từng khu vực. 3.1.1.2 Phát triển du lịch sinh thái góp phần thúc đẩy kinh tế địa phương. Đối với một địa phương như Hà Tây thì phát triển ngành kinh tế du lịch có thể coi là cơ bản trong việc xoá đói giảm nghèo, chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của địa phương. Du lịch phát triển đã tạo ra thu nhập, đóng góp cho ngân sách Nhà nước, giải quyết nhiều việc làm cho nhân dân trong vùng có thêm nguồn thu ngoại tệ (từ khách nước ngoaì)... qua đó mà nâng cao mức sống cho dân địa phương (thông qua các dịch vụ phục vụ khách du lịch). Ngoài ra du lịch phát triển đã kéo theo các ngành kinh tế khác cũng phát triển như (ngành nông nghiệp phục vụ các loại rau, củ, quả, ngành tiểu thủ công nghiệp phục vụ cho bán đồ lưu niệm truyền thống...) Trong những năm qua hoạt động du lịch ở Hà Tây đã có nhiều khởi sắc rõ rệt. Cơ sở hạ tầng du lịch được quan tâm đầu tư, cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch được tăng cường phát triển. Đội ngũ lao động tăng lên cả về số lượng và chất lượng. Hoạt động du lịch đã đạt hiệu quả kinh tế xã hội lớn, góp phần vào việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế địa phương, tạo thêm công ăn việc làm cho nhân dân nâng cao chất lượng đời sống của nhân dân. Từ năm 2001 đến nay, ngành du lịch Hà Tây đã tích cực khai thác và đã được cấp 59 tỷ đồng từ nguồn vốn hỗ trợ đầu tư hạ tầng du lịch của Chính phủ để đầu tư xây dựng nhiều công trình hạ tầng du lịch trên địa bàn tỉnh. Bằng nguồn vốn này đã có nhiều khu điểm du lịch sinh thái được thụ hưởng các côrg trình hạ tầng du lịch như khu du lịch hồ suối Hai được đầu tư giai đoạn I là 13 tỷ đồng làm con đường vào hồ, khu du lịch hồ Đồng Mô được đầu tư 13 tỷ đồng xây dựng các tuyến đường ven hồ, khu du lịch chùa Hương được đầu tư 30 tỷ đồng đề xây dựng các công trình đường vào, bến xe, cải tạo tránh ách tắc giao thông, cải tạo vệ sinh môi trường, cảnh quan dòng suối Yến. Các công trình được đầu tư kể ở trên thực sự góp phần làm đẹp cho các khu du lịch, tạo điều kiện thuận lợi thu hút khách du lịch và các nhà đầu tư, nâng cao chất lượng phục vụ và đóng góp vào sự phát triển du lịch Hà Tây. Năm 1998 Hà Tây mới đón được gần 900.000 lượt khách trong đó có 46.000 lượt khách quốc tế. Năm 2002 đón được hơn 1,7 triệu lượt khách, trong đó khách quốc tế gần 100.000 lượt khách, tốc độ tăng bình quân hàng năm đạt14%/năm. Về doanh thu năm 1998 đạt 106 tỷ đồng đến năm 2002 đạt hơn 180 tỷ đồng, tăng bình quân hàng năm đạt14%. Nộp ngân sách Nhà nước năm 1998 mới đạt hơn 5 tỷ đồng năm 2002 đạt hơn 12 tỷ đồng, tăng 2,4 lần trong 5 năm. Trong thành công của du lịch Hà Tây những năm qua có phần đóng góp không nhỏ của du lịch sinh thái, không những đạt hiệu quả kinh doanh mà còn bảo vệ và phát triển được rừng vì các doanh nghiệp đã nhận thức được tầm quan trọng sống còn của tài nguyên thiên nhiên đối với hạt động kinh doanh du lịch. Tuy nhiên trong quá trình phát triển còn những hạn chế nhất định như lượng khách đến Hà Tây rất lớn nhưng thường tập trung theo mùa vụ tạo áp lên môi trường cần phải giải quyết, nhưng từng bước có thể khẳng 3.1.1.3 Du lịch sinh thái phát triển góp phần quảng bá cho tài nguyên du lịch tự nhiên và tài nguyên nhân văn của địa phương. Khách du lịch đến tham quan các điểm du lịch sẽ là người sử dụng các tài nguyên du lịch (cả thiên nhiên và nhân văn) và chính họ sẽ là những người góp phần quảng bá, tuyên truyền cho các điểm du lịch đó về tài nguyên thiên nhiên và các nét văn hoá đặc trưng của từng vùng. Định hướng phát triển du lịch sinh thái Hà Tây Đây là vấn đề rất quan trọng. Căn cứ vào định hướng phát triển này, Sở Du lịch Hà Tây sẽ tự đánh giá và lựa chọn cho mình những loại hình du lịch phù hợp, từ đó mà khai thác một cách có hiệu quả nhất các tài nguyên du lịch của địa phương. 3.1.2.1 Định hướng tổ chức không gian lãnh thổ - Việc định hướng tổ chức không gian lãnh thổ đảm bảo cho việc khai thác tối đa tiềm năng du lịch, những lợi thế về vị trí địa lý, tổ chức tốt các tuyến điểm du lịch. Việc phát triển không gian ở đây phải dựa trên các quan điểm: + Chiến lược phát triển du lịch phải gắn chặt với chiến lược phát triển kinh tế xã hội của địa phương. + Tạo ra được những sản phẩm du lịch độc đáo, hấp dẫn mang đậm bản sắc văn hoá, lịch sử, tự nhiên của khu vực. + Phát triển du lịch đi đôi với quy hoạch bảo vệ môi trường, chống ô nhiễm và can thiệp thô bạo vào tự nhiên. + Khuyến khích rộng rãi nhân dân địa phương tham gia vào các hoạt động có liên quan đến du lịch (phát triển trên cơ sở cộng đồng), phấn đấu đạt mức đóng góp GDP đáng kể trong cơ cấu kinh tế của toàn huyện. - Các cụm điểm du lịch: Căn cứ vào tiềm năng, tài nguyên sự phân bố về vị trí địa lý và các điều kiện có liên quan, không gian phát triển du lịch sinh thái khu vực Ba Vì được phân định như sau: + Cụm du lịch sinh thái hồ: Tập trung chủ yếu tại khu vực hồ Suối Hai - Ba Vì. + Cụm du lịch sinh thái rừng núi và suối: Bao gồm các điểm du lịch tập trung ở khu vực núi Ba Vì, vườn quốc gia Ba Vì từ cote 100m trở xuống như các điểm du lịch Ao Vua, Khoang Xanh, hồ Tiên Sa, Suối Mơ... + Cụm du lịch sinh thái rừng núi kết hợp với trang trại trồng cây ăn quả, cây lấy thuốc... bao gồm một số điểm như trang trại Nửa Vầng Trăng, Thác Đa,Thanh Long... và các trang trại thuộc Hoài Đức, Đan Phượng, Thạch Thất, Phú Xuyên, Thường Tín… + Cụm du lịch tham quan, nghiên cứu: bao gồm vườn quốc gia Ba Vì từ cote 400m trở lên, khu rừng nguyên sinh Bằng Tạ và vườn cò Ngọc Nhị. Trong các cum du lịch sinh thái trên, đặc biệt chú trọng phát triến 2 khu vực Ba Vì - Sơn Tây và Hương Sơn - Quan Sơn Khu vực Ba Vì - Sơn Tây: Tập trung phát triển du lịch sinh thái kết hợp khai thác các giá trị văn hoá ở khu vực Sơn Tây. - Khu vực Hồ Đồng Mô khai thác các sản phẩm du lịch nghỉ dưỡng, thể thao cao cấp như chơi golf, du thuyền, câu cá... các khu vui chơi giải trí hiện đại như làng văn hoá các dân tộc - Khư vực hồ Suối Hai là nơi có khả năng phát triển du lịch với tiềm năng du lịch rất lớn. Phương hướng thích hợp nhất để khai thác có hiệu quả tiềm năng du lịch ở đây là quy hoạch toàn bộ khu vực trở thành một khu du lịch tổng hợp mang tầm cỡ lớn với các sản phẩm như du lịch nghỉ dưỡng, du lịch thể thao như du thuyền,câu cá, dù bay, đua ngựa... - Khu vực thị xã Sơn Tây phát triển du lịch văn hoá ở làng Việt cổ Đường Lâm, thành cổ Sơn Tây, chùa Mía, đền Và... - Khu vực vườn quốc gia Ba Vì phát triển các loại hình du lịch sinh thái với các điểm du lịch như Thác Đa, Ao Vua, Khoang Xanh... nghiên cứu phát triển loại hình du lịch nghiên cứu thiên nhiên, điền dã... * Các điểm có tài nguyên nổi bật cần tập trung phát triển du lịch ở khu vực này là: đền Hát Môn (Phúc Thọ), làng Việt cổ Đường Lâm, thành cổ Sơn Tây, đền Và, chùa Mía, đình Tây Đằng, vườn quốc gia Ba Vì, hồ Đồng Mô, hồ Suối Hai, hồ Xuân Khanh... Khu vực Hương Sơn - Quan Sơn khai thác du lịch lễ hội kết hợp với du lịch sinh thái. - Khu danh thắng Hương Sơn: sản phẩm chính vẫn là du lịch lễ hội kết hợp khai thác thêm các yếu tố đa dạng sinh học để phát triển các loại hình du lịch sinh thái hấp dẫn du khách, khắc phục được tính mùa vụ. - Khu hồ Quan Sơn: Là khu vực có tiềm năng du lịch đa dạng về sinh thái, phong cảnh. Hiên ở đây các hoạt động du lịch chưa phát triển do đó phương hướng thích hợp nhất là quy hoạch thành một khu du lịch tổng hợp tầm cỡ lớn với các sản phẩm như du lịch nghỉ dưỡng, thể thao nước, sân golf... Vấn đề quan trọng ở đây là nên lựa chọn các dự án có quy mô thích hợp, tránh việc cho các dự án quy mô nhỏ vào đầu tư để tránh tình trạng tài nguyên bị phân tán, manh mún. * Các điểm có tài nguyên nổi bật cần tập trung phát triển du lịch ở khu vực này là: khu thắng cảnh Chùa Hương, đình Hữu Vĩnh (ứng Hoà), hồ Quan Sơn... 3.1.2.2 Định hướng tổ chức các loại hình du lịch (Định hướng sản phẩm) Có thể nói Hà Tây là nơi hội tụ của quần thể núi, rừng, hồ, suối, thác nước, các di tích lịch sử văn hoá với nhiều cảnh quan và tài nguyên vô cùng hấp dẫn đối với khách du lịch. Tuy nhiên cũng như nhiều địa phương khác, Hà Tây cũng không tránh khỏi tình trạng phải khắc phục tính thời vụ. Việc định hướng tổ chức các loại hình du lịch (ở đây đang nghiên cứu du lịch sinh thái) sẽ góp phần đa dạng hoá sản phẩm du lịch, phục vụ tốt hơn cho nhu cầu của khách du lịch. - Du lịch tham quan: Đây là loại hình du lịch tổng hợp nhất có ở mọi điểm du lịch trên địa bàn huyện. Cơ sở phát triển cho loại hình này là các tài nguyên như núi, rừng, suối, hồ... kết hợp với tham quan các di tích lịch sử văn hoá như đền thờ Bác Hồ, đền thờ Sơn tinh, đình Tây Đằng... - Du lịch chuyên đề, nghiên cứu: Tại các khu rừng nguyên sinh (khu rừng Bằng Tạ và vườn quốc gia Ba Vì), khu vườn cò Ngọc Nhị hoặc một số cánh rừng thứ sinh được phục hồi hoặc trồng mới sẽ giúp cho việc nghiên cứu khoa học và bảo toàn đa dạng sinh học. - Du lịch điền dã: Tại các vùng bậc thềm dưới chân núi có thể sử dụng để lập các trang trại, vườn sinh thái trồng cây ăn quả hoặc cây lấy thuốc, các khu chăn nuôi các loại động vật như hươu, gấu, các loài bò sát... phù hợp với những du khách thích khung cảnh đồng quê đơn sơ, mộc mạc, gắn bó cuộc sống với thiên nhiên. - Du lịch thể thao, thám hiểm: Tại các khu vực núi cao có thác nước, các khu vực có hồ, suối đều có thể phát triển loại hình du lịch này như leo núi, tắm thác, câu cá, chạy trong rừng, dã ngoại, các môn thể thao nước. - Du lịch vui chơi giải trí: tại cơ sở du lịch đông khách nhất là đối tượng thanh niên có thể phát triển các dịch vụ vui chơi giải trí để phục vụ khách có nhu cầu sau khu đã sử dụng các loại hình du lịch khác (như sau khi leo núi, dã ngoại, bơi thuyền, câu cá...) hoặc dùng để kéo dài thời gian lưu trú của khách đồng thời cũng tránh tình trạng buồn tẻ, vắng vẻ không có nơi vui chơi cho mỗi cơ sở du lịch tại địa phương. 3.2 Một số giải pháp nhằm phát triển du lịch sinh thái - loại hình du lịch câu cá tại tỉnh Hà Tây 3.2.1 Các giải pháp tổng thể * Cần có các chiến lược, chính sách về công tác quy hoạch phát triển du lịch thống nhất, đồng bộ từ trung ương tới địa phương, từ toàn tỉnh tới từng khu vực cụ thể. Việc quy hoạch cần đưa ra các phương án tối ưu đảm bảo hiệu quả kinh tế - xã hội cao. Trong công tác xây dựng quy hoạch cần tính đến vấn đề khai thác sử dụng hợp lý và phát triển các nguồn tài nguyên du lịch, đảm bảo sự phát triển bền vững của hệ sinh thái đồng thời bảo tồn được giá trị của các di sản văn hoá và di sản thiên nhiên. Trong quy hoạch tổng thể phát triển du lịch toàn tỉnh Hà Tây cũng đã xác định rõ cụm du lịch trọng điểm Sơn Tây - Ba Vì và Hương Sơn – Quan Sơn phát triển chủ yếu loại hình du lịch sinh thái xong hiện tại việc phát triển du lịch tại khu vực Suối Hai, vườn cò Ngọc Nhị và phát triển loại hình trang trại ở Hoài Đức vẫn còn hạn chế. Dự án Suối Hai chưa được phê duyệt, ranh giới đất đai chưa cụ thể, việc phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật du lịch còn chậm, khu vườn cò Ngọc Nhị chưa lập dự án phát triển, công tác bảo vệ và phát triển đàn cò còn chưa triệt để nên vẫn còn tình trạng bắt và giết hại đàn cò. Tại chân núi Tản Viên, nơi có nhiều cơ sở kinh doanh du lịch xong vẫn còn hiện tượng cạnh tranh không lành mạnh, phát triển nhiều điểm kinh doanh tại một nơi (kinh doanh cùng một loại hình dịch vụ như bể bơi, leo núi...). Tại các huyện Hoài Đức, Phú Xuyên, Đan Phượng, Thường Tín, mô hình trang trại phát triển nhanh và tự phát, không nằm trong quy hoạch tổng thể, rất khó kiểm soát. Bởi vậy để có thể phát triển tốt loại hình du lịch sinh thái ở đây như trên đã nói mỗi cơ sở kinh doanh du lịch cần phải xây dựng quy hoạch phát triển du lịch cho phù hợp xong vẫn tạo được cho mình những nét đặc sắc riêng. * Kiện toàn về tổ chức và cơ chế quản lý tại các khu du lịch - Cần kiện toàn bộ máy quản lý Nhà nước về du lịch trong đó có bộ phận chuyên trách về quản lý môi trường, gắn mô hình đổi mới quản lý với yêu cầu bảo vệ môi trường. Coi công tác bảo vệ môi trường như là một điều kiện trong chiến lược phát triển du lịch bền vững. - Từng bước hoàn thiện hệ thống các văn bản pháp quy về quản lý tài nguyên môi trường du lịch trên cơ sở triển khai luật bảo vệ môi trường, luật di sản văn hoá và pháp lệnh du lịch tới từng đơn vị, cá nhân tham gia kinh doanh dịch vụ du lịch. - Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi trong việc huy động vốn đầu tư phát triển trong đó chú trọng đến lĩnh vực bảo vệ và tôn tạo nâng cao chất lượng môi trường (chương trình phủ xanh đất trống, đồi núi trọc, trồng cây gây rừng...) - Có các chính sách ưu tiên đối với những tổ chức, cá nhân kinh doanh du lịch có tham gia công tác bảo vệ môi trường, giảm thiểu ô nhiễm môi trường và bảo tồn, duy tu các giá trị văn hoá. - Ngoài ra cần áp dụng các chính sách về khoa học kỹ thuật đẩy mạnh nghiên cứu ứng dụng các thành tựu khoa học công nghệ vào lĩnh vực bảo vệ môi trường mang lại hiệu quả trực tiếp cho toàn xã hội trong đó có ngành Du lịch (đặc biệt là trong việc giảm sử dụng hoá chất, năng lượng điện, nước để giảm thải, quản lý và xử lý chất thải...) * Đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng tại các điểm du lịch. Cần đầu tư phát triển cơ sở hạ tầng như đường xá, giao thông, hệ thống điện, cấp thoát nước, thông tin liên lạc... cùng với phát triển cả cơ sở vật chất kỹ thuật tại các điểm du lịch. Đây là những yếu tố trực tiếp ảnh hưởng tới sự khai thác tài nguyên du lịch trên địa bàn. Một thực tế đã chứng minh là tại một số điểm du lịch nhânTản Đà, Thác Đa... trong những năm gần đây nhờ có cơ sở hạ tầng được đầu tư tốt nên việc khai thác tài nguyên diễn ra thuận lợi hơn thông qua lượng khách du lịch ngày một đông, doanh thu ngày càng tăng và vì thế đóng góp cho ngân sách Nhà nước ngày một nhiều, còn tại một số điểm cơ sở hạ tầng còn kém như Suối Hai, vườn cò ngọc Nhị , thì công tác khai thác tài nguyên còn hạn chế do đường xá ở những điểm này còn xấu chưa đựoc đầu tư nâng cấp nên lượng khách đi tới những điểm này còn chưa nhiều và vì thế mà doanh thu cũng hạn chế. Được sự quan tâm của Tổng cục du lịch Việt Nam, khu du lịch Suối Hai- Ba Vì đã được nằm trong dự án khu du lịch chuyên đề của toàn quốc. Năm 2002 đã được đầu tư 6 tỷ đồng để nâng cấp cơ sở hạ tầng (đặc biệt là đường giao thông) với mục tiêu phát triển khu vực này thành trung tâm Du lịch của huyện Ba Vì nói riêng và tỉnh Hà Tây nói chung. * Việc khai thác tài nguyên vào phục vụ du lịch không được vượt quá giới hạn cho phép của sức chứa môi trường. Đây là một vấn đề quan trọng cần được xem xét nghiêm túc trong quá trình kinh doanh du lịch. Cần phải cân đối giữa lợi ích kinh tế với vấn đề bảo vệ các nguồn tài nguyên đảm bảo cho sự phát triển bền vững. Điều này khiến cho các cơ sở kinh doanh du lịch cần phải tính đến sự tác động của khách du lịch đối với tài nguyên trong các mùa cao điểm hay nói cách khác phải tính đến sức chứa của điểm du lịch, không để bị thị trường kiểm soát, để có thể làm được điều này đòi hỏi các cơ sở kinh doanh du lịch phải hạn chế công suất đón khách trong mùa vụ hoặc tăng giá tour du lịch vào mùa cao điểm, khuyến khích giá ưu đãi hoặc đa dạng hoá sản phẩm phục vụ đối với các khách du lịch đi tham quan ngoài thời vụ (Điều này có ý nghĩa đối với những cơ sở du lịch đông khách trong mùa vụ như Thác Đa hoặc các trang trại như Song Phương vườn, Vân Canh... * Đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ quản lý và nghiệp vụ chuyên môn cho đội ngũ cán bộ công nhân viên tại các cơ sở kinh doanh du lịch. Đây chính là yếu tố ảnh hưởng tới công tác điều hành, khai thác và sử dụng tài nguyên phục vụ cho du lịch sinh thái. Cần đào tạo, đưa ra những nhận thức về vai trò của môi trường du lịch với sự phát triển bền vững của ngành, đảm bảo cho việc bảo vệ và giữ gìn môi trường được bắt đầu và giám sát từ chính bản thân những người đảm nhận vai trò trực tiếp phát triển du lịch. Gắn giáo dục môi trường du lịch với các chương trình đào tạo chuyên ngành cho mọi đối tượng kinh doanh du lịch trong khu vực. Một trong những chương trình đào tạo cán bộ là đào tạo và bồi dưỡng đội ngũ hướng dẫn viên du lịch cho từng cơ sở. Mục đích của du lịch sinh thái là làm cho du khách hiểu được các tài nguyên thiên nhiên giàu có nhưng cũng dễ bị phá huỷ như thế nào, những thay đổi trong thiên nhiên, mỗi quan hệ gần gũi giữa con người và thiên nhiên. Cần đào tạo các hướng dẫn viên làm sao không chỉ đơn thuần là người lãnh đạo chuyến tham quan mà còn là một “nhà diễn giải thiên nhiên” sáng tạo có thể chuyển tải tới du khách những kiến thức về thiên nhiên và lịch sử văn hoá của điạ phương... Nhận thức được vấn đề này, vừa qua ngành du lịch Hà Tây đã phối hợp với một số trường đại học mở lớp bồi dưỡng hướng dẫn viên du lịch cho các nhân viên làm nhiệm vụ hướng dẫn tại các điểm du lịch thuộc 14 huyện, thị xã trên địa bàn tỉnh. Ngành cũng đã tuyển chọn được 13 cán bộ được hưởng kinh phí hỗ trợ của tỉnh để làm nhiệm vụ hướng dẫn, thuyết minh tại một số làng nghề, di tích lịch sử - văn hoá và các điểm du lịch khác * Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng bá Thực hiện việc quảng bá tuyên truyền trên các phương tiện thông tin khác nhau. Tuy nhiên cần thực hiện việc tự bản thân du khách quảng cáo cho các cơ sở du lịch, vì vậy chất lượng môi trường và tài nguyên tại mỗi đơn vị du lịch chính là biện pháp quảng cáo xúc tiến du lịch có hiệu quả và bền vững nhất. * Cần huy động sự tham gia bảo vệ môi trường và bảo đảm lợi ích cho cộng đồng dân cư tại các điểm du lịch sinh thái. Chúng ta đều biết môi trường bao gồm các yếu tố tự nhiên và yếu tố vật chất nhân tạo quan hệ mật thiết với nhau bao quanh con người, có mối quan hệ qua lại mật thiết với con người, có tầm quan trọng đặc biệt đối với đời sống con người, với sự phát triển kinh tế - xã hội, văn hoá... của mọi đất nước mọi dân tộc. Do vậy bảo vệ môi trường là trách nhiệm của mỗi người dân và của mỗi cộng đồng. Có nhiều giải pháp khác nhau trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội nhằm bảo vệ môi trường như giảm thiểu chất thải, xử lý chất thải, ứng dụng khoa học - kỹ thuật... xong thực tế cho thấy sự tham gia tích cực của cộng đồng trong việc bảo vệ môi trường là một giải pháp rất quan trọng. Bảo vệ môi trường với sự tham dự của cộng đồng là một quá trình dân cư cùng tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường. Khi người dân (dân cư địa phương và khách tham quan du lịch) có ý thức bảo vệ môi trường và tham gia vào các hoạt động bảo vệ môi trường chắc chắn môi trường sẽ được an toàn hơn, sự ô nhiễm bị khống chế và ngăn chặn vì cộng đồng có sức sáng tạo lớn, có tình đoàn kết do vậy mọi khó khăn đều có thể giải quyết. Tỉnh Hà Tây, đặc biệt là khu vực Ba Vì với địa hình hầu hết là núi rừng, do vậy công tác bảo vệ môi trường tập trung chủ yếu vào việc bảo vệ và phát triển rừng. Hiện nay các chương trình trồng rừng, phủ xanh đất trống, đồi núi trọc vẫn đang được tiếp tục thực hiện. Nhiều cơ sở kinh doanh du lịch khi thuê đất kinh doanh cũng đều nhận thêm diện tích đất trồng rừng do đó độ che phủ rừng của Ba Vì là rất nhiều. Một thực tế cho thấy tại vườn quốc gia Ba Vì và khu du lịch Ao Vua, người dân địa phương và khách du lịch đều được huy động tham gia hưởng ứng vào việc thu gom rác thải và bảo vệ rừng do đó vào vụ hè mỗi ngày có tới hàng vạn du khách đến tham quan nhưng môi trường ở đây vẫn được quản lý tốt. * Cần có sự phối kết hợp giữa du lịch với các ngành trong tỉnh như nông nghiệp, giao thông, điện... Cụ thể như tại khu vực hồ Suối Hai cần có sự phối hợp giữa ngành du lịch với ngành nông nghiệp và phát triển nông thôn để quản lý, sử dụng nước ở các hồ chứa sao cho có hiệu quả, vừa đảm bảo phục vụ cho nông nghiệp vừa thoả mãn tốt nhất cho mục tiêu phát triển du lịch. Hoặc như các đơn vị du lịch tại khu vực vườn quốc gia Ba Vì cũng cần phối hợp với Ban quản lý vườn quốc gia để vừa thực hiện tốt mục tiêu phủ xanh đất trống đồi núi trọc vừa đảm bảo cho sự phát triển của du lịch sinh thái . Ngoài ra cần có sự phối hợp với ngành Văn hoá thông tin và ngành công nghiệp để vừa đảm bảo giữ gìn, tu bổ, tôn tạo các giá trị di tích văn hoá và các làng nghề truyền thống vừa khai thác phục vụ cho phát triển du lịch. Thực hiện sự hợp tác quốc tế trong các lĩnh vực đào tạo, nghiên cứu khoa học, chuyển giao công nghệ góp phần nâng cao chất lượng môi trường du lịch cũng như sản phẩm du lịch của từng cơ sở du lịch. Trên cơ sở đó mà làm cho du lịch sinh thái của khu vực Hà Tây ngày càng phát triển. * Lập quỹ “du lịch vì môi trường” nhằm giữ gìn, bảo vệ và phát triển các tài nguyên du lịch (tự nhiên và nhân văn). Quỹ này được huy động từ đóng góp của các doanh nghiệp du lịch hoặc từ các nguồn thu vé thắng cảnh của địa phương. 3.2.2 Các giải pháp cụ thể trước mắt Những giải pháp tổng thể trên đòi hỏi phải có một quá trình thực hiện lâu dài, thường xuyên và liên tục. Trước mắt cần có các biện pháp cụ thể nhằm ngăn chặn các tiêu cực ảnh hưởng tới sự phát triển của du lịch sinh thái – loại hình du lịch câu cá * Tăng cường sự quản lý của Nhà nước và của tỉnh Hà Tây đối với hoạt động kinh doanh du lịch sinh thái nói chung và du lịch câu cá nói riêng. + Ngăn chặn và hạn chế các hành vi lấn chiếm đất đai hoặc xây dựng các điểm khai thác hoạt động du lịch câu cá tự phát, trái với quy định của địa phương hoặc không phù hợp với quy hoạch tổng thể du lịch của tỉnh Hà Tây. + Ngăn chặn các tệ nạn phá rừng bừa bãi, khai thác đá hoặc đào ao, hồ trái phép để phòng chống hiện tượng bồi đắp phù sa, sạt lở núi hoặc lũ lụt do mất tầng che phủ mặt đất, bảo vệ nguồn nước mặt và ngầm. Tiếp tục bảo vệ rừng hiện có đồng thời thực hiện việc phủ xanh đồi núi trọc, thực hiện giao đất, giao rừng cho các cá nhân và tổ chức kinh doanh du lịch trên địa bàn huyện. Phục hồi và phát triển các loài động thực vật quý hiếm đang bị mai một dần (tập trung chủ yếu tại vườn quốc gia Ba Vì và vườn cò Ngọc Nhị) nhằm tăng cường hơn nữa sự phát triển du lịch câu cá theo hướng du lịch sinh thái như mục tiêu đã đề ra. * Hạn chế những tác động tiêu cực lên môi trường tự nhiên và xã hội + Mỗi cơ sở du lịch đều phải thực hiện việc thu gom rác thường xuyên. dọc đường tham quan và tại các điểm dịch vụ phải có đặt thùng rác. Xử lý rác theo đúng quy trình. + Nâng cao nhận thức cho khách du lịch và nhân dân địa phương trong công tác bảo vệ môi trường nhằm phát triển du lịch câu cá theo hướng sinh thái. + Tích cực ủng hộ sự tham gia của người dân địa phương, giúp họ có công ăn việc làm, cải thiện đời sống, dần giảm bớt tình trạng tranh giành khách du lịch hoặc chỗ bàn hàng…gây ảnh hưởng xấu tới hình ảnh của du lịch Hà Tây nói chung và du lịch câu cá nói riêng. * Tiếp tục đầu tư cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng các khu du lịch câu cá, đặc biệt là đường giao thông tới từng điểm du lịch câu cá nhằm hạn chế bớt khó khăn về kinh phí cho các doanh nghiệp du lịch, giúp họ có điều kiện tập trung cho phát triển cơ sở vật chất kỹ thuật và đa dạng hoá sản phẩm phục vụ tốt hơn nhu cầu du khách. * Đẩy mạnh công tác tuyên truyền quảng cáo về loại hình du lịch câu cá trên báo chí, tờ gấp, các ấn phẩm và trên Internet để thu hút du khách. Đưa loại hình này trở nên phổ biến, quen thuộc và hấp dẫn hơn đối với khách du lịch. Kết luận Cùng với quá trình đô thị hoá, công nghiệp hoá và hiện đại hoá đang diễn ra với tốc độ chóng mặt như hiện nay, nhu cầu đi du lịch của một bộ phận lớn cư dân, đặc biệt là cư dân đang sinh sống và làm việc tại các đô thị, khu công nghiệp cũng đang có xu hướng tăng lên. Với điểm đến là những vùng thiên nhiên yên tĩnh, những hồ nước trong xanh, những vườn cây xoà bòng mát…du lịch câu cá là một loại hình du lịch hướng tới thiên nhiên, giúp con người nghỉ ngơi, thư giãn, giải toả căng thẳng, phục hồi sức khoẻ, đồng thời cũng giúp con người hoà nhập với thiên nhiên, khám phá thiên nhiên và khám phá chính bản thân mình. Do vậy loại hình này ngày càng được ưa chuộng. Là mảnh đất giàu tiềm năng du lịch, bên cạnh đó lại có lợi thế nằm cận kề thủ đô Hà Nội - một thị trường lớn, Hà Tây lâu nay đã đẩy mạnh khai thác du lịch sinh thái, đặc biệt là loại hình du lịch câu cá. Thời gian qua, với sự đầu tư đúng đắn cho loại hình du lịch sinh thái nói chung và du lịch câu cá nói riêng, du lịch Hà Tây đã thu được nhiều thành công và kinh nghiệm, đồng thời cũng bước đầu chứng tỏ là vùng đất có nhiều lợi thế để phát triển loại hình du lịch này. Tuy nhiên , cùng với những thành công đó, du lịch câu cá tại Hà Tây cũng cho thấy những hạn chế và phải đối mặt với những hậu quả từ việc khai thác các địa điểm câu cá một cách thiếu chuyên nghiệp, thiếu tổ chức, định hướng, gây lãng phí nguồn tài nguyên và giảm chất luợng của sản phẩm du lịch. Chính vì vậy, để du lịch câu cá thực sự trở thành một loại hình du lịch sinh thái theo đúng nghĩa, tạo được niềm tin và sự hài lòng trong du khách thì cần phải có sự quan tâm rất lớn của nhiều phía: các nhà quản lý du lịch, quản lý kinh tế xã hội, các nhà kinh doanh du lịch và khách du lịch. Những định hướng và giải pháp được trình bày trong khoá luận này còn chưa thật đầy đủ và cần được sự giúp đỡ bổ sung trong tương lai. Song, những ý kiến đó đã thể hiện một mong muốn đưa Hà Tây từng bước trở thành một điểm đến thức sự hấp dẫn đối với những du khách ham mê du lịch sinh thái- loại hình du lịch câu cá trong và ngoài nước.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34145.doc
Tài liệu liên quan