Khóa luận Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua

Với ưu thế là rút ngắn thời gian và chi phí so với việc nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài, đáng lẽ kho ngoại vàng phải rất hút khách. Nhưng thực tế, rất ít doanh nghiệp trong nước lấy vàng từ đây, nhà buôn quốc tế cũng không mấy mặn mà. Cả nước hiện có 2 kho ngoại quan vàng, ở Hà Nội và TP HCM. Kho TP HCM do SJC quản lý, tại Hà Nội do Công ty Vàng bạc Ngân hàng Nông nghiệp quản lý, cùng khai trương từ tháng 6. Ước tính nếu nhập hàng qua kho ngoại quan, phí vận chuyển và bảo hiểm giảm đến 40% so với việc nhập từ nước ngoài thông qua môi giới trung gian. Hơn nữa, thời gian nhập khẩu vàng của các doanh nghiệp cũng được rút ngắn. Muốn có khách gửi vàng, ngoài yếu tố giá cả, thủ tục, kho ngoại quan phải được bảo hiểm. Để làm được điều này thì phải dựa vào một công ty chuyên về kho ngoại quan của nước ngoài và trên thực tế việc ký kết được hợp đồng bảo hiểm kiểu này không phải đơn giản. Việc gửi vàng vào kho Hà Nội chủ yếu là các đầu mối kinh doanh lớn như Eximbank, Sacombank, ACB. Những khách hàng trên lại chính là các thành viên trong liên minh thành lập ra kho ngoại quan và chủ yếu chỉ kinh doanh chứ không phải tập trung nhiều vào sản xuất. Về lý thuyết chi phí nhập từ kho ngoại quan vàng thấp hơn so với nhập trực tiếp từ nước ngoài và thời gian cũng được rút ngắn đáng kể. Song nhiều doanh nghiệp lâu nay vẫn có các nguồn nhập riêng với giá rẻ hơn và thời gian thậm chí còn nhanh hơn. Một vấn đề với các kho ngoại quan nữa Việt Nam chưa cho phép xuất khẩu, vì vậy lượng vàng ra vào kho ngoại quan chưa nhiều. Trong kho hiện chỉ lưu vàng nhập khẩu. Ông Đinh Gia Bảng, đại diện Hiệp hội Vàng Việt Nam cho biết, hiệp hội đã nhiều lần kiến nghị Vụ Ngoại hối Ngân hàng Nhà nước bãi bỏ giấy phép nhập khẩu vàng và cho phép các doanh nghiệp được xuất khẩu mặt hàng này. Một điều quan trọng hơn cả, là do không được phép xuất khẩu nên thường xuyên xảy ra tình trạng xuất lậu vàng. Theo vị đại diện này, nếu không cho xuất khẩu vàng thì không thể tránh khỏi thực trạng "chảy máu vàng" như hiện nay. Đây là một thiệt hại lớn bởi Nhà nước sẽ không thu được thuế xuất khẩu. Thêm vào đó, khi xuất lậu sang nước khác, các doanh nghiệp thường xuất vàng nguyên liệu chứ không phải hàng đã qua chế tác, hay gia công nên không tạo công ăn việc làm được cho người lao động. Nếu có thể xuất khẩu, họ sẽ sản xuất, chế tác xong mới bán nên sẽ tạo thêm việc làm cho người lao động.

doc96 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 2171 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phân tích sự biến động của giá vàng Việt Nam trong thời gian qua, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đột biến về dầu đều kéo theo sự tăng giá tương ứng về vàng. Nguyên nhân chính dẫn đến đợt tăng giá của vàng và dầu năm 2006 chủ yếu là do sự căng thẳng về chính trị của Iran – nước sản xuất dầu mỏ đứng thứ hai của OPEC với sản lượng khoảng 2,5 triệu thùng/ngày và là nước xuất khẩu dầu mỏ đứng thứ 4 thế giới - khi nước này theo đuổi chương trình làm giàu Uranium. Sau khi Cơ quan năng lượng nguyên tử quốc tế (IAEA) báo cáo Iran không tuân theo yêu cầu ngưng làm giàu uranium của Hội đồng bảo an Liên hợp quốc và không cung cấp đầy đủ thông tin về chương trình hạt nhân của mình, Mỹ và châu Âu đã kêu gọi liên hợp quốc có hành động cứng rắn hơn với nước này. Iran đã phản ứng gay gắt với quyết định của liên hợp quốc và vẫn kiên quyết theo đuổi chương trình của mình. Tổng thống Iran đã tuyên bố sẽ không ngừng chương trình làm giàu uranium của mình vì cho rằng Iran đã bị ngăn cản quyền lợi đối với năng lượng nguyên tử và dọa cắt đứt hợp tác với IAEA. Trong khi đó, Hội đồng bảo an cũng khuyến cáo rằng nếu từ chối tuân thủ nghị quyết, Iran sẽ bị trừng phạt thông qua các biện pháp phi quân sự khác như cắt đứt quan hệ ngoại giao và kinh tế, giao thông vận tải và thông tin liên lạc. Những căng thẳng về chính trị ở Iran cộng với tình hình giá rét kéo dài ở Mỹ đã đẩy giá dầu thế giới lên cao mức kỷ lục trong vòng 20 năm qua và do đó cũng đẩy giá vàng vượt ngưỡng 700 USD/ounce. Sau khi đạt mức cao đỉnh điểm, giá dầu giảm xuống xấp xỉ bằng đầu năm. Đến đầu năm 2007, giá thế giới đánh dấu một bước ngặt lớn trong tốc độ tăng giá. Giá dầu thô đột nhiên tăng mạnh đặc biệt là từ cuối năm 2007 đến nay. Đến thời điểm này, giá dầu thô đã vượt xa ngưỡng 100 USD/thùng. Tại thị trường Mỹ ngày 22/5/08, giá dầu thô ngọt nhẹ giao tháng bảy leo lên mức 135,04 USD/thùng, trong khi giá dầu thô Brent tại London cũng lên đến 134,50 USD/thùng, đều là những mức giá cao nhất từ trước tới nay. Một trong những nguyên nhân quan trọng để giải thích sự tăng giá dầu trong thời gian vừa qua đó là giá dầu đang bị đầu cơ. Theo Fadel Gheit - nhà phân tích hàng đầu về nguyên liệu ở Công ty Oppenheimer & Company - giá dầu tăng chủ yếu do các nhà đầu tư tài chính “đầu cơ quá đáng” khi hai lần đẩy giá dầu thô vượt ngưỡng 100 USD/thùng trong vòng có vài tuần. Theo ông, “Cung và cầu không thể giải thích giá dầu cao như hiện nay”. Chủ tịch OPEC Mohammed al-Hamli, cũng đồng tình với nhận định của Gheit khi cho rằng kể từ đầu tháng 2, mức dầu OPEC bán ra đã vượt cầu. Đáng lý ra giá dầu phải hạ nhưng thực tế đã không diễn ra theo logic này. Dầu nằm trong tay các ngân hàng, các quỹ đầu tư tài chính, các quỹ hưu. Theo số liệu của Hạ viện Mỹ, các nhà đầu cơ Mỹ hiện nắm trong tay 45% hợp đồng mua bán dầu thô, gấp ba lần so với năm 2000. Đặc biệt các ông lớn như Ngân hàng Trung ương Đức, Morgan Stanley... mở rộng lượng mua bán hợp đồng cung cấp dầu. Ngân hàng Đầu tư Goldman thậm chí còn lập kho dự trữ dầu, hoạt động như một công ty năng lượng. Hậu quả là lượng mua bán dầu thô tăng gần gấp ba lần trong vòng 5 năm trở lại đây, trong khi nhu cầu dầu thô chỉ tăng 1,9%/năm. Theo báo cáo của tập đoàn xăng dầu lớn nhất thế giới Exxon Mobil, lợi nhuận năm 2007 lên tới 40,6 tỉ USD, một kỷ lục trong lịch sử kinh tế quốc tế. Chưa năm nào tập đoàn này thu lãi nhiều như vậy. Tóm lại, sự tăng giá dầu từ cuối năm 2007 đến nay có nguyên nhân chủ yếu là do sự mất giá của đồng USD, do khủng hoảng tài chính Mỹ và nguy cơ dẫn đến một cuộc khủng hoảng toàn cầu, nhu cầu nhập khẩu dầu lớn của thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, cộng thêm kế hoạch cắt giảm sản lượng dầu của OPEC – và sự thổi phồng về một cuộc khủng hoảng năng lượng trên toàn thế giới – đã đẩy giá dầu thô và giá vàng lên cao như vậy. Giá vàng thế giới đạt mức cao nhất cho đến nay là 1.032 USD/ounce vào ngày 17/3/2008. 2.2 Do sự sụt giảm của thị trường chứng khoán Việt Nam Thị trường vàng và thị trường chứng khoán có quan hệ mật thiết với nhau. Xét trên khía cạnh là hai thị trường thay thế để một nhà đầu tư bỏ vốn vào thì có thể nói sự vận động của hai thị trường này thường có xu hướng ngược nhau. Đặc điểm của vàng là có giá trị sử dụng thực rất cao và rất ổn định, nên khi nền kinh tế rơi vào trạng thái bất ổn, lạm phát tăng cao, rủi ro lớn trên thị trường tài chính, các công ty làm ăn thua lỗ, thị trường chứng khoán sụt giảm… thì nhà đầu tư có xu hướng rút tiền ra khỏi các thị trường tài chính đó để chuyển sang đầu tư vào vàng nhằm duy trì gía trị của đồng tiền qua cơn khủng hoảng. Do vậy, sự sụt giảm của thị trường chứng khoán toàn cầu cũng như của thị trường chứng khoán Việt Nam là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tăng giá vàng trong thời gian qua. Các nhà đầu tư luôn muốn sử dụng đồng tiền của mình một cách hiệu quả nhất nên họ thường di chuyển dòng vốn của mình vào thị trường tài chính nào mang lại lợi nhuận cao nhất với điều kiện rủi ro chấp nhận được. Khi thị trường chứng khoán bùng nổ vài năm trước đây, một lượng tiền rất lớn trong dân chúng đổ vào thị trường chứng khoán Việt Nam làm cho thị trường này trở nên sôi động, niềm tin của nhà đầu tư vào sự sinh lợi của đồng tiền mình bỏ ra đã đẩy giá cổ phiếu lên cao. Cuộc khủng hoảng tài chính của Mỹ dẫn đến sự sụt giảm nghiêm trọng trên thị trường chứng khoán thế giới nổ ra vào cuối năm 2007 đã ảnh hưởng đến thị trường chứng khoán Việt Nam. Tuy nhiên có sự khác biệt giữa sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán thế giới (đặc biệt là Mỹ) và sự sụt giảm trên thị trường chứng khoán Việt Nam. Thị trường chứng khoán thế giới – như Mỹ, Anh, Nhật, Xingapore… - ra đời từ lâu và đã đi vào vận động theo đúng quy luật của nó, nghĩa là những biến động lớn trên thị trường chứng khoán phản ánh sức khỏe của nền kinh tế, của các công ty tham gia vào thị trường chứng khoán đó. Vậy nhưng thị trường chứng khoán Việt Nam tuy ra đời từ năm 2000 nhưng để thực sự đi vào hoạt động với nhiều công ty niêm yết và sự tham gia của đông đảo các nhà đầu tư thì mới chỉ vài năm trở lại đây. Thị trường chứng khoán Việt Nam còn non trẻ. Nhiều người không có hoặc có rất ít kiến thức về thị trường này nhưng họ vẫn đầu tư, họ xem cổ phiếu công ty như một loại hàng hóa bình thường và họ nghĩ rằng có thể kiếm lời theo kiểu mua rẻ bán đắt. Vì không hiểu biết nhiều về thị trường nên các quyết định mua hay bán phụ thuộc vào yếu tố tâm lý, xu hướng của các nhà đầu tư khác tạo nên một quy luật tâm lý gọi là “tâm lý bầy đàn”. Điều này dẫn tới một nghịch lý là khi giá lên thì đổ xô nhau đi mua vì họ kỳ vọng là giá sẽ còn tăng và sẽ bán trong tương lai gần để kiếm lời, và khi giá xuống thì cùng nhau ồ ạt bán ra vì lo sợ giá sẽ còn xuống nữa. Do nhiều nhà đầu tư trên thị trường không kiếm soát được việc đầu tư của mình nên yếu tố tâm lý có vai trò ảnh hưởng rất lớn đến quyết định mua bán của nhà đầu tư, và do đó ảnh hưởng tới sự vận động của toàn thị trường. Cũng vì không kiểm soát cũng như đánh giá được hoạt động đầu tư của mình nên nhiều khi các nhà đầu tư đã đẩy thị trường lên cao hơn giá trị thực của nó nhiều lần – đó là lúc thị trường chứng khoán phát triển quá nóng – và cũng có khi đẩy thị trường xuống thấp hơn giá trị thực của nó. Đợt sụt giảm trên thị trường chứng khoán gần đây nhất từ hồi tháng 9 năm 2007 do cuộc khủng hoảng thị trường chứng khóan toàn cầu là một ví dụ điển hình. Thị trường chứng khóa tác động lên giá vàng không giống cách mà giá dầu thô thế giới tác động lên giá vàng. Mối tương quan giữa vàng và dầu rất lớn, khi giá dầu tăng thì gần như ngay lập tức kéo theo giá vàng tăng và ngược lại, khi giá dầu giảm thì cũng làm cho giá vàng giảm, tuy mức độ giảm còn phụ thuộc nhiều yếu tố. Nhưng cách thị trường chứng khoán tác động lên giá vàng có sự khác biệt. Vì nhà đầu tư di chuyển luồn tiền từ thị trường bất ổn, rủi ro lớn mà lại ít mang lại lợi nhuận sang thị trường tiềm năng hơn, hiện tượng này không thể diễn ra ngay tức thì được, và nó còn phụ thuộc vào yếu tố tâm lý của nhà đầu tư. Với nhiều nhà đầu tư, rút ra khỏi thị trường chứng khoán là một sự khó nhọc đối với họ thì một sự tăng nhẹ trở lại của thị trường chứng khoán cũng chưa chắc đã làm cho họ từ bỏ thị trường vàng để chuyển sang chứng khoán ngay được. Chỉ khi nào thị trường có sự phát triển mạnh mẽ thì mới có thể làm thay đổi dòng tiền của nhà đầu tư. Từ đồ thị ta thấy sự ảnh hưởng của thị trường chứng khoán lên giá vàng rõ nét nhất là từ đợt khủng hoảng trên thị trường chứng khoán toàn cầu tháng 9/2007. Đợt điều chỉnh này làm thức tỉnh các nhà đầu tư, giúp họ nhận ra được giá trị thực tế của những giấy tờ mà họ cầm trong tay. Khi thị trường đang giảm xuống quá mạnh và chưa thấy triển vọng đi lên đã làm nản lòng các nhà đầu tư. Nhiều nhà đầu tư mất niềm tin vào thị trường chứng khoán, họ đổ xô bán tống bán tháo cố phiếu khiến cho thị trường chứng khoán sụt giảm một cách nghiêm trọng. VN-Index giảm từ hơn 1.100 điểm vào giữa tháng 9/2007 xuống còn 400 điểm vào giữa tháng 5/2008 – giảm hơn 60%. Từ 10/2007 đến giữa tháng 5/2007, chỉ số HASTC-Index giảm 275 điểm (gần 70%) từ 400 xuống 125 điểm. Hầu như thị trường chứng khoán chỉ ảnh hưởng lớn đến quyết định đầu tư của nhà đầu tư trên thị trường vàng chỉ khi thị trường chứng khoán có những biến động lớn. Trong trường hợp này, lòng tin của người dân, của các nhà đầu tư vào thị trường chứng khoán - hay vào hoạt động động của công ty cũng như sự phát triển của nền kinh tế - bị giảm sút nghiêm trọng. Đây là một lý do chính khiến cho các nhà đầu tư trên thị trường chứng khoán rút tiền ra khỏi thị trường này để chuyển sang thị trường vàng khi thị trường vàng lúc này cũng đang phát triển mạnh và hấp dẫn. Tuy nhiên khi họ chuyển sang thị trường vàng, có nhiều yếu tố khác đã ảnh hưởng đến giá vàng trong nước. Như đã nói ở trên, khi mà các nhà đầu tư đã rút khỏi chứng khoán để đầu tư vào vàng khi niềm tin của họ vào nền kinh tế bị giảm sút thì lúc này những biến động nhỏ trên thị trường chứng khoán rất ít ảnh hưởng tới giá vàng trong nước. Tình hình thị trường chứng khoán vẫn chưa cải thiện nhiều và chưa có dấu hiệu phục hồi trong tháng 5/2008 nên dường như thị trường vàng vẫn thu hút được sự quan tâm lớn của các nhà đầu tư. 2.3 Do lạm phát Diễn biến chỉ số giá tiêu dùng của Việt Nam từ năm 2006 đến tháng 5 năm 2008 Chỉ số giá tiêu dùng CPI & chỉ số giá vàng so với năm 2005 Tháng 1/06 2/06 3/06 4/06 5/06 6/06 7/06 8/06 9/06 10/06 11/06 12/06 CPI 97.5 100.7 100.4 104.6 105.2 105.6 106 106.4 106.7 107 107.6 108.2 Vàng 96.6 103 112.2 133 156.1 147.4 142.7 146 141.8 137.4 139.8 144.3 tháng 1/07 2/07 3/07 4/07 5/07 6/07 7/07 8/07 9/07 10/07 11/07 12/07 CPI 109.3 111.7 111.4 112 112.8 113.8 114.9 115.5 116.1 117 118.4 121.9 Vàng 142.7 145.6 149.4 151 154.6 151.5 150.6 152.9 155.8 165.2 179.9 183.7 tháng 1/08 2/08 3/08 4/08 5/08 6/08 7/08 8/08 9/08 10/08 11/08 12/08 CPI 124.7 129.2 133 135.9 141.3 Vàng 193.1 204.5 217.6 213 204.7 (Nguồn số liệu: Tổng cục thống kê) Lạm phát là một trong những nguyên nhân dẫn đến sự tăng giá của vàng. Tuy nhiên sự ảnh hưởng của lạm phát lên giá vàng có điểm đặc biệt. Khi lạm phát lên cao, người dân có xu hướng không nắm giữ tiền giấy trong tay, thay vào đó là nắm giữ các tài sản khác không bị mất giá theo tiền giấy như vàng, bất động sản, đôla. Mặt khác, giá vàng Việt Nam bị chi phối lớn bởi giá vàng thế giới vì hàng năm Việt Nam nhập khẩu hơn 90% lượng vàng tiêu thụ.Vì ngoài vàng ra còn có các tài sản nắm giữ khác như đôla hay bất động sản… nên ảnh hưởng của lạm phát lên giá vàng chỉ thực sự rõ nét khi tình hình lạm phát trở thành vấn đề đáng lo ngại. Điều này giải thích tại sao có những thời điểm giá vàng thế giới đi xuống trong khi giá vàng Việt Nam vẫn tăng mạnh, đặc biệt là trong những tháng đầu năm 2008. Đó là sự tổng hợp của nhiều yếu tố trong đó đồng USD mất giá và lạm phát là hai nhân tố chỉnh đẩy giá vàng Việt Nam lên cao, Qua đó khẳng định giá trị và lòng tin của người dân đối với vàng vẫn còn rất lớn. 3. Tác động của sự biến động giá vàng đối với Việt Nam Đối với mặt hàng vàng, chỉ có nhóm vàng trang sức là thuộc rổ hàng hóa tính chỉ số giá tiêu dùng CPI, nhưng quyền số của nó rất nhỏ - chỉ chiếm 0,56%, nên đa số người dân bình thường không bị ảnh hưởng bởi giá vàng, giá cả các mặt hàng tiêu dùng bình thường cũng không bị ảnh hưởng. Tuy nhiên, việc giá vàng tăng trong thời gian qua đã có tác động mạnh đến tâm lý người dân, đặc biệt là ảnh hưởng đến các kênh đầu tư. Tại Việt Nam hiện nay, các nhà đầu tư tổ chức và cá nhân nhìn chung chia tài sản của mình thành các kênh đầu tư chính: vàng, ngoại tệ, bát động sản, gửi tiết kiệm tại các ngân hàng bằng VNĐ, thị trường chứng khoán và đầu tư sản xuất kinh doanh trực tiếp. Với mọi loại tài sản mà nhà đầu tư nắm giữ đều phải cân nhắc trên ba khía cạnh: tính thanh khoản, lợi ích kỳ vọng, và độ rủi ro. Khi so sánh giữa các loại tài sản khác nhau thì nếu một tài sản mà có tính thanh khoản tương đối lớn hơn các tài sản khác thì cầu về tài sản đó sẽ lớn hơn, tương tự như vậy khi một tài sản nào đó có lợi ích kỳ vọng lớn hơn thì các nhà đầu tư sẽ có xu hướng nắm giữ nó nhiều hơn và một tài sản có độ rủi ro càng nhỏ thì càng được ưa thích hơn. Tuy nhiên các yếu tố này có quan hệ mật thiết với nhau, thậm chí là đối ngược nhau. Tài sản có tính thanh khoản cao thường có độ rủi ro ít hơn vì có thể đem bán bất cứ lúc nào nhà đầu tư không muốn nắm giữ nó nữa. Một quy luật trong kinh tế là “rủi ro càng cao thì lợi nhuận càng lớn”. Người sẵn sàng chấp nhận rủi ro cao hơn thì họ sẽ nhận được lợi nhuận lớn hơn, phần lợi nhuận lớn hơn đó được xem như là cái giá của rủi ro mà họ nhận được. Như vậy rất khó một tài sản nào trên thị trường lại vừa có đầy đủ các yếu tố trên, nên khi quyết định đầu tư, các nhà đầu tư phải tính toán kỹ mức độ từng yếu tố đó, đánh đổi giữa các yếu tố đó để làm sao mang lại hiệu quả đầu tư cuối cùng là cao nhất. Đối với tài sản vàng cũng vậy, khi giá vàng biến động, họ sẽ phải tính toán kỹ càng để đưa ra quyết định có đầu tư hay không hay là chuyển sang thị trường khác tiềm năng hơn. 3.1 Thị trường ngoại tệ Hiện tại ở Việt Nam, mọi người nắm giữa ngoại tệ chủ yếu là đồng USD với hai lợi ích chính từ việc nắm giữ : sự tăng giá ổn định của đồng USD so với VNĐ, và lãi tiền gửi của USD tại ngân hàng. Tuy nhiên trong thời gian gần đây, với sự sụt giảm mạnh của đồng USD do cuộc khủng hoảng tín dụng ở Mỹ cuối năm 2007 buộc Fed phải liên tục cắt giảm lãi suất đối với đồng tiền này đã khiến cho tỉ giá VNĐ/USD giảm xuống, và tiền lãi gửi USD tại ngân hàng cũng vì thế mà giảm theo. Điều này dẫn đến sự chuyển dịch dòng vốn từ việc nắm giữ USD sang nắm giữ tài sản vàng của các nhà đầu tư trong thời gian qua. 3.2 Thị trường bất động sản Sự tăng mạnh của giá vàng trong thời gian vừa qua khiến cho thị trường bất động sản càng đóng băng bởi vì: Một là, giá nhà đất, đặc biệt là ở Miền Nam thường sử dụng vàng như là đơn vị đo giá trị, do đó sự biến động mạnh mẽ của giá vàng đã làm cho việc xác định giá cả của thị trường nhà đất trở nên khó khăn và có xu hướng biến động theo giá vàng. Hai là, dưới góc độ đầu tư, việc đầu tư vào bất động sản đòi hỏi một khối lượng tiền lớn nhưng tính thanh khoản lại kém, nhất là trong tình trạng hiện nay của thị trường nhà đất Việt Nam. Ba là, nếu dùng vốn tự có để đầu tư bất động sản thì sẽ dẫn tới hiện tượng đọng vốn lớn, còn nếu sử dụng vốn vay để đầu tư thì rủi ro cao do sức ép của lãi suất cao, rủi ro về giấy tờ và các chính sách của chính phủ đối với việc vay tiền để đầu tư bất động sản. Xét một cách tổng thể, kênh bất động sản trở nên ít hấp dẫn hơn so với đầu tư vào vàng, do đó đã có một sự dịch chuyển nhất định của các nhà đầu tư từ thị trường bất động sản sang thị trường vàng. 3.3 Thị trường chứng khoán Trong các kênh đầu tư trong mấy năm qua thì dường như đầu tư vào thị trường chứng khoán là mang lại nhiều lợi nhuận nhất mà cũng không đòi hỏi một lượng vốn quá lớn như khi đầu tư vào bất động sản. Vì vậy thị trường này đã thu hút được số lượng rất lớn các nhà đầu tư. Các nhà đầu tư đổ hết tiền bạc, của cải của mình, thậm chí có người còn bán vàng, bán đất, vay tiền của anh em họ hàng, đi vay ngân hàng… để đầu tư vào thị trường chứng khoán. Thế nhưng khi thị trường chứng khoán Việt Nam sụt dốc do ảnh hưởng của cuộc khủng hoảng trên thị trường chứng khoán thế giới từ cuối năm 2007 thì các nhà đầu tư lại ồ ạt bán cổ phiếu để rút ra khỏi thị trường. 3.4 Việc huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng Những biến động giá vàng thế giới và trong nước cũng đã ảnh hưởng nhất định đến tình hình huy động vốn và cho vay nền kinh tế của hệ thống ngân hàng. Huy động bằng vàng, bảo đảm bằng vàng: Trong các năm qua, nhiều tổ chức tín dụng ở nước ta đã thực hiện huy động và sử dụng vốn bằng vàng, bằng VNĐ đảm bảo theo giá vàng. Từ cuối năm 2005, do giá vàng trong nước và quốc tế biến động mạnh nên người dân đã chuyển từ gửi tiết kiệm và mua chức chỉ VNĐ bảo đảm giá trị theo giá vàng sang hình thức mua chứng chỉ bằng vàng. Cho vay bằng vàng, bảo đảm bằng vàng: theo thói quen định giá nhà đất bằng vàng nên một lượng vốn lớn bằng vàng được chuyển hóa để đầu tư vào thị trường bất động sản, khi giá vàng biến động thất thường, làm cho các giao dịch của một bộ phận thị trường bất động sản bị trì trệ, những người vay vàng để kinh doanh, mua nhà cửa gặp rủi ro lớn, nhu cầu của người dân và doanh nghiệp vay vàng để đầu tư bất động sản và kinh doanh giảm mạnh, rủi ro các khoản cho vay bằng vàng có nguy cơ tăng lên. 3.5 Hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế Một nền kinh tế dự trữ nhiều vàng sẽ làm cho giá vàng chi phối mục đích đầu tư của người dân. Nghĩa là một bộ phận tiền tiết kiệm của dân cư sẽ được đưa vào dự trữ vàng. Và để thỏa mãn nhu cầu vàng này phải nhập khẩu vàng từ nước ngoài vào. Lúc này vàng trở thành phương tiện cất trữ giá trị trong nền kinh tế, thay vì tiền giấy pháp định làm chức năng này. Lưu thông vàng và ngoại tệ thay vì tiền giấy pháp định trong nền kinh tế là hoàn toàn không có lợi. Bởi vì, chúng ta có thể sử dụng vàng và ngoại tệ đó để đầu tư cho nền kinh tế, mua sắm thêm máy móc thiết bị, xây dựng thêm đường sá… để phát triển nền kinh tế, nhưng chúng ta đã không làm điều đó được, trong lúc nước ta lại đang phải đi vay ngoại tệ từ nước ngoài. Một số nguyên nhân chính của vấn đề này là: Thứ nhất, người dân sử dụng vàng để tích trữ giá trị là bởi vì vàng ít biến động về sức mua trong sự so sánh với các loại hàng hóa có giá trị khác trên thị trường. Điều này làm cho người cất trữ giá trị bằng vàng yên tâm là giá trị mà mình cất trữ không bị hao hụt. Đây là quy luật của lưu thông tiền tệ: Tiền xấu đuổi tiền tốt ra khỏi lưu thông, tiền tốt đi vào cất trữ và tiền xấu đi vào lưu thông. Điều thứ hai là khi những người tiết kiêm luôn đầu tư các khoản tiết kiệm của mình vào vàng hay ngoại tệ, thì điều đó có nghĩa là họ không biết đầu tư vào cái gì có lợi hơn là đầu tư vào vàng và ngoại tệ. Trong nền kinh tế nước ta hiện nay người tiết kiệm chủ yếu gửi khoản tiết kiệm vào ngân hàng, mua vàng, một số ít mua ngoại tệ, và gần đây là đầu tư vào thị trường chứng khoán, bất động sản. Ở các nước phát triển, đầu tư tiền tiết kiệm của dân cư chủ yếu vào lĩnh vực bảo hiểm, sau đó là đầu tư vào các giấy tờ có giá, chứng chỉ tiền gửi, cuối cùng mới đầu tư vào cố phiếu, vào sản xuất kinh doanh và các sản phẩm phải sinh khác. Như vậy, do hai nhu cầu tích trữ và đầu tư mà người tiết kiệm nhỏ đã dồn khoản tiết kiệm của mình vào vàng và ngoại tệ, vì họ nghĩ rằng cất trữ bằng nội tệ sẽ không bảo vệ được giá trị cất trữ nếu nội tệ mất giá. Hậu quả là, khi người dân đầu tư vào vàng và ngoại tệ nhiều thì tiền gửi ngân hàng bằng nội tệ sẽ bị giảm đi, buộc các ngân hàng phải tăng lãi suất để thu hút tiền gửi tiết kiệm nội tệ. TĂng lãi suất tiền gửi tiết kiệm không có lợi cho phát triển kinh tế, vì nhà kinh doanh phải chịu áp lực trả lãi tiền vay cao. Trong điều kiện mà các ngân hàng thương mại cho vay chủ yếu bằng nguồn gửi tiết kiệm có lãi suất cao, thì thựuc sự là một vấn đề của nền kinh tế. Trong đó, sự tăng giá của vàng và ngoại tệ sẽ luôn là nguyên nhân thúc đẩy tăng lãi suất tiền gửi. Trong nền kinh tế Việt Nam hiện nay, đất đai là một tài sản luôn hấp dẫn đối với nhiều nhà đầu tư vì nó có lợi tức cao. Do đó khoản cân đối tiền – hàng giữa vàng, ngoại tệ với đất đai và nhà tăng lên nhanh mà giá các loại hàng hóa khác không tăng lên hoặc tăng chậm. Cất giữ vàng, ngoại tệ, đất đai, nhà cũng là loại cất trữ thường được yêu thích đối với những khoản thu nhập bất chính như tham ô, buôn lậu… Trong nền kinh tế có nhiều khoản thu nhập không minh bạch thì nhu cầu về vàng, ngoại tệ, đất đai, nhà tăng lên nhanh do nhu cầu cất trữ giá trị tăng, chứ không phải do nhu cầu tiêu dùng, nhu cầu sử dụng tăng. Một điều đáng chú ý khác là khi các nhà đầu tư trong nước nghiêng về đầu tư vào đất đai, vàng, ngoại tệ, thì những nhà đầu tư nước ngoài lại nghiêng về đầu tư vào sản xuất và thương mại. Hậu quả là sẽ có nhiều doanh nghiệp do người nước ngoài làm chủ, người trong nước chỉ làm chủ vàng, ngoại tệ, đất đai và nhà. Tóm lại, vàng là một kênh đầu tư, nhưng là xét theo người đầu tư, song không trực tiếp đầu tư cho sản xuất kinh doanh, nên không tạo ra giá trị tăng thêm để tính vào tăng trưởng kinh tế, thậm chí còn bị “chôn” dưới dạng “vàng bỏ ống”. Mỗi năm nước ta nhập khẩu khoảng trên dưới 60 tấn vàng, tính theo giá bán hiện tại lên đến gần 30,6 nghìn tỷ đồng, hay trên 1,9 tỷ USD. Một lượng vốn lớn như vậy đang nằm trong dân đã không được đưa ra để đầu tư trực tiếp cho tăng trưởng kinh tế. CHƯƠNG III. DỰ BÁO GIÁ VÀNG TRONG THỜI GIAN TỚI VÀ MỘT SỐ GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN THỊ TRƯỜNG VÀNG VIỆT NAM 1. Dự báo giá vàng trong thời gian tới 1.1 cơ sở dự báo 1.1.1 Tình hình thế giới 1.1.1.1. Triển vọng kinh tế Mỹ Nền kinh tế Mỹ đã có dấu hiệu bắt đầu phục hồi sau cơn khủng hoảng Theo số liệu tháng 5/2008, các chuyên gia khẳng định kinh tế Mỹ đang vượt qua đà suy thoái và có thể thoát khỏi khủng hoảng, bất chấp sự yếu kém của thị trường địa ốc, khan hiếm tín dụng và giá năng lượng leo thang. Mặc dù đang hứng chịu những tác động tiêu cực của ba ''cú sốc'' lớn, đó là thị trường nhà ở suy giảm, căng thẳng tín dụng và giá năng lượng leo thang, kinh tế Mỹ vẫn có thể vượt lên với khả năng phục hồi nhanh và chính sách ứng phó tích cực, linh hoạt cùng sự tăng tốc của nền kinh tế toàn cầu. Theo dự đoán của các chuyên gia kinh tế, kinh tế Mỹ sẽ đạt tốc độ tăng trưởng 1,0% trong quý II và 2,0% trong quý III năm nay sau khi chỉ dừng ở mức tăng 0,6% ở hai quý trước đó. Trong quý IV/2008, tốc độ tăng trưởng của Mỹ sẽ hạ nhiệt xuống còn 1,5% nhưng có thể trở lại mức 2,0% trong quý đầu năm sau. Doanh số bán lẻ tháng Tư tăng 0,5% là dấu hiệu cho thấy người tiêu dùng Mỹ đã bắt đầu nới lỏng ''hầu bao'' và tăng chi tiêu, vốn được coi là xương sống của hoạt động kinh tế Mỹ. Hơn nữa, vào đầu tháng 6/2008, khoản hoàn thuế 107 tỷ USD của Chính phủ - một phần trong chương trình kích thích kinh tế cả gói trị giá 168 tỷ USD sẽ đến tay người dân – điều này sẽ góp phần kích cầu tiêu dùng, tăng triển vọng cho nền kinh tế trong thời gian tới. Các nhà phân tích thị trường nhận định trong tháng 4/2008, số công trình nhà ở được động thổ ở Mỹ đã tăng 8,2%, lên hơn 1 triệu công trình. Thị trường lao động cũng khởi sắc với những chỉ số cao hơn dự báo, và kim ngạch xuất khẩu tăng do đồng USD yếu đã góp phần củng cố tăng trưởng. Trong khi đó, thị trường chứng khoán Mỹ đã bắt đầu hồi phục từ giữa tháng Ba với các khoản hỗ trợ tài chính kịp thời của Ngân hàng Dự trữ trung ương Mỹ (FED), cụ thể là trong vụ ''giải cứu'' Ngân hàng đầu tư Bear Stearns, được giới tài chính coi là một bước ngoặt trong cuộc khủng hoảng tín dụng. 1.1.1.2 Xu hướng đồng USD Đồng USD có vai trò lớn trong thương mại quốc tế và là đồng tiền dự trữ của hầu hết các quốc gia trên thế giới. Vai trò của đồng đôla được khẳng định qua một thời gian dài của lịch sử, kể cả trong các đợt biến động lớn của nền kinh tế toàn cầu. Trong thời gian gần đây, chính trị và kinh tế Mỹ có biến động, đặc biệt là khủng hoảng tín dụng cho vay mua nhà thế chấp dưới chuẩn, ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của các ngân hàng, qua đó làm giảm giá đồng Đôla trên toàn thế giới. Tuy nhiên, nền kinh tế Mỹ đã có những dấu hiệu bước qua khỏi cuộc khủng hoảng và bắt đầu phục hồi trở lại do những quyết định điều chỉnh của FED nhằm bơm thêm tiền vào nền kinh tế, kích thích sản xuất, tiêu dùng. Đồng thời chính phủ Mỹ cũng có những chính sách nhằm ngăn chặn nguy cơ suy thoái, cụ thể là kế hoạch trọn gói 168 tỷ USD của chính quyền Bush. Trong tuyên bố cắt giảm lãi suất hôm 18/3 vừa rồi, FED có nhấn mạnh đến vấn đề lạm phát. Thị trường ngay lập tức cho rằng, đây là dấu hiệu cho thấy có thể FED sẽ không tiếp tục cắt giảm lãi suất, hoặc có cắt giảm thì cũng ít mạnh tay hơn. Điều này khiến đồng USD phục hồi và vàng rớt giá mạnh. Đây là những nhân tố tích cực làm cho đồng USD lấy lại được giá trị của mình. Và trên thực tế USD đã tăng giá trở lại. 1.1.1.3 Quan hệ cung cầu về vàng Nhìn chung nguồn cung vàng trên thế giới ít biến động, khoảng 2.500 tấn/năm. Cũng vì lý do nguồn cung vàng ổn định nên giá trị của vàng mới giữ được mức ổn định như vậy trong suốt quá trình lịch sử. Tuy nhu cầu vàng cho các ngành công nghiệp sử dụng kim loại vàng ở các nước như Trung Quốc, Nhật Bản tăng lên nhưng trình độ tái chế vàng từ các sản phẩm đó cũng phát triển. Vì vậy nhu cầu vàng cũng giảm bớt một phần. Một đặc điểm quan trọng khác của vàng nữa là vàng được sản xuất ra nhằm mục tiêu chủ yếu là để cất giữ. Ở dạng trang sức hay vàng thỏi… thì vàng vẫn được lưu trữ lại, nghĩa là số lượng vàng trên thế giới ngày một tăng thêm – điểm này khác biệt so với hàng hoá đặc biệt khác cùng biến động giá cả với vàng, đó là dầu thô. Dầu được khai thác lên sẽ được tiêu thụ hết, nghĩa là không có tính tích lũy. Điều này tiềm ẩn một nguy cơ biến động rất cao khi quan hệ cung cầu thay đổi. Thế nhưng đối với vàng, do có tính tích lũy nên biến động cung cầu trong ngắn hạn nếu xét trên phạm vi toàn thế giới thì không ảnh hưởng lớn đến giá nhiều. Vì vậy, các nhà phân tích kinh tế mới cho rằng giá vàng mới là chỉ tiêu tin cậy để đánh giá tình hình lạm phát chứ không phải giá dầu. Tuy nhiên nếu xét trên phạm vi một quốc gia nhỏ mà thị trường vàng chưa phát triển đầy đủ và lớn mạnh như Việt Nam thì quan hệ cung cầu trong ngắn hạn sẽ ảnh hưởng lớn đến giá vàng. 1.1.1.4 Giá dầu thế giới Giá dầu cao trong thời gian vừa qua chủ yếu là do hiện tượng đầu cơ dữ dội trên thị trường và do sự mất giá của đồng USD, do khủng hoảng tài chính Mỹ và nguy cơ dẫn đến một cuộc khủng hoảng toàn cầu, nhu cầu nhập khẩu dầu lớn của thế giới, đặc biệt là Trung Quốc, cộng thêm kế hoạch cắt giảm sản lượng dầu của OPEC – và sự thổi phồng về một cuộc khủng hoảng năng lượng trên toàn thế giới – đã đẩy giá dầu thô và giá vàng lên cao như vậy. Tuy nhiên những yếu tố tác động làm cho giá dầu tăng cao hiện nay đã có những chuyển biến tích cực. Đồng Đôla Mỹ dần lấy lại giá trị của mình, kinh tế Mỹ đã bước qua giai đoạn khó khăn nhất và bắt đầu có dấu hiệu phục hồi. OPEC – tổ chức cung ứng 40% sản lượng dầu cho thị trường thế giới – không cắt giảm sản lượng như dự kiến năm 2007 tuy nhiên cũng không tăng sản lượng do tổ chức này nhận định giá dầu thế giới tăng cao không phải là do quan hệ cung cầu mà chủ yếu là do USD yếu và đầu cơ. Vì vậy OECD đã có nhiều động thái tích cực để cải thiện tình hình giá dầu, họ cũng lo ngại rằng nếu giá dầu tăng quá cao thì nhiều nước có thể sẽ giảm tiêu thụ dầu, chuyển sử dụng năng lượng dầu sang dạng năng lượng khác, điều này làm ảnh hưởng đến doanh thu của OPEC. Đặc biệt OPEC kêu gọi Mỹ có chính sách thích hợp để lấy lại giá trị của đồng USD, một số nước trong tổ chức đã đề xuất thay đồng USD bằng EURO trong việc định giá dầu. Tuy nhiên đây mới chỉ là đề xuất một số nước, nếu tình hình USD được cải thiện thì USD vẫn là đồng tiền tính giá cho dầu mỏ. Ngoài ra, tình hình kinh tế thế giới năm 2008 có phần giảm xuống, theo dự báo của IMF thì tốc độ phát triển của hầu hết các nước đều giảm so với năm 2007 làm cho nhu cầu về dầu cũng giảm xuống. Như vậy có thể nhận định giá dầu trong thời gian tới sẽ không tăng mạnh, và trong trung và dài hạn sẽ giảm xuống do tình hình thế giới ổn định trở lại. 1.1.2 Tình hình trong nước Chủ yếu giá vàng Việt Nam sẽ vận động theo xu hướng của giá vàng thế giới. Tuy nhiên cũng có một số điểm khác so với giá vàng thế giới. 1.1.2.1 Kế hoạch xây dựng một sàn giao dịch vàng quốc gia Hiện Việt Nam đã trở thành quốc gia có số người tham gia đầu tư vàng đứng đầu thế giới. Do vậy cần phải có một sàn giao dịch vàng mang tầm quốc gia để đáp ứng nhu cầu của thị trường. Còn nếu cứ tiếp tục để thị trường giao dịch tự do thì chắc chắn nhà đầu tư cũng như thị trường vàng trong nước sẽ gặp nhiều rủi ro. Hiện Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đang tập trung nghiên cứu kinh nghiệm của các sàn giao dịch vàng quốc tế đang hoạt động hiệu quả, kết hợp với nghiên cứu tình hình giao dịch của thị trường vàng trong nước và các cơ chế pháp luật hiện hành để sớm cho ra đời một sàn giao dịch vàng quốc gia. Trước mắt, sẽ thành lập sàn giao dịch vàng ở Hà Nội và Tp.HCM. Điểm khác biệt lớn nhất so với các sàn giao dịch nhỏ lẻ là không phải do một doanh nghiệp, một đơn vị tổ chức mà là do nhiều ngân hàng thương mại, nhiều doanh nghiệp hoạt động kinh doanh vàng tham gia. Hoạt động của sàn giao dịch độc lập, không phụ thuộc hoặc hoạt động vì lợi ích của riêng một doanh nghiệp mà chủ yếu là làm dịch vụ, hoàn toàn không có sự cạnh tranh kinh doanh giữa các hội viên, các doanh nghiệp. Sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ do Hiệp hội Kinh doanh vàng Việt Nam đứng ra thành lập và chịu trách nhiệm, do đó, việc khớp giá ở sàn giao dịch vàng quốc gia, tỷ giá hình thành trên thị trường vàng Việt Nam, giá mua cũng như giá bán sẽ được minh bạch và khách quan nhất. Sàn giao dịch sẽ có dịch vụ mua bán có kỳ hạn và thực hiện các công cụ phái sinh để phòng ngừa các rủi ro khi thị trường vàng thế giới biến động bất thường. Trường hợp cần thiết, sàn giao dịch có thể sẽ cấp tín dụng hoặc đáp ứng các nhu cầu vàng vật chất cho nhà đầu tư. Nhà đầu tư sẽ được tính giá mua, giá bán trên cơ sở khớp giá hàng ngày của nhiều người mua, nhiều người bán, nếu lượng khách giao dịch càng lớn sẽ phản ánh giá mua và giá bán càng khách quan hơn. Lợi ích đối với các cơ quan quản lý Nhà nước sẽ là rất lớn. Nếu hình thành được sàn giao dịch vàng quốc gia sẽ hạn chế được lượng giao dịch không chính thức, tránh được những rủi ro không đáng có. Thông qua đó, cơ quan quản lý cũng nắm được lượng cung, cầu của thị trường vàng, cung cầu ngoại tệ liên quan đến vàng cũng như lượng tiền giao dịch trên thị trường vàng một cách chính xác, chủ động hơn, để có những điều tiết kịp thời khi biến động xảy ra. Ngoài ra, qua sàn giao dịch này, Ngân hàng Nhà nước sẽ có cơ sở để ban hành các quy chế cần thiết cho việc quản lý thị trường vàng. Để giúp cho hoạt động của sàn giao dịch vàng linh hoạt hơn, bảo đảm lợi ích cho nhà đầu tư, Ngân hàng Nhà nước nên ban hành quy chế kinh doanh vàng trên tài khoản. Đây có thể coi là điều kiện tiền đề bởi nếu không có quy chế này thì nghiệp vụ phái sinh để hạn chế rủi ro sẽ không thực hiện được. Mặt khác, quy chế này ra đời sẽ hạn chế được rất nhiều chi phí cho nhà đầu tư, còn Nhà nước thì có thể huy động được nguồn vốn từ đây để đầu tư cho phát triển, tiết kiệm được ngoại tệ. Tuy nhiên, cái khó là phải làm sao vừa phải bảo đảm lợi ích cho nhà đầu tư, vừa phải phát triển sàn theo đúng định hướng của Chính phủ, bảo đảm tính minh bạch và hạn chế các yếu tố đầu cơ, trong điều kiện chúng ta chưa có một cơ chế, chính sách nào về hình thành và quản lý sàn giao dịch vàng. Chính vì vậy, khi đi vào hoạt động, sàn giao dịch vàng quốc gia cần phải được hưởng những chính sách thỏa đáng để tạo điều kiện cho thị trường phát triển ổn định với đúng nghĩa là một thị trường dịch vụ nhưng vẫn bảo vệ được lợi ích cho nhà đầu tư và cơ quan quản lý. Và nếu sàn hoạt động tốt sẽ góp phần kiểm soát thị trường tiền tệ. Quy chế về sàn giao dịch vàng hiện chưa có. Ngân hàng Nhà nước mới chỉ quản lý vàng trong quan hệ xuất nhập khẩu. Cùng với việc đề nghị cho phép thành lập sàn giao dịch vàng quốc gia, Hiệp hội cũng đã đề nghị Ngân hàng Nhà nước ban hành quy chế về việc kết nối giữa các sàn giao dịch nhỏ với sàn giao dịch quốc gia. Việc đồng ý kết nối hay không và trong trường hợp nào sẽ được quy định cụ thể trong quy chế và theo sự định hướng của nhà nước. (kiến nghị) 1.1.2.2 Thuế xuất nhập khẩu vàng – kho ngoại quan vàng Bộ Tài chính đã quyết định tăng thuế nhập khẩu vàng (29/2008/QĐ-BTC) từ 0,5% lên 1% đối với tất cả các dạng sản phẩm vàng chưa gia công hoặc ở dạng bán thành phẩm hoặc ở dạng bột. Đây là một biện pháp của chính phủ nhằm giảm tình trạng nhập siêu, hạn chế lạm phát của Việt Nam. Kết hợp với kế hoạch xây dựng sàn giao dịch vàng và kho ngoại quan vàng tại sân bay Nội Bài - Hà Nội và sân bay Tân Sơn Nhất - TP HCM đã đi vào hoạt động (tháng 6 năm 2007) sẽ giúp bình ổn giá vàng trong nước. Kho Ngoại quan vàng hoạt động sẽ giúp doanh nghiệp sản xuất, kinh doanh vàng - hàng trang sức rút ngắn thời gian nhập khẩu vàng từ 2-3 ngày xuống còn 0,5 - 1 ngày. Ngoài ra, cước phí vận chuyển, bảo hiểm nhập khẩu vàng cũng giảm từ 1 - 1,1 USD/1ounce xuống còn 0,6 - 0,7 USD/1ounce (giảm 40%). Theo đánh giá từ các chuyên gia, Kho ngoại quan vàng đầu tiên ra đời sẽ hỗ trợ đắc lực trong việc can thiệp bình ổn thị trường vàng trong nước. Nó cũng góp phần giúp doanh nghiệp có thể nhập khẩu và có ngay vàng nhận từ Kho ngoại quan bán can thiệp thị trường kịp thời. 1.1.2.3 Lạm phát Lo ngại về lạm phát là một trong những nguyên nhân quan trọng dẫn đến tình trạng người dân ồ ạt đi mua vàng tích trữ, đẩy giá vàng lên cao ở Việt Nam trong thời gian qua. Lạm phát không chỉ tác động đến thị trường vàng mà còn tác động lớn đến toàn bộ nền kinh tế, ảnh hưởng trực tiếp đến hoạt động sản xuất kinh doanh và đến đời sống của người dân, đặc biệt là những người có thu nhập trung bình và thấp. Vì vậy chính phủ đã đề ra những biện pháp quyết liệt để kìm chế hiện tượng này và giảm tác động xấu của nó. Cụ thể là Chính đề ra bảy biện pháp để kiềm chế lạm phát: Thực hiện chính sách tiền tệ thắt chặt. Điều hành chính sách tiền tệ là vấn đề rất quan trọng trong việc giảm áp lực tăng lạm phát. Một số biện pháp chủ yếu Ngân hàng Nhà nước thực hiện: nới lỏng tỷ giá hối đoái để giảm áp lực đối với dòng vốn từ bên ngoài vào, tức là giảm áp lực cung ứng tiền để mua ngoại tệ. Tăng tỷ lệ dự trữ bắt buộc để hạn chế tăng trưởng tín dụng ở mức trên dưới 30%. Phát hành tín phiếu hay hối phiếu của Ngân hàng Trung ương để hút tiền từ lưu thông về. Tăng cường thanh tra giám sát về cung ứng tín dụng trong khu vực bất động sản và chứng khoán. Cắt giảm đầu tư công và chi phí thường xuyên của các cơ quan sử dụng ngân sách, kiểm soát chặt chẽ đầu tư của các doanh nghiệp nhà nước, cố gắng giảm tỷ lệ thâm hụt ngân sách. Tập trung sức phát triển sản xuất công nghiệp, nông nghiệp, khắc phục nhanh hậu quả của thời tiết và dịch bệnh để tăng sản lượng lương thực, thực phẩm. Bảo đảm cân đối cung cầu về hàng hoá, đẩy mạnh xuất khẩu, giảm nhập siêu. Cân đối cung cầu về hàng hoá, nhất là các mặt hàng thiết yếu cho sản xuất và đời sống nhân dân là tiền đề quyết định để không gây ra đột biến về giá, ngăn chặn đầu cơ. Thủ tướng Chính phủ, các bộ trưởng đã và sẽ tiếp tục làm việc với các hiệp hội ngành hàng, các doanh nghiệp kinh doanh các mặt hàng thiết yếu, như: lương thực, thực phẩm, thuốc chữa bệnh, xăng dầu, sắt thép, vật liệu xây dựng, phân bón... giao nhiệm vụ cho các đơn vị này phải bảo đảm nguồn hàng, đồng thời có trách nhiệm cùng Chính phủ kiềm giữ giá cả. Triệt để tiết kiệm trong sản xuất và tiêu dùng Tăng cường công tác quản lý thị trường, kiểm soát việc chấp hành pháp luật nhà nước về giá Mở rộng việc thực hiện các chính sách về an sinh xã hội 1.2 Dự báo giá vàng VN trong trung và dài hạn Dự báo giá vàng trong ngắn hạn là một vấn đề hết sức phức tạp và thay đổi hằng ngày do trong ngắn hạn giá cả biến động phụ thuộc vào nhiều yếu tố đặc biệt là yếu tố tâm lý. Để dự đoán được giá vàng trong ngắn hạn thì phải dựa nhiều vào phân tích kỹ thuật và theo dõi sát sao tình hình diễn biến của thị trường. Giá cả trong ngắn hạn biến đổi thất thường, có thể nay lên mai xuống, nhưng đằng sau nó, xu hướng vận động giá cả trong trung và dài hạn lại mang tính quy luật. Trong trung và dài hạn, giá vàng phụ thuộc vào các yếu tố cơ bản như: giá trị của vàng, quan hệ cung cầu, sức mạnh của đồng USD, mức độ rủi ro của thị trường (lạm phát, chính trị…), giá dầu thô thế giới, sự phát triển của các thị trường thay thế (thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản)… Qua phân tích những cơ sở trên ta nhận thấy trong trung và dài hạn, các yếu tố ảnh hưởng đến giá vàng đó có xu hướng quay lại quỹ đạo, trở về vị trí cân bằng đúng với giá trị của nó. Vì vậy giá vàng trong trung và dài hạn sẽ giảm nhiệt so với cơn sốt như hiện nay, tuy nhiên mức ổn định của nó sẽ ở mức cao hơn so với trước lúc xảy ra cơn sốt giá. Trong trung và dài hạn, mức giá vàng có thể sẽ dao động trong khoảng 700 đến 900 USD/ounce. Cũng cần phải nói thêm về quy luật giá trị. Mặc dù trong ngắn hạn giá cả chịu ảnh hưởng nhiều bởi quan hệ cung cầu, nhưng theo quy luật giá trị thì giá cả trong trung và dài hạn sẽ dao động lên xuống nhưng vẫn xoay quanh giá trị của nó. Quy luật này dùng để giải thích cho sự biến động của cả giá vàng và giá dầu. Nếu giá dầu đạt mức cao, vượt quá giá trị thực tế mà nó mang lại khi đem vào sản xuất sẽ dẫn đến người tiêu dùng sẽ hạn chế, giảm sử dụng dầu, thay vào đó sẽ tìm và sử dụng nguồn năng lượng khác hiệu quả hơn – đây cũng là một mối lo ngại của OPEC. Và nếu người tiêu dùng chưa tìm ra được nguồn năng lượng nào thay thế thì có thể họ sẽ giảm tiêu dùng, giảm sản xuất. Trên quy mô rộng nó có thể dẫn đến sự trì trệ của nền kinh tế thế giới. Như vậy khi giá dầu lên quá cao thì nhu cầu tiêu dùng dầu thực sự giảm xuống kéo theo sự giảm giá của mặt hàng này. Với vàng cũng tương tự như vậy. Nếu giá vàng vượt quá giá trị của nó, thì một nguy cơ chắc chắn là nó sẽ giảm giá trong tương lai, nghĩa là những ai mua vàng tại thời điểm này sẽ có nguy cơ rủi ro rất cao. Điều này cũng làm giảm nhu cầu mua vàng để đầu cơ và tích trữ, sản xuất, kéo theo sự giảm giá của vàng. Sự hình thành và phát triển một thị trường vàng lớn mạnh, minh bạch trong đó các quy luật giá trị, quy luật cung cầu, quy luật cạnh tranh được phát huy sẽ làm cho thị trường vàng Việt Nam ổn định hơn, dễ dự đoán hơn và là một công cụ hiệu quả để chính phủ điều hành chính sách tiền tệ của mình. 2. Một số biện pháp phát triển thị trường vàng Việt Nam Thị trường vàng Việt Nam phát triển rất nóng trong thời gian vừa qua do tác động tổng hợp của nhiều yếu tố khách quan và chủ quan, cả trong và ngoài nước và cũng đã bộc lộ một số vấn đề cần được quan tâm và khắc phục. Thị trường vàng là một bộ phận của nền kinh tế, bị ảnh hưởng bởi hoạt động kinh tế của đất nước, vì vậy các biện pháp góp phần làm bình ổn và phát triển nền kinh tế như kiềm chế lạm phát, phát triển thị trường chứng khoán, bất động sản…. đồng thời cũng là biện pháp bình ổn và phát triển thị trường vàng. Ngoài ra có một số biện pháp tác động trực tiếp lên thị trường vàng như triển khai kế hoạch xây dựng sản giao dịch vàng quốc gia hay việc quản lý chặt chẽ hơn nạn kinh doanh buôn bán vàng bất hợp pháp qua mạng. 2.1 Kiềm chế lạm phát Như chúng ta đã bàn ở trên, lạm phát có ảnh hưởng rất lớn tới toàn bộ nền kinh tế, tới hoạt động sản xuất kinh doanh, tới tiêu dùng của người dân. Khi nền kinh tế có nhiều biến động, lạm phát tăng cao, rủi ro lớn khi bỏ đồng vốn ra để đầu tư, vì vậy hình thành xu hướng chuyển dòng tiền đầu tư của mình sang vàng để tích trữ đẩy giá vàng lên cao đồng thời cũng xuất hiện nhiều nhà đầu cơ trên thị trường nhằm chuộc lợi từ việc chênh lệch giá vàng. Điều này lại càng làm cho nền kinh tế suy giảm vì số tiền đầu tư cho hoạt động sản xuất kinh doanh giảm – mà hoạt động sản xuất kinh doanh chính là cái cốt lõi tạo ra của cải vật chất cho xa hội, trong khi việc lưu trữ vàng không hề tạo ra của cải tăng thêm cho xã hội. Do đó kiềm chế lạm phát là một trong những ưu tiên hàng đầu của chính phủ trong giai đoạn hiện nay. Chính phủ đã đưa ra và đang thực hiện 7 biện pháp kiềm chế lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, bảo đảm an sinh xã hội và tăng trưởng bền vừng. 2.2 Phát huy hiệu quả của kho ngoại quan vàng Với ưu thế là rút ngắn thời gian và chi phí so với việc nhập khẩu trực tiếp từ nước ngoài, đáng lẽ kho ngoại vàng phải rất hút khách. Nhưng thực tế, rất ít doanh nghiệp trong nước lấy vàng từ đây, nhà buôn quốc tế cũng không mấy mặn mà. Cả nước hiện có 2 kho ngoại quan vàng, ở Hà Nội và TP HCM. Kho TP HCM do SJC quản lý, tại Hà Nội do Công ty Vàng bạc Ngân hàng Nông nghiệp quản lý, cùng khai trương từ tháng 6. Ước tính nếu nhập hàng qua kho ngoại quan, phí vận chuyển và bảo hiểm giảm đến 40% so với việc nhập từ nước ngoài thông qua môi giới trung gian. Hơn nữa, thời gian nhập khẩu vàng của các doanh nghiệp cũng được rút ngắn. Muốn có khách gửi vàng, ngoài yếu tố giá cả, thủ tục, kho ngoại quan phải được bảo hiểm. Để làm được điều này thì phải dựa vào một công ty chuyên về kho ngoại quan của nước ngoài và trên thực tế việc ký kết được hợp đồng bảo hiểm kiểu này không phải đơn giản. Việc gửi vàng vào kho Hà Nội chủ yếu là các đầu mối kinh doanh lớn như Eximbank, Sacombank, ACB. Những khách hàng trên lại chính là các thành viên trong liên minh thành lập ra kho ngoại quan và chủ yếu chỉ kinh doanh chứ không phải tập trung nhiều vào sản xuất. Về lý thuyết chi phí nhập từ kho ngoại quan vàng thấp hơn so với nhập trực tiếp từ nước ngoài và thời gian cũng được rút ngắn đáng kể. Song nhiều doanh nghiệp lâu nay vẫn có các nguồn nhập riêng với giá rẻ hơn và thời gian thậm chí còn nhanh hơn. Một vấn đề với các kho ngoại quan nữa Việt Nam chưa cho phép xuất khẩu, vì vậy lượng vàng ra vào kho ngoại quan chưa nhiều. Trong kho hiện chỉ lưu vàng nhập khẩu. Ông Đinh Gia Bảng, đại diện Hiệp hội Vàng Việt Nam cho biết, hiệp hội đã nhiều lần kiến nghị Vụ Ngoại hối Ngân hàng Nhà nước bãi bỏ giấy phép nhập khẩu vàng và cho phép các doanh nghiệp được xuất khẩu mặt hàng này. Một điều quan trọng hơn cả, là do không được phép xuất khẩu nên thường xuyên xảy ra tình trạng xuất lậu vàng. Theo vị đại diện này, nếu không cho xuất khẩu vàng thì không thể tránh khỏi thực trạng "chảy máu vàng" như hiện nay. Đây là một thiệt hại lớn bởi Nhà nước sẽ không thu được thuế xuất khẩu. Thêm vào đó, khi xuất lậu sang nước khác, các doanh nghiệp thường xuất vàng nguyên liệu chứ không phải hàng đã qua chế tác, hay gia công nên không tạo công ăn việc làm được cho người lao động. Nếu có thể xuất khẩu, họ sẽ sản xuất, chế tác xong mới bán nên sẽ tạo thêm việc làm cho người lao động. 2.3 Phát triển kế hoạch xây dựng sàn giao dịch vàng quốc gia Một sàn giao dịch vàng quốc gia là cần thiết để giúp cho thị trường vàng nước ta được ổn định, phát triển. Sàn giao dịch vàng sẽ là nơi hình thành giá cho thị trường trong nước, và sẽ cập nhật, theo kịp được giá vàng của thế giới. Đồng thời đây là nơi diễn ra giao dịch tập trung, với khối lượng lớn nên việc quản lý ngoại hối, quan sát, điều hành chính sách tiền tệ của chính phủ được thuận tiện và dễ dàng hơn. Kết hợp phát huy hiệu quả với hoạt động của hai kho ngoại quan vàng sẽ giúp cho thị trường vàng Việt Nam có những chuyển biến tích cực, hoạt động hiệu quả và minh bạch hơn. 2.4 Phát triển thị trường chứng khoán và bất động sản. Bất động sản và chứng khoán là hai thị trường thay thế cho thị trường vàng. Hiện nay hai thị trường này đang ở tình trạng ảm đạm. Bất động sản đóng băng, thị trường chứng khoán thì sụt giảm một cách thảm hại. Chỉ số VN-Index và HaSTC-Index đã giảm gần 2/3 so với lức đỉnh điểm. Trong khi đó giá vàng thế giới đang lên, nhà đầu thư ồ ạt rút khỏi thị trường chứng khoán để chuyển sang thị trường vàng. Sự chuyển vốn ồ ạt này đã gây ra áp lực tăng cầu đối với vàng, làm cho thị trường vàng nóng lên, giá vàng bị đẩy lên cao. Điều này chứng tỏ trình độ phát triển của thị trường chứng khoán và thị trường vàng, nói chung là thị trường tài chính của chúng ta còn kém. Thực ra nhà đầu tư giỏi không chỉ thu được lợi nhuận từ việc thị trường phát triển đi lên, mà kể cả khi thị trường sụt giảm, các nhà đầu tư khôn ngoan vẫn kiếm được những khoản lợi nhuận cho mình. Điều này sẽ giúp cho thị trường giảm hiện tượng bán đổ bán tháo, lúc thì chỉ người bán mà không có người mua, lúc thì chỉ có người mua mà không có người bán. Công cụ mà những nhà đầu tư khôn ngoan đó sử dụng là các công cụ phái sinh trên thị trường. Các công cụ phái sinh như: hợp đồng tương lai, quyền chọn mua, quyền chọn bán, forward… sẽ giúp cho các nhà đầu tư bảo hiểm và tính toán danh mục đầu tư của mình một cách hiệu quả, ngay cả khi thị trường có những biến động lớn. Vì vậy khi thị trường lên hay xuống thì vẫn có người bán, người mua. Người bán hay người mua đều có khả năng thu được lợi nhuận từ việc mua bán đó, giúp cho thị trường giảm hiện tượng tăng vọt lên hay sụt giảm quá mức trong một khoảng thời gian ngắn do tâm lý của nhà đầu tư thay đổi. Như vậy thị trường sẽ ổn định hơn, giảm rủi ro hơn và phát triển bền vững hơn. Muốn vậy, chính bản thân mỗi nhà đầu tư phải tự nâng cao trình độcủa mình, phải trở thành một nhà đầu tư chuyên nghiệp hơn. Ngoài ra, phát triển thị trường chứng khoán và bất động sản cũng là một kênh nhằm hút bớt lượng tiền trong lưu thông, làm giảm lạm phát. 2.5 Quản lý việc kinh doanh bất hợp pháp vàng qua mạng. Hiện nay, do sự nóng lên của thị trường vàng trong nước, lợi dụng sự kém hiểu biết, nhẹ dạ cả tin của nhiều nhà đầu tư, một số tổ chức tư vấn, môi giới đầu tư vàng đã mở ra các tài khoản cho phép nhà đầu tư kinh doanh doanh vàng trên đó. hiện nay doanh nghiệp và cá nhân trong nước chưa được phép mở tài khoản kinh doanh ở nước ngoài. Đến nay, ở TP HCM chỉ có 4 doanh nghiệp là Công ty TNHH Ngọc Thanh, Công ty TNHH Tân Vạn Hưng, Công ty Vàng bạc Đá Quý Sài Gòn (SJC) và Công ty vàng bạc đá quý Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn TPHCM được cấp phép kinh doanh vàng qua mạng. Tuy nhiên các đơn vị này, chỉ được kinh doanh cho bản thân chứ không được mở rộng hoạt động kinh doanh cho khách hàng. Về tổ chức ngân hàng, NHNN Việt Nam cũng đã cấp phép cho 5 ngân hàng (ACB, Eximbank, VAB, Sacombank và OCB) kinh doanh vàng trên tài khoản ra nước ngoài như là một công cụ bảo hiểm kinh doanh, nhằm bảo đảm tính thanh khoản trong hoạt động kinh doanh vàng của ngân hàng chứ cũng chưa cho phép ngân hàng kinh doanh vàng qua mạng cho khách hàng. Vì vậy có thể kết luận rằng, việc kinh doanh vàng qua tài khoản trên mạng là hành vi phạm pháp luật, có tính chất lừa đảo, cần phải xử lý kịp thời, đồng thời các nhà đầu tư cũng phết sức cảnh giác về những thủ đoạn này và nâng cao hiểu biết về pháp luật khi bỏ đồng vốn ra đầu tư. KẾT LUẬN Giá vàng có nhiều biến động mạnh trong thời gian vừa qua, đặc biệt là từ cuộc khủng hoảng tín dụng cho vay thế chấp mua nhà dưới chuẩn của Mỹ tháng 9 năm 2007. Cuộc khủng hoảng này dẫn đến sự mất lòng tin của người dân vào tính thanh khoản của hệ thống ngân hàng Mỹ, kéo theo sự sụt giảm mạnh giá đồng đôla Mỹ trên toàn thế giới. Do đồng đôla Mỹ chiếm tỉ trọng lớn trong buôn bán thương mại toàn cầu, đặc biệt là đồng tiền định giá cho các loại hàng hóa đặc biệt như giá vàng, giá dầu thô, giá lương thực… và là đồng tiền dự trữ của hầu hết các quốc gia trên thế giới, vì vậy khi đồng USD mất giá ảnh hưởng rất lớn tới thương mại toàn cầu. Vàng và dầu là hai hàng hóa được định giá bằng đồng đôla, nên khi đôla mất giá kéo theo sự lên giá của cả hai mặt hàng này. Tuy nhiên hai mặt hàng này cũng có mối liên hệ mật thiết với nhau. Việc bán dầu ở các nước ở khu vực Trung Đông gắn với việc mua vàng trên thị trường thế giới. Chính nguồn cung về dầu và nguồn cầu về vàng ở khu vực này đều có số lượng lớn chi phối giá cả của hai mặt hàng và hình thành mối quan hệ về giá. Vì vậy giá dầu mỏ tăng trong thời gian qua cũng là một nguyên nhân quan trọng dẫn đến sự tăng giá vàng thế giới. Ngoài ra, tình hình lạm phát lên cao ở hầu hết các nước, đặc biệt là ở Việt Nam đã làm cho nhu cầu về vàng để dự trữ tăng lên, đẩy giá vàng lên cao. Bên cạnh đó các chính sách cắt giảm lãi suất của FED ảnh hưởng trực tiếp sức mạnh của đồng đôla Mỹ, qua đó ảnh hưởng đến kỳ vọng của các nhà đầu tư, gián tiếp ảnh hưởng đến giá vàng thế giới và giá vàng Việt Nam. Do vàng không phải là một hàng hóa trong giỏ hàng hóa tính chỉ số giá tiêu dùng (trừ mặt hàng vàng trang sức), vì vậy sự biến động giá vàng không ảnh hưởng nhiều tới người dân bình thường mà chủ yếu ảnh hưởng đến các nhà đầu tư, đầu cơ vàng và những người tích trữ vàng, đến hoạt động của thị trường chứng khoán, thị trường bất động sản, đến việc huy động vốn và cho vay của hệ thống ngân hàng, đặc biệt là ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của nền kinh tế. Khi người dân bỏ tiền vào thị trường vàng để đầu tư, đầu cơ hay tích trữ thì nó thực ra cũng chỉ là tiền “bỏ ống” hay chuyển tiền từ túi người này qua túi người khác (trường hợp đầu cơ) mà không tạo ra thêm của cải vật chất cho xã hội. Vì vậy khi thị trường vàng thu hút một lượng tiền quá lớn sẽ làm giảm số tiền dành cho đầu tư sản xuất kinh doanh – hoạt động mang lại của cải vật chất tăng thêm cho xã hội. Tuy nhiên, do tình hình kinh tế Mỹ được cải thiện, đồng đôla dần lấy lại giá trị của mình, giá dầu thô cũng từng bước ổn định trở lại, cộng thêm sự nỗ lực trong việc kiềm chế chống lạm phát và một số biện pháp khác của chính phủ Việt Nam, giá vàng thế giới và giá vàng Việt Nam có xu hướng sẽ ổn định trở lại, quay trở về với giá trị thực của nó trong trung và dài hạn. Thị trường vàng là một thị trường hết sức nhạy cảm và phức tạp, trong đó các yếu tố vĩ mô có quan hệ mật thiết, tác động qua lại với nhau. Vì vậy, chỉ hi vọng rằng đề tài này đóng góp được một phần nhỏ bé nhưng hữu ích giúp phần nào hiểu được quy luật vận động của giá vàng, các nhân tố ảnh hưởng, nguyên nhân và tác động của giá vàng tới nền kinh tế. Em mong nhận được sự góp ý của thầy cô và các bạn để khóa luận được hoàn thiện hơn.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc10693.doc
Tài liệu liên quan