Khóa luận Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện

Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt nam - thực trạng và phương hướng hoàn thiệnMỤC LỤC Lời mở đầu 1 Chương I: Khái quát chung về chứng khoán và thị trường chứng khoán 3 I.Khái quát về chứng khoán 3 1.Các loại chứng khoán. 3 1.1.Cổ phiếu. 3 1.2.Trái phiếu. 3 2.Các chứng khoán phái sinh. 4 2.1.Chứng quyền. 4 2.2.Chứng khế. 5 2.3.Hợp đồng quyền lựa chọn. 6 2.4.Hợp đồng tương lai 7 2.5.Hợp đồng kỳ hạn 8 II.Bản chất và chức năng của thị trường chứng khoán 9 1. Bản chất của thị trường chứng khoán 9 2.Chức năng và nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 9 2.1.Chức năng của thị trường chứng khoán 9 2.2.Nguyên tắc hoạt động của thị trường chứng khoán 11 III.Cơ cấu của thị trường chứng khoán 14 1.Căn cứ vào phương thức giao dịch 14 1.1.Thị trường sơ cấp 14 1.2.Thị trư¬ờng thứ cấp 15 2.Phân loại theo tính chất đăng ký 15 2.1.Sở giao dịch chứng khoán 15 2.2.Thị trường OTC 16 3.Phân loại thị trường chứng khoán theo công cụ lưu thông 17 3.1.Thị trường cổ phiếu 17 3.2.Thị trường trái phiếu 17 3.3.Thị trường các chứng khoán phái sinh 17 IV.Đặc điểm và tình hình chứng khoán Việt Nam 17 1.Mô hình thị trường chứng khoán Việt Nam 17 1.1.Uỷ ban chứng khoán Nhà nước 18 1.2.Sở giao dịch chứng khoán 20 1.3.Tổ chức phụ trợ 21 1.4.Khối kinh doanh 23 1.5.Tổ chức phát hành 24 2.Thực trạng thị trường chứng khoán Việt Nam 25 Chương II:Thực trạng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam 28 I. Một số văn bản pháp luật hiện hành về chứng khoán và thị trường chứng khoán của Việt Nam 28 1.Các văn bản trực tiếp điều chỉnh 28 2. Các văn bản pháp luật có liên quan 31 II.Thực trạng pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam 1.Một số vấn đề chung 32 1.1.Các thể chế về tài chính 32 1.2.Các thể chế về hành chính 33 1.3.Các quy định liên quan của pháp luật hình sự 34 1.4.Các quy định về giải quyết tranh chấp 34 1.5.Các quy định về giải thể phá sản công ty chứng khoán 35 2.Những vấn đề cụ thể 36 2.1.Cơ chế và hình thức phát hành chứng khoán 36 2.2.Về cơ cấu các loại thị trường 38 2.3.Còn thiếu bình đẳng về thuế trong đầu tư chứng khoán 40 2.4.Các tổ chức hoạt động kinh doanh chứng khoán 41 2.5.Khả năng tham gia của các tổ chức, cá nhân nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam 42 2.6.Quy định về cách thức nhận lệnh của Công ty chứng khoán 46 2.7.Quản lý ngoại hối trong lĩnh vực chứng khoán 48 2.8.Quan hệ uỷ quyền trong giao dịch chứng khoán 49 2.9.Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán 51 2.10.Một số vấn đề khác 53 III. Những điểm mới và những mặt còn hạn chế trong các Dự thảo sửa đổi của một số văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam. 55 1. Dự thảo Quyết định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của các tổ chức và cá nhân n¬ước ngoài 55 2. Dự thảo Nghị định thay thế Nghị định 48/NĐ - Chính phủ 56 Chương 3: Phương hướng hoàn thiện khung pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam 58 I. Phương hướng chung 58 II. Giải pháp cụ thể 59 1.Sự cần thiết phải xây dựng Luật Chứng khoán 59 1.1 .Hiệu lực pháp lý cao 59 1.2.Phạm vi điều chỉnh rộng 60 1.3.Giải quyết xung đột với văn bản quy phạm pháp luật khác 60 1.4.Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế 61 2. Những căn cứ để tiến hành xây dựng Luật Chứng khoán 61 2.1.Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về xây dựng khung pháp luật về chứng khoán và thị trư¬ờng chứng khoán. 61 2.2.Tổng kết, đánh giá kết quả thực thi pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. 63 2.3.Đánh giá thực trạng khung pháp luật về kinh tế 63 2.4.Tham khảo kinh nghiệm xây dựng Luật Chứng khoán ở một số nước 63 3. Những nội dung chính cần điều chỉnh trong Luật Chứng khoán 64 3.1.Những nội dung mang tính chất kế thừa 65 3.2.Một số nội dung cần có sự sửa đổi, bổ sung 65 a.Phạm vi điều chỉnh 65 b. Phát hành chứng khoán để niêm yết trên TTCK nước ngoài và cho phép chứng khoán nước ngoài niêm yết trên TTCK Việt Nam 66 c. Thị trường OTC 67 d. Hiệp hội chứng khoán 68 e. Hoà giải và giải quyết tranh chấp 68 f. Đối với hành vi mua bán khống 69 g. Bãi bỏ quy định bắt buộc phải qua phê duyệt của Thủ tướng chính phủ đối với việc mua cổ phần của cá nhân ng¬ười n¬ước ngoài 70 h. Đối với Công ty niêm yết 72 i. Đối với công ty chứng khoán 73 j. Một số nội dung khác 75 Kết luận 76 Tài liệu tham khảo 77

doc86 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1632 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt nam - Thực trạng và phương hướng hoàn thiện, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệc giải quyết các tranh chấp khi phát sinh. Trong thực tế, quan hệ uỷ quyền lại chỉ được xác lập ngay trong giấy yêu cầu mở tài khoản giao dịch tại CTCK của khách hàng với những chi tiết về nhân thân của bên uỷ quyền và bên nhận uỷ quyền như: họ tên, số CMND, địa chỉ hoặc bằng một giấy uỷ quyền riêng biệt. Song, quan hệ uỷ quyền giao dịch chứng khoán lại là một quan hệ dân sự phức tạp, dễ phát sinh tranh chấp. Vì vậy, cần được xác lập bởi một hợp đồng dân sự độc lập gồm đầy đủ các điều khoản quy định về phạm vi, thời hạn uỷ quyền, quyền và nghĩa vụ, nhân thân của các bên, các trường hợp chấm dứt quan hệ uỷ quyền, vv… Ở góc độ này, việc quy định mẫu thống nhất của hợp đồng uỷ quyền giao dịch chứng khoán áp dụng chung trên thị trường là rất cần thiết. Về bản chất, hợp đồng uỷ quyền giao dịch chứng khoán là sự thoả thuận bằng văn bản giữa các bên. Theo đó, bên được uỷ quyền có nghĩa vụ nhân danh và vì lợi ích của bên uỷ quyền thực hiện một công việc cụ thể có liên quan đến hoạt động mua bán chứng khoán theo thoả thuận với bên uỷ quyền. Bên uỷ quyền có trách nhiệm trả thù lao cho bên được uỷ quyền, nếu các bên có thoả thuận. Như vậy, trong quan hệ uỷ quyền giao dịch chứng khoán, người được uỷ quyền thay mặt người uỷ quyền thực hiện những hành vi cụ thể (đặt lệnh mua hoặc bán chứng khoán,…) làm phát sinh hậu quả pháp lý liên quan đến quyền và lợi ích cho bên uỷ quyền. Vì vậy, phạm vi uỷ quyền cần được xác định một cách cụ thể, rõ ràng trên cơ sở thoả thuận giữa các bên trong phạm vi pháp luật cho phép. Nên lưu ý là phạm vi uỷ quyền phải là hành vi không bị pháp luật cấm và hạn chế quy định tại Nghị định 48 của Chính phủ về chứng khoán và TTCK. Trong thời gian qua, đã diễn ra nhiều trường hợp tham gia mua, bán chứng khoán trên thị trường giao dịch tập trung thông qua hình thức uỷ quyền. Phổ biến nhất là nhiều nhà đầu tư uỷ quyền giao dịch cho một người thực hiện việc mua, bán chứng khoán trên nhiều tài khoản được uỷ quyền. Về mặt pháp lý, đây là hình thức giao dịch dân sự phù hợp với quy định của Bộ luật dân sự hiện hành, bởi lẽ trong Bộ luật này, không có một điều khoản nào hạn chế một người có thể nhận nhiều uỷ quyền trong một lúc. Nhưng xét về mặt lợi ích thị trường, người thực hiện giao dịch chứng khoán trên nhiều tài khoản theo uỷ quyền có thể lợi dụng để tiến hành các hoạt động thao túng, lũng đoạn thị trường. Từ đó, việc mua bán chứng khoán thông qua uỷ quyền cần có những quy định chuyên ngành và cụ thể hơn để quản lý một cách chặt chẽ nhằm góp phần cho thị trường chứng khoán hoạt động công bằng, lành mạnh, ổn định, đồng thời bảo vệ quyền, lợi ích chính đáng của nhà đầu tư và các chủ thể khác tham gia thị trường. 2.9.Hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán Tư vấn đầu tư chứng khoán, theo quy định của pháp luật Việt Nam, là các hoạt động phân tích, đưa ra khuyến nghị liên quan đến chứng khoán hoặc công bố, phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán. Hoạt động này đòi hỏi nhiều kiến thức về kỹ năng chuyên môn mà không yêu cầu về vốn. Tính trung thực của cá nhân và của công ty có vai trò vô cùng quan trọng đối với khách hàng. Đến nay, thị trường chứng khoán nước ta đã đi vào hoạt động được hơn hai năm nhưng các quy định về hoạt động tư vấn đầu tư trên thị trường này vẫn còn thiếu và hẹp. Trong các văn bản pháp luật hiện hành vẫn còn thiếu một số điều quy định về hoạt động này nhưng cũng chỉ dừng ở mức đưa ra định nghĩa và mức vốn pháp định để tiến hành hoạt động tư vấn đầu tư. Chính vì vậy, các công ty chứng khoán gặp nhiều khó khăn khi triển khai hoạt động này trong thực tế. Sau đây là một số vấn đề tồn tại trong hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán.Về khái niệm và phạm vi của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. Về khái niệm và phạm vi của hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán Khoản 11 Điều 2, Nghị định 48/CP quy định: “Tư vấn đầu tư chứng khoán là các hoạt động phân tích, đưa ra khuyến nghị liên quan đến chứng khoán, hoặc công bố và phát hành các báo cáo phân tích có liên quan đến chứng khoán” Theo quy định tại khoản 1 Điều 2, Nghị định 58/CP, “chứng khoán” là chứng chỉ hoặc bút toán ghi sổ, xác nhận các quyền và lợi ích hợp pháp của người sở hữu chứng khoán đối với tài sản hoặc vốn của các tổ chức phát hành. Còn theo khoản 3, Điều 2, Nghị định này thì “tổ chức phát hành” là pháp nhân được phát hành chứng khoán ra công chúng theo quy định của Nghị định 48/CP. Như vậy, chiểu theo những quy định trên thì hoạt động phân tích, đưa ra khuyến nghị, công bố và phát hành các báo cáo liên quan đến cổ phiếu, trái phiếu của các pháp nhân không phát hành theo Nghị định 48/CP không được coi là hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán và công ty chứng khoán không được thực hiện hoạt động này. Nếu hiểu theo nghĩa này thì phạm vi hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán của các công ty chứng khoán hiện nay là quá hẹp vì số lượng các pháp nhân phát hành chứng khoán theo Nghị định 48 còn rất khiêm tốn. Trong khi đó pháp luật của hầu hết các nước đều quy định hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán có phạm vi rất rộng, bao gồm cả hoạt động tư vấn về cấu trúc vốn, về chiến lược công nghiệp và các vấn đề liên quan đến việc hợp nhất, mua lại doanh nghiệp. Một số vấn đề khác Cho đến nay, vẫn chưa có quy định cụ thể về việc khi thực hiện hoạt động tư vấn đầu tư cho khách hàng, các công ty chứng khoán đưa ra các khuyến nghị dựa trên cơ sở nào(?) Nếu quy định rõ ràng về vấn đề này sẽ không chỉ có lợi cho hoạt động kiểm tra, giám sát của các cơ quan quản lý mà còn tạo cơ sở để các nhà đầu tư tự đánh giá chất lượng tư vấn của các công ty chứng khoán. Bên cạnh đó, một số hành vi của công ty chứng khoán trong quá trình thực hiện hoạt động tư vấn đầu tư cho khách hàng hiện nay chưa có quy định rõ ràng. Ví dụ, hành vi khuyến nghị đồng loạt các khách hàng mua hoặc bán liên tục một loại chứng khoán nào đó trong một thời gian nhất định hiện chưa bị pháp luật cấm và điều này sẽ gây tổn hại đến việc hình thành giá một cách công bằng; hành vi giới thiệu cho một khách hàng mua hoặc bán chứng khoán với việc đưa ra dự đoán chắc chắn; hành vi khuyến nghị khách hàng, trong một thời gian liên tục nhất định, mua hàng loạt hoặc mua quá mức với mục đích bán được chứng khoán mà công ty đang nắm giữ… Thực tế còn đang diễn ra một hiện tượng là có một số công ty tư vấn thực hiện các hoạt động tư vấn niêm yết cho các doanh nghiệp. Các công ty này không chịu sự quản lý của UBCKNN và không hề có giấy phép hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán. Hoạt động của các công ty này trong thời gian qua đã gây ra một số khó khăn cho các công ty chứng khoán cho việc triển khai dịch vụ tư vấn niêm yết; Mức phí dịch vụ tư vấn hiện nay do các bên tự thoả thuận. Quy định này là phù hợp với thông lệ quốc tế và thể hiện sự tự do của các bên trong khi thực hiện hoạt động tư vấn đầu tư. Tuy nhiên, đối với một thị trường vừa đi vào hoạt động như TTCK Việt Nam thì việc quy định như vậy sẽ không tránh khỏi tình trạng cạnh tranh không lành mạnh về chế độ thu phí giữa các công ty chứng khoán. Trên thực tế, có công ty chứng khoán đã chào mời dịch vụ tư vấn đầu tư miễn phí. Điều này không có lợi cho sự phát triển ổn định và dần đi đến củng cố các dịch vụ của các công ty chứng khoán trong giai đoạn đầu hoạt động của thị trường. 2.10.Một số vấn đề khác Ngoài một số vấn đề lớn còn tồn tại như đã nêu ở trên, thực trạng pháp luật về CK&TTCK Việt Nam còn nổi cộm lên một số vấn đề cũng cần được giải được giải quyêt như: - Thiếu các chế tài về cổ phần hoá Thực tế hiện nay là nhiều công ty không muốn niêm yết cổ phiếu. Việc này liên quan nhiều đến khía cạnh cổ phần hoá. Quá trình cổ phần hoá hiện nay có ba nhược điểm chính: thứ nhất là chậm, thứ hai là không công khai, thứ ba là không công bằng. Vì vậy, bản thân nhiều doanh nghiệp không tự muốn cổ phần hoá. Đối với doanh nghiệp đã cổ phần hoá, lý do gốc rễ khiến doanh nghiệp không muốn niêm yết là các doanh nghiệp không muốn công khai số liệu tài chính vì việc định giá là hết sức chủ quan và không chính xác. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng này là do chúng ta chưa có đủ các chế tài về cổ phần hoá để điều chỉnh. - Có “độ vênh” về nghĩa vụ giữa công ty niêm yết và chưa niêm yết. Có lẽ chỉ đến khi các công ty niêm yết trên thị trường chứng khoán phát hành thêm cổ phiếu thì mọi người mới thấy hết sự khó khăn của việc này so với việc phát hành cổ phiếu của công ty cổ phần chưa niêm yết. Thực tế này cũng đã được nhận thấy qua việc phát hành thêm cổ phiếu của Công ty cổ phần giấy Hải Phòng (HAPACO) và Công ty Kho vận và Giao nhận ngoại thương (TRANSIMEX) thời gian qua. Cụ thể là thời gian từ lúc xin cấp phép phát hành tới lúc được phép là quá dài. Vậy nguyên nhân là đâu? Nguyên nhân ở đây chính là do có “độ vênh” về quy định trong phát hành cổ phiếu giữa hai loại công ty trên. Đối với các công ty cổ phần niêm yết trên thị trường chứng khoán, thủ tục phát hành cổ phiếu phải tuôn thủ theo quy định của NĐ48 /CP và phải được sự chấp thuận của UBCKNN. Còn đối với công ty cổ phần chưa niêm yết lại chưa hề có văn bản nào điều chỉnh. III. NHỮNG ĐIỂM MỚI VÀ NHỮNG MẶT CÒN HẠN CHẾ TRONG CÁC DỰ THẢO SỬA ĐỔI CỦA MỘT SỐ VĂN BẢN PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM 1. DỰ THẢO QUYẾT ĐỊNH VỀ QUẢN LÝ NGOẠI HỐI ĐỐI VỚI HOẠT ĐỘNG ĐẦU TƯ CHỨNG KHOÁN CỦA CÁC TỔ CHỨC VÀ CÁ NHÂN NƯỚC NGOÀI Dự thảo Quyết định về quản lý ngoại hối đối với hoạt động đầu tư chứng khoán của các tổ chức và cá nhân nước ngoài đã được Ngân hàng Nhà nước (NHNN) hoàn thành và đang chờ phê duyệt. Về cơ bản, nhà đầu tư và tổ chức nước ngoài khi đầu tư vào thị trường chứng khoán sẽ phải tuôn theo những quy định về quản lý ngoại hối và quy định hiện hành của TTCK. Chẳng hạn, việc chuyển tiền bằng ngoại tệ vào đầu tư phải có nguồn gốc hợp pháp, phải bán ngoại tệ tại ngân hàng là thành viên lưu ký và theo quy định về quản lý ngoại hối. Đồng thời sẽ không có quy định hạn chế về khối lượng tiền đầu tư vào thị trường. Tuy nhiên, trong Dự thảo Quyết định này vẫn chưa đưa ra thời hạn tối thiểu được rút tiền, thiết nghĩ đây là quy định không thể bỏ qua. Đối với các hạn chế về tỷ lệ nắm giữ cổ phiếu của nhà đầu tư nước ngoài trong từng công ty niêm yết sẽ được quy định rõ, còn hoạt động mua bán, lưu ký chứng khoán… thì được quy định đúng như đầu tư trong nước. Tuy nhiên, mặc dù thu hút nguồn vốn đầu tư nước ngoài từ các nhà đầu tư nước ngoài trên thị trường là một trong những nội dung quan trọng trong hoạt động của TTCK nước ta, nhưng việc ban hành các quy định hướng dẫn hoạt động cho các đối tượng này lại qúa chậm chạp, theo kiểu “nước đến chân mới nhảy”. Trên thực tế, Dự thảo cho Quyết định này đã được đưa ra lấy ý kiến từ trong năm 2001, nhưng đến nay (gần hết năm 2002) do sự tham gia hạn chế của các nhà đầu tư nước ngoài đã làm cho các cơ quan quản lý “lãng quên” việc ban hành. Rõ ràng khi chưa có các quy định pháp lý hướng dẫn cụ thể thì các hoạt động đầu tư khó mà thực hiện trôi chảy được. Chỉ đến thời gian vừa qua, TTCK có sự tham gia mạnh mẽ của các nhà đầu tư nước ngoài và có một số công văn yêu cầu NHNN hướng dẫn thủ tục về ngoại hối cho đầu tư chứng khoán từ các đối tượng tham gia, thì cơ quan quản lý mới tính đến việc phải ban hành quy định hướng dẫn. Thiết nghĩ trong tình hình thị trường còn rất trầm lắng, những quy định về quản lý ngoại hối trong Dự thảo này cấn sớm được xem xét ban hành để tạo hành lang pháp lý đầy đủ nhằm khuyến khích thu hút mạnh hơn sự tham gia của nhà đầu tư nước ngoài vào TTCK Việt Nam. 2. DỰ THẢO NGHỊ ĐỊNH THAY THẾ NGHỊ ĐỊNH 48/NĐ - CP Nghị định 48/ NĐ - CP của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán Việt Nam là khung pháp lý cơ bản cho hoạt động của thị trường chứng khoán nước ta. Tuy nhiên, qua hơn 2 năm thị trường chứng khoán đi vào hoạt động, thực tế đã cho thấy, phạm vi điều chỉnh của Nghị định này có nhiều mặt còn hạn chế ( như đã phân tích ở phần trên). Chính vì vậy, việc sửa đổi Nghị định 48 trở nên rất cần thiết để đáp ứng yêu cầu hoạt động, quản lý, giám sát và phát triển thị trường chứng khoán tại Việt Nam. Do những nội dung sửa đổi và bổ sung Nghị định 48/1998/ NĐ - CP lần này tương đối bao quát và phức tạp nên Uỷ ban chứng khoán Nhà nước đã đề nghị cần thiết phải ban hành một Nghị định mới thay thế Nghị định 48 và Nghị định mới này có những thay đổi như sau: Về bố cục, Dự thảo Nghị định mới có những thay đổi cơ bản: - Bổ sung chương “Niêm yết chứng khoán” nhằm tách hai hoạt động Phát hành chứng khoán và hoạt động Niêm yêt chứng khoán - Bổ sung chương “Giao dịch chứng khoán” và “Công bố thông tin” nhằm cụ thể hoá hai mảng hoạt động đặc biệt quan trọng của Thị trường chứng khoán. Bổ sung chương “Hiệp hội chứng khoán”, nhằm tạo tiền đề pháp lý cho việc thành lập Hiệp hội chứng khoán. Về nội dung, một số thay đổi lớn trong nội dung của Dự thảo Nghị định so với trước là: -Về vấn đề niêm yết chứng khoán, Dự thảo Nghị định đã quy định 2 loại tiêu chuẩn để được niêm yết tại Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội (sắp được thành lập) và Trung tâm giao dịch Tp. Hồ Chí Minh; - Trong những quy định về lưu ký, đăng ký, thanh toán bù trừ, Dự thảo Nghị định đã quy định cơ sở pháp lý cho việc thành lập Trung tâm lưu ký để khi có điều kiện, sẽ tách Trung tâm lưu ký khỏi Trung tâm giao dịch chứng khoán; - Về quỹ đầu tư, điểm mới của Dự thảo Nghị định lần này là đưa hai mô hình quỹ đầu tư là quỹ đầu tư tư nhân và quỹ đầu tư tập thể; -Trong quy định về tham gia của bên nước ngoài, Dự thảo Nghị định cho phép thành lập quỹ đầu tư 100% vốn nước ngoài tại Việt Nam và thành lập chi nhánh công ty quản lý quỹ nước ngoài tại Việt Nam; - Các hành vi bị cấm: Dự thảo Nghị định bổ sung thêm quy định về thông tin nội bộ và những người được coi là biết thông tin nội bộ nhằm tăng cường kỷ luật, hiệu quả giám sát và xử lý vi phạm trên thị trường chứng khoán. Như vậy, Dự thảo Nghị định 48/CP sẽ có những quy định cụ thể và rõ ràng hơn Nghị định hiện hành. Tuy nhiên, Dự thảo Nghị định này cũng mới chỉ nằm trên bàn thảo luận. Có lẽ chúng ta còn phải mất một thời gian dài chờ đợi Dự thảo này được phê duyệt trước khi được thấy nó đi vào cuộc sống. Hơn nữa, đây cũng chỉ là một văn bản dưới luật nên nó khó có thể điều chỉnh được mọi vấn đề nảy sinh một khi thị trường chứng khoán nước ta đạt đến tầm cao. Do đó, xét về lâu dài, cái chúng ta cần đó chính là xây dựng một văn bản pháp luật về CK&TTCK mang tầm cỡ của một Bộ luật chuyên ngành chứ không phải là chỉ dừng lại ở mức “thay Nghị định này bằng Nghị định khác” như hiện nay. CHƯƠNG 3 PHƯƠNG HƯỚNG HOÀN THIỆN KHUNG PHÁP LUẬT VỀ CHỨNG KHOÁN VÀ THỊ TRƯỜNG CHỨNG KHOÁN VIỆT NAM I. PHƯƠNG HƯỚNG CHUNG Uỷ ban chứng khoán nhà nước và một số Bộ, Ngành có liên quan cần: - Tiếp tục thể chế hoá đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước trong lĩnh vực về CK&TTCK, xây dựng các trung tâm giao dịch chứng khoán đủ mạnh, tiến tới thành lập Sở GDCK, phục vụ có hiệu quả cho nền kinh tế. - Đồng bộ hóa các thể chế và định chế liên quan tới CK&TTCK, tạo ra một khung pháp luật về CK&TTCK hoàn chỉnh để TTCK được vận hành đồng bộ có hiệu quả. Bởi vì để có một cơ cấu kinh tế thị trường hoàn chỉnh, không thể không có TTCK. Cũng như vậy, để có một TTCK được tổ chức đồng bộ và vận hành trôi chảy, không thể chỉ có những quy định pháp luật điều chỉnh trực tiếp về TTCK, mà phải xây dựng một khung pháp luật liên quan một cách đồng bộ, bao gồm cả các thể chế và định chế có liên quan đến chúng. Trong điều kiện Việt Nam hiện nay, các vấn đề cần phải hoàn thiện để đồng bộ hoá với pháp luật về CK&TTCK, tạo thêm động lực cho việc hình thành và hoạt động của TTCK, đó là: + Pháp luật về doanh nghiệp: Thể hiện trong việc đảm bảo quyền tự do kinh doanh, tạo điều kiện, cơ chế để các doanh nghiệp gặp được người đầu tư bằng phát hành cổ phiếu qua TTCK; + Pháp luật về đầu tư: Pháp luật đầu tư (trong nước và ngoài nước) phải đảm bảo cho nhà đầu tư có cơ hội lựa chọn hình thức đầu tư phù hợp bằng góp vốn thành lập doanh nghiệp hoặc bằng mua bán cổ phiếu, trái phiếu trên thị trường hoặc có thể chuyển đổi hình thức doanh nghiệp thành công ty cổ phần, chuyển đổi vốn góp thành chứng khoán một cách dễ dàng, thuận lợi; + Pháp luật về tài chính cần phải tạo ra nhiều loại giấy tờ có giá có thể trao đổi, mua bán trên TTCK; hình thành quy định kế toán, kiểm toán chứng khoán; các quy định về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán trong điều kiện mới hình thành TTCK như hiện nay; +Hoàn thiện đồng bộ các pháp luật khác có liên quan đến CK&TTCK như pháp luật lao động; pháp luật hành chính – tư pháp; pháp luật hình sự; giải quyết tranh chấp; giải thể, phá sản;… - Giữ vững ổn định chính trị, kinh tế, bảo đảm môi trường đầu tư. Đây là một vấn đề rất quan trọng, liên quan không chỉ đến TTCK mà cả đến vấn đề đầu tư nói chung. Sự ổn định về thể chế chính trị; chính quyền mạnh mẽ và được tín nhiệm; cơ chế pháp luật rõ ràng, đầy đủ và được tuân thủ… là những yếu tố quan trọng, là niềm tin của các nhà đầu tư, và cũng chính là cơ sở cho sự ổn định, phát triển của TTCK. - Hiện đại hoá đội ngũ những cán bộ ngành chứng khoán, các phương tiện, thiết bị phục vụ cho hoạt động của TTCK. Đây là các vấn đề mang tính kỹ thuật, tạo khả năng mua bán, thanh toán chứng khoán một cách dễ dàng. II. CÁC VẤN ĐỀ LIÊN QUAN ĐẾN VIỆC XÂY DỰNG LUẬT CHỨNG KHOÁN 1. SỰ CẦN THIẾT PHẢI XÂY DỰNG LUẬT CHỨNG KHOÁN Trong giai đoạn đầu xây dựng TTCK, việc chúng ta xây dựng Nghị định về CK và TTCK là hoàn toàn phù hợp, đáp ứng được các yêu cầu, đòi hỏi trước mắt của TTCK. Tuy nhiên, để thị trường nhanh chóng ổn định và phát triển, đáp ứng được các yêu cầu của nền kinh tế, chúng ta cần phải xây dựng Luật Chứng khoán. Việc xây dựng luật Chứng khoán có nhiều ưu điểm, trong đó có một số ưu điểm nổi bật, đó là: 1.1.Hiệu lực pháp lý cao Như đã phân tích ở phần trước, tất cả các văn bản về CK&TTCK đều là các văn bản dưới luật. Do đó, những hạn chế nảy sinh khi áp dụng các văn bản này trong thực tế một phần cũng là do hiệu lực pháp lý của chúng thấp. Luật Chứng khoán do Quốc hội ban hành, vì vậy hiệu lực pháp lý của nó sẽ rất cao. Đồng thời Luật Chứng khoán cũng tạo ra một môi trường pháp lý có tính ổn định, bền vững hơn. Đây là một trong những yếu tố quan trọng đối với sự phát triển của TTCK. Luật Chứng khoán khi được ban hành sẽ tạo tâm lý ổn định, yên tâm cho các tổ chức, cá nhân khi tham gia kinh doanh, đầu tư vào TTCK, và từ đó thu hút được các tổ chức, cá nhân tham gia, thúc đẩy nhanh chóng sự phát triển của thị trường. 1.2.Phạm vi điều chỉnh rộng Nếu như các văn bản pháp luật về CK&TTCK hiện hành có phạm vi điều chỉnh hết sức hạn hẹp, thì phạm vi điều chỉnh của Luật Chứng khoán sẽ rộng hơn. Luật Chứng khoán không chỉ điều chỉnh các chứng khoán niêm yết trên thị trường giao dịch tập trung, mà nó còn điều chỉnh các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn niêm yết (các chứng khoán được giao dịch ở thị trường phi tập trung (thị trường OTC) ....). Các vấn đề như thành lập, tổ chức, hoạt động, quản lý đối với thị trường OTC, các quy định về Hiệp hội chứng khoán (thành lập, quyền hạn, nhiệm vụ, thành viên, quản lý thành viên....) cũng sẽ được quy định hết sức cụ thể trong Luật Chứng khoán. 1.3.Giải quyết xung đột với văn bản quy phạm pháp luật khác Luật Chứng khoán là văn bản có hiệu lực pháp lý cao và là luật chuyên ngành về CK&TTCK, vì vậy trong quá trình áp dụng nếu có sự không thống nhất hoặc có xung đột giữa các quy định trong Luật Chứng khoán và các quy định trong các văn bản pháp luật khác về lĩnh vực chứng khoán và TTCK thì các quy định trong Luật Chứng khoán sẽ được áp dụng. Như vậy, việc ban hành Luật Chứng khoán sẽ giải quyết triệt để các điểm mâu thuẫn, xung đột giữa các văn bản quy phạm pháp luật trong lĩnh vực CK&TTCK như hiện nay, tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho sự tồn tại và phát triển của thị trường. 1.4.Hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế Hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật về kinh tế nói riêng của chúng ta đang ngày càng được củng cố và hoàn thiện.Việc ban hành Luật Chứng khoán cũng nhằm mục đích để hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung cũng như hoàn thiện hệ thống pháp luật về kinh tế nói riêng. Bởi Luật Chứng khoán ra đời nó không chỉ trực tiếp điều chỉnh những hoạt động liên quan đến CK&TTCK, mà nó còn gián tiếp điều chỉnh và có ảnh hưởng đến các hoạt động kinh tế khác. Thêm vào đó, một khi hệ thống pháp luật về kinh tế được hoàn thiện sẽ tạo ra một môi trường pháp lý hết sức thuận lợi cho sự phát triển các nền kinh tế, trong đó có sự phát triển của TTCK. 2. NHỮNG CĂN CỨ ĐỂ TIẾN HÀNH XÂY DỰNG LUẬT CHỨNG KHOÁN 2.1.Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về xây dựng khung pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Trước hết là về chủ trương xây dựng TTCK. Có thể nói chủ trương này xuất phát từ chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước. Chủ trương cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước được khởi xướng từ năm 1987, năm 1992 bắt đầu thực hiện thí điểm, và đến năm 1998, Chính phủ đã ban hành Nghị định 44/CP để tiến hành thực hiện thực hiện cổ phần hoá một cách đại trà. Nội dung của chủ trương cổ phần hoá chính là “cổ phần hoá doanh nghiệp nhà nước là nhằm: tạo ra loại hình doanh nghiệp có nhiều chủ sở hữu trong đó có đông đảo người lao động, để sử dụng có hiệu quả vốn, tài sản của Nhà nước và huy động thêm vốn xã hội vào phát triển sản xuất, kinh doanh; tạo động lực mạnh mẽ và cơ chế quản lý năng động, có hiệu quả cho doanh nghiệp nhà nước; phát huy vai trò làm chủ thực sự của người lao động, của cổ đông và tăng cường sự giám sát của xã hội đối với doanh nghiệp; bảo đảm hài hoà lợi ích của nhà nước, doanh nghiệp, người lao động và nhà đầu tư” (*) “Nhà nước ban hành cơ chế chính sách phù hợp đối với doanh nghiệp nhà nước đã chuyển sang công ty cổ phần. Sửa đổi chính sách ưu đãi đối với doanh nghiệp cổ phần hoá theo hướng ưu đãi hơn đối với những doanh nghiệp khi cổ phần hoá có khó khăn”. (**) Xuất phát từ chủ trương trên, trong thời gian qua, chúng ta đã tiến hành cổ phần hoá được một số doanh nghiệp. Mặc dù kết quả của tiến trình cổ phần không gặt hái được nhiều thành công như mong đợi. Song kết quả đáng được ghi nhận mà cổ phần hoá đem lại chính là nó đã làm cơ sở, nền tảng để chúng ta bước đầu tiến hành xây dựng mô hình sơ khai của TTCK nước ta. Hiện nay, Chính phủ đã tiến hành xây dựng và đang tìm hướng hoàn thiện mô hình TTCK, để cũng không nằm ngoài mục đích là sao cho TTCK lại có thể là yếu tố quyết định, là động lực thúc đẩy tiến trình cổ phần hoá diễn ra mạnh mẽ và hiệu quả hơn. Và một trong những phương hướng của Đảng và Nhà nước nhằm làm cho TTCK ngày càng ổn định và phát triển chính là việc hoàn thiện khung pháp luật về CK&TTCK. Quan điểm chỉ đạo của Đảng và Nhà nước về xây dựng khung pháp luật cho giai đoạn đầu phát triển TTCK là phải đảm bảo đáp ứng được tính linh hoạt, biến động của TTCK. Mặt khác, việc xây dựng các văn bản pháp luật về CK & TTCK phải đảm bảo sự thống nhất, đồng bộ, phù hợp với các văn bản pháp luật khác, và cùng với sự phát triển của TTCK thì khung pháp luật về CK & TTCK cũng được hoàn thiện dần từ thấp đến cao (từ Nghị định đến Luật). Xuất phát từ quan điểm chỉ đạo đó, trong giai đoạn đầu chúng ta chỉ xây dựng các văn bản pháp luật về CK &TTCK ở cấp Nghị định của Chính phủ, Quyết định của Thủ tướng Chính phủ và các văn bản hướng dẫn của UBCKNN. Các văn bản pháp luật trên cùng với các văn bản pháp luật có liên quan đã tạo ra khuôn khổ pháp luật cần thiết cho TTCK ra đời và bước đầu hoạt động tương đối suôn sẻ. (*), (**) Trích dẫn trong Nghị quyết Hội nghị lần thứ ba Ban chấp hành Trung ương Đảng khoá IX về tiếp tục sắp xếp, đổi mới, phát triển và nâng cao hiệu qủa doanh nghiệp nhà nước. Thêm vào đó, để tạo môi trường pháp lý thuận lợi cho TTCK ngày càng ổn định và phát triển, trên cơ sở nhận thức rõ vị trí, vai trò tầm quan trọng của Luật Chứng khoán đối với sự phát triển của TTCK ở Việt Nam, Quốc hội khoá X đã đưa Luật Chứng khoán vào chương trình xây dựng luật trong Nghị quyết của Quốc hội khoá X. UBCKNN là cơ quan được giao làm đầu mối để tiến hành xây dựng Luật Chứng khoán. 2.2.Tổng kết, đánh giá kết quả thực thi pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán. Đây là một bước rất quan trọng trong quá trình chuẩn bị xây dựng Luật Chứng khoán. Việc tổng kết, đánh giá kết qủa thực thi pháp luật về TTCK trong thời gian qua giúp chúng ta tìm ra những ưu điểm để phát huy, đồng thời tìm ra những điểm hạn chế, bất cập cần phải sửa đổi bổ sung. Mặt khác, tìm ra những điểm còn thiếu, chưa quy định để đưa vào điều chỉnh trong Luật Chứng khoán. Việc tổng kết, đánh giá cũng sẽ giúp điều chỉnh kịp thời những quy định của pháp luật sao cho phù hợp, thích ứng với sự phát triển của nền kinh tế nói chung và của TTCK nói riêng. 2.3.Đánh giá thực trạng khung pháp luật về kinh tế Hệ thống pháp luật trong thời gian qua không ngừng được củng cố và hoàn thiện. Tuy nhiên, có thể thấy hệ thống pháp luật của chúng ta vẫn còn nhiều điểm bất cập, còn thiếu một số quy định cần thiết. Mặt khác, vẫn còn một số quy định chưa có sự thống nhất cao. Chính vì vậy, khi xây dựng Luật Chứng khoán, chúng ta cần chú ý tới những mối quan hệ chung và mối quan hệ trong hệ thống pháp luật về kinh tế nói riêng (như đã nói đến ở trên) để tạo ra sự thống nhất và hoàn chỉnh. 2.4.Tham khảo kinh nghiệm xây dựng Luật Chứng khoán ở một số nước Thực tế cho thấy, những nước có TTCK phát triển là những nước có hệ thống pháp luật khá hoàn chỉnh. TTCK Mỹ là thị trường phát triển nhất trên thế giới, và có thể nói hệ thống pháp luật về TTCK của Mỹ cũng là một trong những hệ thống pháp luật hoàn chỉnh nhất trên thế giới. Để điều chỉnh hoạt động của TTCK, nước Mỹ đã ban hành Luật Chứng khoán vào năm 1933 và Luật về Sở GDCK vào năm 1934, Luật Công ty, Luật Bảo vệ các nhà đầu tư... TTCK Nhật Bản là thị trường phát triển thứ hai trên thế giới, và Nhật Bản cũng có một hệ thống pháp luật về TTCK tương đối hoàn chỉnh. Nhật Bản ban hành Luật Chứng khoán và GDCK vào năm 1947 (Luật này thay thế các luật về kinh doanh chứng khoán, luật về bảo lãnh chứng khoán, luật về bán trả góp chứng khoán). Bên cạnh đó, Nhật Bản cũng ban hành nhiều luật khác, như Luật quản lý tư vấn đầu tư chứng khoán năm 1986.... Tuy nhiên, không phải các nước có TTCK phát triển ngay một lúc đã có một hệ thống pháp luật hoàn chỉnh, mà để đạt được kết qủa đó, họ cũng phải trải qua một thời gian tương đối dài. Trong giai đoạn đầu phát triển TTCK, các văn bản pháp luật thường chỉ dừng ở cấp Chính phủ ban hành (như Nghị định, Sắc lệnh...), sau đó các nước đó mới xây dựng các luật về TTCK trên cơ sở các văn bản pháp luật hiên hành, sau khi đã trải qua một thời gian thử nghiệm (như Hàn Quốc, Thái Lan, Trung Quốc...). Như vậy, khi xây dựng Luật Chứng khoán ở Việt Nam, trước hết chúng ta phải dựa trên quan điểm chỉ đạo của Đảng, Nhà nước về xây dựng hệ thống pháp luật nói chung và pháp luật chứng khoán nói riêng. Đồng thời, chúng ta tổng kết, đánh giá thực tiễn thi hành pháp luật về CK & TTCK trong thời gian qua, kết hợp với việc học hỏi kinh nghiệm xây dựng luật về CK & TTCK của một số nước trên thế giới để từ đó xây dựng Luật Chứng khoán với nội dung phù hợp với điều kiện của Việt Nam. 3. NHỮNG NỘI DUNG CHÍNH CẦN ĐIỀU CHỈNH TRONG LUẬT CHỨNG KHOÁN Trước hết, Luật Chứng khoán cần được xây dựng trên cơ sở kế thừa có chọn lọc một số quy định trong Nghị định 48/1998NĐ-CP, đồng thời sửa đổi bổ sung một số quy định cho phù hợp, đáp ứng yêu cầu của thực tế. Những quy định trong Luật Chứng khoán nên thể hiện sự khái quát, bao trùm, còn những vấn đề cụ thể, chi tiết nên quy định ở các văn bản hướng dẫn Luật Chứng khoán. Trên tinh thần đó, Luật Chứng khoán cần bao gồm những nội dung chính sau: 3.1.Những nội dung mang tính chất kế thừa Có một số nội dung trong Nghị định 48/1998/NĐ- CP đã được quy định tương đối đầy đủ, cụ thể và mang tính chất định hướng, vì vậy các nội dung đó có thể vẫn còn phù hợp trong tương lai. Do đó, trong quá trình xây dựng Luật Chứng khoán, chúng ta cần kế thừa có chọn lọc các nội dung đó để quy định trong Luật Chứng khoán. Cụ thể là: Đối với chương Phát hành chứng khoán ra công chúng: Nhìn chung, nội dung cơ bản của các quy định về phát hành chứng khoán ra công chúng trong Nghị định 48/CP sẽ được kế thừa lại hoàn toàn (trừ điều 6 - Điều kiện phát hành cổ phiếu lần đầu) và chỉ bổ sung thêm một số nội dung cho cụ thể và rõ ràng hơn mà thôi; Đối với chương Công ty chứng khoán: Luật Chứng khoán nên kế thừa tất cả các điều trừ các điều:điều 30 - Điều kiện được cấp giấy phép hoạt động; điều 38- Quyền và nghĩa vụ của công ty chứng khoán (sẽ được nêu phương hướng sửa đổi ở phần sau); Đối với chương Các hành vi bị cấm và hạn chế, sẽ kế thừa tất cả các điều trừ điều 69 - Bán khống- (phương hướng sửa đổi cũng xin được nêu cụ thể ở phần sau) Đối với các chương còn lại, Luật Chứng khoán cũng sẽ kế thừa hoàn toàn. 3.2.Một số nội dung cần có sự sửa đổi, bổ sung a.Phạm vi điều chỉnh Pháp luật về TTCK hiện hành mới chỉ điều chỉnh các chứng khoán niêm yết trên TTCK tập trung là chưa thể hiện sự bao trùm và chưa đáp ứng được yêu cầu của thực tế, vì số lượng các loại chứng khoán niêm yết là rất nhỏ so với số lượng chứng khoán không niêm yết trên TTCK. Mặt khác, quy định này cũng chưa phù hợp với thông lệ chung trên thế giới. Hệ thống pháp luật về CK &TTCK của các nước thường điều chỉnh cả chứng khoán niêm yết trên TTCK tập trung và chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC, chứng khoán phát hành ra công chúng nhưng chưa niêm yết trên thị trường tập trung và thị trường OTC. Để nâng cao hiệu quả hoạt động của TTCK, đáp ứng yêu cầu thực tế, bảo đảm các chứng khoán khi phát hành có chất lượng tốt và được quản lý, giám sát chặt chẽ, từ đó bảo vệ quyền lợi của các nhà đầu tư, Luật Chứng khoán cần mở rộng phạm vi điều chỉnh đối với các loại chứng khoán, đó là: Luật Chứng khoán không chỉ điều chỉnh các loại chứng khoán niêm yết trên TTCK tập trung mà nó còn điều chỉnh các loại chứng khoán giao dịch trên thị trường OTC. Mặt khác, cũng cần sửa đổi, bổ sung các điều kiện để chứng khoán được niêm yết trên TTCK tập trung và những trường hợp chứng khoán bị huỷ bỏ niêm yết. b. Phát hành chứng khoán để niêm yết trên TTCK nước ngoài và cho phép chứng khoán nước ngoài niêm yết trên TTCK Việt Nam Trước yêu cầu đòi hỏi về huy động mọi nguồn vốn cho đầu tư, sản xuất, (trong đó có cả việc huy động các nguồn vốn từ bên ngoài) và trước nhu cầu hội nhập của nền kinh tế thế giới thì việc cho phép các tổ chức phát hành được phát hành chứng khoán để niêm yết, giao dịch trên TTCK nước ngoài là hoàn toàn phù hợp và cần thiết. Đồng thời, để khuyến khích TTCK Việt Nam phát triển, nhanh chóng hội nhập với TTCK thế giới, chúng ta cũng nên cho phép các chứng khoán nước ngoài được niêm yết, giao dịch trên TTCK Việt Nam. Luật pháp các nước (Mỹ, Nhật, Anh, Trung Quốc ...) đều có những quy định tương đối cụ thể về việc phát hành chứng khoán để niêm yết ở TTCK nước ngoài và cho phép chứng khoán nước ngoài được niêm yết, giao dịch tại TTCK nước mình. Ở nước ta, việc thu hút nguồn vốn từ nước ngoài thông qua phát hành trái phiếu, cổ phiếu ra nước ngoài cũng đã được đề cập đến trong kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội năm 2001 của Chính phủ. Cho nên, những vấn đề này cần được nghiên cứu, xem xét để đưa vào nội dung điều chỉnh của Luật Chứng khoán. c. Thị trường OTC Hiện nay, số lượng chứng khoán không niêm yết, giao dịch trên TTCK tập trung là rất lớn, và các chứng khoán đó vẫn được giao dịch trên thị trường chứng khoán tự do. Tuy nhiên, việc giao dịch các loại chứng khoán này gặp phải rất nhiều khó khăn do cơ chế chuyển nhượng không rõ ràng, không có thị trường chính để giao dịch… Vì vậy mà người có nhu cầu bán và người có nhu cầu mua ít khi gặp được nhau, từ đó dẫn đến khả năng thanh khoản không cao, giá cả chứng khoán không có sự thống nhất, thiếu sự quản lý và dễ dẫn đến sự lừa đảo trong các giao dịch chứng khoán. Các nước khi xây dựng TTCK, ngoài việc thành lập các sở giao dịch tập trung họ còn thành lập thị trường OTC - thị trường phi tập trung - để tiến hành giao dịch các loại chứng khoán khác nhau. Chính điều này đã tạo ra sự sôi động, hấp dẫn trong hoạt động của TTCK, và là một trong những yếu tố quan trọng dẫn đến sự phát triển của TTCK. Để tạo thuận lợi trong giao dịch cho các loại chứng khoán không đủ tiêu chuẩn niêm yết, chúng ta nên thành lập thị trường OTC bên cạnh TTCK tập trung. Việc thành lập thị trường OTC sẽ giúp cho các chứng khoán không đủ tiêu chuẩn niêm yết trên TTCK tập trung có địa điểm giao dịch, kích thích yếu tố cung cầu, nâng cao khả năng thanh khoản của chứng khoán và từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho các tổ chức phát hành khi muốn huy động vốn thông qua hình thức phát hành các loại chứng khoán này. Những nội dung chính cần quy định trong Luật Chứng khoán về thị trường OTC, đó là: điều kiện thành lập và cơ chế quản lý thị trường OTC; thành viên và quản lý thành viên; điều kiện niêm yết, giao dịch và thanh toán chứng khoán; chế độ thông tin, báo cáo, kiểm tra, giám sát trên thị trường OTC... d. Hiệp hội chứng khoán Hiệp hội chứng khoán (HHCK) hoạt động với tư cách là một tổ chức tự quản, các thành viên là các công ty chứng khoán, các nhà môi giới, kinh doanh chứng khoán. HHCK được thành lập nhằm mục đích quản lý và hỗ trợ các thành viên trong việc nâng cao trình độ, kiến thức, kinh nghiệm, đạo đức nghề nghiệp. Mặt khác, HHCK còn tham gia quản lý, giám sát hoạt động giao dịch chứng khoán trên TTCK (thường là trên thị trường OTC). Chính vì vậy, HHCK có một vị trí, vai trò rất quan trọng đối với quá trình phát triển của TTCK. Các nước khi phát triển TTCK đều chú trọng đến việc thành lập HHCK (có nhiều nước quy định công ty chứng khoán bắt buộc phải tham gia HHCK). Trong giai đoạn đầu hình thành TTCK, chúng ta chưa có quy định về HHCK, nhưng khi TTCK phát triển thì việc ban hành các quy định trong Luật Chứng khoán để điều chỉnh hoạt động của HHCK là một yêu cầu, đòi hỏi tất yếu khách quan, phù hợp với thông lệ chung trên thế giới. Những nội dung chính quy định đối với HHCK, đó là: thành lập và quản lý HHCK; chức năng và nhiệm vụ của HHCK; thành viên; cơ chế giám sát hoạt động của HHCK;... e. Hoà giải và giải quyết tranh chấp Các tranh chấp trong lĩnh vực chứng khoán thường xảy ra và việc giải quyết các tranh chấp này gặp phải không ít khó khăn do tính đặc thù của các loại tranh chấp này. Việc giải quyết các tranh chấp này phải được tiến hành nhanh, gọn, kịp thời với thủ tục đơn giản nhưng chặt chẽ và được tiến hành bởi một cơ quan có chuyên môn cao về CK & TTCK. Vì vậy, việc tiến hành giải quyết các tranh chấp này theo thủ tục, trình tự và cơ quan giải quyết như đối với các tranh chấp thông thường khác thì sẽ không đáp ứng được yêu cầu. Các nước thường có những quy định rất cụ thể về việc hoà giải giữa các bên khi xảy ra tranh chấp, và nếu việc hoà giải không đạt kết quả thì tranh chấp sẽ được giải quyết thông qua một số tổ chức (thường là do Sở GDCK, HHCK hoặc có thể là một đơn vị thuộc cơ quan quản lý Nhà nước về CK & TTCK đứng ra giải quyết). Để các tranh chấp về chứng khoán được giải quyết nhanh chóng, kịp thời, đạt hiệu quả cao, Luật Chứng khoán nên có những quy định về hoà giải và giải quyết các tranh chấp về chứng khoán. Các tranh chấp về chứng khoán trước hết do các bên tự giải quyết thông qua thương lượng, hoà giải. Trong trường hợp các bên thương lượng, hoà giải không đạt được kết quả thì tổ chức có thẩm quyền giải quyết tranh chấp là Sở GDCK, HHCK (hoặc có thể là Uỷ ban chứng khoán Nhà nước) sẽ đứng ra giải quyết f. Đối với hành vi mua bán khống Trong điều 69/ chương VIII- Nghị định 48/ NĐ - CP quy định: “Cấm mọi tổ chức, cá nhân bán chứng khoán dưới mọi hình thức khi không sở hữu chứng khoán vào thời điểm giao dịch”. Tuy nhiên, cụm từ “không sở hữu chứng khoán vào thời điểm giao dịch” vẫn chưa rõ ràng, dẫn đến các nhà đầu tư có thể hiểu sai “tư tưởng” của luật. Thực tế, trong thời gian qua, có những thời điểm giá chứng khoán ở Việt Nam tăng nhanh một cách không bình thường. Do đó, có một luồng ý kiến nổi lên là, việc cho vay và mua bán khống chứng khoán nếu được triển khai sẽ giúp tạo ra một số cung giả tạo rất lớn làm TTCK “hạ nhiệt”. Do vậy, họ đã có kiến nghị nên xem xét bỏ điều cấm bán khống. Theo cách lý giải của những người thuộc nhóm ý kiến này thì bán khống là hành động không có chứng khoán cũng bán bằng cách vay chứng khoán để bán và khi chứng khoán hạ sẽ mua theo giá hạ để trả lại cho người cho vay và ăn chênh lệch giá. Bán khống được xem như hình thức “bán non”, có tác dụng làm “hạ nhiệt” và giúp cho thị trường chứng khoán (đặc biệt là TTCK đang đứng trước nguy cơ bong bóng) đi vào ổn định… Cách hiểu trên là chưa đầy đủ. Bởi bán khống còn thể hiện ở một số hình thức khác, đó là thông qua các công cụ tài chính mới như các quyền lựa chọn (options), các hợp đồng tương lai (futures) và chứng khoán phái sinh (derivative)… Bán khống cao cấp khi đó sẽ là việc bán những công cụ tài chính mới chuyên để chống đỡ rủi ro nhưng lại cho những người không có rủi ro. Khi đó, người không có rủi ro sẽ dùng những công cụ này để mua chứng khoán theo giá thực hiện trong hợp đồng rồi bán ra ngoài chợ đen với giá cao hơn để kiếm lời. Tuy nhiên, theo quy định trong luật của Việt Nam thì cấm bán khống không có nghĩa là cấm cả việc dùng các công cụ tài chính mới, làm mất đi ý nghĩa chống đỡ rủi ro của chúng. Cấm bán khống ở đây phải được hiểu là cấm bán những công cụ chống đỡ rủi ro cho những người không có rủi ro. Quy định này là hợp lý, bởi theo đó, nó đòi hỏi người thực hiện hành vi mua bán khống phải xuất trình những chứng cớ rủi ro. Như thế sẽ ngăn chặn được các nhà đầu cơ muốn gây khủng hoảng. Chính lẽ đó, trong Luật chứng khoán cần bổ sung các nội dung cụ thể, rõ ràng về hành vi cấm bán khống. Theo đó, cấm bán khống cần được hiểu là cấm hành vi không có chứng khoán cũng vay để bán, cấm việc bán các công cụ tài chính mới cho những người không có rủi ro về thị giá chứng khoán và lãi suất. Các ngân hàng cũng bị cấm không được cho vay tiền để thực hiện các hợp đồng đầu cơ bán khống để phòng người Việt Nam và người nước ngoài mua các công cụ tài chính mới ở TTCK nước ngoài về đầu cơ phá hoại thị trường tiền tệ và tài chính trong nước. g. Bãi bỏ quy định bắt buộc phải qua phê duyệt của Thủ tướng chính phủ đối với việc mua cổ phần của cá nhân người nước ngoài Trong Quyết định số 145/1999/QĐ - TTg ngày 28 tháng 6 năm 1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài, có quy định: “Trình tự việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài: 1. Các doanh nghiệp nhà nước thực hiện cổ phần hoá lập phương án theo trình tự quy định trong Nghị định số 44/1998/NĐ - CP ngày 29 tháng 6 năm 1998 của Chính phủ và các văn bản hướng dẫn kèm theo của các Bộ, trong đó nêu rõ: tỷ lệ cổ phần sẽ bán cho nhà đầu tư nước ngoài, tỷ lệ cổ phần nhà nước ( nếu có) và tỷ lệ cổ phần bán cho các cá nhân, pháp nhân trong nước; tổ chức bảo lãnh hoặc đại lý phát hành cổ phiếu. Các công ty cổ phần cũng phải lập phương án bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài theo những nội dung trên trình Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương. 2. Phương án cổ phần hoá và bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài được gửi đến Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương hoặc Bộ quản lý ngành hoặc Hội đồng quản trị Tổng công ty nhà nước do thủ tướng Chính phủ quyết định thành lập (Tổng công ty 91). 3. Uỷ ban nhân dân tỉnh, thành phố trực thuộc Trung ương; Bộ quản lý ngành, Hội đồng quản trị Tổng công ty 91 có trách nhiệm thẩm định phương án của từng doanh nghiệp trình Thủ tướng Chính phủ quyết định. 4. Sau khi có quyết định của Thủ tướng Chính phủ, doanh nghiệp ký hợp đồng với cơ quan bảo lãnh và thông báo trên các phương tiện thông tin đại chúng về việc bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài và tổ chức thực hiện xong trong thời gian tối đa không quá 6 tháng kể từ ngày có quyết định của Thủ tướng Chính phủ” (điều 15 - Mục III) “Thẩm quyền quyết định bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài: Tất cả các doanh nghiệp có bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài đều do Thủ tướng Chính phủ quyết định” (điều 16 - Mục III) Có thể nói quy định trên đây là quá phức tạp và không cần thiết. Bởi cá nhân người nước ngoài khi tham gia mua cổ phần thì cũng như các chủ thể khác đã có sự giám sát của luật chơi chung. Trong đó các cổ đông khác, Ban giám sát và hội đồng quản trị của công ty vì lợi ích của mình chắc chắn sẽ theo dõi, giám sát khá chặt chẽ, nhằm đảm bảo cá nhân nước ngoài thực thi đúng theo các quy định của pháp luật. Mặt khác, theo Hiệp định thương mại Việt – Mỹ, các nhà đầu tư Mỹ có quyền được đối xử bình đẳng với các nhà đầu tư trong nước và do đó việc phê duyệt của Thủ tướng Chính phủ đối với việc mua cổ phần của các nhà đầu tư mang quốc tịch Mỹ là không hợp lý. Từ đó, kéo theo yêu cầu của các nhà đầu tư có quốc tịch khác cũng cần được đối xử bình đẳng trong một môi trường đầu tư ngày càng hoàn thiện theo hướng mở cửa, thông thoáng. Hơn nữa, trong thời gian vừa qua, với tinh thần thi hành Luật Doanh nghiệp, các nhà quản lý đầu tư đang rà soát, bãi bỏ hàng loạt các giấy phép con, thì quy định phê duyệt của Thủ tướng đối với việc mua cổ phần của cá nhân người nước ngoài được coi là một hình thức biến tướng của giấy phép con, vì nó chồng chéo với các quy định của pháp luật và thực sự là một thủ tục rườm rà, mang nặng tính hình thức. Do đó khi xây dựng Luật chứng khoán, chúng ta cần loại bỏ quy định khắt khe này để tạo điều kiện thuận lợi hơn cho nhà đầu tư nước ngoài khi tham gia vào thị trường chứng khoán Việt Nam. h. Đối với Công ty niêm yết Theo tinh thần của điểm 1, 2 và 3 mục IX- Thông tư số 01/1998/TT-UBCK ngày 13-10- 1998 của UBCKNN hướng dẫn Nghị định số 48/1998/NĐ- CP ngày11-7-1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng, thì các công ty niêm yết chứng khoán trên TTCK phải công bố báo cáo tài chính 3 tháng một lần. Khoảng thời gian này có thể nói là hơi dài, không đáp ứng được yêu cầu cập nhật thông tin đối với các nhà đầu tư. Đối với họ, khoảng thời gian dài như vậy làm gia tăng tính mạo hiểm đối với hoạt động đầu tư của họ. Vì vậy, trong quy định của Luật chứng khoán, việc rút ngắn thời gian công bố báo cáo tài chính là hết sức cần thiết, và nên quy định lại là hàng tháng các công ty niêm yết phải công bố báo cáo tài chính một lần thay vì chỉ công bố theo hàng quý như hiện nay. Ngoài ra, việc nới lỏng các điều kiện về vốn điều lệ của các công ty niêm yết cũng là một yêu cầu cần thiết không thể không được sửa đổi khi ban hành Luật chứng khoán. Hiện nay, theo quy định tại điều 6 Chương II- Nghị định 48/CP thì “Tổ chức phát hành phát hành cổ phiếu lần đầu ra công chúng phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Mức vốn điều lệ tối thiểu là 10 tỷ đồng Việt Nam…”. Thiết nghĩ yêu cầu về mức vốn điều lệ đối với công ty niêm yết như thế là quá cao. Trong khi mà hầu hết các doanh nghiệp cổ phần của chúng ta hiện nay đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ cho nên họ không thể tham gia vào thị trường chứng khoán vì không đạt yêu cầu về mức vốn điều lệ. Chính vì thế, trong Luật chứng khoán, yêu cầu về mức vốn điều lệ tối thiểu đối với các công ty khi tham gia niêm yết trên TTCK nên đặt ở mức là 5 - 6 tỷ đồng. i. Đối với công ty chứng khoán Xin được trích dẫn nội dung của điều 30 chương IV ( Công ty chứng khoán) “Điều kiện được cấp phép hoạt động: Công ty được cấp phép hoạt động chứng khoán phải đáp ứng các điều kiện sau đây: Có phương án hoạt động kinh doanh phù hợp với mục tiêu phát triển kinh tế – xã hội và phát triển ngành chứng khoán; Có đủ cơ sở vật chất, kỹ thuật phục vụ cho việc kinh doanh chứng khoán; Có mức vốn pháp định theo từng loại hình kinh doanh sau: a) Môi giới 3 tỷ đồng b) Tự doanh 12 tỷ đồng c) Quản lý danh mục đầu tư 3 tỷ đồng d) Bảo lãnh phát hành 22 tỷ đồng e) Tư vấn đầu tư chứng khoán 3 tỷ đồng Trường hợp công ty chứng khoán xin cấp giấy phép cho nhiều loại hình kinh doanh thì vốn pháp định là tổng số vốn pháp định của những loại hình kinh doanh mà công ty chứng khoán được cấp phép;…” Có thể nói rằng điều kiện về mức vốn pháp định của tất cả các loại kinh doanh trên đối với công ty chứng khoán đều cao, đặc biệt là đối với các loại hình: môi giới, tự doanh, tư vấn. Trong quy định của Luật Chứng khoán sắp tới nên giảm mức vốn pháp định đối với các loại hình môi giới, tự doanh, tư vấn xuống ở các mức lần lượt là 2 tỷ, 8 tỷ, 2 tỷ. Đặc biệt, việc quy định công ty chứng khoán được cấp phép nhiều loại hình kinh doanh thì vốn pháp định phải bằng tổng số vốn pháp định của các loại hình kinh doanh đó là quá khắt khe, cản trở việc mở rộng kinh doanh của nhiều công ty chứng khoán. Bởi các công ty chứng khoán có muốn kinh doanh một loại hình mới thì lại không tăng được mức vốn của mình lên như theo quy định của luật. Chính vì thế, Luật Chứng khoán nên quy định mức vốn pháp định hợp lý hơn đối với công ty chứng khoán khi tiến hành kinh doanh nhiều loại hình. Chẳng hạn như, Công ty chứng khoán tiến hành kinh doanh hai loại hình là môi giới và quản lý danh mục đầu tư thì chỉ nên quy định mức vốn tối thiểu là 4 tỷ đồng, hoặc công ty chứng khoán khi tiến hành kinh doanh tất cả các loại hình nói trên thì nên quy định mức vốn tối thiểu cần có là 30 tỷ,… Bên cạnh đó, Luật chứng khoán cũng cần được bổ sung các quy định rõ ràng và cụ thể hơn về cách thức nhận lệnh của công ty chứng khoán. Cụ thể là nếu cho phép các công ty chứng khoán được nhận lệnh bằng fax thì cũng phải quy định thêm là: các công ty chứng khoán sau khi nhận lệnh từ khách hàng bằng fax, thì ngoài việc yêu cầu khách xác nhận lại bằng một ký hiệu riêng hoặc bằng một “password” đã quy ước như các công ty chứng khoán vẫn áp dụng hiện nay (đã đề cập ở chương trước), các công ty chứng khoán còn phải yêu cầu khách hàng ngay lập tức phải xác nhận lại bằng văn bản. Khi đó, khoản 4 điều 38 - Chương IV - Nghị định 48/NĐ - CP quy định là công ty chứng khoán “chỉ được nhận lệnh giao dịch của khách hàng tại trụ sở” nên sửa lại là công ty chứng khoán “nhận lệnh giao dịch của khách hàng tại trụ sở; trường hợp nhận lệnh giao dịch của khách hàng bằng các phương thức gián tiếp thì bắt buộc phải yêu cầu khách hàng phải xác nhận lại bằng văn bản chứng thực” j. Một số nội dung khác Ngoài những nội dung chính cần sửa đổi và bổ sung như đã nêu ở trên, Luật chứng khoán còn cần phải bổ sung thêm những nội dung sau: - Đưa ra các quy định bình đẳng và thống nhất trong chính sách ưu đãi về thuế, phí và lệ phí đối với các nhà đầu tư trong và ngoài nước (thuế giá trị gia tăng; thuế thu nhập; các loại phí, lệ phí khi tham gia kinh doanh, mua bán chứng khoán; - Bổ sung những quy định về cách giải quyết việc nắm giữ chứng khoán vượt tỷ lệ quy định của nhà đầu tư nước ngoài; - Bổ sung quy định về việc mua lại cổ phiếu theo yêu cầu của cổ đông hay mua lại cổ phiếu theo yêu cầu Hội đồng quản trị; - Bổ sung quy định về quan hệ uỷ quyền trong giao dịch chứng khoán; hoạt động tư vấn đầu tư chứng khoán; các quy định về quản lý ngoại hối;… KẾT LUẬN Như vậy, để cho thị trường chứng khoán Việt Nam thực sự là kênh huy động vốn cho nền kinh tế, phục vụ cho công cuộc công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước đòi hỏi chúng phải giải quyết được một số vấn đề then chốt, đó là: - Phải tạo ra một khối lượng chứng khoán đủ lớn, có chất lượng, có khả năng thu hút đầu tư; - Tổ chức được một hệ thống các công ty môi giới chứng khoán hoạt động có hiệu quả và không ngừng nâng cao năng lực kinh doanh có hiệu quả cho tổ chức này; - Tạo ra nhu cầu đầu tư chứng khoán và không ngừng tăng lên; - Có cơ sở vật chất tối thiểu cần thiết cùng với đội ngũ cán bộ quản lý và các nhân viên tác nghiệp giỏi, am hiều về TT&TTCK; Và đặc biệt là phải có hệ thống pháp luật đảm bảo an toàn cho việc phát hành, đầu tư và kinh doanh chứng khoán. Sở dĩ vấn đề về hệ thống pháp luật được coi là quan trọng, bởi vì như đã phân tích, hệ thống pháp luật có ảnh hưởng rất lớn và chi phối tất cả các hoạt động liên quan đến CK & TTCK. Một khi hệ thống pháp luật về CK & TTCK không thống nhất và không hoàn chỉnh thì sẽ không thể tạo cho TTCK một sự ổn định và phát triển lành mạnh được. Cho nên, chúng ta cần phải nhận thức được điều này và nhanh chóng có những sửa đổi, bổ sung kịp thời đối với hệ thống pháp luật về CK & TTCK hiện hành để sớm có được một hệ thống pháp luật về lĩnh vực này hoàn chỉnh hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nghị định số 48/1998/NĐ- CP ngày 11-7-2000 của Chính phủ về chứng khoán và thị trường chứng khoán; 2. Quyết định số 139/1999/QĐ-TTg ngày 10-6- 1999 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam; 3. Quyết định số 145/1999/QĐ-TTg ngày 28-6- 1999 của Thủ tướng Chính phủ về ban hành Quy chế bán cổ phần cho nhà đầu tư nước ngoài; 4. Quyết định số 172/1999/QĐ-TTg ngày 19-8- 1999 của Thủ tướng Chính phủ về việc các tổ chức tín dụng thành lập Công ty chứng khoán và tham gia niêm yết chứng khoán; 5. Quyết định số 39/2000/QĐ-TTg ngày 27-3- 2000 của Thủ tướng Chính phủ quy định tạm thời ưu đãi về thuế đối với hoạt động kinh doanh chứng khoán; 6. Thông tư số 01/1998/TT-UBCK ngày 13-10- 1998 của UBCKNN hướng dẫn Nghị định số 48/1998/NĐ- CP ngày11-7-1998 về phát hành cổ phiếu, trái phiếu ra công chúng; 7. Thông tư số 01/1999/TT-UBCK1 ngày 30-12-1999 của Uỷ ban Chứng khoán Nhà nước hướng dẫn Quyết định 139/1999/QĐ-TTg ngày 10-6-1999 của Thủ tướng Chính phủ về tỷ lệ tham gia của bên nước ngoài vào thị trường chứng khoán Việt Nam; 8. Giáo trình Thị trường chứng khoán / TS . Lê Hoàng Nga – Học viện Ngân hàng / Nhà xuất bản Thống kê - 2001; 9. Các văn bản pháp luật về chứng khoán và thị trường chứng khoán/ Nhà xuất bản Chính trị quốc gia – 2000; 10. Luật Đầu tư trực tiếp nước ngoài tại Việt Nam 1997; 11. Luật Doanh nghiệp 2000; 12. Luật các tổ chức tín dụng 1997; 13. Tạp chí Chứng khoán, Số 2 – tháng 2/2001; 14. Tạp chí Chứng khoán, Số 4 – tháng 4/2001; 15. Tạp chí Chứng khoán, Số 5 – tháng 5/2001; 16. Tuần báo Đầu tư chứng khoán, Số 101– 12/ 11/ 2001; 17. Tuần báo Đầu tư chứng khoán, Số 106 – 17/ 12/ 2001; 18. Tuần báo Đầu tư chứng khoán, Số 118 – 11/ 3/ 2002; 19. Tuần báo Đầu tư chứng khoán, Số 119 – 18/ 3/ 2002; 20. Tuần báo Đầu tư chứng khoán, Số 125 – 29/ 4/ 2002; 21. Tuần báo Đầu tư chứng khoán, Số 127 – 13/ 5/ 2002; 22. Tuần báo Đầu tư chứng khoán, Số 136 – 15/ 7/ 2002;

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docnoi dung.doc
Tài liệu liên quan