Khóa luận Pháp luật về huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 KHÁI QUÁT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN VÀ CÁC HÌNH THỨC HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG THEO PHÁP LUẬT VIỆT NAM 3 1. Khái niệm, vai trò và sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam 3 1.1. Huy động vốn và vai trò của huy động vốn đối với các Tổ chức tín dụng 3 1.2. Những nhân tố ảnh hưởng đến hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng 4 1.2.1. Nhân tố khách quan 4 1.2.2. Nhân tố chủ quan 6 1.3. Sự cần thiết phải điều chỉnh bằng pháp luật đối với hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam 8 2. Kết cấu pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng 9 2.1. Huy động vốn bằng nhận tiền gửi 10 2.1.1. Khái niệm tiền gửi 10 2.1.2. Các loại tiền gửi 13 2.2. Huy động vốn thông qua việc phát hành giấy tờ có giá 16 2.3. Huy động vốn bằng việc vay vốn giữa các Tổ chức tín dụng 18 2.4. Huy động vốn thông qua vay vốn của Ngân hàng Nhà nước 19 CHƯƠNG II 21 THỰC TRẠNG PHÁP LUẬT ĐIỀU CHỈNH HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG Ở VIỆT NAM 21 1. Nội dung chủ yếu của pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam 21 1.1. Các quy định của pháp luật về quản lý Nhà nước đối với hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam 21 1.2. Các quy định pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam 23 1.3. Các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá 27 1.4. Các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng việc vay vốn của các Tổ chức tín dụng khác 29 1.5. Các quy định của pháp luật về huy động vốn thông qua việc vay vốn của Ngân hàng Nhà nước 30 2. Thực tiễn thi hành pháp luật về huy động vốn của các tổ chức tín dụng 31 2.1. Những thành tựu đạt được trong hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở một số địa phương 31 2.1.1. Kết quả huy động vốn của các Tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội 31 2.1.2. Kết quả huy động vốn của các Tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh 32 2.2. Một số tồn tại, hạn chế mà các Tổ chức tín dụng Việt Nam gặp phải trong quá trình huy động vốn 33 2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên và một số giải pháp khắc phục 35 2.3.1. Nhân tố tích cực 35 2.3.2. Nhân tố tiêu cực 37 2.3.3. Một số giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên 38 CHƯƠNG III 40 ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG 40 HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM 40 1. Những yêu cầu cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam 40 2. Một số đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam 43 2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật 43 2.2. Một số đề xuất cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn cho các Tổ chức tín dụng Việt Nam 48 2.2.1. Đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền 48 2.2.2. Đối với các Tổ chức tín dụng 48 KẾT LUẬN 50 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 51

doc55 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2216 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Pháp luật về huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng ngay cùng một văn bản luật đã không có sự nhất quán. Một chứng minh tương tự: Tại điểm a, mục 1, điều 16 Nghị định số 16/2001/NĐ-CP của Chính phủ ngày 02/05/2001 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính quy định “Công ty cho thuê tài chính được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên của tổ chức, cá nhân theo các quy định của Ngân hàng Nhà nước”; tại Điều 32 Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/03/1999 về tổ chức, hoạt động của TCTD nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam quy định “ Công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài có thể được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên, không được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm”. Như vậy, ở đây đã có sự hạn chế quyền huy động vốn bằng nhận tiền gửi của TCTD phi ngân hàng, ngăn cản sự cạnh tranh lành mạnh, gây khó khăn cho các TCTD. Thứ ba, pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi không đảm bảo sự công bằng, chưa phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế. Điều này thể hiện ở chỗ còn có những quy định khác biệt về quyền nhận các loại tiền gửi giữa TCTD có vốn đầu tư trong nước với các TCTD nước ngoài hoạt động tại Việt Nam, các TCTD có vốn đầu tư nước ngoài. Chẳng hạn: khoản 1, điều 30 Nghị định số 13/1999 ngày 17/3/1999 về tổ chức, hoạt động của TCTD nước ngoài, văn phòng đại diện của TCTD nước ngoài tại Việt Nam quy định “Chi nhánh Ngân hàng nước ngoài có thể được nhận tiền gửi có kỳ hạn và không kỳ hạn theo quy định của Ngân hàng Nhà nước, không được nhận tiền gửi tiết kiệm dưới bất kỳ hình thức nào”. Hoặc “Công ty cho thuê tài chính liên doanh, công ty cho thuê tài chính 100% vốn nước ngoài có thể được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên, không được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm”(1) Khoản1, Điều 32 Nghị định số 13/1999/NĐ-CP . Hoặc “ Công ty tài chính liên doanh, công ty tài chính 100% vốn nước ngoài có thể được nhận tiền gửi có kỳ hạn từ một năm trở lên, không được phép nhận tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi tiết kiệm”(2) Khoản1, Điều 33 Nghị định số 13/1999/NĐ-CP . Điều này dẫn đến sự bất bình đẳng trong kinh doanh, hạn chế sự cạnh tranh giữa các TCTD trong nước với TCTD liên doanh, TCTD nước ngoài. Thứ tư, pháp luật về huy động vốn bằng nhận tiền gửi còn một số quy định không cụ thể hoặc chưa được giải thích rõ ràng, đầy đủ. Chẳng hạn, về hình thức gửi tiền được quy định trong rất nhiều văn bản pháp luật khác nhau như: Khoản 1, điều 45 Luật các tổ chức tín dụng năm 1997; khoản 1, điều 3, Nghị định 49/2000/NĐ-CP ngày 12/09/2000 về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại; Quy chế về tiền gửi tiết kiệm ban hành kèm theo Quyết định 1160/QĐ-NHNN ngày 13/09/2000 và một số văn bản khác nữa. Theo quy định trong các văn bản này thì có ba hình thức nhận tiền gửi là: Tiền gửi không kỳ hạn, tiền gửi có kỳ hạn và tiền gửi tiết kiệm; ngoài ra còn có các loại tiền gửi khác do Ngân hàng Nhà nước quy định. Tuy nhiên, pháp luật không có sự phận biệt một cách rõ ràng giữa các hình thức nhận tiền gửi khiến cho khách hàng khó có thể hình dung hết sự khác nhau giữa các loại tiền gửi, do đó gây khó khăn cho họ trong việc lựa chọn hình thức gửi tiền phủ hợp với mục đích của mình. 1.3. Các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng việc phát hành các giấy tờ có giá Trong giai đoạn hiện nay, phát hành giấy tờ có giá là một kênh huy động vốn không kém phần quan trọng đối với các TCTD. Hoạt động này đã được pháp luật quy định tại Điều 46 Luật các tổ chức tín dụng 1997 và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng 2004. Hiện nay, việc phát hành giấy tờ có giá của TCTD được thực hiện theo “Quy chế phát hành giấy tờ có giá của TCTD để huy động vốn trong nước” (ban hành kèm theo Quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04 tháng 01 năm 2004 của thống đốc Ngân hàng Nhà nước). Theo đó: TCTD phát hành giấy tờ có giá là các TCTD được thành lập hoạt động theo Luật các tổ chức tín dụng và Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các TCTD và đáp ứng được các điều kiện quy định tại quy chế, bao gồm: các TCTD nhà nước, các TCTD cổ phần, Quỹ tín dụng nhân dân trung ương, các TCTD liên doanh, các TCTD 100% vốn nước ngoài và các chi nhánh ngân hàng nước ngoài được phép hoạt động tại Việt Nam. Riêng Công ty cho thuê tài chính chỉ được phát hành giấy tờ có giá có thời hạn trên một năm. Người mua giấy tờ có giá gồm: Các tổ chức, cá nhân Việt Nam, các tổ chức, cá nhân nước ngoài đang sinh sống và hoạt động hợp pháp tại Việt Nam. Hình thức phát hành: TCTD phát hành giấy tờ có giá theo hình thức chứng chỉ ghi danh, chứng chỉ vô danh và ghi sổ. Trường hợp phát hành giấy tờ có giá theo hình thức ghi sổ, TCTD phát hành cấp cho người mua chứng nhận quyền sở hữu giấy tờ có giá. Đồng tiền phát hành, lãi suất: Giấy tờ có giá được phát hành bằng đồng Việt Nam hoặc ngoại tệ. Lãi suất giấy tờ có giá do TCTD phát hành quy định phù hợp với lãi suất thị trường, đảm bảo hiệu quả kinh doanh và an toàn hoạt động cho TCTD. Các TCTD thực hiện phát hành giấy tờ có giá theo hai phương thức: Trực tiếp phát hành giấy tờ có giá; phát hành qua TCTD làm đại lý hoặc uỷ thác phát hành giấy tờ có giá. Điều kiện phát hành: TCTD được phát hành giấy tờ có giá ngắn hạn khi tuân thủ đầy đủ các hạn chế để bảo đảm an toàn theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước. TCTD được phát hành giấy tờ có giá dài hạn khi đáp ứng đầy đủ điều kiện: Tuân thủ các hạn chế để đảm bảo an toàn trong hoạt động theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, Luật sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng và hướng dẫn của Ngân hàng Nhà nước; có tình hình tài chính lành mạnh theo đánh giá của thanh tra ngân hàng. Nhìn chung các quy định về phát hành giấy tờ có giá để huy động vốn của các TCTD đã tạo ra một hành lang pháp lý cần thiết để các TCTD có thể thực hiện tốt hoạt động này. Tuy nhiên vẫn còn một số vấn đề tồn đọng khiến cho hoạt động huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá của các TCTD gặp nhiều khó khăn. Đó là: Thứ nhất, về thủ tục phát hành giấy tờ có giá còn quá rườm rà, mất thời gian. Bởi lẽ mỗi khi tiến hành phát hành giấy tờ có giá TCTD không những phải đáp ứng được các điều kiện do pháp luật quy định tại thời điểm đó mà còn phải xin phép Ngân hàng Nhà nước (Thống đốc) và phải chờ một thời gian mới được phép tiến hành hoạt động này(1) Điều 21, 22, 23 Quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005 . Quy định này có thể làm lỡ cơ hội kinh doanh của các TCTD, không đáp ứng được mục đích huy động vốn lớn trong một thời gian ngắn của các TCTD khi tiến hành hoạt động phát hành giấy tờ có giá. Thứ hai, các quy định pháp luật điều chỉnh hoạt động phát hành giấy tờ có giá còn thiếu tính hiệu quả. Thêm vào đó, trình độ tổ chức, năng lực điều hành của các cơ quan quản lý còn thiếu khả năng dự báo thị trường cũng như khả năng can thiệp vào thị trường; ngoài ra sự hiểu biết của công chúng về các loại giấy tờ có giá còn nhiều hạn chế. Những điều này gây khó khăn không nhỏ cho các TCTD khi tiến hành huy động vốn thông qua hình thức này. Vì vậy, pháp luật cần có những quy định phù hợp hơn nhằm hỗ trợ đắc lực cho việc huy động vốn bằng phát hành giấy tờ có giá của các TCTD đạt hiệu quả. 1.4. Các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng việc vay vốn của các Tổ chức tín dụng khác Hiện nay việc vay vốn giữa các TCTD được thực hiện theo quy chế vay vốn giữa các TCTD ban hành kèm theo Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15/01/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước. Sự ra đời của quyết định này đã góp phần điều chỉnh hữu hiệu hoạt động huy động vốn bằng việc vay vốn các TCTD khác, thay thế hàng loạt các văn bản trước đó như: Quyết định số 114/QĐ-NHNN ngày 21/06/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành Quy chế tổ chức và hoạt động của thị trường liên ngân hàng và nội quy hoạt động của thị trường liên ngân hàng; Quyết định số 190/QĐ-NHNN ngày 06/10/1993 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc bổ sung, sửa đổi một số điều của Quy chế và nội quy hoạt động của thị trường liên ngân hàng; Chỉ thị số 07/CT-NH ngày 07/10/1999 về quan hệ tín dụng giữa các TCTD; Quyết định số 130/QĐ-NH ngày 07/07/1993 về lãi suất cho vay trên thị trường liên ngân hàng; Quyết định số 132/ QĐ-NH14 ngày 10/07/1993 về việc thành lập thị trường liên ngân hàng; Quyết định số 134/ QĐ-NH14 ngày 14/07/1993 về công nhận thành viên thị trường liên ngân hàng; Quyết định số 136/ QĐ-NH2 về mức đóng góp kinh phí tham gia thị trường liên ngân hàng; Quyết định số 189/ QĐ-NH14 ngày 06/10/1993 về việc ban hành quy chế bảo lãnh vay vốn trên thị trường liên ngân hàng. Theo Quy chế vay vốn giữa các TCTD ban hanh kèm theo Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 thì “Vay vốn giữa các TCTD là việc cấp tín dụng dưới hình thức cho vay của TCTD (bên cho vay) cho một TCTD khác (bên vay) theo quy định tại Điều 47 Luật các tổ chức tín dụng”(1) Khoản 1, Điều 2 Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 . Các TCTD này được thành lập, hoạt động ở Việt Nam theo quy định của Luật các tổ chức tín dụng, bao gồm: Ngân hàng thương mại, ngân hàng phát triển, ngân hàng đầu tư, ngân hàng chính sách, ngân hàng hợp tác, chi nhánh ngân hàng nước ngoài tại Việt Nam, ngân hàng liên doanh, các TCTD phi ngân hàng, Quỹ tín dụng nhân dân. Các TCTD cho nhau vay vốn ngắn hạn (tối đa đến 12 tháng), trung hạn (từ trên 12 tháng đến 60 tháng) hoặc dài hạn (trên 60 tháng), TCTD phải tổng hợp báo cáo Ngân hàng Nhà nước tình hình thực hiện cho vay và đi vay với các TCTD khác theo quy định của Ngân hàng Nhà nước. Như vậy, pháp luật cũng đã có sự quan tâm tới hình thức huy động vốn bằng việc vay vốn của các TCTD khác, bảo đảm sự thống nhất. Nếu như trước đây hoạt động này được điều chỉnh bằng rất nhiều văn bản khác nhau thì nay được tập trung trong một văn bản. Mặc dù đã được hệ thống hoá, sửa đổi, bổ sung những điểm bất hợp lý trong các văn bản trước, tuy nhiên những quy định của pháp luật về lĩnh vực này còn mang tính chung chung. Vì vậy cần có những quy định cụ thể, rõ ràng hơn nữa về hình thức huy động vốn này. 1.5. Các quy định của pháp luật về huy động vốn thông qua việc vay vốn của Ngân hàng Nhà nước Huy động vốn bằng vay vốn Ngân hàng Nhà nước là một hình thức huy động vốn đặc biệt của các TCTD. Khác với các hình thức huy động vốn nêu trên có thể tiến hành thường xuyên nhằm đáp ứng nhu cầu về vốn cho TCTD, hình thức vay vốn Ngân hàng Nhà nước lại có liên quan chặt chẽ đến việc thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia. Hoạt động này được pháp luật quy định tại nhiều văn bản khác nhau, có thể kể đến như: Điều 20 Luật Ngân hàng Nhà nước 1997; Điều 48 Luật các TCTD 1997. Đây là hai văn bản có giá trị pháp lý cao nhất. Tiếp đó là các văn bản cụ thể các điều khoản trên như: Quyết định 1452/2003/QĐ-NHNN về việc ban hành Quy chế cho vay có bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đối với các ngân hàng; Quyết định số 898/2003/QĐ-NHNN ngày 12/08/2003 về việc ban hành quy chế chiết khấu, tái chiết khấu của Ngân hàng Nhà nước đối với các ngân hàng... Nhìn chung các văn bản này tập trung quy định hình thức tái cấp vốn của Ngân hàng Nhà nước cho các TCTD là ngân hàng. Bao gồm: Cho vay lại theo hồ sơ tín dụng, cho vay có bảo đảm bằng cầm cố thương phiếu và các giấy tờ có giá khác; chiết khấu, tái chiết khấu thương phiếu và các giấy tờ có giá khác. Ngoài ra, Ngân hàng Nhà nước còn cho ngân hàng thương mại vay bổ sung vốn thiếu hụt trong thanh toán bù trừ. Trong trường hợp đặc biệt, khi được Thủ tướng Chính phủ chấp thuận, Ngân hàng Nhà nước cho vay đối với TCTD tạm thời mất khả năng chi trả có nguy cơ gây mất an toàn cho hệ thống TCTD. Như vậy, các quy định của pháp luật về huy động vốn bằng vay vốn Ngân hàng Nhà nước đã tạo điều kiện để các TCTD thực hiện có hiệu quả hoạt động này. Góp phần nâng cao khả năng huy động vốn của hệ thống TCTD. Kênh huy động vốn này của các TCTD sẽ phát huy tác dụng tích cực nếu Ngân hàng Nhà nước có biện pháp cần thiết để sử dụng hữu hiệu công cụ tái cấp vốn, tái chiết khấu và nghiệp vụ thị trường mở. 2. Thực tiễn thi hành pháp luật về huy động vốn của các tổ chức tín dụng 2.1. Những thành tựu đạt được trong hoạt động huy động vốn của các Tổ chức tín dụng ở một số địa phương Với một hành lang pháp lý tương đối thông thoáng, thêm vào đó là mức thu nhập của người dân ngày một nâng cao, các TCTD trên địa bàn cả nước đã huy động được một lượng vốn tương đối lớn để cung ứng cho nền kinh tế. Điều đó được thể hiện rõ qua kết quả huy động vốn của các TCTD ở hầu hết các địa phương trong cả nước mà tiêu biểu nhất là các TCTD trên địa bàn Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Bởi lẽ, đây là hai trung tâm kinh tế lớn nhất, có số lượng TCTD hoạt động trên cùng một địa bàn nhiều nhất trong cả nước. 2.1.1. Kết quả huy động vốn của các Tổ chức tín dụng trên địa bàn Hà Nội Hà Nội là nơi đặt trụ sở của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam (Ngân hàng trung ương) và của các ngân hàng lớn nhất của Việt Nam như: Ngân hàng Công Thương, Ngân hàng đầu tư và phát triển, Ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng chính sách xã hội, Ngân hàng phát triển Việt Nam. Hầu hết các TCTD Việt Nam đã thiết lập cơ sở giao dịch dưới các hình thức trụ sở chính, sở giao dịch, chi nhánh tại Hà Nội. Tính đến hết tháng 12 năm 2006, trên địa bàn Hà Nội có 151 cơ sở giao dịch (thống kê cấp chi nhánh) của các TCTD thuộc các loại hình và thành phần kinh tế khác nhau thực hiện kinh doanh tiền tệ và cung cấp dịch vụ ngân hàng. Hiện nay mạng lưới các TCTD đang tiếp tục được mở rộng cả về số lượng và quy mô hoạt động. Tốc độ tăng trưởng tổng nguồn vốn huy động bình quân của các TCTD trên địa bàn Hà Nội giai đoạn 2001- 2005 đạt trên 23%/ năm. Đây là yếu tố quan trọng đáp ứng nhu cầu kinh tế - xã hội và phát triển hoạt động ngân hàng trên địa bàn. Tính đến cuối năm 2006, tổng nguồn vốn huy động của các TCTD Hà Nội đạt 231.799 tỷ đồng, tăng 32% so với cuối năm 2005, mức tăng trưởng có nhất về vốn huy động trong 5 năm gần đây, chiếm khoảng 30% vốn huy động của cả nước. Tốc độ dư nợ bình quân trong giai đoạn 2001- 2005 đạt trên 22%/năm. Tính đến cuối năm 2006, tổng dư nợ cho vay của các TCTD Hà Nội đạt 116.244 tỷ đồng, tăng 26,4% so với năm 2005. Hoạt động của ngành ngân hàng tại Hà Nội đạt được kết quả tích cực, bảo đảm an toàn và hiệu quả, góp phần hoàn thành mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội nói chung và mục tiêu, nhiệm vụ của ngành Ngân hàng [25, tr 35, 36] Đây là kết quả của những biện pháp nỗ lực khơi tăng nguồn tiền gửi của các ngân hàng thương mại như: đưa ra lãi suất hấp dẫn, kỳ hạn linh hoạt, đẩy mạnh hoạt động marketing, áp dụng các hình thức khuyến mại bằng tiền và hiện vật cho khách hàng; thường xuyên thay dổi các hình thức huy động tiền gửi như kỳ phiếu, trái phiếu, tiết kiệm dự thưởng, tiết kiệm bậc thang, chứng chỉ tiền gửi ghi danh, phát triển mạng lưới, áp dụng giao khoán chỉ tiêu huy động vốn, tích cực tiếp cận khách hàng lớn là các tổng công ty, các định chế tài chính khác... [23, tr 49] 2.1.2. Kết quả huy động vốn của các Tổ chức tín dụng trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh Thành phố Hồ Chí Minh có số lượng các ngân hàng thương mại, quốc doanh, ngân hàng thương mại cổ phần, công ty tài chính, quỹ đầu tư, công ty cổ phần... đông nhất trong cả nước. Nhiều công ty chứng khoán dự kiến cũng sẽ được thành lập trong năm nay. Địa bàn này luôn có tổng nguồn vốn huy dộng, tổng dư nợ cho vay và đầu tư, khối lượng trao đổi ngoại tệ chiếm từ 35% - 40% tổng quy mô các chỉ tiêu này của cả nước. Khối lượng vốn và khối lượng ngoại tệ chu chuyển qua hệ thống ngân hàng và công ty tài chính, các hoạt động huy động vốn và cho vay khá sôi động. Đây là tiền đề cho sự phát triển kinh tế vững chắc có tốc độ nhanh. [23, tr 52] Trên địa bàn thành phố Hồ Chí Minh, tính đến hết năm 2006, tổng nguồn vốn huy động của các tổ chức tín dụng đạt 285.503 tỷ đồng, tăng 51,2% so với cuối năm 2005, tăng gấp hơn 1,5 lần so với mức dự kiến từ đầu năm, cũng đạt mức tăng trưởng cao nhất từ trước tới nay. Tính đến thời điểm tương tự, tổng dư nợ cho vay của các TCTD đạt 229.749 tỷ đồng, tăng 30,7% so với cuối năm 2005. [24, tr 19] 2.2. Một số tồn tại, hạn chế mà các Tổ chức tín dụng Việt Nam gặp phải trong quá trình huy động vốn Có thể nói, pháp luật về huy động vốn đã tạo ra một “ khung pháp lý” để từ đó các TCTD thực hiện hoạt động này một cách có hiệu quả. Tuy đã đạt được một số thành tựu quan trọng nhưng trên thực tế khi tiến hành hoạt động huy động vốn, các TCTD vẫn gặp không ít những hạn chế, khó khăn cần phải khắc phục. Cụ thể: Một là: Hình thức huy động và kỳ hạn huy động vốn vẫn còn đơn điệu, nghèo nàn, mang tính truyền thống. Về cơ bản các TCTD vẫn sử dụng các hình thức huy động vốn truyền thống thông qua nhận tiền gửi hoặc phát hành giấy tờ có giá là chủ yếu. Trong khi đó những hình thức mới, linh hoạt và phù hợp với xu thế hội nhập ngày nay lại chưa được áp dụng một cách đồng loạt như: tiết kiệm xây dựng nhà ở, hình thức gửi tiền tiết kiệm ở một nơi rút ra ở nhiều nơi, tiếu kiệm dự thưởng... Thêm vào đó kỳ hạn huy động vốn kém phong phú, chưa thực sự năng động nên chưa thực sự hấp dẫn người gửi tiền. Hai là: Cấu trúc nguồn vốn chưa phù hợp với nhu cầu sử dụng vốn. Tỷ trọng nguồn vốn trung, dài hạn thực tế thấp hơn dư nợ trung dài hạn nên các TCTD còn dè dặt trong việc cho vay đối với các dự án lớn, có nguy cơ rủi ro cao như: các dự án đầu tư cho bất động sản, dự án xây dựng các công trình giao thông vận tải... Các hình thức huy động vốn dài hạn khác như phát hành kỳ phiếu, trái phiếu ngân hàng vẫn chưa thực sự hấp dẫn khách hàng do vậy ít được các TCTD áp dụng. Ba là: Hoạt động huy động vốn của TCTD phải cạnh tranh gay gắt với nhiều kênh huy động vốn khác trong kinh tế như: thị trường chứng khoán, tiết kiệm bưu điện, quỹ đầu tư... làm giảm nguồn vốn có thể huy động được. Mặt khác, ngay giữa các TCTD cũng có sự cạnh tranh gay gắt với nhau trong huy động vốn dấn đến tình trạng đẩy lãi suất tiền gửi lên quá cao trong khi không thiếu vốn ngắn hạn. Điều này làm giảm hiệu quả kinh doanh của các TCTD. Bốn là: Huy động vốn đôi khi chưa gắn với sử dụng vốn một cách có hiệu quả. Thể hiện qua việc cho vay đối vói các dự án thiếu tính khả thi trong thời gian trước đây như: Các dự án đầu tư bất động sản, tập trung là dự án xây dựng nhà ở, dự án xây dựng cơ sở hạ tầng khu nhà ở dạng chia đất, phân lô; dự án các đơn vị thi công công trình giao thông; dự án nuôi tôm của các hộ dân miền Trung, Tây Nam Bộ... khiến cho việc thu hồi vốn rất khó khăn. Trong khi đó hàng tháng các TCTD vẫn phải trả lãi đầy đủ cho các khoản vốn huy động nhưng vốn đầu tư không thu được lãi vẫn còn chiếm tỷ trọng đáng kể làm cho các TCTD gặp không ít khó khăn. Năm là: Trình độ công nghệ thấp, chưa có nhiều dịch vụ hiện đại, hệ thống thanh toán còn nhiều hạn chế. Hiện nay dịch vụ chủ yếu do các ngân hàng cung cấp cho khách hàng vẫn là những dịch vụ truyền thống. Những dịch vụ ngân hàng hiện đại mới chỉ được thử nghiệm cho một số đối tượng khách hàng, chưa được phổ biến rộng rãi. Mặt khác trong hoạt động thanh toán việc thanh toán liên ngân hàng vẫn còn hạn chế, chế độ thanh toán không dùng tiền mặt còn đề ra nhiều thủ tục phiền hà do đó không thu hút được khách hàng. Sáu là: Trình độ năng lực đội ngũ cán bộ trong lĩnh vực ngân hàng còn nhiều hạn chế so với yêu cầu phát triển hệ thống ngân hàng hiện đại. Trong điều kiện ngành ngân hàng đang có những bước phát triển hết sức nhanh chóng nhờ ứng dụng của công nghệ thông tin, song một bộ phận không nhỏ cán bộ và lãnh đạo, điều hành trong TCTD còn nhiều hạn chế về kỹ năng quản trị kinh doanh ngân hàng hiện đại, hiểu biết về dịch vụ ngân hàng mới, marketing, đánh giá, phân tích tín dụng, quản lý rủi ro... Bảy là: Công tác tuyên truyền, quảng bá thông tin, các hoạt động tiếp thị, tư vấn cho khách hàng còn chưa được quan tâm đúng mức. Do đó khách hàng chưa thực sự hiểu hết những tiện ích do ngân hàng mang lại. Mặt khác, thời gian giao dịch với khách hàng vẫn còn giới hạn trong “giờ hành chính” dẫn đến mất đi nhiều cơ hội cho hoạt động huy động vốn. Mạng lưới các TCTD chưa rộng khắp đến những vùng có điều kiện tự nhiên khó khăn nên chưa khai thác tối đa nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư. 2.3. Nguyên nhân dẫn đến thực trạng trên và một số giải pháp khắc phục 2.3.1. Nhân tố tích cực Nhân tố tích cực là những nguyên nhân đem lại những thành quả mà các TCTD đã đạt được trong lĩnh vực huy động vốn. Chúng bao gồm các yếu tố khách quan và yếu tố chủ quan có tác động tích cực đến quá trình huy động vốn của các TCTD. Có thể kể đến: Thứ nhất là, hệ thống pháp luật về huy động vốn tương đối thông thoáng, tạo điều kiện cho các TCTD thực hiện hoạt động này khá hiệu quả. Thứ hai là, người dân có thu nhập ngày càng cải thiện. Nhiều gia đình, nhiều người có điều kiện tích luỹ, nguồn tiết kiệm bằng tiền lớn hơn. Thực tế này không chỉ thấy qua kênh tiền gửi ngân hàng, mà còn thấy một lượng vốn không nhỏ của người dân đầu tư mua chứng khoán, mua cổ phiếu trên thị trường tập trung OTC, mua cổ phiếu của các doanh nghiệp nhà nước cổ phần hoá, mua bảo hiểm nhân thọ... Nhưng kênh ngân hàng vẫn là nơi thu hút vốn trong dân lớn nhất. Thứ ba là, trong các kênh để dành và tiết kiệm: mua vàng, cất trữ ngoại tệ trong nhà và gửi Đồng Việt Nam tại ngân hàng thì kênh đầu tư vào tiền gửi ngân hàng là sự lựa chọn tối ưu và minh bạch hơn cả. Bởi đầu tư vào vàng quá nhiều rủi ro, biến động giá thất thường. Mua ngoại tệ cất trữ trong nhà rõ ràng không sinh lời cao vì tỷ giá USD/VNĐ ít biến động. Mặt khác, nếu như trước đây thị trường bất động sản là lĩnh vực thu hút tiền gửi lớn trong dân cư, thì hiện nay số người đầu cơ nhà, đất chờ tăng giá kiếm lời giảm rõ rệt, số vốn tích luỹ này được chuyển qua kênh tiền gửi ngân hàng. Thứ tư là, sau hơn hai mươi năm đổi mới đất nước, gần mười tám năm đổi mới hoạt động ngân hàng, hệ thống ngân hàng Việt Nam có sự thay đổi mạnh mẽ cả về quy mô, chất lượng và phong cách phục vụ. Người dân thực sự có lòng tin khi gửi tiền vào ngân hàng, thay cho để dành dưới nhiều hình thức khác nhau tại nhà hay trong dân cư. Thứ năm là, dịch vụ ngân hàng hiện đại và tiện ích phát triển mạnh mẽ đặc biệt là dịch vụ thẻ, dịch vụ tài khoản cá nhân. Đến nay số lượng thẻ do các ngân hàng ở Việt Nam phát hành đã lên tới con số khoảng 3,5 triệu thẻ các loại, trên 4,0 triệu tài khoản cá nhân, gấp hơn 2 lần cuối năm 2005. [25, tr 29] Các loại hình tiền gửi đa dạng như: tiết kiệm gửi góp, tiền gửi bậc thang, tiền gửi với lãi suất luỹ tiến, tiền gửi ngắn hạn... Tạo sự thuận tiện lựa chọn cho khách hàng do đó thu hút đông đảo khách hàng. Thứ sáu là, lãi suất tiền gửi hấp dẫn và được điều chỉnh linh hoạt theo diễn biến của thị trường. Đặc biệt, lãi suất tiền gửi USD của các ngân hàng thương mại nước ta thường xuyên được điều chỉnh tăng theo xu hướng tăng lên của lãi suất USD trên thị trường quốc tế, với mức tăng khoảng 1,0%/ năm trong năm 2006. Lãi suất nội tệ trong năm 2006 đến nay cũng tăng khá với mức tăng khoảng 1,0 - 1,2%/ năm. Trong bối cảnh chỉ số tăng giá trên thị trường xã hội tăng khá, tới 6,6% trong năm 2006, thì việc điều chỉnh lãi suất nói trên đã tạo sự hấp dẫn khách hàng. [25, tr 30] 2.3.2. Nhân tố tiêu cực Nhân tố tiêu cực chính là những nguyên nhân dẫn đến sự khó khăn trong công tác huy động vốn của các TCTD, bao gồm một số nguyên nhân chủ yếu như: Hệ thống pháp luật tuy đã có sự điều chỉnh cho phù hợp với thực tế nhưng nhìn chung vẫn còn thiếu đồng bộ, không thống nhất, thậm chí có một số quy định còn chồng chéo mâu thuẫn nhau gây khó khăn cho các TCTD khi tiến hành hoạt động huy động vốn. Luật doanh nghiệp mới cùng với các cơ chế tháo gỡ khó khăn cho các doanh nghiệp đã tạo đà cho sự ra đời của hàng loạt các doanh nghiệp mới, kích thích luồng vốn đầu tư vào lĩnh vực này. Không những vậy, nhiều người còn tìm kiếm các phương án khác nhau để vay vốn ngân hàng đầu tư vào mua cổ phiếu trong các doanh nghiệp. Sự cạnh tranh gay gắt của các kênh huy động vốn khác như: Kho bạc nhà nước; tiết kiệm bưu điện; chứng khoán; bảo hiểm nhân thọ... cũng là một thách thức không nhỏ đối với hoạt động huy động vốn của các TCTD. Môi trường kinh tế, môi trường đầu tư chưa ổn định, chưa có một cơ chế để kiềm chế lạm phát, giá cả hàng hoá ngày một tăng làm cho đồng tiền mất giá, người dân thiếu tin tưởng vào ngân hàng. Ngoài ra còn phải kể đến một số nguyên nhân chủ quan từ chính các TCTD như: chưa quan tâm một cách thoả đáng đến việc đào tạo đội ngũ cán bộ; hoạt động quản trị và điều hành huy động vốn, kinh doanh vốn chưa theo hướng ngân hàng kinh doanh hiện đại. Sự phối hợp giữa bộ phận quản lý, các phòng nghiệp vụ còn chưa đồng bộ, nhịp nhàng gây phiền hà, mất thời gian cho khách hàng. Hệ thống thông tin chưa thực sự có hiệu quả, bao gồm cả thu thập và xử lý thông tin về huy động vốn, về cân đối và kinh doanh vốn... Những nguyên nhân cơ bản trên đây đã dẫn đến những khó khăn trong hoạt động huy động vốn của các TCTD Việt Nam. 2.3.3. Một số giải pháp khắc phục những tồn tại, hạn chế nêu trên Để khắc phục những vướng mắc, tồn tại mà các TCTD gặp phải trong quá trình huy động vốn đòi hỏi phải có sự nỗ lực từ phía các cơ quan nhà nước và bản thân các TCTD. - Về phía các cơ quan nhà nước Cần sửa đổi bổ sung các quy định chưa phù hợp, đa dạng hoá các hình thức huy động vốn cho các TCTD. Bên cạnh đó cần có chiến lược dự báo thông tin một cách chuẩn xác, giúp người dân nắm bắt chính xác thông tin, đồng thời hạn chế sự rủi ro cho hoạt động kinh doanh nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng của các TCTD. Tiến hành việc tái cơ cấu các Ngân hàng thương mại Nhà nước, Ngân hàng thương mại cổ phần và các TCTD khác nhằm nâng cao năng lực và khả năng tài chính cho các TCTD, giúp các TCTD hoạt động an toàn, hiệu quả, tăng khả năng cạnh tranh trong nước cũng như quốc tế. - Về phía các TCTD Nâng cao hiệu quả huy động vốn thông qua việc đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, đưa ra một số hình thức mới gắn với nhu cầu đông đảo của khách hàng như: Gửi tiền cho vay mua ô tô trả góp; gửi một lần nhưng rút gốc linh hoạt cho nhu cầu chi tiêu vẫn được lãi suất cao; gửi góp nhưng cuối kỳ lĩnh ra một lần với lãi suất hấp dẫn... Bên cạnh đó, các TCTD cần linh hoạt trong việc điều chỉnh lãi suất thu hút tiền gửi, lãi suất huy động vốn. Đẩy mạnh công tác marketing thu hút khách hàng gửi tiền. Đây là một chiến lược kinh doanh nhằm cân bằng hai lợi ích đó là: lợi nhuận thu được của ngân hàng và sự hài lòng tối đa của khách hàng. Muốn vậy các TCTD cần phải thực hiện tốt công tác tuyên truyền, quảng cáo rộng dãi về các dịch vụ ngân hàng, các hình thức và chính sách huy động vốn, thu hút tiền gửi... để đông đảo quần chúng biết về các dịch vụ ấy. Tổ chức bộ phận chăm sóc khách hàng, tạo cho khách hàng có cảm giác được tôn trọng khi đến ngân hàng. Công bố các thông tin tài chính để người dân tiếp cận, nắm bắt nhằm thu hút người dân quan hệ với ngân hàng và hạn chế được những rủi ro về thông tin. Đẩy mạnh đầu tư cho hoàn thiện và hiện đại hoá công nghệ ngân hàng một cách đồng bộ, đổi mới phong cách giao dịch... nhằm tạo ra sự thuận lợi và lòng tin cho khách hàng gửi tiền. Nâng cao hiệu quả hoạt động, hoàn thiện và nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng truyền thống, phát triển hiệu quả các dịch vụ ngân hàng hiện đại, nhanh chóng mở rộng các dịch vụ mới, tham gia bảo hiểm các dịch vụ ngân hàng (tại Bảo hiểm tiền gửi Việt Nam), xây dựng và đào tạo đội ngũ chuyên viên tư vấn nhằm phục vụ tốt hơn cho công tác huy động vốn. CHƯƠNG III ĐỊNH HƯỚNG HOÀN THIỆN PHÁP LUẬT VỀ HOẠT ĐỘNG HUY ĐỘNG VỐN CỦA CÁC TỔ CHỨC TÍN DỤNG VIỆT NAM 1. Những yêu cầu cơ bản trong việc hoàn thiện pháp luật điều chỉnh hoạt động huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam Huy động vốn là hoạt động không chỉ có ý nghĩa sống còn đối với các TCTD mà còn có vai trò quan trọng đối với sự phát triển kinh tế đất nước. Tuy nhiên, để hoạt động này diễn ra có hiệu quả đòi hỏi “pháp luật về huy động vốn của các TCTD” ngày càng phải hoàn thiện hơn nữa. Ngày nay, với xu thế hội nhập trong bối cảnh toàn cầu hoá nền kinh tế thế giới, pháp luật ngân hàng nói chung, pháp luật về huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam nói riêng cần có những sự điều chỉnh sao cho vừa đảm bảo cho TCTD hoạt động hiệu quả vừa phù hợp với các thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Do đó, việc hoàn thiện pháp luật về huy động vốn phải đáp ứng được những yêu cầu cơ bản sau: Trước hết, yêu cầu chung là “hình thành đồng bộ khuôn khổ pháp lý, áp dụng đầy đủ hơn các thiết chế và chuẩn mực quốc tế về an toàn kinh doanh tiền tệ - ngân hàng. Xây dựng môi trường pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ, hoạt động ngân hàng minh bạch và công bằng nhằm thúc đẩy cạnh tranh và đảm bảo an toàn hệ thống tiền tệ, ngân hàng. Các chính sách và quy định pháp luật về tiền tệ, hoạt động ngân hàng góp phần tạo môi trường lành mạnh và động lực cho các TCTD, doanh nghiệp và người dân phát triển sản xuất kinh doanh. Loại bỏ các hình thức bảo hộ, bao cấp, ưu đãi trong lĩnh vực ngân hàng và phân biệt đối xử giữa các TCTD... Nâng cao hiệu lực thi hành pháp luật trong lĩnh vực tiền tệ và hoạt động ngân hàng. Tăng cường hiệu lực những chế tài pháp lý, kinh tế và hành chính bảo đảm thực hiện đầy đủ nghĩa vụ trả nợ của người đi vay và quyền lợi chính đáng của TCTD. Hạn chế và tiến tới xoá bỏ việc hình sự hoá các quan hệ trong lĩnh vực ngân hàng”. [17] Thứ hai, việc hoàn thiện pháp luật phải được đặt trong xu thế tất yếu là hội nhập kinh tế. Điều đó có nghĩa là những quy định của pháp luật không chỉ phù hợp với điều kiện kinh tế - xã hội của đất nước mà còn phải phù hợp thông lệ quốc tế trong lĩnh vực ngân hàng. Do đó, Việt nam phải tuân thủ các quy định trong hiệp định thương mại Việt - Mỹ, các thoả thuận song phương khác với Nhật Bản, EU, các quy định của WTO và cam kết quốc tế về mở cửa thị trường dịch vụ tài chính - ngân hàng. Tiếp tục nới lỏng các hạn chế về tiếp cận thị trường và hoạt động ngân hàng của các TCTD nước ngoài tại Việt nam theo lộ trình đã cam kết. Vừa tạo cơ hội cho các TCTD nước ngoài vào hoạt động hợp pháp theo cam kết quốc tế vừa có phương thức, cơ chế quản lý mềm dẻo, đúng pháp luật và phù hợp với thông lệ quốc tế để hạn chế sự thao túng, cạnh tranh không lành mạnh của các TCTD nước ngoài đối với các TCTD Việt Nam. Nền kinh tế nói chung và ngành tài chính - ngân hàng nói riêng cần có những giải pháp cụ thể nhằm thực hiện tốt các cam kết: + Không hạn chế số lượng nhà cung cấp dịch vụ ngân hàng (cả dịch vụ tiền gửi) + Không hạn chế tổng giá trị các giao dịch về dịch vụ ngân hàng (trong đó có tổng tiền gừi, các loại tiền gửi huy động) + Không hạn chế tổng số người được tuyển dụng của các tài chính nước ngoài + Không hạn chế việc tham gia góp vốn của bên nước ngoài dưới hình thức tỷ lệ phần trăm tối đa số cổ phiếu nước ngoài được nắm giữ + Hệ thống Ngân hàng Việt Nam bắt đầu mở rộng hoạt động trên thị trường tài chính quốc tế. Thứ ba, thực hiện đường lối, chủ trương của Đảng là “tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới, khơi dậy và phát huy tối đa nội lực, nâng cao hiệu quả hợp tác quốc tế, cần kiệm để công nghiệp hoá, hiện đại hoá, nâng cao sức cạnh tranh trong nền kinh tế” (Nghị quyết trung ương IV khoá III của Đảng). Vì vậy, pháp luật - đặc biệt là pháp luật về huy động vốn phải là một công cụ hữu hiệu giúp các TCTD khai thác tối đa mọi nguồn vốn, phục vụ đắc lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá hiện đại hoá đất nước. Cụ thể cần đáp ứng được các yêu cầu sau: 1) Xây dựng hành lang pháp lý đồng bộ, đảm bảo pháp chế xã hội chủ nghĩa. Bảo vệ lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích của các tổ chức, cá nhân tham gia quan hệ tiền gửi. 2) Có chính sách khuyến khích các TCTD huy động vốn, đặc biệt là vốn trung dài hạn phục vụ cho đầu tư, thúc đẩy hoạt động sản xuất kinh doanh, xây dựng cơ sở hạ tầng kinh tế xã hội. 3) Hoàn thiện chính sách lãi suất. 4) Xã hội lại các nguồn vốn đầu tư và sử dụng chúng một cách có hiệu quả. 5) Xây dựng, củng cố hệ thống TCTD vững mạnh, đẩy nhanh tiến độ hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, mở rộng các hình thức thanh toán qua ngân hàng phục vụ cho nền kinh tế. 6) Xây dựng và phát triển thị trường vốn (đặc biệt là thị trường chứng khoán) tạo điều kiện thuận lợi và hiệu quả chính sách tiền tệ quốc gia. 7) Tạo điều kiện cho các TCTD nước ngoài hoạt động rộng hơn nữa trên cơ sở bình đẳng, không phân biệt đối xử (như mở rộng phạm vi hoạt động liên quan đến đồng Việt Nam, mở chi nhánh, cung cấp các dịch vụ hiện đại...) Thứ tư, về vấn đề phát triển nguồn vốn của các TCTD * Đối với vốn tự có: Quy định mức vốn tự có phù hợp với điều kiện kinh tế xã hội Việt Nam, có tham khảo thông lệ quốc tế nhằm nâng cao năng lực tài chính cho các TCTD Việt Nam. Lành mạnh hoá và nâng cao một cách nhanh chóng và căn bản năng lực tài chính của các TCTD, bảo đảm các TCTD có đủ năng lực tài chính (cả về quy mô và chất lượng). Tiếp tục tăng quy mô vốn điều lệ, tài sản có đi đôi với nâng cao chất lượng và khả năng sinh lời của tài sản có; giảm tỷ trọng tài sản có rủi ro trong tổng tài sản có. Xử lý dứt điểm nợ tồn đọng và làm sạch bảng cân đối của các TCTD. Tăng vốn tự có của các TCTD bằng lợi nhuận để lại, phát hành cổ phiếu, trái phiếu, sáp nhập, hợp nhất, mua lại. Kiên quyết xử lý các TCTD yếu kém và có khả năng gây rủi ro lớn cho hệ thống ngân hàng, bao gồm cả biện pháp giải thể, phá sản các TCTD theo quy định của pháp luật, song đảm bảo không gây tác động lớn về mặt kinh tế- xã hội. Tạo điều kiện cho các TCTD mua, bán, hợp nhất, sáp nhập để tăng khả năng cạnh tranh và quy mô hoạt động. Từng bước cổ phần hoá các ngân hàng thương mại Nhà nước theo nguyên tắc thận trọng, bảo đảm ổn định kinh tế- xã hội và an toàn hệ thống ngân hàng. Cho phép các nhà đầu tư nước ngoài, đặc biệt là các ngân hàng có tiềm lực tài chính, công nghệ, quản lý và uy tín mua cổ phiếu, tham gia quản trị, điều hành Ngân hàng thương mại Việt Nam. * Đối với vốn huy động: Phát triển các hình thức huy động vốn một cách đa dạng , đa tiện ích được định hướng theo nhu cầu vốn của khách hàng trên cơ sở tiếp tục nâng cao chất lượng và hiệu quả của các hình thức huy động vốn truyền thống như: nhận tiền gửi, phát hành giấy tờ có giá... Bên cạnh đó đưa thêm các hình thức huy động vốn mới vào áp dụng nhằm đáp ứng tốt hơn nhu cầu đa dạng của khách hàng (ví dụ: Gửi tiết kiệm gắn với bảo hiểm nhân thọ, gửi góp nhưng lĩnh ra một lần với lãi suất hấp dẫn...); đồng thời nâng cao năng lực cạnh tranh của dịch vụ ngân hàng của các TCTD Việt Nam theo nguyên tắc thị trường, minh bạch hạn chế bao cấp và chống độc quyền dịch vụ ngân hàng để từng bước phát triển dịch vụ ngân hàng thông thoáng, cạnh tranh lành mạnh, an toàn và hiệu quả. Bên cạnh đó, các TCTD cần đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền để mọi người dân biêt và tìm đến ngân hàng... Mục tiêu cuối cùng là tăng khả năng huy động vốn để cung ứng cho nền kinh tế. 2. Một số đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật huy động vốn của các tổ chức tín dụng ở Việt Nam 2.1. Hoàn thiện các quy định của pháp luật Trên cơ sở Luật Ngân hàng Nhà nước và Luật các tổ chức tín dụng, Nhà nước cần tiếp tục đồi mới, xây dựng và hoàn thiện một cách đồng bộ các văn bản hướng dẫn thi hành liên quan đến hoạt động ngân hàng nói chung và hoạt động huy động vốn nói riêng. Hiện nay có khá nhiều quy định của pháp luật liên quan đến hoạt động huy động vốn của các TCTD còn chưa rõ ràng, thậm chí còn chồng chéo, mâu thuẫn nhau. Những quy định này cần phải sửa đổi, bổ sung cho cụ thể hơn. Cụ thể là: Thứ nhất, quy định về hình thức nhận tiền gửi: pháp luật vẫn chưa có một quy định nào giải thích thật cụ thể, rõ ràng về các hình thức gửi tiền hay các loại tiền gửi. Phải có những điều khoản riêng quy định về vấn đề này trong đó xác định rõ tiền gửi bao gồm những loại nào, đặc điểm, tính chất của từng loại, quyền, nghĩa vụ của bên nhận tiền gửi và bên gửi tiền đối với mỗi loại tiền gửi là như thế nào... cùng những văn bản hướng dẫn thi hành. Pháp luật cần có những quy định về sự chuyển hoá giữa các loại tiền gửi. Ví dụ như: chuyển từ tiền gửi có thời hạn sang tiền gửi thanh toán; chuyển từ tiền gửi tiết kiệm sang tiền gửi thanh toán... nhằm tạo sự thuận tiện cho khách hàng. Để nâng cao hiệu quả huy động vốn cho các TCTD, pháp luật cần quy định thêm nhiều loại tiền gửi khác nhằm thoả mãn nhu cầu đa dạng của khách hàng như: Tiền gửi bảo đảm theo giá trị vàng: là loại tiền gửi mà khi khách hàng gửi tiền, ngân hàng cam kết quy đổi thành một lượng vàng tương đương và khi đến hạn khách hàng sẽ nhận được số tiền tương đương với giá trị vàng khi gửi cộng thêm phần lãi. Hình thức này sẽ khắc phục được tâm lý lo sợ đồng tiền mất giá của khách hàng khi gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm gửi góp: là loại tiền tiết kiệm có kỳ hạn mà khách hàng có thể gửi theo nhiều lần mức thoả thuận vào một sổ tiết kiệm theo kỳ hạn nhất định đã đăng ký với ngân hàng. Kỳ hạn đưa ra phải tương đối dài thường là từ 5 năm đến 20 năm và khách hàng sẽ thoả thuận với ngân hàng việc gửi tiền theo định kỳ 1 tháng, 3 tháng, 6 tháng hoặc hàng năm. Trên cơ sở số tiền gửi hàng kỳ và thời hạn tích luỹ ngân hàng sẽ tích gộp cả gốc và lãi và ghi rõ số tiền khách hàng được lĩnh một lần khi đến hạn. Đây là hình thức phù hợp với khả năng thu nhập của người dân nên chắc chắn sẽ được đón nhận. Tiền gửi tiết kiệm có thưởng: là loại tiết kiệm có kỳ hạn từ 12 tháng trở lên, ngoài phần đuợc trả lãi, khách hàng được dự thưởng và nhận được hiện vật nếu trúng thưởng. Đây là loại tiền gửi nhằm khuyến khích vật chất với người gửi tiền. Tiền gửi tiết kiệm nhân thọ: là loại tiền gửi mà người lao động trích từ khoản thu nhập để gửi vào tiết kiệm để khi về già có thêm nguồn để sinh sống. Đây là hình thức hỗn hợp giữa bảo hiểm và ngân hàng nhằm cung cấp cho khách hàng một hình thức tích luỹ để đảm bảo nguồn sinh sống khi về già mà không cần đòi hỏi quá nhiều thủ tục như các loại hình bảo hiểm chính thống. Tiền gửi tiết kiệm một nơi lĩnh ra nhiều nơi: là hình thức huy động khá linh hoạt về phạm vi đáp ứng cho số đông dân chúng không nhất thiết phải rút tiền ở một nơi mà thuận tiện cho khách hàng trong điều kiện nền kinh tế hàng hoá ngày càng phát triển đa dạng và phong phú. Tuy nhiên để áp dụng hình thức này đòi hỏi trình độ công nghệ phải được nâng cao hơn nữa, phải có hệ thống quản lý chặt chẽ và an toàn cho khách hàng cũng như ngân hàng, tránh tình trạng lợi dụng hình thức này để trốn phí dịch vụ của khách hàng. Huy động vốn thông qua tài khoản thu nhập xã hội: xã hội ngày càng phát triển nhu cầu sử dụng các dịch vụ không dùng tiền mặt càng cao. Người lao động không cần mang theo tiền mặt để chi trả, thanh toán tiền hàng hoá dịch vụ mà chỉ cần mở một tài khoản tại ngân hàng, ngân hàng sẽ giúp họ thực hiện tất cả các điều đó. Với hình thức này khách hàng vừa đỡ tốn thời gian đi lại, chi phí còn ngân hàng thì có điều kiện quy tập tiền thu nhập của người dân để cung cấp tối đa các dịch vụ nhằm thoả mãn tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Ngoài ra còn có thể áp dụng các hình thức huy động khác như: tiết kiệm mua nhà ở, tiết kiệm học đường... Để đưa những loại hình tiền gửi trên vào áp dụng trong thực tế, pháp luật cần phải có những quy định trong đó nêu rõ: đặc điểm, tính chất, của từng loại tiền gửi; điều kiện để TCTD được huy động vốn dưới các hình thức này nhằm tạo sự chủ động cho các TCTD trong hoạt động huy động vốn cũng như đa dạng hoá các hình thức tiền gửi cho người gửi tiền lựa chọn. Thứ hai, quyền và nghĩa vụ của các bên trong quan hệ tiền gửi nên để các bên tự thoả thuận với nhau, pháp luật không nên quy định một cách quá cụ thể, rõ ràng như hiện nay nhằm tôn trọng nguyên tắc “tự do thoả thuận trong khuôn khổ hợp đồng” đồng thời tạo sự chủ động cho các bên. Thứ ba, pháp luật cần hoàn thiện theo hướng: mở rộng phạm vi chủ thể; mở rộng giới hạn tiền gửi được bảo hiểm. Hiện nay pháp luật chỉ quy định “tiền gửi của cá nhân, hộ gia đình, tổ hợp tác, doanh nghiệp tư nhân và công ty hợp danh”(1) Mục 1, Khoản 2, Điều 1 Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 là được tổ chức Bảo hiểm tiền gửỉ chi trả khi sự kiện bảo hiểm xảy ra còn tiền gửi của tổ chức (Ví dụ như pháp nhân) thì không được quy định. Trong khi đó tiền gửi của tổ chức thường chiếm tỷ lệ lớn, tiền gửi đó được dùng chủ yếu cho hoạt động kinh doanh của tổ chức vốn chứa đựng nhiều rủi ro lại không được bảo hiểm. Vì vậy, pháp luật cần quy định thêm chủ thể tiền gửi được bảo hiểm bao gồm cả tổ chức có tiền gửi tại TCTD. Để bảo vệ lợi ích của người gửi tiền, giúp cho họ an tâm hơn khi có tiền gửi tại TCTD, pháp luật cần tăng giới hạn tiền gửi được bảo hiểm. Bởi lẽ, trong điều kiện hiện nay khi mà thu thập của người dân ngày càng cao, số tiền của một khách hàng gửi tại các TCTD ngày càng lớn thì quy định: “Số tiền bảo hiểm được trả cho tất cả các khoản tiền gửi bao gồm cả gốc và lãi của một người gửi tiền ( một cá nhân hoặc người đại diện theo pháp luật) tại một tổ chức tham gia bảo hiểm tiền gửi, tối đa là 50 triệu đồng”(2) Mục 1, Khoản 3, Điều 1 Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 là chưa phù hợp, chưa khuyến khích được khách hàng mang gửi một số tiền lớn tại TCTD do còn e ngại rủi ro cho số tiền gửi của mình. Hơn nữa, pháp luật quy định “ tiền gửi được bảo lãnh là Đồng Việt Nam”(3) Điều 3 Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 còn tiền gửi ngoại tệ thì không được bảo hiểm. Quy định này đã phần nào hạn chế hiệu quả huy động vốn đối với đồng ngoại tệ. Bởi vậy, pháp luật nên quy định thêm đối tượng được bảo hiểm bao gồm cả ngoại tệ nhất là khi các tổ chức và cá nhân nước ngoài hoạt động tại Việt Nam hiện nay ngày một nhiều hơn. Thứ tư, cần tự do hoá lãi suất tiền gửi. Hiện nay, lãi suất tiền gửi bằng đồng Việt Nam đã được tự do hoá theo lối thoả thuận còn đối với tiền gửi ngoại tệ thì Nhà nước vẫn khống chế lãi suất tiền gửi tối đa bằng Đôla Mỹ. Quy định này nên bãi bỏ tiến tới tự do hoá toàn lãi suất. Thứ năm, quy định về chủ thể tham gia quan hệ tiền gửi tiết kiệm: Điều 3 Quy chế về tiền gửi tiết kiệm quy định chủ thể tham gia quan hệ này chỉ có thể là cá nhân và không bao gồm tổ chức. Vì vậy, pháp luật cần phải sửa đổi bổ sung theo hướng da dạng hoá các chủ thể tham gia tiền gửi tiết kiệm (cụ thể là tổ chức cũng được tham gia quan hệ này). Có như vậy mới htu hút được lượng tiền gửi lớn vào ngân hàng và cũng là đa dạng các hình thức gửi tiền cho khách hàng lựa chọn. Thứ sáu, quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc: Theo quy định tại điều 20 Luật Ngân hàng Nhà nước 1997 “các TCTD khi huy động vốn phải tuân thủ quy định về tỷ lệ dự trữ bắt buộc. Tỷ lệ dự trữ bắt buộc là từ 0% đến 20% tổng số dư tiền gửi tại mỗi TCTD”. Khoản dự trữ bắt buộc này các TCTD không được dùng để cho vay. Trong khi đó TCTD vẫn phải trả lãi cho người gửi tiền. Điều này dẫn đến tình trạng khi Ngân hàng Nhà nước nâng tỷ lệ dự trữ bắt buộc lên để thực hiện chính sách tiền tệ quốc gia sẽ làm giảm hiệu quả kinh doanh của các TCTD, thậm chí có thể dẫn đến thua lỗ. Vì vậy, tỷ lệ dự trữ bắt buộc cần phải được tính toán một cách khoa học và hợp lý, tránh tình trạng tỷ lệ quá thấp thì không đảm bảo khả năng chi trả cho các TCTD, tỷ lệ quá cao thì lại gây ra lãng phí. Mặt khác, pháp luật cần có những quy định về tỷ lệ dự trữ thích hợp với từng TCTD (vì mỗi TCTD có tính chất và đặc thù khác nhau trong việc huy động vốn), giảm tỷ lệ dự trữ bắt buộc cho các TCTD khi gặp khó khăn, có chính sách bù lỗ cho TCTD trong trường hợp tỷ lệ dự trữ bắt buộc quá cao làm cho TCTD thua lỗ. Thứ bảy, cụ thể hoá Điều 46 Luật các TCTD năm 1997, thống nhất các văn bản hướng dẫn về phát hành giấy tờ có giá. Bởi đây là một kênh huy động vốn rất hiệu quả, có tiềm năng trong tương lai đối với các TCTD. Pháp luật cần đơn giản hoá các quy định về thủ tục phát hành giấy tờ có giá, xoá bỏ chơ chế “xin - cho” như hiện nay. Ví dụ: Quy định điều kiện cần và đủ để được phát hành; thủ tục phát hành đối với từng loại giấy tờ có giá... Theo đó, TCTD nào đáp ứng được những điều kiện này sẽ được phát hành mà không cần phải chờ xin phép Ngân hàng Nhà nước. Có như vậy mới tạo sự chủ động cho các TCTD, tiết kiệm được thời gian, qua đó nâng cao hiệu quả cho hoạt động này. 2.2. Một số đề xuất cụ thể nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động huy động vốn cho các Tổ chức tín dụng Việt Nam 2.2.1. Đối với các cơ quan nhà nước có thẩm quyền Tổ chức thực hiện pháp luật một cách đúng dắn, sát sao và kịp thời. Quản lý thống nhất từ Trung ương đến địa phương tránh tình trạng các văn bản pháp luật chồng chéo, mâu thuẫn lẫn nhau. Tiếp tục hoàn thiện hệ thống pháp luật về ngân hàng nói chung, pháp luật về hoạt động huy động vốn nói riêng nhằm tạo điều kiện thông thoáng, nâng cao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong hoạt động của các TCTD và phù hợp với các cam kết, chuẩn mực quốc tế. Điều hành chính sách tiền tệ chủ động, linh hoạt, kiểm soát lạm phát ở mức thấp hơn tốc độ tăng trưởng kinh tế, tạo môi trường lành mạnh cho hoạt động của các TCTD. Đồng thời nâng cao chất lượng tín dụng bảo đảm an toàn, hiệu quả và phát triển bền vững các TCTD. Đẩy nhanh chương trình tái cơ cấu, nâng cao năng lực hoạt động và khả năng cạnh tranh của các TCTD. Đẩy nhanh tiến trình cổ phần hoá các Ngân hàng thương mại Nhà nước. Tiếp tục hiện đại hóa công nghệ ngân hàng, hệ thống thanh toán, hệ thống thông tin ngân hàng. Tăng cường công tác thanh tra, kiểm tra thường xuyên hoạt động tuân thủ pháp luật của hệ thống TCTD trong cả nước, xử lý nghiêm những vi phạm pháp luật, có những đánh giá kịp thời và đúng đắn tình hình thực tế để có những biện pháp xử lý phù hợp đảm bảo an toàn cho cả hệ thống TCTD. 2.2.2. Đối với các Tổ chức tín dụng Tuân thủ chặt chẽ pháp luật về huy động vốn, đồng thời vận dụng một cách linh hoạt khi áp dụng các quy định đó vào thực tế sao cho phù hợp với từng giai đoạn, từng hoàn cảnh và từng đối tượng huy động. Đa dạng hoá các hình thức huy động, tiếp tục phát huy những hình thức huy động vốn truyền thống... Đẩy mạnh công tác thông tin, tuyên truyền qua các phương tiện thông tin đại chúng để tiếp cận khách hàng tốt hơn. Bên cạnh đó cần mở rộng mạng lưới phục vụ nhất là tại những vùng có điều kiện tự nhiên còn khó khăn. Tự tiến hành công tác thanh tra, kiểm tra nội bộ, báo cáo định kỳ lên cơ quan có thẩm quyền cũng như đấp ứng yêu cầu kiểm tra khi cần thiết. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng, nâng cao trình độ, năng lực quản lý, điều hành của cán bộ, công nhân viên nhằm đáp những yêu cầu trong giai đoạn mới, đảm bảo hiệu quả, hạn chế rủi ro trong hoạt động huy động vốn. KẾT LUẬN Qua việc nghiên cứu thực trạng pháp luật về huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam, trong khuôn khổ của một bài luận văn tốt nghiệp cử nhân, tác giả đã cố gắng hoàn thành những nội dung cơ bản sau: Một là: Tổng hợp và hệ thống hoá một cách có chọn lọc những vấn đề lý luận cơ bản về hoạt động huy động vốn của các TCTD. Từ đó khẳng định vai trò quan trọng của hoạt động này. Hai là: Tìm hiểu pháp luật về huy động vốn của các TCTD, đánh giá thực trạng của những quy định này; rút ra những thành tựu và những hạn chế, tồn tại cần phải khắc phục trong hoạt động huy động vốn; lý giải nguyên nhân và đưa ra một số giả pháp khắc phục tình trạng đó. Ba là: Trên cơ sở tìm hiểu thực trạng pháp luật về huy động vốn từ đó đưa ra những yêu cầu cơ bản và những đề xuất cụ thể nhằm hoàn thiện pháp luật về huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam. “Pháp luật về huy động vốn của các TCTD ở Việt Nam” là một đề tài rộng và phức tạp, có liên quan đến nhiều vấn đề nên tác giả không tránh khỏi những khiếm khuyết. Rất mong nhận được sự đống góp ý kiến của thầy cô và độc giả quan tâm để bài luận văn thêm hoàn chỉnh. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO Giáo trình luật Ngân hàng Việt Nam - trường Đại học Luật Hà Nội - Nhà xất bản công an nhân dân - 2005. Giáo trình Lý thuyết tiền tệ - ngân hàng - Nhà xuất bản thống kê - 2005. Giáo trình Nghiệp vụ ngân hàng thương mại - Nhà xuất bản thống kê - 2004. Giáo trình Nghiệp vụ kinh doanh ngân hàng - Nhà xuất bản thống kê - 2000. Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 1997. Luật về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật Ngân hàng Nhà nước Việt Nam 2003. Luật các tổ chức tín dụng 1997. Luật về sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật các tổ chức tín dụng 2004. Nghị định số 141/2006/NĐ-CP ngày 22/11/2006 về ban hành danh mục mức vốn pháp định của các tổ chức tín dụng. Nghị định số 48/2001/NĐ-CP ngày 13/08/2001 về tổ chức và hoạt động của tổ chức tín dụng nhân dân. Nghị định số 79/2002/NĐ-CP ngày 04/10/2002 về tổ chức và hoạt động của công ty tài chính. Nghị định số 16/2001/NĐ-CP ngày 02/05/2001 về tổ chức và hoạt động của công ty cho thuê tài chính. Nghị định số 49/2000/NĐ- CP ngày 12/09/2000 về tổ chức và hoạt động của ngân hàng thương mại. Nghị định số 13/1999/NĐ-CP ngày 17/03/1999 về tổ chức, hoạt động của tổ chức tín dụng nước ngoài, văn phòng đại diện của tổ chức tín dụng nước ngoài tại Việt Nam. Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 về bảo hiểm tiền gửi. Nghị định số 109/2005/NĐ-CP ngày 24/08/2005 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều của Nghị định số 89/1999/NĐ-CP ngày 01/09/1999 về bảo hiểm tiền gửi. Quyết định số 112/2006/QĐ-TTg ngày 24/05/2006 về việc phê duyệt đề án phát triển ngành ngân hàng Việt Nam đến năm 2010 và định hướng đến năm 2020. Quyết định số 02/2004/QĐ-NHNN ngày 04/01/2005 về việc ban hành quy chế phát hành giấy tờ có giá của tổ chức tín dụng để huy động vốn trong nước. Quyết định số 1160/2004/QĐ-NHNN ngày13/09/2004 về việc ban hành quy chế về tiền gửi tiết kiệm. Quyết định số 581/2003/QĐ-NHNN ngày 09/06/2003 về việc ban hành quy chế dự trữ bắt buộc đối với các tổ chức tín dụng. Quyết định số 1310/2001/QĐ-NHNN ngày 15/10/2001 về việc ban hành quy chế vay vốn giữa các tổ chức tín dụng. Quyết định số 297/1999/QĐ-NHNN ngày 25/08/1999 về ban hành quy định về các tỷ lệ bảo đảm an toàn trong hoạt động của các tổ chức tín dụng. Tạp chí Ngân Hàng số 1 tháng 1 năm 2007. Tạp chí Ngân Hàng số 3 + 4 tháng 2 năm 2007. Tạp chí Ngân Hàng số 5 tháng 3 năm 2007. Trang web của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam: www.sbv.gov.vn Trang web của Tạp chí Thị trường tài chính tiền tệ: www.vnba.org.vn Trang web của Tạp chí Ngân hàng: www.tcnh@hn.vn Các văn bản pháp luật khác có liên quan. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLDOCS (111).DOC