Khóa luận Phát triển thương mại điện tử trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay

Thế kỉ XXI được coi là thời đại bùng nổ của ngành công nghệ thông tin. Sự phát triển của công nghệ thông tin, đặc biệt là sự ra đời của Internet đã đem đến một phương thức kinh doanh hàng hoá dịch vụ mới mẻ và hiệu quả. Đến nay, thuật ngữ “Thương mại điện tử” đã trở nên không còn xa lạ đối với hầu hết người dân trên toàn thế giới, trong đó có Việt Nam. Việc ứng dụng hoạt động thương mại điện tử đã tạo nên những bước đột phá lớn trong lĩnh vực kinh tế. Dù là quốc gia đang phát triển, trình độ công nghệ thông tin chưa cao nhưng Việt Nam đã nhận thức được tầm quan trọng và tính thiết yếu của loại hình dịch vụ này. Đến nay, hoạt động thương mại điện tử đã được triển khai và ứng dụng trong một số ngành dịch vụ và đem đến những kết quả đáng kể. Trong đó ngành ngân hàng được coi là một trong những lĩnh vực tiên phong ứng dụng hoạt động này. Ngày 11/1/2007, Việt Nam trở thành thành viên chính thức của tổ chức Thương mại thế giới WTO. Việc ra nhập WTO cùng xu thế hội nhập kinh tế quốc tế hiện nay không chỉ mang lại nhiều thuận lợi mà cũng đặt ra những thách thức lớn đối với các ngân hàng trong nước, điều đó buộc các ngân hàng phải hiện đại hoá, áp dụng những công nghệ hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh của mình trước các đối thủ nước ngoài. Đến nay, các ngân hàng Việt Nam đều ra sức đầu tư khoa học công nghệ thông tin theo hướng hiện đại hoá; thiết lập, cung cấp các loại hình dịch vụ mới nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của khách hàng, tạo dựng được niềm tin với khách hàng và lợi thế cạnh tranh trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế. Thời gian qua, ngân hàng Việt Nam đã đạt được những thành tựu đáng kể, dù chưa thể so sánh được với các ngân hàng nước ngoài nhưng đặt trong điều kiện khó khăn về cơ sở hạ tầng, chưa minh bạch trong hệ thống pháp luật những kết quả đó rất đáng được khích lệ. Với mục tiêu phát triển hơn nữa hoạt động ứng dụng thương mại điện tử trong lĩnh vực ngân hàng, nhà nước ta cùng các bộ, đoàn thể, cơ quan chuyên ngành cần đưa ra những chiến lược lâu dài, những định hướng cụ thể, đúng đắn. Muốn làm được điều đó, chúng ta sẽ đi sâu tìm hiểu những thành tựu đã đạt được cũng như những vướng mắc còn gặp phải của ngành ngân hàng khi triển khai ứng dụng hoạt động E- Banking để có cái nhìn tổng thể, toàn diện và từ đó có thể đưa ra những giải pháp cho ngành ngân hàng. Vì lí do đó, tôi đã lựa chọn đề tài “Phát triển thương mại điện tử trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” cho khoá luận của mình, với mong muốn sẽ góp phần phát triển hoạt động ứng dụng thương mại điện tử trong ngành ngân hàng. LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 3 LÝ LUẬN CHUNG VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ, . 3 NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ, DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ 3 1. TỔNG QUAN VỀ THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ (TMĐT) 3 1.1. Khái niệm chung về Thương mại điện tử . 3 1.2. Lợi ích và hạn chế của Thương mại điện tử 4 1.2.1. Lợi ích của Thương mại điện tử 4 1.2.1.1. Lợi ích đối với tổ chức . 4 1.2.1.2. Lợi ích đối với người tiêu dùng 6 1.2.1.3. Lợi ích đối với xã hội 6 1.2.2. Hạn chế của Thương mại điện tử 7 1.2.2.1. Hạn chế về kĩ thuật . 7 1.2.2.2. Hạn chế về thương mại . 7 1.3. Ảnh hưởng của Thương mại điện tử 8 1.3.1. Tác động đến hoạt động Marketing . 8 1.3.2. Thay đổi mô hình kinh doanh 9 1.3.3. Tác động đến hoạt động sản xuất 9 1.3.4. Tác động đến hoạt động ngân hàng 9 1.3.5. Tác động đến hoạt động ngoại thương 9 2. LÝ LUẬN CHUNG VỀ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ VÀ DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ . 9 2.1. Ngân hàng điện tử 9 2.1.1. Khái niệm 9 2.1.2. Quá trình hình thành và phát triển của Ngân hàng điện tử 12 2.1.3. Các cấp độ của Ngân hàng điện tử 12 2.2. Dịch vụ Ngân hàng điện tử 13 2.2.1. Lợi ích của dịch vụ Ngân hàng điện tử . 13 2.2.1.1. Đối với Ngân hàng 13 2.2.1.2. Đối với khách hàng . 16 2.2.2. Rủi ro và hạn chế của dịch vụ ngân hàng điện tử . 17 2.2.3. Các nhân tố ảnh hưởng đến sự phát triển của dịch vụ NHĐT 20 2.2.3.1. Hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin 20 2.2.3.2. Sự phát triển của TMĐT . 20 2.2.3.3. Môi trường pháp lý 21 2.2.3.4. Trình độ dân trí . 22 2.2.3.5. Nguồn nhân lực 22 2.2.3.6. Môi trường cạnh tranh 23 2.3. Các dịch vụ ngân hàng điện tử chủ yếu . 24 2.3.1. Ngân hàng tại nhà (Home Banking) . 24 2.3.2. Ngân hàng qua Internet (Internet Banking) 26 2.3.3. Ngân hàng qua điện thoại cố định (Phone Banking) 27 2.3.4. Ngân hàng qua mạng viễn thông không dây . 28 2.3.5. Các dịch vụ Ngân hàng điện tử khác . 29 2.3.5.1. Thẻ thanh toán (Payment Card) 29 2.3.5.2. Chuyển tiền điện tử (Remittance) 31 2.3.5.3. Chuyển tiền điện tử tại địa điểm bán hàng 32 2.3.5.4. Séc điện tử . 33 2.3.5.5. Ví tiền điện tử 35 2.3.5.6. Tiền điện tử (E-cash) . 36 2.3.5.7. Hối phiếu điện tử 37 CHƯƠNG II39. THỰC TRẠNG ỨNG DỤNG THƯƠNG MẠI ĐIỆN TỬ Ở MỘT SỐ NGÂN HÀNG TẠI VIỆT NAM - DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ 39 1. TỔNG QUAN TÌNH HÌNH PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM . 39 1.1. Bối cảnh thúc đẩy sự ra đời và phát triển dịch vụ NHĐT . 39 1.2. Tổng quan tình hình triển khai dịch vụ NHĐT ở Việt Nam. . 40 2. THỰC TRẠNG TRIỂN KHAI DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI MỘT SỐ NGÂN HÀNG Ở VIỆT NAM . 44 2.1. Ngân hàng ngoại thương Việt Nam Vietcombank 44 2.1.1. Giới thiệu chung 44 2.1.2. Thực tế triển khai NHĐT tại Vietcombank 45 2.1.2.1. Dịch vụ thẻ . 45 2.1.2.2. Dịch vụ Internet Banking 48 2.1.2.3. Dịch vụ SMS- Banking . 49 2.1.2.4. Các dịch vụ ngân hàng điện tử khác 49 2.2. Ngân hàng Công thương Việt Nam Vietinbank 51 2.2.1. Giới thiệu chung 51 2.2.2. Thưc tế triển khai NHĐT tại Vietinbank . 52 2.2.2.1. Dịch vụ thẻ . 52 2.2.2.2. Chuyển tiền điện tử . 55 2.2.2.3. Dịch vụ Internet Banking . 2.2.2.4. Dịch vụ Mobile Banking (SMS Banking) 57 2.2.2.5. Dịch vụ Home Banking 58 2.3. Ngân hàng Đầu tư và phát triển Việt Nam BIDV . 58 2.3.1. Giới thiệu chung 58 2.3.2 Thực tế triển khai dịch vụ NHĐT ở NHĐT&PT Việt Nam 59 2.3.2.1. Dịch vụ thẻ . 59 2.3.2.2. Dịch vụ Homebanking 61 2.3.2.3. Dịch vụ vấn tin tài khoản qua điện thoại di động (BSMS) 62 2.3.2.4. Dịch vụ chuyển tiền . 62 2.4. Ngân hàng TMCP Quốc tế Việt Nam (VIB Bank) 63 2.4.1. Giới thiệu về ngân hàng quốc tế VIB Bank . 63 2.4.2. Thực trạng triển khai dịch vụ Ngân hàng điện tử tại Ngân hàng Quốc tế VIB Bank . 63 2.4.2.1. Dịch vụ thẻ . 63 2.4.2.2. Dịch vụ Internet Banking 66 2.4.2.3. Dịch vụ Mobile Banking . 67 3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI E-BANKING TẠI VIỆT NAM 68 3.1. Một số kết quả thu được . 68 3.2. Thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của hoạt động dịch vụ NHĐT tại Việt Nam . 71 3.2.1. Thuận lợi . 71 3.2.2. Khó khăn 74 3.3. Triển vọng phát triển dịch vụ NHĐT tại Việt Nam . 75 CHƯƠNG III . 78 GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ . 78 TẠI VIỆT NAM . 78 1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN E-BANKING TẠI VIỆT NAM 78 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM 81 2.1. Các giải pháp vĩ mô . 81 2.1.1. Đẩy mạnh hạ tầng công nghệ và thông tin quốc gia . 81 2.1.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng điện tử 82 2.1.3. Nâng cao hiểu biết và trình độ của người dân . 83 2.1.4. Hỗ trợ, khuyến khích các Ngân hàng tham gia vào hoạt động thương mại điện tử. 83 2.2. Các giải pháp vi mô . 83 2.2.1. Giải pháp về công nghệ thông tin 83 2.2.2. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực 84 2.2.3. Giải pháp về hoạt động Marketing 86 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM . 87 3.1. Kiến nghị đối với chính phủ và các cơ quan nhà nước 87 3.1.1. Đầu tư cho xây dựng hạ tầng cơ sở 87 3.1.2. Tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định 88 3.1.3. Đầu tư cho giáo dục . 88 3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng . 89 3.2.1. Xây dựng một hệ thống mạng an toàn . 89 3.2.2. Có chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh dịch vụ NHĐT 90 3.3. Kiến nghị với Doanh nghiệp . 90 KẾT LUẬN . 92

doc97 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1355 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Phát triển thương mại điện tử trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tiền} Điểm đặt máy ATM, chấp nhận thẻ Values: VIB MATM {mã điện thoại tỉnh/ TP} {mã quận} Các đơn vị kinh doanh của VIB Bank: VIB CNGD {mã điện thoại tỉnh/ TP} {mã quận} Các thông tin về thẻ Master Card: Thông báo số dư tự động: Hệ thống sẽ tự động gửi tin nhắn tới số điện thoại khách hàng đăng kí khi có bất kỳ giao dịch làm thay đổi số dư tài khoản. Dịch vụ Mobile Banking và Internet Banking của NHQT sẽ tiết kiệm rất nhiều thời gian cho khách hàng, khách hàng không cần đến hay gọi điện đến khách hàng vẫn có thể biết được thông tin về tài khoản cũng như thông tin về ngân hàng. Từ ngày 01/03/2009, VIB bắt đầu triển khai rộng rãi dịch vụ SMS Banking/Email cho thẻ Tín Dụng. Dịch vụ SMS Banking cho thẻ Tín dụng giúp khách hàng chủ động kiểm soát các giao dịch và tài khoản của mình một cách nhanh chóng nhất, tiện ích nhất. 3. ĐÁNH GIÁ TÌNH HÌNH TRIỂN KHAI E-BANKING TẠI VIỆT NAM 3.1. Một số kết quả thu được Sau vài năm đi vào hoạt động mô hình thanh toán thông qua ngân hàng điện tử của nước ta đã có những chuyển biến đáng kể. Các ngân hàng thương mại hiện nay đã triển khai nhiều hoạt động ứng dụng công nghệ thông tin trong hoạt động dịch vụ Ngân hàng của mình theo hướng: “Ngân hàng điện tử” như dịch vụ HomeBanking, Mobile-Banking, PC-Banking, Internet Banking, thanh toán Online, thanh toán thẻ, dịch vụ Ngân hàng tự động qua ATM, chương trình bán lẻ (Retail-Banking), tham gia thanh toán quốc tế SWIFT. Đặc biệt, sự phát triển của hệ thống ATM và dịch vụ thẻ đã tạo ra một sân chơi mới cho hoạt động ngân hàng cho thấy hệ thống ngân hàng Việt Nam đang dần bắt nhịp đà phát triển của thế giới. Nếu như trước đây, tình trạng ách tắc trong giao dịch ngân hàng, giao dịnh liên ngân hàng thường xuyên xảy ra thì giờ đây, một hệ thống ATM, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng đã giúp cho khách hàng có thể thực hiện thanh toán chỉ trong vòng vài giây. Chứng từ điện tử ra đời cho thấy các cơ quan chức năng cũng đã quan tâm tới sự phát triển của ngành ngân hàng. Chứng từ điện tử ra đời chứng minh rằng nhu cầu điện tử hóa ngành ngân hàng là cần thiết để hội nhập kinh tế Việt Nam và kinh tế quốc tế tạo đà cho thương mại điện tử phát triển. NHĐT Việt Nam hiện nay vẫn chưa thực sự phát triển nhưng cũng đã đạt được những kết quả bước đầu đáng khích lệ, cho thấy sự quan tâm và cố gắng của các thành viên tham gia. E-Banking mở ra các hoạt động hiệu quả cho kết quả trong những khoản thời gian ngắn hơn, cải thiện sự phản hồi với khách hàng và làm giảm chi phí điều hành. Nhà nước đang từng bước xây dựng và hoàn thiện một hành lang pháp lý cho thương mại điện tử nói chung cũng như thanh toán trong NHĐT nói riêng để có thể phát triển được và được xem như giữ vai trò nền tảng trong việc phát triển cơ chế thanh toán trong các NHĐT. Hệ thống thanh toán liên ngân hàng đã chính thức đi vào hoạt động từ tháng 05/2002. Tới nay, toàn hệ thống ngân hàng Việt Nam có hơn 4.900 máy ATM, gần 16.000 điểm chấp nhận thẻ (POS) và phát hành hơn 14 triệu thẻ thanh toán. Một loạt các dịch vụ NHĐT bán lẻ, ngân hàng tại nhà- Home-Banking, Internet Banking, Mobile Banking đã được khai trương. E-Banking đã làm giảm được những chi phí hành chính so với hình thức giao dịch truyền thống, cung cấp thông tin, có hệ thống báo cáo tốt hơn, có quan hệ tốt hơn đối với doanh nghiệp thông qua phương thức truyền thống. Các doanh nghiệp giảm chi phí hành chính và chi phí hoạt động, thông tin với khách hàng và đối tác thuận tiện hơn. Các phương thức thanh toán hiện đại, thanh toán trực tuyến bước đầu đã được chấp nhận và được triển khai trên nhiều ngân hàng. Người tiêu dùng mạnh dạn sử dụng những phương thức thanh toán hiện đại hơn và ngày càng nhận thức được rõ sự tiện dụng, tính an toàn, tính kinh tế và tiện lợi. Các bên trung gian trong hoạt động thanh toán tích cực hoàn thiện mình và đưa ra nhiều giải pháp phát triển nhằm tạo sự thuận tiện và phù hợp với tình hình hiện tại. Thị trường thẻ thanh toán ngày càng sôi động với sự tham gia của hầu hết các ngân hàng lớn. Đây là những cơ sở tốt cho sự phát triển E-banking tại Việt Nam. Nhìn chung, các phương tiện thanh toán ứng dụng công nghệ cao vẫn tiếp tục xu hướng phát triển mạnh, đặc biệt dịch vụ thẻ ngân hàng, với khoảng 30 tổ chức phát hành thẻ với 120 thương hiệu, trong đó thẻ nội địa có 71 loại thương hiệu, thẻ quốc tế 49 loại thương hiệu. Các ngân hàng không ngừng đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật phục vụ cho hoạt động thẻ, hiện nay có 25 ngân hàng đã trang bị máy ATM với con số gần 5000 máy tính đến tháng 12 năm 2008, thiết bị chấp nhận thẻ lên tới 22.000, tổng lượng thẻ phát hành là gần 14 triệu thẻ. Nhiều ngân hàng đã phát hành các loại thẻ có độ bảo mật cao, an toàn như thẻ có gắn chíp và cung cấp nhiều tiện ích đi kèm cho khách hàng sử dụng thẻ. Các tiện ích đi kèm thẻ khá đa dạng và phong phú, phụ thuộc vào năng lực của từng tổ chức phát hành thẻ. Trước sự phát triển của công nghệ thông tin và sức ép cạnh tranh của thị trường, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán đã mạnh dạn đầu tư vào hạ tầng kỹ thuật nhằm đa dạng hoá các dịch vụ thanh toán, đặc biệt là việc cung cấp các dịch vụ thanh toán qua mạng Internet như một số ngân hàng đã triển khai như Techcombank, ACB, ECB, VCB... Hoạt động thanh toán cũng chứng kiến sự tham gia tích cực của một số tổ chức khác không phải là tổ chức tín dụng như các tổ chức công nghệ thông tin, các doanh nghiệp trong việc cung cấp các dịch vụ hỗ trợ thanh toán với tư cách là các nhà cung ứng dịch vụ kết nối điện tử, hỗ trợ thanh toán thẻ, và các dịch vụ thanh toán khác như Paynet, VinaPay, VASC Payment.. Trong thời gian tới, hoạt động thanh toán trong nền kinh tế tiếp tục diễn biến tích cực, sôi động với những nỗ lực từ phía các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán và các tổ chức cung cấp dịch vụ hỗ trợ thanh toán trong việc đem đến cho khách hàng dịch vụ thanh toán tốt nhất. Dịch vụ mở tài khoản cá nhân đang trong xu thế phát triển nhanh chóng và vượt bậc, với sự tham gia ngày một gia tăng lượng khách hàng vào thị trường chứng khoán và việc triển khai thực hiện Chỉ thị 20/2007CT-TTg. Và đây là điều kiện để các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán cung cấp đến người sử dụng nhiều dịch vụ thanh toán tiện ích, hiện đại. 3.2. Thuận lợi và khó khăn đối với sự phát triển của hoạt động dịch vụ NHĐT tại Việt Nam. 3.2.1. Thuận lợi Phát triển thương mại điện tử là xu hướng tất yếu của các Ngân hàng Thương mại Việt Nam trong quá trình hội nhập và phát triển. Do đó, việc triển khai dịch vụ NHĐT ngày càng được các ngân hàng quan tâm và tìm ra cho mình những hướng đi đúng đắn. Việt Nam đang dần khắc phục những khó khăn, tồn tại để việc phát triển E-Banking ngày càng thuận lợi. Vì vậy, hiện nay, dịch vụ NHĐT sẽ ngày càng được thúc đẩy trong môi trường tương đối thuận lợi để phát huy các tiện ích của mình. - Môi trường kinh tế Xã hội Một trong những thuận lợi đầu tiên phải kể đến cho sự phát triển dịch vụ E-Banking tại Việt Nam là Việt Nam có môi trường kinh tế- xã hội ổn định, tốc độ tăng trưởng ở mức tương đối cao so với khu vực và trên thế giới, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện rõ rệt. Từ đó, mức sống và chuẩn sống của người dân ngày càng cao hơn, xuất hiện nhu cầu về các sản phẩm dịch vụ ngân hàng tiện ích hơn, hiện đại hơn, từ đó thúc đẩy các ngân hàng ngày càng đưa ra những dịch vụ sản phẩm mới nhằm nâng cao năng lực cạnh tranh với các ngân hàng nước ngoài để thu hút và giữ chân khách hàng của mình. - Về quan điểm chính trị và môi trường pháp lý. Trong quá trình đổi mới hơn 12 năm qua, đất nước ta đã chuyển biến đáng kể sang hướng “mở cửa”. Đảng và nhà nước đã nhận thức rõ tầm quan trọng của việc phát triển công nghệ thông tin nói chung và đẩy mạnh việc áp dụng thương mại điện tử và thanh toán điện tử trong các hoạt động kinh tế. Bắt đầu từ khi ngành ngân hàng triển khai dịch vụ NHĐT, ngành đã nhận được sự quan tâm cũng như chỉ đạo sát sao từ phía các nhà lãnh đạo Nhà nước và của các Ngân hàng Nhà nước trong việc định ra chiến lược phát triển chung cho toàn ngành, đề ra những chính sách, quy định để tạo điều kiện thuận lợi cho dịch vụ này phát triển. Những động thái tích cực đó đã được thể hiện cụ thể trong các văn kiện đường lối của Đảng và nhà nước mang tính “dẫn đường chỉ lối”, có thể kể đến một số văn bản pháp lý quan trọng như: Quyết định số 308-QĐ/NH2 ngày 16/09/1997: Quy định của Nhà nước về việc ban hành quy chế về việc lập, sử dụng, kiểm soát, xử lý, bảo quản, và lưu trữ chứng từ điện tử của Ngân hàng và tổ chức tín dụng Quyết định số 371/1999/QĐ/NHNN1 ngày 19/09/1999: Quyết định của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước về việc ban hành quy chế phát hành, sử dụng và thanh toán thẻ Ngân hàng. Quyết định số 1557/2001 về bán hàng quy chế thanh toán bù trừ liên Ngân hàng Quyết định số 212/2002/QĐ/NHNN ngày 20/03/2002 Quyết định 349/2002/QĐ/NHNN ngày 17/04/2002 Đặc biệt, Luật giao dịch điện tử số 51/2005/QH11 năm 2005 ra đời đặt nền tảng đầu tiên cho việc thiết lập một hệ thống văn bản pháp quy toàn diện về giao dịch điện tử tại Việt Nam. Sau khi luật được ban hành, trong hai năm 2006, 2007 hàng loạt văn bản dưới luật đã ra đời nhằm điều chỉnh chi tiết việc triển khai giao dịch điện tử trong các lĩnh vực đời sống, xã hội. Cùng một số văn bản được ban hành từ 2005 trở về trước, những văn bản ra đời trong hai năm gần đây đã tạo nên một khung pháp lý tương đối toàn diện cho giao dịch điện tử nói chung và TMĐT Việt Nam nói riêng. Đặc biệt là 4 chỉ thị hướng dẫn Luật giao dịch điện tử và 3 chỉ thị hướng dẫn Luật Công nghệ thông tin. Quyết định số 35/2006/QĐ/NHNN về nguyên tắc quản lý rủi ro trong hoạt động NHĐT Quyết định số 04/2006/QĐ/NHNN ban hành quy chế an toàn bảo mật hệ thống CNTT ngành Ngân hàng ngày 18/01/2006 Nghị định số 35/2007/NĐ-CP về giao dịch điện tử trong ngành Ngân hàng. Đề án thanh toán không dùng tiền mặt giai đoạn 2006-2010 và định hướng đến 2020.v.v… Những đường lối tích cực trên sẽ tiếp tục mở đường cho sự phát triển TMĐT và thanh toán điện tử ở Việt Nam trong tương lai. Cùng với việc quan tâm xây dựng môi trường pháp lý cho hoạt động Thanh toán điện tử trong nước, chúng ta còn tích cực tham gia hợp tác trong khu vực. Hội nghị Bộ trưởng Thông tin và Viễn thông các nền kinh tế APEC (APEC TELMIN7) được tổ chức lần thứ 7 tại Băng Cốc năm 2008 vạch ra những cam kết hội nhập và phương hướng hành động để ASEAN có thể xây dựng một ASEAN điện tử, mong muốn hoàn tất Chương trình về Thúc đẩy các ứng dụng và dịch vụ trực tuyến để hiện thực hóa e-ASEAN. Bàn bạc các vấn đề liên quan đến ASEAN ICT Focus 2005-2010: Xây dựng một Cộng đồng ASEAN được kết nối, ấn tượng và bảo mật. Ngoài ra, Hội nghị đã thông qua “Tuyên bố chung Bangkok: Biến thách thức thành thành tựu” Nguồn: . Bản Tuyên bố chung thể hiện quyết tâm mạnh mẽ và tái khẳng định nỗ lực của các nền kinh tế APEC trong việc biến thách thức thành thành tựu nhằm tạo ra sự thịnh vượng số, phát triển kinh tế xã hội nhanh, mạnh hơn. Như vậy, có thể nói, việc ban hành những văn bản pháp luật vào thanh toán điện tử Ngân hàng là một quyết định đúng đắn, kịp thời, và tất yếu để các ngân hàng Việt Nam mở rộng, bắt kịp với xu thế phát triển của các ngân hàng trong khu vực và trên thế giới. - Về hạ tầng công nghệ Một trong những thuận lợi nữa cho hoạt động của dịch vụ NHĐT ở Việt Nam là sự giúp đỡ của Ngân hàng Thế giới (WB). Một số ngân hàng thương mại của Việt Nam trong đó có NHNT Việt Nam (Vietcombank) đã nhận được sự hỗ trợ của WB để cải tổ các hệ thống công nghệ thông tin trong ngân hàng và các hệ thống này cũng có độ hiện đại không kém các ngân hàng khác trên thế giới. Đồng thời, WB cũng đã phổ biến cho Việt Nam những kinh nghiệm của một số nước khác trên thế giới trong việc triển khai dịch vụ NHĐT. Trong thời gian vừa qua, Việt Nam đã hoàn thành chính thức đưa vào vận hành hệ thống thanh toán liên Ngân hàng Nhà nước và 6 ngân hàng thương mại lớn từ tháng 5/2002 Nguồn: , kết thúc cả hai giai đoạn của dự án hiện đại hóa Liên Ngân hàng do WB tài trợ. Dự án “Hiện đại hóa Ngân hàng và Hệ thống thanh toán“ là một trong những dự án trọng điểm trong chiến lược phát triển công nghệ thông tin giai đoạn 2006-2010 của Chính phủ Việt Nam. Dự án giúp thay đổi cơ bản về phương thức thanh toán truyền thống của các tổ chức tín dụng, cá nhân và hệ thống ngân hàng trên toàn quốc; góp phần làm tăng sức cạnh tranh của nền kinh tế nói chung và hệ thống ngân hàng nói riêng, đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế của đất nước trong thời gian tới. Việc hoàn thành và sớm đưa Dự án vào sử dụng đã được Ngân hàng Thế giới (WB) đánh giá rất cao và cho rằng đây là một trong những dự án CNTT đem lại hiệu quả nhất cả về vốn đầu tư cũng như công nghệ hiện đại . Theo Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Nguyễn Văn Giàu, hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng sẽ là bước đột phá, tạo đà phát triển mới sau 7 năm nâng cấp và hiện đại hóa ngành Ngân hàng nước ta. Ngân hàng Nhà nước sẽ tiếp tục đẩy mạnh đầu tư cho hạ tầng kỹ thuật công nghệ, mở rộng thị trường và dịch vụ hiện đại, nhanh chóng bắt kịp nền công nghệ thông tin hiện đại của thế giới Nguồn: . Qua đây chúng ta có thể có được cái nhìn tổng quát từ nhiều góc độ của những thuận lợi cho triển vọng phát triển dịch vụ NHĐT ở Việt Nam. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi, chúng ta vẫn còn nhiều khó khăn mà chưa thể khắc phục được ngay. 3.2.2. Khó khăn - Hạ tầng thông tin Đây chính là khó khăn đầu tiên mà Việt Nam phải đối mặt. Dù đã nhận được những giúp đỡ về Công nghệ thông tin nhưng Việt Nam vẫn theo sau các nước khác trên thế giới một khoảng cách xa. Chúng ta còn thiếu thị trường công nghệ, thiếu thiết bị công nghệ, thiếu chuyên gia công nghệ… Hạ tầng công nghệ thông tin của nước ta còn chưa thực sự phát triển và không đồng bộ. Hầu hết các sản phẩm công nghệ của Việt Nam hiện nay đều phải nhập khẩu từ các nước phát triển trên thế giới. Ngẫu nhiên, nếu không có hướng giải quyết đúng đắn, chúng ta rất có thể trở thành bãi rác công nghệ của những nước có nền công nghệ thông tin nguồn. Thực tế cho thấy, yếu tố bảo mật cho loại hình dịch vụ thẻ của Ngân hàng Việt Nam vẫn còn nhiều bất cập, tình trạng gian lận thẻ, bị sao chép thông tin cá nhân trong thẻ thường xuyên diễn ra… Vậy, ứng dụng công nghệ nào, triển khai loại hình công nghệ nào để khắc phục những bất cập đó vẫn còn là bài toán lớn đối với các Ngân hàng Việt Nam. - Thách thức chính từ phía các ngân hàng Vấn đề cải tổ lại hệ thống Ngân hàng đã và đang tiếp tục được các ngân hàng tiến hành xem xét và thực thi. Để phát triển dịch vụ E-Banking, chúng ta phải tiến hành đồng thời với việc cải tổ ngân hàng trên cơ sở ứng dụng công nghệ, đồng thời với việc xây dựng cơ sở pháp lý. Đây là điều không hề dễ dàng với các doanh nghiệp nói chung và các ngân hàng nói riêng, từ đó đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có những đề án cải tổ, xây dựng được hướng đi đúng đắn cho mình trong quá trình hội nhập này. - Nguồn nhân lực Một khó khăn lớn mà ngành ngân hàng Việt Nam phải đối mặt khi triển khai dịch vụ E-banking là vấn đề nguồn nhân lực phục vụ cho dịch vụ này. Với cán bộ Ngân hàng, những hiểu biết của họ vẫn còn hạn chế, kiến thức về TMĐT vẫn chưa sâu nên gây nhiều khó khăn trong quá trình triển khai dịch vụ. Còn đối với các chuyên gia công nghệ thông tin, chúng ta không chỉ thiếu về số lượng mà cả năng lực chuyên môn cũng là bài toán khó cần giải quyết. - Môi trường cạnh tranh Từ khi trở thành thành viên chính thức của WTO, Việt Nam luôn mở rộng cánh cửa hội nhập của mình chào đón các bạn bè quốc tế, trong đó có các ngân hàng nước ngoài. Các ngân hàng nước ngoài với năng lực tài chính tốt hơn, công nghệ hiện đại hơn, trình độ quản lý cao hơn, hệ thống sản phẩm đa dạng hơn, chất lượng tốt hơn… chắc chắn sẽ thu hút phần lớn khách hàng tại Việt Nam. Do vậy, để tìm cho mình chỗ đứng riêng, các ngân hàng Thương mại Việt Nam sẽ phải cố gắng, nỗ lực rất nhiều mới mong giữ chân được khách hàng truyền thống và tiềm năng của mình. 3.3. Triển vọng phát triển dịch vụ NHĐT tại Việt Nam Qua phân tích tình hình hoạt động triển khai dịch vụ Ngân hàng điện tử của Việt Nam hiện nay, theo các chuyên gia tài chính kinh tế, hướng phát triển dịch vụ NHĐT của Việt Nam sắp tới là: Một là, phát triển dịch vụ Ngân hàng bán lẻ tiện ích và hiện đại, đó là dịch vụ chủ yếu dành cho khách hàng cá nhân. Tăng tiện ích của tài khoản cá nhân: Ngoài chức năng là tài khoản tiền gửi thông thường của cá nhân, các ngân hàng thương mại còn cung cấp dịch vụ ngân hàng thấu chi trên tài khoản, với hạn mức thấu chi dựa trên thu nhập ổn định hàng tháng, mức tiền lương, tài sản đảm bảo khác. Hiện nay Ngân hàng Thương mại Cổ phần Á Châu (ACB), Ngân hàng Thương mại Cổ phần Kỹ thương (Techcombank) đang khá thành công về loại hình dịch vụ này. Đến nay, hầu hết các ngân hàng thương mại đang cung cấp dịch vụ thẻ trên tài khoản cá nhân, chủ yếu là thẻ ATM nội địa, một số đối tượng khách hàng và một số ngân hàng thương mại còn phát hành thẻ tín dụng quốc tế: VISA, Master Card, Amex... Dịch vụ chi trả lương qua tài khoản cá nhân, thanh toán tiền hàng hoá và dịch vụ, chuyển tiền và thanh toán khác, cũng đang phát triển mạnh. Hiện NHNT Việt Nam đã và đang tiếp tục triển khai trên diện rộng dịch vụ thanh toán hóa đơn tiền điện, điện thoại với Viễn thông, Điện lực, Bưu điện Hà Nội, Vinaphone, Citiphone, MobiFone, VMS. Đặc biệt, dịch vụ chi trả lương qua tài khoản trên cơ sở sử dụng dịch vụ ngân hàng tự động ATM được nhiều doanh nghiệp có đông công nhân, tổ chức có đông người lao động chấp nhận. Dẫn đầu về lĩnh vực dịch vụ này là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á. Khoảng gần 10 ngân hàng thương mại cổ phần tại Tp. HCM mở dịch vụ huy động vốn và cho vay bằng vàng. Gia tăng tính tiện lợi về dịch vụ tài khoản cho khách hàng dựa trên công nghệ ngân hàng hiện đại: Nhiều ngân hàng thương mại, như: ACB, Eximbank, Vietcombank cung cấp dịch vụ ngân hàng Internet Banking, Mobile Banking... cho chủ tài khoản. Hai là, mở rộng các dịch vụ ngân hàng quốc tế. Điển hình và tiêu biểu nhất trong lĩnh vực này là mới đây, Thống đốc Ngân hàng Nhà nước đã chấp thuận cho 3 ngân hàng thương mại được thực hiện dịch vụ kinh doanh vàng trên tài khoản ở nước ngoài, đó là Ngân hàng Thương mại Cổ phần Sài Gòn, Ngân hàng Thương mại Cổ phần Phương Nam và Ngân hàng Phát triển nhà ĐBSCL. Hiện tại, ở Việt Nam có 5 ngân hàng thương mại được chấp nhận làm đại lý phát hành và thanh toán thẻ tín dụng quốc tế của các tổ chức thẻ: VISA, Master Card, Amex… Ngoài ra, dịch vụ chuyển tiền kiều hối đang được phát triển mạnh tại các ngân hàng thương mại Việt Nam, nhiều ngân hàng thương mại phối hợp với các tổ chức quốc tế như Western Union... song dẫn đầu vẫn là Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam và Ngân hàng Thương mại Cổ phần Đông Á. Riêng Đông Á thành lập riêng một công ty kiều hối, đạt doanh số chi trả gần 700 triệu USD trong năm 2006, chiếm 14% thị phần chi trả kiều hối trong cả nước. Trong một nền kinh tế sôi động, thị trường chứng khoán phát triển nhanh, thị trường dịch vụ tài chính - ngân hàng có sự cạnh tranh mạnh mẽ... sẽ lại càng thúc đẩy tăng trưởng kinh tế vững chắc và các luồng chu chuyển vốn với tốc độ nhanh. Năm 2007 là năm phát triển rực rỡ của ngành ngân hàng Việt Nam, hầu hết các Ngân hàng đều có tốc độ phát triển vượt bậc, với những con số thật đáng nể như đã phân tích ở trên, đồng thời cung cấp những dịch vụ Ngân hàng điện tử mang nhiều tiện ích, đáp ứng được nhu cầu của khách hàng trong nước. Tiếp tục với đà phát triển đó, đến năm 2008, 2009, tuy bị tác động bởi cuộc khủng hoảng kinh tế tài chính thế giới, các ngân hàng thương mại Việt Nam vẫn luôn cố gắng với nỗ lực cao nhất để đáp ứng cho nhu cầu khách hàng và khẳng định được sự lớn mạnh từng bước của mình, không chỉ cung ứng dịch vụ NHĐT chất lượng cao trong nước mà còn vươn ra thị trường tài chính trong khu vực và trên thế giới. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM 1. ĐỊNH HƯỚNG PHÁT TRIỂN E-BANKING TẠI VIỆT NAM Trong những năm thời kỳ đổi mới, ngành Ngân hàng đã có những đóng góp quan trọng cho sự phát triển kinh tế - xã hội Việt Nam: kiềm chế lạm phát, giữ vững ổn định đồng tiền, đáp ứng vốn cho nền kinh tế, chủ động đưa hoạt động Ngân hàng hội nhập với khu vực và quốc tế. Tuy nhiên, trong điều kiện toàn cầu hóa như hiện nay, ngành ngân hàng cũng phải đối mặt với nhiều khó khăn và thách thức. Tại hội thảo “Chọn lựa chiến thuật trong công nghiệp ngân hàng” (được tổ chức vào đầu tháng 9/2005 ở Hà Nội), Trung tâm tư vấn công nghệ và đầu tư Việt Nam (VietBid) đã dự đoán rằng, tới năm 2010 thị trường của các ngân hàng quốc doanh sẽ bị lùi từ 70% xuống còn 46%, các ngân hàng cổ phần sẽ tăng lên 30%, còn các ngân hàng nước ngoài sẽ tăng lên gấp đôi, đạt mức 24%. Đồng thời, một cuộc thăm dò ý kiến do VietBid tổ chức vào tháng 7/2005 cho thấy, ngày càng có nhiều doanh nghiệp và cá nhân Viêt Nam ưa thích lựa chọn các dịch vụ của ngân hàng ngoại quốc hơn các ngân hàng Việt Nam: 42% doanh nghiệp và 50% tư nhân được hỏi đều cho rằng sẽ chọn ngân hàng nước ngoài ở Việt Nam để vay tiền khi những ngân hàng này được hoạt động bình đẳng với các ngân hàng ở Việt Nam; 50% doanh nghiệp và 62% tư nhân được hỏi cũng cho biết sẽ lựa chọn ngân hàng nước ngoài để gửi tiết kiệm. Lý do của sự lựa chọn này là vì những ngân hàng nước ngoài có kinh nghiệm hoạt động quốc tế, trình độ công nghiệp ngân hàng cao, thủ tục hành chính đơn giản, và chất lượng phục vụ tốt hơn ngân hàng trong nước. Trước thực tế như vậy, không còn cách nào khác các ngân hàng trong nước buộc phải không ngừng cải tiến công nghệ, đa dạng hóa sản phẩm và nâng cao chất lượng dịch vụ. Mở rộng các loại hình và nâng cao chất lượng dịch vụ là điều kiện sống còn để các Ngân hàng Việt Nam có thể cạnh tranh với các đối tác nước ngoài khi mà thời điểm mở cửa lĩnh vực tài chính – ngân hàng của Việt Nam đang đến gần. Sự chậm trễ trong ứng dụng công nghệ điện tử - tin học sẽ làm Ngân hàng tụt hậu và không cạnh tranh nổi ngay trên địa bàn của mình. Nhận thức được tầm quan trọng của việc đổi mới hệ thống Ngân hàng, trước đó, từ tháng 5/2002, dự án “Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán” do Ngân hàng thế giới (WB) tài trợ với tiểu dự án Thanh toán Liên ngân hàng đã đi vào hoạt động. Với tổng số vốn đầu tư 53,9 triệu USD, dự án Hiện đại hóa ngân hàng và hệ thống thanh toán là việc cụ thể hóa một khoản đầu tư rất lớn vào ngành kinh doanh tiền tại Việt Nam. Dự án bao gồm việc xây dựng hệ thống thanh toán bù trừ điện tử và quyết toán liên ngân hàng do Ngân hàng Nhà nước đảm nhiệm (trong phạm vi 5 tỉnh, thành phố) và 6 hệ thống thanh toán trong nội bộ và nghiệp vụ ngân hàng cốt lõi của 6 Ngân hàng thương mại: NHCT, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn, Ngân hàng Đầu tư và Phát triển, Ngân hàng xuất nhập khẩu và Ngân hàng Hàng hải. Lợi ích mang lại của hệ thống này là đẩy nhanh tốc độ thanh toán qua ngân hàng, giảm lượng tiền trôi nổi trong lưu thông, sử dụng hiệu quả vốn khả dụng, rút ngắn thời gian quay vòng vốn, nâng cao hiệu quả hoạt động ngân hàng. Tiếp đó, trong khuôn khổ giai đoạn 2 của dự án trên, WB đã thông qua khoản tín dụng ưu đãi 105 triệu USD nhằm hiện đại hóa các ngân hàng. Mục tiêu của giai đoạn này là tập trung vào các vấn đề như: Ứng dụng công nghệ thông tin trong lĩnh vực Tài chính- Tiền tệ - Ngân hàng, nhằm đẩy mạnh thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam nhờ: Hiện đại hóa hệ thống thanh toán, mở rộng các dịch vụ thanh toán không dùng tiền mặt, ứng dụng Internet nhằm đa dạng hóa các dịch vụ Ngân hàng; tăng cường các giải pháp về công nghệ với mục đích nâng cao tính an toàn, bảo mật và an ninh trong thanh toán; xây dựng và củng cố hệ thống pháp lý cho việc ứng dụng công nghệ hiện đại với sự phát triển các hình thức thanh toán bằng ATM, CRM, Smart Card, nghiệp vụ ngân hàng di động, NHĐT, các giải pháp mạng, các giải pháp quy trình xử lý, nghiệp vụ ngân hàng Internet, thương mại điện tử, quản lý rủi ro, phục hồi dữ liệu, giải pháp cho ngành bảo hiểm… Tại Hội thảo quốc tế “Banking Vietnam 2008 TP.HCM” vừa qua, với chủ đề: “Công nghệ Ngân hàng hiện đại với Quản trị, kinh doanh tiền tệ, tín dụng", Hội thảo nhằm hướng vào các hoạt động Ngân hàng, dịch vụ Ngân hàng liên quan trực tiếp đến khách hàng, đến cộng đồng dân cư của Hệ thống các Ngân hàng thương mại. Đặc biệt là những đề xuất, những giải pháp thực hiện trong năm 2009, năm thứ 4 thực hiện chiến lược giai đoạn 2006-2010 về phát triển CNTT Ngân hàng. Những giải pháp đó là Nguồn: Báo Bưu điện Việt Nam số 74 ra ngày 20/8/2008. : - Cần bàn luận sâu các vấn đề để nâng cao công tác quản lý, giám sát, quản trị kinh doanh ngân hàng và quan trọng hơn, là việc ứng dụng công nghệ mới để hoạt động Ngân hàng ngày càng hiệu quả hơn, an toàn hơn và phát triển bền vững hơn. - Trong chiến lược phát triển công nghệ Ngân hàng, các Ngân hàng cần chủ động ứng dụng công nghệ mới nhanh hơn, hiện đại hơn để đẩy nhanh quá trình phát triển ở mỗi Ngân hàng, đủ sức cạnh tranh trong môi trường mới. Tuy nhiên, phải từ thực tế của mỗi Ngân hàng cần cân nhắc, lựa chọn các giải pháp ứng dụng phù hợp sát với chiến lược kinh doanh, năng lực tài chính và lựa chọn giải pháp công nghệ hiện đại. - Song song với việc Hiện đại hoá hệ thống thanh toán quốc gia, phải chú trọng phát triển các dịch vụ thanh toán hiện đại để mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt trong nền kinh tế. Mở rộng các dịch vụ ngân hàng điện tử theo hướng tiện ích, tối ưu và an toàn nhất cho khách hàng. Việc thống nhất giữa các liên minh thẻ, hình thành mạng thanh toán thẻ thống nhất toàn quốc là rất cần thiết, nhưng quan trọng hơn là các Ngân hàng cần chủ động triển khai nhiều dịch vụ ngân hàng mới, hiệu quả và thuận tiện cho người sử dụng dịch vụ thẻ Ngân hàng. - Phát triển ứng dụng Công nghệ thông tin Ngân hàng phải đi đôi với việc bảo đảm an ninh, bảo mật, an toàn cơ sở dữ liệu ngân hàng và tham gia quản lý tốt rủi ro trong hoạt động ngân hàng. Công tác an ninh, bảo mật, an toàn cơ sở dữ liệu ngân hàng phải được đảm bảo tuyệt đối, bởi nó là tài sản, là tiền bạc của Nhà nước, của doanh nghiệp và của khách hàng. Vì vậy, thực hiện tốt công tác an ninh, bảo mật cho các dịch vụ ngân hàng là bảo vệ quyền lợi của khách hàng, và cũng chính là bảo vệ Ngân hàng. Để thành công trong chiến lược phát triển sản phẩm của mình, các ngân hàng và định chế tài chính Việt Nam đã và đang tập trung phát triển các sản phẩm và dịch vụ NHĐT (E-Banking) để đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các dịch vụ ngân hàng, tìm kiếm cơ hội và tranh thủ sự hỗ trợ của Chính phủ, các Bộ, Ngành, địa phương và đặc biệt là các tập đoàn tài chính, tập đoàn, doanh nghiệp công nghệ thông tin và truyền thông trong nước, quốc tế để xây dựng hệ thống ngân hàng hiện đại và các tập đoàn tài chính đa năng phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế đất nước và hội nhập nhập kinh tế quốc tế. Đây là bước tiến nhằm nâng cao năng lực về công nghệ ngân hàng trong tiến trình thực hiện đề án: Cơ cấu lại một số ngân hàng Việt Nam theo hướng xây dựng một tập đoàn tài chính đa năng, phục vụ đắc lực cho công cuộc phát triển kinh tế xã hội đất nước. 2. MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM PHÁT TRIỂN DỊCH VỤ NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM Dịch vụ ngân hàng điện tử mở ra rất nhiều triển vọng phát triển nhưng cũng gây ra không ít những khó khăn, thách thức, đòi hỏi mỗi ngân hàng phải có chiến lược và bước đi phù hợp. Đồng thời các cơ quan có liên quan cũng cần tạo điều kiện thuận lợi cho các ngân hàng phát triển để hoạt động ngân hàng ngày càng trở nên quen thuộc và hữu ích đối với người dân Việt Nam. Trên cơ sở phân tích những khó khăn mà hiện nay các ngân hàng Việt Nam đang gặp phải ở phần trên, khóa luận xin đưa ra một số giải pháp nhằm đẩy mạnh các dịch vụ NHĐT tại Việt Nam. Các giải pháp vĩ mô 2.1.1. Đẩy mạnh hạ tầng công nghệ và thông tin quốc gia. Đây là điều kiện quan trọng, tạo tiền đề vững chắc cho việc phát triển thương mại điện tử nói chung và các hoạt động ngân hàng nói riêng. Hiện nay, ngành công nghiệp truyền thông của nước ta vẫn còn mang tính độc quyền cao, số lượng các doanh nghiệp cung cấp dịch vụ đã tăng đáng kể nhưng vẫn còn ít so với khu vực và trên thế giới, với chất lượng dịch vụ chưa hoàn toàn đảm bảo trong khi giá cước vẫn cao. Ngoài ra, nhà nước cũng cần nhanh chóng mở rộng mạng lưới viễn thông đến mọi vùng, miền trên đất nước để các ngân hàng có thể thiết lập sự hiện diện của mình, tăng cường khả năng tiếp cận với các khách hàng tiềm năng của các dịch vụ ngân hàng hiện đại. Bên cạnh đó, nhà nước phải có chiến lược đầu tư thỏa đáng để nâng cao mức độ bảo mật của hệ thống thông tin quốc gia, qua đó đảm bảo an toàn cho các giao dịch, tạo lòng tin cho các bên tham gia TMĐT. Nguồn vốn đầu tư cho công nghệ thông tin của các ngân hàng còn hạn chế nên việc đầu tư còn nhỏ lẻ. Do đó, các ngân hàng cần phải thay đổi để thích ứng các công nghệ mới. Để làm được điều đó, có thể đưa ra các biện pháp sau: Nâng cấp hạ tầng truyền thông quốc gia. Hiện đại hóa kỹ thuật công nghệ thanh toán của các ngân hàng - Trang bị máy móc thiết bị hiện đại và công nghệ tiên tiến cho lĩnh vực thanh toán. Chủ động xây dựng các chương trình phần mềm, các trung tâm xử lý dữ liệu của ngành ngân hàng phục vụ cho hoạt động thanh toán hiện đại. - Ứng dụng công nghệ xử lý thanh toán đại chúng với khối lượng lớn - Phát triển các trung tâm xử lý thanh toán điện tử liên ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ thực thi Đề án Thanh toán không dùng tiền mặt tại Việt Nam. Hoàn thiện các quy trình nghiệp vụ thanh toán của cả các ngân hàng. 2.1.2. Hoàn thiện môi trường pháp lý cho hoạt động ngân hàng điện tử Đến nay, Việt Nam đã có khung pháp lý về thương mại điện tử tương đối đầy đủ. Đó là sự ra đời của Luật Giao dịch điện tử (2005), có hiệu lực từ tháng 03/2006; các luật khác được sửa đổi bổ sung thêm những quy định liên quan đến yếu tố thương mại điện tử như: Luật Thương mại (2005); Luật sở hữu trí tuệ (2005); Luật hải quan (2005); Luật Công nghệ thông tin; các nghị định hướng dẫn thi hành; các nghị định về thương mại điện tử, nghị định về chữ ký số và chứng thực điện tử; các văn bản về thanh toán điện tử… Tuy nhiên, những đề án nhằm triển khai ứng dụng công nghệ thông tin hiện đại vào dịch vụ Ngân hàng chưa được hoàn tất, như: Đề án thanh toán không dùng tiền mặt, hệ thống cổng thanh toán chưa đủ đáp ứng, hoặc ở những nơi có cổng thanh toán thì cũng chỉ chấp nhận những thẻ quốc tế như: MasterCard, Visa Card… Không phải mọi người đều có thẻ này. Do vậy, vấn đề hoàn chỉnh khung pháp lý vẫn được đưa lên hàng đầu. 2.1.3. Nâng cao hiểu biết và trình độ của người dân Thực tế cho thấy, tâm lý và thói quen tiêu dùng tiền mặt của người dân Việt Nam vẫn còn phổ biến hiện nay. Điều này đã gây khó khăn cho việc đẩy nhanh phát triển dịch vụ ngân hàng điện tử. Do vậy, nhà nước cần có chính sách mang tầm cỡ quốc gia để hướng dẫn, chỉ đạo từng bước và đồng bộ làm thay đổi thói quen tiêu dùng này. Dù cơ sở hạ tầng công nghệ thông tin và hành lang pháp lý của Việt Nam đã có những tín hiệu tốt, nhưng thói quen mua sắm và việc thiếu giải pháp đồng bộ khiến thương mại điện tử Việt Nam ỳ ạch bởi khúc mắc ở khâu thanh toán. Ngoài ra, những kiến thức về tin học và mạng Internet cũng cần được đưa vào giảng dạy bài bản. Các tổ chức, doanh nghiệp nên mở những lớp hướng dẫn học và thực hành những loại hình công nghệ mới này. 2.1.4. Hỗ trợ, khuyến khích các Ngân hàng tham gia vào hoạt động thương mại điện tử. Trong môi trường hội nhập kinh tế và toàn cầu hóa như hiện nay, các ngân hàng thương mại trong nước luôn phải cố gắng thay đổi, nhanh chóng triển khai ứng dụng những công nghệ hiện đại vào phát triển dịch vụ của mình thì mới có thể thu hút khách hàng, giữ chân khách hàng và tạo lợi thế cạnh tranh cho mình trước sức ép của các Ngân hàng liên doanh hoặc Ngân hàng có đầu tư của vốn nước ngoài. Khi đã là thành viên chính thức của tổ chức thương mại thế giới WTO, các ngân hàng thương mại không còn được bảo hộ mà phải tự mình cung cấp các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng và tạo được lợi thế cạnh tranh cho mình. 2.2. Các giải pháp vi mô 2.2.1. Giải pháp về công nghệ thông tin Đầu tư cho kỹ thuật công nghệ có ý nghĩa rất quan trọng đối với hoạt động ngân hàng điện tử, đó là chiến lược mang tính lâu dài và mang lại hiệu quả nhất. Mỗi ngân hàng cần phải xác định chiến lược công nghệ thông tin cho ngân hàng mình nhằm thực hiện chiến lược tổng thể của ngành ngân hàng, có tính đến nội lực của mình. Mỗi ngân hàng cần phải xác định rõ mục tiêu lâu dài cũng như mục tiêu trước mắt để từ đó đưa ra các chiến lược đầu tư vào công nghệ thông tin. Cụ thể như cần phải xem xét thời gian tới phát triển các sản phẩm dịch vụ gì, loại hình dịch vụ đó cần phải có những chương trình phần mềm, phần cứng nào đi kèm. Đồng thời Ngân hàng cũng cần phải xác định rõ cơ cấu đầu tư vào phần mềm, phần cứng nào cho hợp lý, phần mềm nên mua của các công ty trong nước, do đội ngũ cán bộ của Ngân hàng viết ra hay mua của các công ty nước ngoài. Trong môi trường cạnh tranh gay gắt như hiện nay, giữa các ngân hàng Việt Nam cũng như các ngân hàng nước ngoài cung cấp loại hình dịch vụ NHĐT, ngân hàng nào bị tụt hậu về công nghệ thì ngân hàng đó sẽ bị thất bại và bị loại ra khỏi thị trường. Chính vì vậy, đầu tư cho công nghệ kỹ thuật sẽ là đầu tư mang tính chiến lược lâu dài, nó không chỉ bảm bảo cho sự an toàn trong kinh doanh mà còn đảm bảo sự tồn tại và phát triển trong tương lai của Ngân hàng. Có thể thấy, hệ thống kỹ thuật công nghệ Ngân hàng đã và đang là công cụ phục vụ đắc lực cho công tác quản lý, điều hành của Ngân hàng Nhà nước về thực thi chính sách tiền tệ, tín dụng và hoạt động ngân hàng, góp phần ổn định tiền tệ và phát triển kinh tế đất nước. Đối với các NHTM, công nghệ thông tin đã trở thành công cụ quan trọng trong quản lý, kinh doanh để bảo đảm an toàn và hiệu quả, quản lý khách hàng, kiểm soát tốt nguồn vốn, mở rộng và đa dạng hoá các loại hình dịch vụ hiện đại v.v... Chúng ta cũng dễ nhận ra về hoạt động ngân hàng ngày nay, nhiều lĩnh vực và nghiệp vụ Ngân hàng đã được ứng dụng Công nghệ mới rộng hơn, sâu hơn và theo xu hướng tự động hoá. Tuy nhiên, công nghệ thông tin thay đổi rất nhanh, vì vậy, các dịch vụ Ngân hàng trên nền công nghệ cao cũng phải luôn đổi mới, đa dạng cho phù hợp. Thực tế cho thấy, ứng dụng nhanh Công nghệ hiện đại vào hoạt động Ngân hàng được xem là chìa khoá để các Ngân hàng phát triển nhanh hơn, bền vững hơn. Việc đẩy mạnh quá trình đổi mới công nghệ, hiện đại hoá ngân hàng sẽ góp phần kiềm chế lạm phát và tăng trưởng kinh tế; Thực hiện thành công chiến lược phát triển, ứng dụng công nghệ mới, xây dựng Ngân hàng hiện đại để nâng cao năng lực cạnh tranh là nội dung quan trọng trong bài toán tổng thể cho quá trình phát triển đến 2010 và tầm nhìn 2020 của hệ thống các Ngân hàng Việt Nam. 2.2.2. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực Để thực hiện tốt nghiệp vụ NHĐT, các ngân hàng cần phải quan tâm đến yếu tố con người bởi nghiệp vụ này đòi hỏi phải có đội ngũ cán bộ có trình độ chuyên môn cao. Các ngân hàng cần bổ sung kịp thời các cán bộ trẻ có năng lực, đồng thời phát hiện và đào tạo những cán bộ có năng lực làm việc tốt làm nòng cốt. Dịch vụ ngân hàng điện tử là một loại hình dịch vụ thường xuyên cải tiến, các chương trình phần mềm cũng như các nghiệp vụ thay đổi hàng ngày nên nhiều khi nhân viên chưa kịp nắm bắt, dễ dẫn đến tình trạng nhầm lẫn về nghiệp vụ cho cán bộ. Đây là một diễn đàn thực sự bổ ích cho việc tập tiếp thu kiến thức nghiệp vụ mới đồng thời trao đổi kinh nghiệm, khó khăn thực tế khi thực hiện nghiệp vụ và rút ra những bài học kinh nghiệm. Việc đào đội ngũ cán bộ ngân hàng phải được tiến hành đồng thời với những nội dung chủ yếu như sau: - Đào tạo toàn diện về công nghệ thông tin và chuyên sâu về Internet để có thể xây dựng, triển khai được chương trình ứng dụng E-Banking và tiếp cận, xử lý mọi tình huống về công nghệ có thể xảy ra trong quá trình thực hiện kế hoạch. - Đào tạo chuyên sâu về nghiệp vụ Marketing, không ngừng bổ sung, nâng cao kiến thức về Marketing nói chung và E-Marketing nói riêng nhằm đáp ứng nhu cầu công việc. Căn cứ vào chiến lược phát triển kinh doanh của mình mà từng ngân hàng có thể tự tổ chức các lớp học về nghiệp vụ và mời chuyên gia giảng dạy, cũng có thể cử cán bộ của mình tham gia các khóa học ngắn hạn và dài hạn do các trường, các trung tâm đào tạo, các viện nghiên cứu trong và ngoài nước tổ chức hoặc cử nhân viên của mình tham gia các cuộc hội thảo chuyên đề do Nhà nước và các đơn vị có chức năng tổ chức. Ngoài việc đào tạo cho đội ngũ cán bộ, ngân hàng cũng cần phải quan tâm, chú trọng tới công tác đào tạo nguồn nhân lực, những người sử dụng các dịch vụ ngân hàng điện tử hiện đại này. Chính khách hàng mới là những người cần phải biết rõ về các loại hình dịch vụ này, vì có hiểu rõ thì mới thấy được lợi ích mà nó mang lại. Do vậy, ngân hàng cần phải đưa ra các biện pháp để hướng dẫn sử dụng cho khách hàng như phát hành sách, tờ rơi giới thiệu về các dịch vụ ngân hàng điện tử, cách sử dụng dịch vụ đó như thế nào, khi có rủi ro hay thắc mắc thì giải quyết như thế nào, hay giới thiệu các dịch vụ đó trên phương tiện thông tin đại chúng. 2.2.3. Giải pháp về hoạt động Marketing Để tận dụng triệt để hệ thống ngân hàng điện tử đã xây dựng, cần phải nhân rộng việc cung ứng các sản phẩm dịch vụ điện tử. Do vậy, ngân hàng cần có một chiến lược hoạt động Marketing hiệu quả đối với khách hàng, không những doanh nghiệp lớn mà cả các doanh nghiệp vừa và nhỏ cũng như các hộ gia đình, cá thể. Sự tiện lợi của ngân hàng điện tử đối với người sử dụng là rất lớn nhưng trên thực tế, dịch vụ NHĐT chưa thật sự được nhiều người tin dùng và sự trở ngại của thói quen dùng tiền mặt trong dân cư nên việc quảng bá là đương nhiên đối với quảng đại quần chúng. Cũng như tất cả các sản phẩm khác, sản phẩm dịch vụ NHĐT cũng cần có những hoạt động Marketing để xác định đúng cho mình đối tượng khách hàng phục vụ, từ đó có những biện pháp đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng. Chiến lược Marketing đối với dịch vụ ngân hàng cũng sẽ bao gồm những chính sách như những sản phẩm khác. - Lựa chọn thị trường mục tiêu từ đó đưa ra những chính sách phù hợp Hoạt động Marketing về dịch vụ NHĐT trong điều kiện cạnh tranh phức tạp giữa các ngân hàng, trở ngại về thu nhập và tâm lý chuộng tiền mặt, do vậy ngân hàng cần phải chú ý phục vụ đối tượng nào và như thế nào là hiệu quả nhất. Việc lựa chọn khách hàng mục tiêu là bước quan trọng trong hoạt động kinh doanh của tất cả các ngành. Khi xác định đúng ngân hàng mục tiêu, người ta sẽ dễ dàng hơn trong việc đưa những đối sách kinh doanh phù hợp nhằm phục vụ tốt nhu cầu của nhóm khách hàng đã lựa chọn. Phát triển các sản phẩm dịch vụ điện tử cũng là một trong những hoạt động kinh doanh chủ yếu của ngân hàng. Do đó, ngân hàng không thể thụ động trông chờ khách hàng tự tìm đến mình mà phải chủ động lựa chọn và tìm ra giải pháp thu hút khách hàng mà mình mong muốn phục vụ. Thu nhập là vấn đề ảnh hưởng lớn tới các hoạt động NHĐT của một nền công nghệ hiện đại. Việt Nam là một nước đang phát triển, hiện nay, tỷ lệ người dân sống ở Nông thôn và lao động trong ngành Nông nghiệp vẫn ở mức cao. Thu nhập của nhóm dân cư này là thấp và không ổn định. Họ chưa có khả năng và nhu cầu với dịch vụ Ngân hàng điện tử nên đây không phải là nhóm khách hàng mục tiêu. Muốn hệ thống TMĐT phát triển thì phải tập trung vào những khách hàng là doanh nghiệp vừa và nhỏ, những người có thu nhập cao. Đây mới chính là nhóm khách hàng tiềm năng của các ngân hàng hiện nay. Vì đối tượng này luôn sẵn sàng sử dụng các dịch vụ đem lại lợi ích cho mình nhất và phải đem lại sự tiện dụng với chi phí thấp nhất. Đặc biệt đối với cơ quan, doanh nghiệp cần phải phân đoạn thị trường như thế nào để có thể tập trung phát triển lượng khách hàng mục tiêu tối đa. Cũng có thể phân thành các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu và các doanh nghiệp khác. Các doanh nghiệp tham gia xuất nhập khẩu thường xuyên giao dịch với các khách hàng nước ngoài, tiếp xúc với các loại hình thanh toán tiên tiến, do vậy nhu cầu tham gia thanh toán điện tử cao, cần tập trung vào đối tượng khách hàng này. Các doanh nghiệp khác cũng tham gia vào giao dịch và thanh toán nhưng nhu cầu thanh toán điện tử vẫn chưa nhiều. - Tạo ra các sản phẩm cốt lõi, xác định được thứ tự ưu tiên cho việc triển khai các sản phẩm dịch vụ NHĐT Tuy hoạt động ngân hàng đã được triển khai một thời gian dài nhưng các ngân hàng vẫn chưa tạo được sản phẩm cốt lõi cho ngân hàng mình, tạo lợi thế cạnh tranh cho sản phẩm đó. Do vậy, các ngân hàng cần phải xác định rõ mục tiêu của mình trong vài năm tới để từ đó định hướng cho sản phẩm của mình. Nghiên cứu xem các sản phẩm nào của mình có ưu thế nhất, có khả năng phát triển theo thứ tự ưu tiên. - Đẩy mạnh công tác tiếp thị quảng cáo Quảng cáo là một công cụ hữu hiệu nhằm giới thiệu sản phẩm của mình đến khách hàng. Do đó, để đẩy mạnh hoạt động thanh toán điện tử, các ngân hàng nên chú trọng tới công tác này. Đặc biệt, với nhóm khách hàng mục tiêu, ngân hàng phải có những hoạt động tiếp thị cụ thể, giới thiệu cho họ những tiện ích nổi bật trong dịch vụ Ngân hàng điện tử của mình. 3. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ TRONG VIỆC NÂNG CAO HOẠT ĐỘNG NGÂN HÀNG ĐIỆN TỬ TẠI VIỆT NAM 3.1. Kiến nghị đối với chính phủ và các cơ quan nhà nước 3.1.1. Đầu tư cho xây dựng hạ tầng cơ sở Việc đầu tư, xây dựng cơ sở hạ tầng, trang bị kỹ thuật để hiện đại hóa dịch vụ Ngân hàng không phải chỉ là vấn đề của riêng ngành Ngân hàng mà của cả nước. Do vậy, nhà nước cần đầu tư cho lĩnh vực này, nhanh chóng đưa nước ta theo kịp các nước trong khu vực và trên thế giới về Công nghệ Ngân hàng. Đối với Ngân hàng Điện tử, nhà nước cần có chính sách khuyến khích các Ngân hàng đầu tư và phát triển trang thiết bị máy móc, thiết bị phục vụ thanh toán điện tử mà nếu chỉ có Ngân hàng thì chưa đủ. Như chúng ta đã biết, dịch vụ Ngân hàng điện tử phụ thuộc rất nhiều vào yếu tố công nghệ thông tin nhưng những loại máy móc hiện đại như thế này thì nước ta chưa sản xuất được. 3.1.2. Tạo môi trường kinh tế xã hội ổn định Môi trường kinh tế xã hội ổn định chính là nền tảng vững chắc cho mọi sự phát triển. Phát triển dịch vụ Ngân hàng điện tử cũng vậy. Kinh tế xã hội có ổn định, phát triển bền vững thì đời sống của người dân mới được cải thiện, các quan hệ kinh tế mới có điều kiện tiếp xúc với các dịch vụ hiện đại, trong đó có dịch vụ Ngân hàng điện tử. Chỉ khi kinh tế phát triển, nhu cầu đó mới xuất hiện và đòi hỏi chất lượng cao cấp hơn. 3.1.3. Đầu tư cho giáo dục Đầu tư cho hệ thống giáo dục là đầu tư phát triển nhân tố con người. Vấn đề này nằm trong chiến lược phát triển toàn diện của bất cứ quốc gia nào. Do vậy, muốn có một đội ngũ lao động có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt là trong một ngành đòi hỏi áp dụng những công nghệ tiến tiến nhất trên thế giới như ngành Ngân hàng thì càng cần có một đường lối chỉ đạo đúng đắn của Nhà nước. Sinh viên các trường đại học trong tương lai sẽ là chủ đất nước. Đây là đội ngũ có trình độ, có khả năng sáng tạo, nhanh chóng nắm bắt được những công nghệ hiện đại, nên sẽ là lực lượng có khả năng phát triển được các dịch vụ hiện đại giúp Việt Nam theo kịp đà phát triển của các nước. Do vậy, ngay từ bây giờ, Nhà nước và các trường Đại học cần phải có chương trình đào tạo đội ngũ cán bộ tương lai này như đưa thêm các môn học như TMĐT, thanh toán điện tử, Công nghệ thông tin vào các chương trình đào tạo của các trường. Sự trợ giúp của nhà nước là một vấn đề quan trọng đối với mọi ngành mọi cấp. Nếu có được sự trợ giúp mạnh mẽ của chính phủ về chính sách thuế, văn bản pháp luật… để các Ngân hàng có định hướng triển khai dịch vụ thanh toán điện tử góp phần phát triển kinh tế xã hội lâu dài thì nhất định dịch vụ Ngân hàng Điện tử sẽ phát triển khả quan hơn nữa. 3.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng 3.2.1. Xây dựng một hệ thống mạng an toàn Như trên đã phân tích, vấn đề an ninh mạng luôn là vấn đề khó khăn với các hoạt động Ngân hàng và luôn được các Ngân hàng coi trọng hàng đầu. Vấn đề đặt ra hiện nay, khi các vụ xâm nhập trái phép vào hệ thống mạng Internet ngày càng nhiều thì ngân hàng phải có giải pháp gì để đảm bảo độ an toàn thông tin trên mạng và bảo vệ thông tin khách hàng. Theo những nghiên cứu gần đây về bảo mật thông tin thì có nhiều nguyên nhân dẫn đến không an toàn mạng như thông tin, dữ liệu bị tiếp cận, xâm nhập trên đường truyền Internet… Như vậy, để đảm bảo những nguyên tắc, yêu cầu về bảo mật, các Ngân hàng khi thực hiện kết nối, giao dịch Ngân hàng qua mạng Internet cần phải có sự chuẩn bị kỹ lưỡng, có biện pháp chính sách rõ ràng về chiến lược đảm bảo độ an toàn bí mật thông tin. Đồng thời phải có chính sách bảo mật khách hàng, thống nhất và phải được thực hiện đồng bộ và trên tất cả các khía cạnh. Bảo mật trong mạng cục bộ của Ngân hàng, quản trị mạng Internet, nâng cao công nghệ, thiết bị bảo mật. Ngoài ra, để đảm bảo thiết lập giao dịch đúng đối tượng, tránh sự giả mạo trong đề nghị thiết lập giao dịch NHĐT, tránh việc cấp tên giao dịch sai đối tượng, tránh việc tiếp cận, xâm nhập, tiết lộ tên giao dịch, mã số giao dịch trong truyền tin các Ngân hàng phải: - Xác định chính xác thông tin, dữ liệu mà khách hàng phải điền vào mẫu (form) gửi cho Ngân hàng đảm bảo thông qua các thông tin đó có thể xác định được khách hàng của mình. Trong trường hợp sử dụng mã số bí mật (như mã Zip mà VCB áp dụng) để nhận biết khách hàng thì cần xác định rõ cả khách hàng và nhân viên Ngân hàng về trách nhiệm giữ bí mật thông tin mã số bí mật này. - Lựa chọn hình thức chuyển giao thông tin về tên giao dịch, mã số giao dịch theo phương thức thích hợp đảm bảo an toàn hơn. Việc sử dụng thư điện tử chỉ được thực hiện khi thư điện tử đã được mã hóa, bảo mật, bảo đảm tính an toàn, không bị tiếp cận, đọc trộm trong quá trình truyền tin. Bên cạnh đó, do giao dịch NHĐT là loại hình hoạt động tương đối mới, có nhiều tiềm ẩn rủi ro nên việc kết nối, giao dịch cung cấp thông tin khách hàng qua mạng Internet cũng đặt khách hàng vào rủi ro về thông tin cá nhân có thể bị tiết lộ do sự xâm nhập trái phép. Do vậy, cần có thông báo trước cho khách hàng đẻ đảm bảo: - Khách hàng hiểu rõ các rủi ro có thể phát sinh và thực hiện các biện pháp bảo mật thích hợp. Khách hàng phối hợp cùng ngân hàng đảm bảo thực hiện chính sách an toàn thông tin trên mạng. - Chấp nhận, cho phép kết nối, giao dịch, chuyển giao thông tin qua mạng Internet. 3.2.2. Có chính sách khuyến khích mở rộng kinh doanh dịch vụ NHĐT Ngân hàng Nhà nước cần khuyến khích các ngân hàng không ngại đầu tư mở rộng dịch vụ Ngân hàng điện tử bằng việc trợ giúp cho các ngân hàng trong nước, tạo điều kiện để các ngân hàng cạnh tranh được với Ngân hàng nước ngoài. Ngân hàng Nhà nước thường xuyên tổ chức các buổi hội thảo, các khóa học nhằm trao đổi kinh nghiệm về NHĐT cho các ngân hàng thương mại cùng tham gia, giới thiệu để các Ngân hàng thương mại có điều kiện trao đổi kinh nghiệm, giải quyết những khó khăn phát sinh trong quá trình thực hiện. Cho phép các Ngân hàng Việt Nam được áp dụng linh hoạt một số ưu đãi nhất định để đảm bảo tính cạnh tranh các sản phẩm dịch vụ do ngân hàng Việt Nam phát hành so với các sản phẩm dịch vụ của các Ngân hàng nước ngoài hay chi nhánh ngân hàng nước ngoài. 3.3. Kiến nghị với Doanh nghiệp Doanh nghiệp chính là một trong hai nhóm khách hàng sử dụng những dịch vụ của Ngân hàng (nhóm khách hàng kia là khách hàng cá nhân). Do đó, doanh nghiệp đóng vai trò không nhỏ đối với sự thành công của hoạt động ứng dụng thương mại điện tử trong ngành Ngân hàng. Hiện nay, số lượng các doanh nghiệp Việt Nam đã tham gia kinh doanh trực tuyến là không nhỏ, nên việc sử dụng dịch vụ NHĐT là tất yếu. Song, những doanh nghiệp chưa tham gia TMĐT cũng được hưởng lợi rất nhiều lợi ích từ việc sử dụng các dịch vụ Ngân hàng hiện đại. Doanh nghiệp có thể tiến hành chi trả lương cho các bộ công nhân viên thông qua tài khoản Ngân hàng, vừa an toàn, nhanh chóng, lại tiết kiệm được thời gian và chi phí. Các đơn vị cung cấp sản phẩm hàng hóa, dịch vụ mà trước hết là các doanh nghiệp nhà nước lớn trong các ngành điện, nước, điện thoại, bảo hiểm… nên chủ động đầu tư, công nghệ, phối hợp với ngân hàng để có thể thực hiện được các phương thức thanh toán hiện đại. Làm được như vậy, không chỉ các doanh nghiệp được đem đến nhiều lợi ích mà các dịch vụ Ngân hàng cũng được mở rộng, ngày càng đáp ứng tốt nhu cầu của khách hàng, từ đó làm gia tăng lượng khách hàng sử dụng dịch vụ NHĐT. KẾT LUẬN Trong sự nghiệp công nghiệp hóa- hiện đại hóa đất nước hiện nay thì vấn đề hội nhập mang tới cả thời cơ và thách thức cho các Ngân hàng Thương mại Việt Nam. Dịch vụ Ngân hàng điện tử là những hoạt động kinh tế vô cùng năng động, sử dụng những công nghệ hiện đại nhất để thu thập, cung cấp, xử lý và chuyển tải những thông tin khổng lồ để cuối cùng có thể tiến hành hoạt động của mình. Nếu không nhanh chóng tham gia các hoạt động này, nguy cơ tụt hậu và bị đánh bật khỏi thị trường hiện nay là rất cao. Dịch vụ ngân hàng điện tử cũng mở ra nhiểu triển vọng, cải thiện tính hiệu quả của dịch vụ thanh toán cũng như nâng cao chất lượng của các dịch vụ Ngân hàng, góp phần làm tăng khả năng cạnh tranh của các Ngân hàng trên thị trường quốc tế. Bên cạnh đó, hoạt động của dịch vụ NHĐT cũng gây ra không ít những khó khăn, thách thức đối với Ngân hàng nói chung và các Ngân hàng Thương mại Việt Nam nói riêng. Điều này đòi hỏi mỗi ngân hàng đều phải tìm ra cho mình được những biện pháp và hướng đi phù hợp với mục tiêu của mình cũng như những mục tiêu chung của toàn xã hội. Với đề tài khóa luận: “Phát triển thương mại điện tử trong lĩnh vực ngân hàng tại Việt Nam trong giai đoạn hiện nay” này, em đã phần nào tổng hợp, khái quát, liệt kê các loại hình dịch vụ Ngân hàng Điện tử tại Việt Nam cũng như đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm phát triển loại hình dịch vụ này phù hợp với xu thế hội nhập và phát triển hiện nay. Hi vọng trong một thời gian không xa, ngày càng nhiều ngân hàng thương mại Việt Nam có thể vươn xa hơn nữa đến các thị trường tài chính trên khu vực và thế giới, khẳng định được vai trò và vị thế của mình trong việc đáp ứng nhu cầu khách hàng với loại hình dịch vụ mới mẻ và hiện đại này. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docngoai thuong 16.doc
Tài liệu liên quan