Khóa luận Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Singapore: Thực trạng và triển vọng

Ngoài ra, về hình thức đầu tư cũng còn nhiều bất cập. Phần lớn các dự án đầu tư của Singapore đều dưới hình thức liên doanh. Chủ yếu là do bên Việt Nam quan niệm chỉ có hình thức này mới bảo đảm được chủ quyền quốc gia. Trong khi đó nhóm dự án liên doanh lại có nhiều vốn chưa thực hiện nhất (71% vốn đăng ký); sau đó là đến nhóm dự án 100% vốn nước ngoài và tiếp đến là nhóm dự án theo hợp đồng hợp tác kinh doanh. Trong các dự án liên doanh, bên Việt Nam chỉ góp vốn bằng giá trị quyền sử dụng đất; mặt khác phải nhờ bên nước ngoài vay để góp vốn pháp định nên phải gánh lãi suất cùng với phía đối tác nước ngoài. Nếu trong trường hợp thua lỗ, phía Việt Nam cũng phải gánh chịu phần thua lỗ, dẫn đến hiệu quả kinh tế đạt được rất thấp. Thực tế cho thấy nhà đầu tư nước ngoài thích đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài hơn; thậm chí khi đã thành lập công ty liên doanh họ cũng tìm cách để chuyển đổi thành công ty 100% vốn nước ngoài. Điển hình là năm 1998, liên doanh Coca-Cola Chương Dương và Coca-Cola Ngọc Hồi đã lợi dụng chiêu bài lỗ do các chính sách tiếp thị quảng cáo để gạt bỏ sự có mặt của các đối tác Việt nam. Coca-Cola Chương Dương chi phí quảng cáo khuyến mại, phân phối sản phẩm, quản lý hành chính chiếm tới 41,77% doanh thu, sau đó đã chuyển thành công ty 100% vốn nước ngoài. Lý do là dưới hình thức này, nhà đầu tư được tự do lựa chọn hình thức, địa điểm, đối tác đầu tư (trừ lĩnh vực đầu tư có điều kiện); Việt Nam còn cho doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài hưởng ưu đãi như doanh nghiệp liên doanh; mặt khác còn do thời gian qua ta phát triển mạnh các khu công nghiệp, mà ở đó hình thức đầu tư nước ngoài chủ yếu là các doanh nghiệp 100% vốn nước ngoài (chiếm 85% số dự án được cấp phép trong các khu công nghiệp). Để khắc phục tình trạng này, Nhà nước có thể linh hoạt cho đầu tư theo hình thức 100% vốn nước ngoài đối với những dự án công nghệ cao, xuất khẩu phần lớn sản phẩm, tận dụng những lợi thế về công nghệ và kinh nghiệm thị trường của Singapore. Là một trong những nhà đầu tư lớn vào Việt Nam, Singapore đang góp phần thúc đẩy nền kinh tế Việt Nam phát triển theo hướng hiện đại hoá. Suy thoái kinh tế toàn cầu đang được thu hẹp, kinh tế khu vực đang được phục hồi; đó là nguồn sinh khí cho dòng vốn đầu tư của Singapore vào Việt Nam sẽ gia tăng, và hoạt động của khu vực dự án Singapore tại Việt Nam sẽ khởi sắc trong thời gian tới.

doc132 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1435 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Singapore: Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
5,9 5,5 5,8 6,1 Malaysia 6,1 8,3 0,4 4,2 5,8 Mianma 10,9 6,2 *** *** *** Philippins 3,4 4,0 3,4 4,0 4,5 Singapore 6,9 10,3 -2,0 3,7 6,5 Thái Lan 4,4 4,6 1,8 2,5 3,0 Việt Nam 4,7 6,1 5,8 6,2 6,8 *Nguồn: ASIAN Development Outlook 2002, ADB, 4/2002 Chú thích ***: chưa có số liệu Về đầu tư, vẫn tồn tại những vướng mắc như thường thấy trong quan hệ với phần lớn các nước, đó là: cơ sở hạ tầng còn thấp kém, hệ thống pháp lý đang trong quá trình hoàn thiện, những chính sách về thuế, tài chính chưa thực sự đồng bộ, nạn hối lộ và quan liêu, thủ tục còn rườm rà chưa có quy chế thống nhất, hiểu biết giữa hai bên đối tác còn hạn chế do thiếu thông tin... Cụ thể: theo đánh giá của nhiều chuyên gia nước ngoài, chi phí đầu tư của Việt Nam hiện còn cao hơn mức bình quân chung của một số nước ASEAN (ví dụ giá điện cao hơn 25%, giá nước cao hơn 71%, giá cước điện thoại quốc tế cao hơn 136%...) Tạp chí Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 2(37), 4-2002 . Việt Nam hiện vẫn còn thiếu một nền công nghiệp phụ trợ: công nghiệp sản xuất chế tạo, kim loại màu, công nghiệp nhựa, hoá chất... Nhìn chung Việt Nam phải nhập khẩu phần lớn những nguyên liệu này để phục vụ đầu vào, đẩy chi phí sản xuất lên cao. Môi trường pháp lý chưa ổn định, đối với các nhà đầu tư Singapore đến từ một đất nước có hệ thống pháp luật hoàn thiện vào bậc nhất trên thế giới thì đây quả là một trở ngại lớn. Chưa có chính sách dài hạn và cụ thể để phát triển các lĩnh vực kinh tế mũi nhọn như công nghiệp chế tạo, công nghiệp ô tô... chưa có chính sách ưu đãi các nhà đầu tư khi thực hiện mở rộng dự án. Thiếu sự chỉ đạo tập trung trong kêu gọi FDI, gây hỗn loạn trong sản xuất kinh doanh, làm thiệt hại cho nhà đầu tư nước ngoài, ảnh hưởng lớn dến cân bằng cung cầu trong xã hội. Thiếu lao động có kỹ thuật, kỹ năng cao nhất là ở lĩnh vực quản lý, lĩnh vực công nghệ cao như chế tạo sản phẩm cơ khí chính xác, công nghệ thông tin... Lao động đào tạo ở trường đại học hay ở các trườn nghề phần lớn thiếu kiến thức và kỹ năng cần thiết đáp ứng đòi hỏi của doanh nghiệp FDI. Có thể nói môi trường đầu tư nói chung và các chính sách ưu đãi nói riêng hiện nay chưa đủ hấp dẫn để thu hút vốn FDI nói chung và của Singapore nói riêng theo dự kiến của chính phủ Việt Nam. Một khó khăn nữa là ảnh hưởng khách quan của sự sụt giảm về thu hút vốn đầu tư nước ngoài toàn cầu. Sáng 18/9/2002, tại Hà Nội, Chương trình Phát triển Liên hợp quốc tại Việt Nam đã thay mặt Hội nghị Thương mại và Phát triển Liên Hợp Quốc (UNCTAD) công bố Báo cáo Đầu tư thế giới năm 2002; theo đó ngoài một vài điểm sáng như Trung Quốc, ấn Độ, Thổ Nhĩ Kỳ thì màu xám là màu chủ đạo của bức tranh FDI toàn cầu. Sự sa sút của kinh tế thế giới, đặc biệt là các cường quốc như Nhật, Mỹ... và tình trạng bất ổn sau sự kiện 11/9 đã khiến dòng luân chuyển vốn FDI chững lại và sụt giảm ghê gớm. Theo nhận định của UNCTAD, vốn FDI đã giảm một cách kỷ lục trong vòng 30 năm qua, tại các nước phát triển, mức sụt giảm đã lên tới con số 51%. Trong tình hình đó thì tình hình đầu tư của Việt Nam ít nhiều cũng chịu những tác động bất lợi. Hơn nữa, việc thu hút FDI và đẩy mạnh hoạt động thương mại sang Singapore còn vấp phải một khó khăn nữa là sự kiện gia nhập WTO của nước láng giềng Trung Quốc. Do mối quan hệ đặc biệt mà lịch sử để lại, các nhà đầu tư và thương gia Singapore vốn đã rất chú ý đến thị trường rộng lớn giàu tiềm năng này; khi Trung quốc đã cùng là thành viên chính thức của Tổ chức Thương mại thế giới WTO, chắc chắn Singapore sẽ càng tăng cường đầu tư và khai thác thị trường này. Trước những khó khăn và thách thức trên, để đảm bảo cho quan hệ kinh tế và thương mại giữa hai nước tiếp tục phát triển thuận lợi, nhiệm vụ của hai chính phủ là phải tăng cường những hoạt động hợp tác một cách thường xuyên và có hệ thống hơn nữa. Mặt khác, tự bản thân Việt Nam phải áp dụng những biện pháp cần thiết đảm bảo cho môi trường đầu tư và kinh doanh hấp dẫn hơn nữa để củng cố lòng tin của các nhà đầu tư Singapore. II. Các biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại giữa việt nam - singapore 1. Các biện pháp nhằm thúc đẩy quan hệ thương mại Xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam 6 tháng đầu năm 2002 ước đạt 7.327.243 nghìn USD giảm 3,6% so với cùng kỳ 2001. Theo đánh giá của Vụ Kế hoạch - Thống kê, Bộ Thương mại, nguyên nhân chủ yếu trực tiếp hạn chế xuất khẩu 6 tháng đầu năm là: kinh tế các nước là thị trường nhập khẩu chủ yếu của ta chưa hồi phục, nhu cầu tiêu dùng chưa tăng, môi trường thương mại thế giới kém thuận lợi; giá xuất khẩu nhiều mặt hàng giảm so với cùng kỳ năm 2001, riêng mặt hàng chủ lực giảm 6,7% trong khi hàng hoá của ta mẫu mã kém đa dạng, chất lượng thấp, giá thành cao và thậm chí thiếu nguồn hàng (như gạo). Tăng trưởng xuất khẩu 6 tháng cuối năm và năm 2002 khó đạt được chỉ tiêu đề ra từ đầu năm. Trong tình hình khó khăn chung đó, xuất khẩu sang thị trường Singapore cũng giảm sút đáng kể, chỉ đạt 81,4% so với cùng kỳ năm ngoái. Để thúc đẩy xuất khẩu nói chung và sang thị trường Singapore nói riêng, cần áp dụng các biện pháp tổng hợp mà Bộ trưởng Bộ Thương mại Vũ Khoan đã nêu trong bài "Xuất nhập khẩu 2002" (Nhân dân 03/04/2002): "Vấn đề hàng đầu hiện nay là thực hiện ngay các chủ trương đã có: đơn giản hoá các thủ tục thưởng và hỗ trợ xuất khẩu; đưa vào cuộc sống và từng bước thực hiện chủ trương ký hợp đồng bao tiêu nông sản giữa các doanh nghiệp và bà con nông dân; tiếp theo sàn giao dịch về thuỷ sản và cà phê, sớm hình thành sàn giao dịch về lúa gạo, giảm các loại phí đầu vào đối với hàng xuất khẩu; gia tăng mạnh mẽ các biện pháp bảo đảm chất lượng, nhất là về vệ sinh đối với nông thuỷ sản xuất khẩu, phát huy mạnh mẽ vai trò các hiệp hội ngành hàng trong việc phổ biến thông tin, tìm kiếm thị trường, tập hợp nhau lại thành sức mạnh lớn có khả năng đáp ứng những đơn đặt hàng lớn, ngăn chặn tình trạng tranh mua tranh bán gây thiệt hại chung. Bên cạnh các biện pháp trước mắt, cần ráo riết thực hiện những biện pháp lâu dài để xuất khẩu phát triển bền vững hơn. Nhiệm vụ bao trùm có ý nghĩa quyết định vẫn là nâng cao khả năng cạnh tranh, đặc biệt điều chỉnh cơ cấu đầu tư nhằm vào những khâu có thể gia tăng được khả năng cạnh tranh và các ngành nước ta có lợi thế tương đối và thị trường có nhu cầu có thể đem lại giá trị gia tăng cao, thu hồi vốn nhanh. Đồng thời, cần tích cực hình thành những công cụ và phương tiện của một nền kinh tế hướng vào xuất khẩu như đa dạng hoá các loại thuế, sớm cho ra đời ngân hàng xuất nhập khẩu, các hình thức bảo hiểm xuất khẩu, xây dựng các sàn giao dịch để tiến tới hình thành thị trường giao sau, gia tăng đầu tư cho chính hoạt động xuất khẩu như các loại kho tàng, bến bãi, phương tiện chuyên dụng". Cụ thể: 1.1. Hỗ trợ sản xuất và đẩy mạnh tiêu thụ nông sản 1.1.1. Thưởng theo kim ngạch xuất khẩu Chỉ thị số 31/2001 của Thủ tướng Chính phủ và Nghị quyết số 05/2002 của chính phủ đã cho phép mở rộng đối tượng được thưởng theo kim ngạch xuất khẩu năm 2002. Ngày 21/05/2002 vừa qua, Bộ Tài chính đã có quyết định số 63/2002/QĐ-BTC công bố mức thưởng cho những mặt hàng cụ thể như sau: - Gạo các loại: 180 đồng/USD; Cà phê, trong đó: Cà phê nhân 220 đồng/USD; Cà phê hoà tan các loại và cà phê bột 100 đồng/USD; Thịt gia súc gia cầm các loại: 100 đồng/USD; Chè các loại: 220 đồng/USD; Lạc nhân: 100 đồng/USD; Thủ công mỹ nghệ: 100 đồng/USD; Đồ nhựa: 100 đồng/USD; Hàng cơ khí: 100 đồng/USD; ... Trong số 13 nhóm mặt hàng được thưởng, có tới 11 nhóm mặt hàng thuộc khu vực kinh tế nông nghiệp nông thôn. Đây là cố gắng rất lớn của nhà nước trong điều kiện ngân sách còn eo hẹp, khó có thể duy trì trong thời gian dài. Vì vậy, các doanh nghiệp cần sử dụng tiền thưởng một cách có hiệu quả. Để phát huy tác dụng tích cực của chế độ thưởng, tạo thuận lợi cho thương nhân, việc thẩm định hồ sơ đã được phân cấp cho các tỉnh. Khi được phân cấp, UBND các tỉnh cần có sự chỉ đạo sâu sát, bảo đảm thực hiện đúng quy trình, quy định của Nhà nước. Thời gian giải quyết hồ sơ nên được quy định cụ thể và áp dụng cho tất cả các cấp tham gia vào quá trình thẩm định. 1.1.2. Ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân Biện pháp này được đề cập từ nhiều năm nay nhưng chưa phát huy được tác dụng trong sản xuất hàng xuất khẩu vì 3 lý do. Một là, sản xuất nông nghiệp của ta còn khá manh mún. Để có đủ hàng hoá, doanh nghiệp phải ký hợp đồng và theo dõi tiến độ thực hiện hợp đồng của rất nhiều hộ nông dân, đòi hỏi nhiều thời gian và chi phí. Hai là, doanh nghiệp chỉ có thể ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm dài hạn với nông dân khi bản thân họ đã có đầu ra ổn định. Trong bối cảnh kinh doanh còn nhiều thụ động như hiện nay, những trường hợp "có đầu ra ổn định" như vậy rất ít. Cuối cùng, nếu nông dân không làm đúng theo hợp đồng đã ký, sản xuất hàng không đúng chất lượng hoặc từ chối giao hàng cho doanh nghiệp để bán thẳng ra thị trường với giá cao hơn... thì doanh nghiệp thường phải gánh chịu toàn bộ hậu quả. Đây là lý do quan trọng nhất làm cho không ít doanh nghiệp nản lòng. Tuy nhiên để xuất khẩu thực phẩm sang Singapore, vấn đề tiêu chuẩn an toàn về thực phẩm phải được đặt lên hàng đầu. Trong điều kiện hiện nay, người nông dân khó có thể tự mình đảm bảo được những quy định đó thì việc các doanh nghiệp trực tiếp kiểm soát ngay từ khâu nuôi trồng là hợp lý. Để triển khai hình thức ký hợp đồng tiêu thụ sản phẩm với nông dân, trước hết cần có cơ chế ràng buộc trách nhiệm thật rõ ràng. Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn cần nghiên cứu soạn thảo một số hợp đồng mẫu, trong đó nêu rõ các hình thức chế tài để doanh nghiệp và người nông dân tham khảo. UBND các tỉnh cần tham gia sâu hơn vào việc giám sát và đôn đốc thực hiện hợp đồng. Nếu cần, UBND tỉnh có thể trở thành trung gian bảo lãnh. Trường hợp nông dân không tuân thủ hợp đồng đã ký thì UBND tỉnh đền bù cho doanh nghiệp. Ngược lại, nếu doanh nghiệp không thực hiện đúng hợp dồng đã ký thì UBND tỉnh sẽ đền bù cho nông dân trước, truy đòi từ doanh nghiệp sau. Tóm lại, nếu không có sự tham gia sâu của UBND các tỉnh để giải quyết vấn đề "tin tưởng lẫn nhau" thì việc tổ chức sản xuất theo hợp đồng sẽ rất khó thành công. Để hỗ trợ cho các tỉnh và các doanh nghiệp, Nhà nước có thể đưa ra một số ưu đãi như dành một phần chỉ tiêu xuất khẩu theo hợp đồng bao tiêu sản phẩm với nông dân hoặc cho các doanh nghiệp này được tiếp cận tín dụng của Quỹ hỗ trợ phát triển, xem xét xử lý khó khăn về tài chính do biến động giá cả... Tuy nhiên, không nên quá ỷ lại vào những ưu đãi này bởi trên thực tế đã có một số trường hợp bao tiêu sản phẩm thành công mà không cần đến ưu đãi của Chính phủ. 1.1.3. Tiếp tục hạ chi phí đầu vào cho sản xuất nông nghiệp Để hạ chi phí đầu vào cho sản xuất hông nghiệp, có thể xem xét bãi bỏ toàn bộ các khoản thu tại cửa khẩu đối với phân bón và thuốc bảo vệ thực vật nhập khẩu trong đó có thuế VAT. Trên thế giới đã có nước làm việc này. Cụ thể là vào tháng 2/2001 Côlômbia đã bỏ thu thuế VAT tại của khẩu đối với nguyên liệu sản xuất thuốc bảo vệ thực vật. Ngân sách của họ dự kiến bị giảm khoảng 26 triệu USD/năm nhưng việc làm này sẽ rất có ích cho sản xuất nông nghiệp tại nước họ, đặc biệt là cà phê. Đối với phân bón, không nên nâng thuế suất nhập khẩu Thông tin kinh tế xã hội số 1/2002 . 1.1.4 Công tác bảo đảm an toàn thực phẩm Singapore ban hành một đạo luật riêng về hàng thực phẩm (The Sale of Food Act) nhằm quản lý và bảo đảm chất lượng và vệ sinh hàng thực phẩm nhập khẩu và tiêu dùng tại Singapore. Cho đến nay Singapore vẫn là nước không có các bệnh dịch lớn phát sinh từ thực phẩm do các loại thịt, rau quả, cá... nhập khẩu gây ra. Vấn đề an toàn thực phẩm được kiểm soát rất chặt chẽ, ngay từ nguồn cung cấp ở nước xuất khẩu. Do đó, nếu không giải quyết vấn đề này một cách triệt để thì hàng Việt Nam khó có thể đưa sang thị trường Singapore. Các giải pháp giải quyết tận gốc vấn đề này là: - Cấm sử dụng, quy định tiêu chuẩn và điều kiện cho chế biến nông thuỷ sản xuất khẩu; nâng cao năng lực cho các tổ chức chịu trách nhiệm kiểm tra, phát hiện dư lượng hoá chất. Nghiêm cấm sử dụng các loại kháng sinh, hoá chất trong danh mục cấm sử dụng của Bộ Thuỷ sản và Bộ Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn trong tất cả các khâu từ nhập khẩu, sản xuất đến lưu thông, bảo quản và vận chuyển sản phẩm. Các trường hợp vi phạm cần được xử lý nghiêm, dù chưa gây hậu quả nghiêm trọng. Pháp luật nhà nước nên được điều chỉnh bổ sung để quy định rõ các hình thức chế tài cho các vi phạm kiểu này. - Các cơ quan hải quan, biên phòng cần tăng cường kiểm tra, kiểm soát ở các cửa khẩu đối với loại hàng này. - Các nhà máy chế biến thực phẩm xuất khẩu phải đáp ứng được các tiêu chuẩn về an toàn thực phẩm. Nếu cần, có thể đưa chế biến nông sản, nhất là nông sản xuất khẩu vào diện kinh doanh có điều kiện, không thả nổi như hiện nay. - Nhà nước cần đầu tư cho việc nâng cao năng lực kiểm tra chất lượng hàng hoá, đặc biệt là hàng hoá xuất khẩu. Nếu cần có thể mời các doanh nghiệp giám định có uy tín của nước ngoài vào ký hợp đồng với Chính phủ để thực hiện dịch vụ kiểm tra. Tỷ trọng nông thuỷ sản xuất khẩu cần qua kiểm tra nhà nước về chất lượng cần tăng lên, thậm chí có những mặt hàng có thể đưa lên 100%. - Các bộ ngành trung ương cần có sự phối hợp chặt chẽ để tăng cường quản lý từ gốc vấn đề vệ sinh an toàn thực phẩm, công bố rõ danh mục các chất kháng sinh và hoá chất; quản lý chặt chẽ nhập khẩu và ngăn chặn có hiệu quả việc nhập lậu các loại kháng sinh, thuốc bảo vệ thực vật vào nước ta. Từ năm 1997, chính phủ Singapore bắt đầu áp dụng chính sách cấp phép cho các cơ sở chế biến hải sản ở những nước xuất khẩu hải sản sang Singapore. Do đó công tác bảo đảm an toàn thực phẩm phải được đặt lên hàng đầu trong những biện pháp nhằm thúc đẩy xuất khẩu hàng thực phẩm sang thị trường này. 1.2. Hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh cho hàng xuất khẩu Đây là vấn đề mang tính cốt lõi, có tác dụng về lâu dài, phục vụ đồng thời nhiều mục tiêu, trong đó có nhiệm vụ đẩy mạnh xuất khẩu. Có những việc ở tầm nhà nước nhưng cũng có những việc mà doanh nghiệp phải tự làm là chính để nâng cao sức cạnh tranh của sản phẩm do doanh nghiệp sản xuất ra. 1.2.1. Rà soát để hạ chi phí đầu vào xuống mức hợp lý Nghị quyết số 05/2002 của Chính phủ đã giao cho Bộ Tài chính chủ trì phối hợp với các cơ quan liên quan rà soát lại các chi phí dịch vụ đầu vào của hàng xuất khẩu. Theo một điều tra của Ngân hàng Thế giới, mức phí ở cảng Sài Gòn, tính theo ngang giá sức mua, cao hơn mức trung bình trong khu vực là 146% (cảng Hải Phòng cao hơn 64%). Trong số các cảng được điều tra, chỉ có cảng Thượng Hải là đắt hơn cảng Sài Gòn và cảng Hải Phòng, nhưng năng suất của cảng này lại cao hơn nhiều so với hai cảng của ta. Mức phí cao của cảng Sài Gòn và cảng Hải Phòng như vậy đã trở thành một thứ thuế xuất khẩu "vô hình" đối với hàng xuất khẩu. Nếu tính cả chi phí kho bãi và tác động của hiệu suất cảng thấp thì mức "thuế vô hình" lên tới 50 USD cho 1 container 20 feet tại cảng Sài Gòn và 29 USD cho 1 container 20 feet tại cảng Hải phòng. Việc cắt điện không báo trước và tăng giảm điện thế đột ngột đang gây những tổn thất nặng nề cho sản xuất nói chung và sản xuất hàng xuất khẩu nói riêng. Những tổn thất này đã làm cho giá điện thực tế cao hơn nhiều so với giá điện danh nghĩa. Tổng công ty Điện lực cần có biện pháp khắc phục tình trạng này để hỗ trợ cho các doanh nghiệp trong việc hạ giá thành, nâng cao sức cạnh tranh. Cũng trong những nỗ lực nhằm giảm chi phí đầu vào cho sản xuất, ngày 03/06/2002, Bộ Tài chính đã có Công văn số 5337 TC/TCT về việc miễn thu lệ phí đối với hàng xuất khẩu. Nội dung chính: Việc miễn thu lệ phí hạn ngạch xuất khẩu và lệ phí hải quan đối với tất cả các hàng hoá xuất khẩu (kể cả xuất khẩu thực hiện chương trình khuyếch trương trong mặt hàng mới hoặc thâm nhập thị trường mới) theo hướng dẫn tại Công văn 8272 TC/TCT ngày 30/08/2002 của Bộ Tài chính về việc thu lệ phí hàng xuất khẩu, được thực hiện đến hết ngày 31/12/2002. 1.2.2. Hoàn thiện các giải pháp tài chính nhằm thúc đẩy xuất khẩu Ngày 19/08/2002, Thủ tướng Chính phủ đã có Quyết định số 110/2002/QĐ - TTg cho phép các Hiệp hội ngành hàng được thành lập Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng. Theo quyết định, nguồn hình thành Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng bao gồm: tài trợ của các tổ chức, cá nhân trong và ngoài nước; các nguồn thu hợp pháp khác, đóng góp của các hội viên, tối đa = 1% doanh thu xuất khẩu theo giá FOB và được hoạch toán vào chi phí kinh doanh của doanh nghiệp. Trường hợp hội viên trong năm kinh doanh bị thua lỗ thì được miễn khoản đóng góp này. Quỹ bảo hiểm xuất khẩu ngành hàng được sử dụng vào 5 mục đích sau: - Hỗ trợ tài chính đối với các hội viên Hiệp hội trực tiếp xuất khẩu hàng hoá tạm thời bị thua lỗ do huy động đầu tư mới, vào thị trường mới, giá thế giới giảm đột biến thấp hơn giá vốn xuất khẩu hoặc biến động về tỷ giá ngoại tệ. - Hỗ trợ mở rộng thị trường, xúc tiến thương mại. - Hỗ trợ một phần cho các hội viên sản xuất hàng xuất khẩu khi gặp rủi ro trong quá trình sản xuất. - Hỗ trợ các trường hợp khác theo quy định của điều lệ Hiệp hội. Tuỳ theo từng mục đích mà mức hỗ trợ có khác nhau. Ngoài ra, bản đề án về việc thành lập ngân hàng hỗ trợ xuất nhập khẩu đã được hoàn tất gửi đi lấy ý kiến đóng góp của các bộ ban ngành trước khi trình lên Thủ tướng Chính phủ xem xét ban hành vào cuối năm nay. Trong lúc chờ đợi, để tạo điều kiện thuận lợi và khuyến khích các doanh nghiệp tranh thủ thời cơ, chủ động thực hiện các hợp đồng xuất khẩu, nâng cao sức cạnh tranh, chiếm lĩnh thị trường, Thủ tướng đã ban hành Quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu kèm theo Quyết định số 133/QĐ - TTg, trong đó điểm nổi bật nhất là lần đầu tiên Nhà nước cho áp dụng cơ chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu ngắn hạn. Như vậy, cùng với Nghị định số 43/1999 về tín dụng đầu tư phát triển của Nhà nước bao gồm: ưu đãi tín dụng xuất khẩu trung và dài hạn thông qua cho vay đầu tư, hỗ trợ lãi suất sau đầu tư, bảo lãnh tín dụng xuất khẩu; cơ chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu mới tạo thành một thể chế hỗ trợ xuất khẩu hoàn chỉnh cho các doanh nghiệp, tập trung đầu mối hỗ trợ tín dụng xuất khẩu vào Quỹ hỗ trợ phát triển. Điểm mới nhất của cơ chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu lần này là cho vay vốn ngắn hạn (vốn lưu động), bảo lãnh dự thầu, bảo lãnh hợp đồng theo Quyết định 133, về mặt nghiệp vụ được quy định hoàn toàn tương tự các nghiệp vụ của các ngân hàng thương mại đang thực hiện. Hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore chủ yếu là nông - lâm - hải sản, phần lớn nằm trong danh mục hàng hoá được hưởng hỗ trợ tín dụng xuất khẩu theo quy định của Thủ tướng Chính phủ. Với Quyết định 133, xuất khẩu hàng hoá của Việt Nam sang Singapore sẽ có nhiều cơ hội tăng trưởng cả về kim ngạch lẫn khối lượng. Tuy nhiên, bên cạnh những thuận lợi còn có những bất cập đang gây khó khăn cho hoạt động xuất nhập khẩu. Chính sách tài chính phục vụ xuất khẩu hiện nay, vì chưa có những giải pháp đồng bộ nên hiệu quả chưa cao. Cụ thể là còn dàn trải, thiếu chọn lọc, gây tâm lý ỷ lại, dựa dẫm, đồng thời tập trung nhiều cho hỗ trợ đầu ra của sản phẩm xuất khẩu. Cách làm này không những không phù hợp với thông lệ quốc tế mà còn rất khó duy trì nếu chúng ta tham gia vào các tổ chức thương mại khu vực và thế giới; đặc biệt thị trường Singapore là một thị trường tự do nhất thế giới thì điều này càng khó được chấp nhận. Ngoài ra, đối với chính sách thuế, các giải pháp hiện nay mới chỉ tập trung vào khâu đầu ra của sản phẩm xuất khẩu, điều này trong nhiều trường hợp đã đi ngược lại thông lệ quốc tế và gây khó khăn cho Việt Nam trong quá trình hội nhập. Chẳng hạn, việc giảm thuế thu nhập cho những doanh nghiệp có sản phẩm làm ra đạt tỷ lệ xuất khẩu cao đã mâu thuẫn với những quy định của WTO về việc cấm trợ cấp xuất khẩu. Mặt khác, chính sách thuế còn thiếu ổn định, quá trình xét duyệt còn rườm rà, phức tạp, chưa phát huy được tác dụng và còn tồn tại một số nghịch lý. Các chính sách miễn giảm thuế để khuyến khích xuất khẩu là cần thiết trong giai đoạn đầu công nghiệp hoá, song chỉ nên áp dụng trong thời hạn nhất định, cần giảm dần và loại bỏ để chuyển sang những hình thức khác. Thêm nữa, tác dụng thúc đẩy xuất khẩu của Quỹ hỗ trợ phát triển và hỗ trợ xuất khẩu còn rất hạn chế. Quỹ hỗ trợ phát triển chỉ tập trung cung cấp tín dụng cho một số ngành, còn các hình thức bảo lãnh và hỗ trợ lãi suất sau đầu tư chưa triển khai được. Quỹ hỗ trợ xuất khẩu có quy mô quá nhỏ bé, nguồn thu ít, theo thống kê mức vốn của quỹ hỗ trợ xuất khẩu chỉ đáp ứng khoảng 26% nhu cầu. Chính sách tác dụng hỗ trợ xuất khẩu còn tồn tại một số vấn đề, chủ yếu là nợ quá hạn quá cao, cơ chế cho vay ưu đãi dẫn đến tình trạng sử dụng vốn cho vay không hiệu quả, không cần cũng vay. Về cơ bản, hầu hết các biện pháp hỗ trợ xuất khẩu truyền thống đều đã được đem ra sử dụng, tuy nhiên hình thức sử dụng còn quá manh mún, quy mô nhỏ hẹp nên chưa phát huy hết tác dụng. Vì vậy trong thời gian tới, cần tập trung mở rộng giải pháp tài chính thúc đẩy xuất khẩu và sử dụng có hiệu quả hơn các công cụ chính sách hiện hành, đồng thời cắt giảm hỗ trợ đầu ra, tăng cường tự lực cho đầu vào, cụ thể là: Chính sách đầu tư thúc đẩy xuất khẩu phải có những giải pháp đồng bộ mới có thể phát huy hết tác dụng. Chúng ta không nên chỉ chú trọng vào đầu tư cho sản xuất mà cần phải đầu tư đồng bộ vào toàn bộ dây truyền từ khâu sản xuất đến tiêu thụ. Bên cạnh việc tổ chức sản xuất kinh doanh đáp ứng yêu cầu xuất khẩu lớn, cũng đòi hỏi các doanh nghiệp phải am hiểu thị trường, có nhiều bạn hàng. Qua kênh cấp vốn đầu tư và tín dụng đầu tư, nhà nước nên dành nguồn vốn thích đáng đầu tư vào những ngành xuất khẩu mũi nhọn theo đúng hướng phát triển của nước nhập khẩu. Hiện nay kinh tế Singapore đã đạt trình độ công nghiệp hoá cao, Singapore tập trung nhập khẩu vào một nhóm sản phẩm công nghiệp là chính để gia công phục vụ cho hoạt động tái xuất khẩu. Do đó phải chú trọng đầu tư cho khoa học công nghệ để tạo ra những sản phẩm mới có sức cạnh tranh cao hơn. Chính sách thuế cần phải tiếp tục mở rộng những ưu đãi về thuế gián thu nhằm tạo điều kiện cho doanh nghiệp giảm giá thành của hàng xuất khẩu để tăng sức cạnh tranh về giá của hàng Việt Nam so với các nước khác, tiến tới loại trừ toàn bộ thuế gián thu đối với hàng xuất khẩu. Để khuyến khích xuất khẩu đặc biệt là các sản phẩm chế biến, nhà nước phải giảm tối đa các mặt hàng xuất khẩu chịu thuế, chỉ áp dụng thuế xuất khẩu đối với nguyên liệu thô, chưa qua chế biến. Về hoàn thiện chính sách tín dụng hỗ trợ xuất khẩu, mục tiêu đặt ra là phải tạo ra một hệ thống chính sách đồng bộ về phương diện tín dụng đối với toàn bộ các hoạt động sản xuất, chế biến gia công, kinh doanh hàng xuất khẩu. Cần phải xoá bỏ phân biệt đối xử giữa các thành phần kinh tế trong tín dụng và ưu đãi xuất khẩu, chỉ phân biệt theo ngành hàng và thị trường xuất khẩu của Nhà nước trong từng thời kỳ. Cần sớm triển khai hình thức cho thuê tài chính nhằm giải quyết tình trạng thiếu hụt về vốn cho các doanh nghiệp xuất khẩu của Việt Nam hiện nay. 1.3. Một số biện pháp thị trường và xúc tiến thương mại 1.3.1. Đẩy mạnh sự ra đời của các sàn giao dịch hàng hoá Trong thời gian chờ đợi để có đủ các điều kiện thành lập thị trường hàng hoá giao sau, có thể xem xét hình thành ngay một số sàn giao dịch hàng hoá để giúp nông dân và doanh nghiệp có được sự đảm bảo chắc chắn hơn về giá cả và cơ hội tiêu thụ hàng hoá trong tương lai gần. Thuỷ sản và hạt điều đã đi đầu trong lĩnh vực này thông qua việc thành lập Trung tâm Giao dịch thuỷ sản Cần Giờ và mạng giao dịch hạt điều. Các ngành hàng khác, đặc biệt là gạo, chè và cà phê có thể tham khảo kinh nghiệm của các sàn giao dịch này để thiết lập sàn giao dịch riêng mình, góp phần giảm thiểu rủi ro của thị trường hàng hoá giao ngay. 1.3.2. Đẩy mạnh các chương trình xúc tiến thương mại Hệ thống xúc tiến thương mại được các nước ASEAN đặc biệt coi trọng phát triển. ở Singapore, Cục Phát triển Thương mại thuộc Bộ Thương mại và Công nghiệp là cơ quan quản lý nhà nước cao nhất về xúc tiến thương mại. Ngoài ra, các Hiệp hội ngành nghề, Phòng Thương mại và Công nghiệp người Hoa, Phòng Thương mại và Công nghiệp người Malaysia, Phòng Thương mại và Công nghiệp người ấn Độ... đều tiến hành công việc xúc tiến thương mại. Các Cơ quan Xúc tiến Thương mại bán thông tin cho các doanh nghiệp với giá rẻ, chỉ bằng 30 - 50% chi phí (Singapore cho rằng cần bán thông tin vì phải mất tiền mua thì doanh nghiệp mới quý trọng thông tin, nhưng phải bán "lỗ" vì doanh nghiệp - nhất là doanh nghiệp vừa và nhỏ rất cần thông tin để điều chỉnh và phát triển sản xuất). Hiện nay, tại Việt Nam, các tổ chức xúc tiến thương mại đã hình thành theo một hệ thống hoàn chỉnh gồm: Cục Xúc tiến Thương mại, các Trung tâm Xúc tiến Thương mại, Phòng Xúc tiến Thương mại thuộc các Sở Thương mại tỉnh thành phố, các trung tâm thông tin kinh tế cấp bộ ngành; các tổ chức phi chính phủ như VCCI, các hiệp hội ngành nghề, các câu lạc bộ doanh nghiệp... Tuy thế, hệ thống xúc tiến thương mại vẫn còn manh mún, thiếu sự nối kết thành hệ thống nên hiệu quả hoạt động chưa cao. Đội ngũ cán bộ chuyên trách phần lớn chưa được đào tạo kỹ lưỡng. Cơ sở hạ tầng cần được hiện đại hoá và xây dựng thêm. Phần lớn các nhà xuất khẩu Việt Nam hiện nay vẫn phụ thuộc quá mức vào người mua nước ngoài vào Việt Nam để hướng dẫn họ phát triển xuất khẩu. Như vậy sẽ có những hạn chế trong kiểm soát lợi nhuận, hiểu biết về nhu cầu xuất khẩu và cả cơ hội tăng giá trị gia tăng. Muốn phát triển thương mại hiệu quả, không thể phụ thuộc vào các biện pháp can thiệp tình huống và tạm thời của các tổ chức hỗ trợ thương mại (phần lớn là hỗ trợ bán hàng ra nước ngoài). Cần phải có những cố gắng chiến lược toàn diện hơn, có tổ chức và được điều phối nhịp nhàng để tập trung nguồn lực của các nhà xuất khẩu và các tổ chức hỗ trợ thương mại vào một mục tiêu chung. Phát triển thương mại phải được tổ chức xoay quanh các kế hoạch phát triển xuất khẩu của ngành phù hợp với các thị trường dự định xâm nhập. Để công tác xúc tiến thương mại hiệu quả hơn, mạng lưới phát triển thương mại Việt Nam cần phải có tính cạnh tranh và hợp tác. Mạng lưới này phải là người phục vụ cho các doanh nghiệp xuất khẩu chứ không phải chủ nhân của họ. Sự hữu ích và hiệu quả của mạng lưới này được đánh giá bằng mức độ mà nó có thể đáp ứng nhu cầu của các doanh nghiệp xuất khẩu. Một tiêu chí để đánh giá sự hữu ích và hiệu quả của mạng lưới phát triển thương mại là căn cứ vào mức độ hợp tác giữa các tổ chức hỗ trợ thương mại nòng cốt và vệ tinh để có thể cung cấp nhiều hơn các dịch vụ hỗ trợ mà các doanh nghiệp xuất khẩu có nhu cầu. Nhận thức được tầm quan trọng của hoạt động xúc tiến thương mại, chính phủ Việt Nam vẫn đang nỗ lực hỗ trợ cho hoạt động này; cụ thể ngày 12/11/2002 Bộ trưởng Bộ Tài chính Nguyễn Sinh Hùng trong báo cáo trình bày trước Quốc hội về tình hình thực hiện ngân sách nhà nước 2002 dự kiến ngân sách nhà nước 2003 và tổng quyết toán ngân sách 2001 đã thông báo chính phủ sẽ đầu tư để xây dựng 3 trung tâm xúc tiến thương mại ở nước ngoài, đồng thời tăng mức hỗ trợ các doanh nghiệp xúc tiến thương mại. 2. Chính sách thu hút đầu tư Vai trò của FDI với nền kinh tế đang phát triển của chúng ta rất quan trọng. Mặc dù hiện nay FDI mới chỉ chiếm 3 - 4% GDP của Việt Nam, nhưng xét trên tổng số vốn đầu tư vào nền kinh tế nước ta hiện nay, FDI đã đóng góp tới 25%, tức l/4 giá trị đầu tư; trong đó tính tới ngày 31/12/2001 Singapore đứng đầu trong số các nước và vùng lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam với 244 dự án còn hiệu lực, tổng vốn đầu tư hơn 6,8 tỷ USD. Vốn FDI không chỉ góp phần thúc đẩy sản xuất kinh doanh trong nước mà các doanh nghiệp FDI còn chiếm tới 23% tổng kim ngạch xuất khẩu, góp phần đưa Việt Nam vào nhóm 20 quốc gia thành công dựa trên mức tăng thị phần xuất khẩu. Thời gian qua, chính phủ đã có những biện pháp tăng cường cải thiện môi trường đầu tư tại Việt Nam. Tiếp theo việc ban hành Luật sửa đổi, bổ sung Luật đầu tư nước ngoài năm 2000 cùng các Nghị định, Thông tư hướng dẫn; năm 2001 chính phủ đã ban hành Nghị quyết về đầu tư nước ngoài 5 năm từ 2001 - 2005, đề ra hệ thống các giải pháp mang tính định hướng để tăng cường thu hút và nâng cao hiệu quả đầu tư nước ngoài tại Việt nam. Theo đó, Bộ Kế hoạch và Đầu tư phối hợp với các Bộ, ngành đã và đang xây dựng triển khai nhiều đề án quan trọng như: đề án cổ phần hoá doanh nghiệp có vốn FDI, đề án phân cấp quản lý đầu tư nước ngoài, đề án sửa đổi Nghị định 36 NĐ - CP; chuẩn bị danh mục dự án kêu gọi đầu tư nước ngoài thời kỳ 2001 - 2005; tiến hành rà soát phân loại các dự án đầu tư nước ngoài để có hỗ trợ cần thiết, rà soát các văn bản pháp quy, các giấy phép đầu tư để kiến nghị bãi bỏ các quy định không hợp lý. Theo Báo cáo Đầu tư Thế giới năm 2002 của UNCTAD, Việt Nam được xếp thứ 20/140 nền kinh tế có mức thực hiện vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài so với GDP tốt nhất thế giới, tăng khá nhiều so với xếp hạng 53/120 nước cách đây 10 năm và cao hơn Thái Lan, Phần Lan... Tỷ trọng thực hiện FDI/GDP của Việt Nam cao hơn nhiều mức trung bình của thế giới. Tuy vậy, chỉ số thu hút FDI của Việt Nam hiện nay vẫn rất khiêm tốn, xếp thứ 71/140 nước (so với 10 năm trước đây là 115/140 nước). Các chỉ số tiềm năng được đánh giá dựa trên các yếu tố như: tốc độ tăng trưởng GDP, GDP/người, tỷ trọng hàng xuất khẩu trong GDP, tỷ lệ máy điện thoại... của Việt Nam đều thấp hơn các nước trong khu vực. Đây có thể là một trong những nguyên nhân khiến nguồn vốn FDI vào Việt Nam mặc dù tăng nhưng vẫn đang chảy một cách khá dè dặt. Để thu hút đầu tư hơn nữa, Việt Nam cần tiếp tục cải thiện môi trường đầu tư, cố gắng tạo ra môi trường kinh doanh đáp ứng các tiêu chuẩn sau: 2.1. Sự ổn định về kinh tế, chính trị xã hội Đây là điều kiện tiên quyết, những bất ổn về kinh tế - chính trị làm cho dòng vốn này bị chững lại, thu hẹp, tìm đến những nơi đầu tư mới an toàn hấp dẫn hơn. Điều kiện này không chỉ bao gồm các yêu cầu về duy trì sự ổn định phát triển kinh tế và trật tự chính trị - xã hội cần thiết cho sự vận hành bình thường của đất nước, sự hoàn chỉnh hữu hiệu và tính có thể dự báo được của hệ thống pháp luật đầu tư theo xu hướng ngày càng tiếp cận tiêu chuẩn và thông lệ quốc tế; mà hệ thống pháp luật của nước sở tại phải đảm bảo sự an toàn về vốn và cuộc sống cá nhân cho các nhà đầu tư, môi trường cạnh tranh lành mạnh, việc di chuyển lợi nhuận về nước cho các nhà đầu tư được dễ dàng thuận lợi. Nội dung của hệ thống pháp luật càng đồng bộ, chặt chẽ, tiên tiến, nhưng cởi mở và phù hợp với luật pháp và thông lệ quốc tế thì khả năng thu hút FDI càng cao. Singapore là một trong những nước có môi trường chính trị ổn định và hệ thống luật pháp hoàn thiện, việc tìm một thị trường có tính ổn định là mối quan tâm hàng đầu của các nhà đầu tư Singapore. 2.2. Sự mềm dẻo, hấp dẫn của hệ thống chính sách khuyến khích đầu tư nước ngoài Chính sách thương mại cần thông thoáng theo hướng tự do hoá để đảm bảo khả năng xuất nhập khẩu các máy móc thiết bị, nguyên liệu sản xuất cũng như các sản phẩm; tức là bảo đảm sự thuận lợi, kết nối liên tục các công đoạn hoạt động đầu tư của các nhà đầu tư. Chính sách tiền tệ phải giải quyết được các vấn đề chống lạm phát và ổn định tiền tệ. Chính sách lãi suất và tỷ giá tác động trực tiếp đến dòng chảy của FDI với tư cách là những yếu tố quyết định giá trị đầu tư và mức lợi nhuận thu được tại một thị trường xác định. Dòng vốn đầu tư dài hạn, nhất là FDI đổ vào một nước thường tỷ lệ thuận với sự gia tăng lòng tin của các chủ đầu tư, đồng thời lại tỷ lệ nghịch với độ chênh lệch lãi suất trong - ngoài nước. Nếu độ chênh lệch lãi suất đó càng cao, tư bản nước ngoài càng ưa đầu tư theo kiểu cho vay ngắn hạn, ít chịu rủi ro và hưởng lãi ngay trên chỉ số chênh lệch lãi suất đó. Hơn nữa, khi mức lãi suất trong nước cao hơn mức lãi suất quốc tế, thì sức hút với dòng vốn chảy vào càng mạnh. Tuy nhiên, đồng nghĩa với mức lãi suất cao là chi phí trong đầu tư cao, làm giảm đi lợi nhuận của các nhà đầu tư. Một tỷ giá hối đoái linh hoạt, phù hợp với tình hình phát triển kinh tế ở từng giai đoạn thì khả năng thu lợi nhuận từ xuất khẩu càng lớn, sức hấp dẫn với vốn nước ngoài càng lớn. Một nước có mức tăng trưởng xuất khẩu cao sẽ làm yên lòng các nhà đầu tư vì khả năng trả nợ của nước đó được đảm bảo hơn, độ mạo hiểm trong đầu tư sẽ giảm xuống. Các mức ưu đãi tài chính - tiền tệ dành cho vốn đầu tư nước ngoài trước hết phải bảo đảm cho các chủ đầu tư tìm kiếm được lợi nhuận cao nhất trong điều kiện kinh doanh chung của khu vực, của mỗi nước và vào những nơi mà chính phủ muốn khuyến khích đầu tư. Những ưu đãi về thuế chiếm vị trí quan trọng hàng đầu trong số các ưu đãi tài chính dành cho đầu tư nước ngoài. Mức ưu đãi thuế cao hơn luôn được dành cho các dự án có tỷ lệ vốn nước ngoài cao, quy mô lớn, dài hạn, hướng về thị trường nước ngoài, sử dụng nhiều nguyên vật liệu và lao động trong nước, tái đầu tư lợi nhuận và có mức độ "nội địa hoá" sản phẩm và công nghệ cao hơn. Hệ thống thuế thi hành sẽ càng hiệu quả nếu càng rõ ràng, đơn giản, dễ áp dụng và mức thuế không được quá cao (so với lãi suất, lợi nhuận bình quân, so với mức thuế chung của khu vực và quốc tế...). Các thủ tục thuế, cũng như các thủ tục quản lý đầu tư nước ngoài khác, phải được tinh giản hợp lý, tránh vòng vèo nhiều khâu trung gian, phải công khai và thuận lợi cho đối tượng chịu quản lý và nộp thuế. Tự do hoá đầu tư càng cao càng thu hút được nhiều vốn nước ngoài. Sự hỗ trợ tín dụng (ở nhiều nước chính phủ đã lập ra các Quỹ hỗ trợ đầu tư nước ngoài để hỗ trợ cho các nhà đầu tư, nhất là cho những dự án thuộc diện khuyến khích đầu tư), cùng với các dịch vụ tài chính, bảo lãnh của chính phủ, của các cơ quan tín dụng xuất khẩu và của các tổ chức tài chính đa phương như WB đã, đang và sẽ đóng vai trò to lớn làm tăng dòng vốn nước ngoài, nhất là FDI tư nhân chảy vào, nhất là trong lĩnh vực hạ tầng. Như vậy, một khi các rủi ro giảm xuống, tỷ lệ lợi nhuận tăng lên, thì các luồng vốn nước ngoài sẽ đổ vào nhiều và ổn định. Ngược lại tư bản nước ngoài sẽ thận trọng hơn, thậm chí bỏ chạy nếu nước tiếp nhận đầu tư có "độ tin cậy thấp về tín dụng" - một chỉ số tổng hợp của các yếu tố như: rủi ro chính trị cao, phát triển kinh tế chậm, xuất khẩu kém, nợ cao và bất ổn định kinh tế vĩ mô. Khi đó, dù có những ưu đãi tài chính rất cao được đưa ra cũng khó hấp dẫn các nhà đầu tư Singapore vốn năng động, thận trọng, luôn mong muốn và thường có nhiều cơ hội lựa chọn thị trường đầu tư như ý trên toàn thế giới. 2.3. Sự phát triển của cơ sở hạ tầng Sự phát triển của cơ sở hạ tầng kỹ thuật của một quốc gia và một địa phương tiếp nhận FDI luôn là điều kiện vật chất hàng đầu để các chủ đầu tư có thể nhanh chóng thông qua các quyết định và triển khai các dự án đã cam kết. Một tổng thể hạ tầng phát triển phải bao gồm một hệ thống giao thông vận tải đồng bộ và hiện đại với các cầu, cảng, đường xá, kho bãi và các phương tiện vận tải đủ sức bao phủ quốc gia và đủ tầm hoạt động quốc tế; một hệ thống thông tin liên lạc viễn thông hiện đại; hệ thống điện nước dồi dào và phân bổ tiện lợi cho các hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như đời sống và một hệ thống mạng lưới cung cấp các loại dịch vụ khác (y tế, giáo dục, giải trí, các dịch vụ hải quan, tài chính, quảng cáo, kỹ thuật...) phát triển rộng khắp và có chất lượng cao. Tóm lại, hệ thống kết cấu hạ tầng đó phải giúp cho các chủ đầu tư nước ngoài tiện nghi và sự thoải mái dễ chịu như ở nhà họ, và giúp họ giảm được chi phí sản xuất về giao thông vận tải, trong khi không hề bị cản trở trong việc duy trì và phát triển các quan hệ làm ăn bình thường với các đối tác của họ trong cả nước, cũng như khắp toàn cầu. Trong các điều kiện và chính sách hạ tầng phục vụ FDI, chính sách đất đai và bất động sản có sức chi phối mạnh mẽ đến các luồng FDI đổ vào Việt Nam; nếu giải quyết được ổn thoả những vướng mắc của lĩnh vực này, cụ thể là việc giải phóng mặt bằng cho các dự án thì các nhà đầu tư sẽ càng mở rộng hầu bao đầu tư lớn và lâu dài hơn nữa. Việc phát triển hệ thống cơ sở hạ tầng không chỉ là điều kiện cần để tăng sự hấp dẫn của môi trường đầu tư mà đó còn là cơ hội để chúng ta có thể và có khả năng thu lợi đầy đủ hơn từ dòng vốn nước ngoài đã thu hút được (thông qua thu nhập từ dịch vụ vận tải, thương mại, tài chính, tư vấn thông tin phục vụ các dự án đầu tư đang và sẽ triển khai). 2.4. Sự phát triển của đội ngũ lao động, của trình độ khoa học, công nghệ và hệ thống doanh nghiệp trong nước Đội ngũ nhân lực có kỹ thuật cao là một trong những điều kiện hàng đầu để một nước trở nên hấp dẫn các nhà đầu tư nước ngoài. Việc thiếu các nhân lực kỹ thuật lành nghề, các nhà lãnh đạo, quản lý cao cấp, các nhà doanh nghiệp tài ba cùng với sự lạc hậu về trình độ khoa học công nghệ trong nước sẽ khó lòng đáp ứng được các yêu cầu của nhà đầu tư để triển khai các dự án của họ. ở Việt Nam lao động giản đơn dư thừa quá nhiều, trong khi đó lại thiếu các chuyên viên có trình độ kỹ thuật, quản lý cao. Do cung không đủ cầu nên tiền lương trả rất cao làm cho môi trường đầu tư kém hấp dẫn. Trong khi đó, Singapore nổi tiếng là nước có lực lượng lao động quy củ vào bậc nhất thế giới. Những bất cập của lao động Việt Nam chắc chắn sẽ ảnh hưởng không tốt đến quyết định bỏ vốn đầu tư của những nhà đầu tư Singapore. Một hệ thống doanh nghiệp trong nước phát triển, đủ sức tiếp thu công nghệ chuyển giao và là đối tác ngày càng bình đẳng với các nhà đầu tư nước ngoài là điều kiện cần thiết để có thể thu hút được nhiều hơn và hiệu quả hơn luồng vốn nước ngoài. Hệ thống các doanh nghiệp đó phải bao gồm cả những doanh nghiệp sản xuất lẫn dịch vụ ở tất cả các lĩnh vực, ngành nghề và thành thạo các nghiệp vụ kinh doanh quốc tế, đủ sức giữ được thị phần thích đáng tại thị trường trong nước và ngày càng có sức cạnh tranh trên thị trường thế giới. Mạng lưới các doanh nghiệp dịch vụ về tài chính - ngân hàng có vai trò quan trọng trong hệ thống đó, nhằm tạo ra các điều kiện thuận lợi cho việc huy động và lưu chuyển vốn trong nước và quốc tế. 2.5. Sự phát triển của nền hành chính quốc gia và hiệu quả của các dự án FDI đã triển khai Lực cản lớn nhất làm nản lòng các nhà đầu tư là thủ tục hành chính rườm rà, phiền phức gây tốn kém về thời gian và chi phí, làm mất cơ hội đầu tư. Đây cũng chính là điểm yếu làm giảm lợi thế cạnh tranh của môi trường đầu tư Việt Nam. Bộ máy hành chính hiệu quả quyết định sự thành công không chỉ thu hút vốn nước ngoài mà còn của toàn bộ quá trình huy động, sử dụng vốn cho đầu tư phát triển của quốc gia. Bộ máy đó phải thống nhất, gọn nhẹ, sáng suốt và nhạy bén về chính sách với những thủ tục hành chính, những quy định pháp lý có tính chất tối thiểu, đơn giản, công khai và nhất quán được thực hiện bởi những cán bộ có trình độ chuyên môn cao, được giáo dục tốt và có kỷ luật, tôn trọng pháp luật. Để có thể xây dựng được một môi trường đầu tư hấp dẫn thoả mãn các tiêu chí trên, trước hết chính phủ Việt Nam cần coi thu hút đầu tư nước ngoài trong giai đoạn 2000 - 2010 là ưu tiên đặc biệt. Muốn vậy cần tạo ra sự hấp dẫn đặc biệt về cạnh tranh với các nước lân cận như Trung Quốc, Thái Lan, Indonesia, Malaysia...vốn là những thị trường đầu tư truyền thống của Singapore nhằm thu hút lượng vốn FDI trước khi Việt Nam trở thành thành viên WTO, tạo sức cạnh tranh cho nền kinh tế khi hội nhập đầy đủ với thế giới. Các chính sách ưu đãi đầu tư phải được cụ thể hoá. Các chính sách ưu đãi như miễn giảm thuế thu nhập doanh nghiệp, kể cả các dự án đầu tư mở rộng, chính sách một giá, miễn giảm tiền thuê đất... cần được sửa đổi nhanh chóng linh hoạt. Không nên quy định thời gian tồn tại của dự án. Không vì sự vi phạm của một vài doanh nghiệp hay một vài nhà đầu tư mà thắt chặt thêm các quy định luật lệ làm khó khăn hơn cho số đông các doanh nghiệp và nhà đầu tư khác. Mặt khác cần xây dựng quy hoạch tổng thể đầu tư ở Việt Nam. Nên chăng chính phủ nên lập bản đồ quy hoạch về đầu tư, kể cả đầu tư trong và ngoài nước trên từng lĩnh vực, từng nhóm mặt hàng với nguyên tắc không hạn chế số lượng dự án sản xuất hàng xuất khẩu; chỉ hạn chế về số lượng, quy mô dự án sản xuất hàng hoá phục vụ nhu cầu tiêu thụ nội địa để tránh hỗn loạn cung cầu trên thị trường, tránh lãng phí đầu tư. Các địa phương được phân cấp và chủ động cấp giấy phép đầu tư nhưng phải tuân thủ quy hoạch về đầu tư để tránh rối loạn thị trường nội địa, gây khó khăn cho điều hành của chính phủ và thiệt hại cho nhà đầu tư. Chính việc quản lý không tốt trong quy hoạch cụ thể đầu tư ở Việt Nam đã dẫn đến hậu quả các nhà đầu tư Singapore đầu tư quá nhiều vào bất động sản, xây dựng khách sạn và văn phòng, gây nên khủng hoảng thừa trong các lĩnh vực này. Chính phủ Việt Nam cần dành sự quan tâm hơn nữa đến các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam vì theo kinh nghiệm các nhà đầu tư mới trước khi quyết định đầu tư vào Việt Nam đều tham khảo ý kiến nhận xét của lãnh đạo các công ty FDI đang hoạt động tại Việt Nam. Họ coi đánh giá, nhận xét này là khách quan và là chỉ tiêu quan trọng nhất khi đi đến quyết định cuối cùng. Vì vậy, chính phủ cần quan tâm giải quyết những vướng mắc, khó khăn và cùng các doanh nghiệp này tháo gỡ ngay các rào cản. Chính phủ cần xem xét cẩn trọng lộ trình hội nhập AFTA và các cam kết khi Việt Nam tham gia khu vực đầu tư ASEAN (AIA) và WTO; khi đó các hàng rào đối với đầu tư được loại bỏ, các ngành công nghiệp được mở cửa cho các nhà đầu tư. Do Việt Nam đi sau các nước trong khu vực hàng chục năm vì vậy cần bảo vệ sản xuất trong nước kể cả các nhà đầu tư trong và ngoài nước. Trong những nỗ lực thu hút đầu tư nói chung và đầu tư của Singapore nói riêng, tháng 2/2001, với chủ đề “Tiến tới thành công: Việt Nam - Điểm đến của các nhà đầu tư”, phái đoàn vận động đầu tư do Phó Thủ tướng Nguyễn Tấn Dũng dẫn đầu đã đến Singapore, nơi có nhiều công ty đa quốc gia đặt văn phòng khu vực. Cùng với những cố gắng của chính phủ Việt Nam và thiện chí của Singapore trên cơ sở đôi bên cùng có lợi, hy vọng trong tương lai, quan hệ đầu tư giữa Việt Nam và Singapore sẽ ngày càng phát triển. Kết luận Qua quá trình nghiên cứu về thực trạng quan hệ kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore, chúng ta đã thấy được sự phát triển nhanh chóng của mối quan hệ này cũng như những nỗ lực của hai nước để có được những kết quả đáng khích lệ đó. Với sự hợp tác chặt chẽ không chỉ trong lĩnh vực thương mại và đầu tư mà còn trong nhiều lĩnh vực khác, Singapore trở thành một trong những đối tác quan trọng hàng đầu của Việt Nam. Trong những năm qua Singapore liên tục là bạn hàng thương mại lớn của Việt Nam, về lâu dài Singapore vẫn là một trong những thị trường quan trọng của ta. Các nhà đầu tư Singapore có mặt trong hầu hết các ngành kinh tế của Việt Nam, khu vực đầu tư của Singapore tại Việt Nam đứng thứ nhất về tổng vốn đầu tư trong các quốc gia lãnh thổ đầu tư vào Việt Nam. Ngoài ra, hàng năm Singapore còn dành cho Việt Nam những hỗ trợ trong một số lĩnh vực như đào tạo nhân lực, bảo vệ môi trường... Cũng qua việc nghiên cứu đề tài có thể khẳng định rõ ràng việc phát triển kinh tế thương mại giữa Việt Nam và Singapore là cần thiết, là nhu cầu của cả hai bên. Trong bối cảnh mới của kinh tế khu vực và thế giới, bên cạnh những cơ hội thuận lợi còn tồn tại không ít khó khăn, cản trở tác động đến sự hợp tác phát triển giữa hai quốc gia. Khoá luận đã phần nào đề cập đến những vấn đề này và đưa ra một số giải pháp cần thiết để có thể khai thác tiềm năng kinh tế trên mối quan hệ hợp tác giữa ta và nước bạn. Trong khuôn khổ của Khoá luận, một số vấn đề còn chưa có điều kiện nghiên cứu sâu. Nếu có dịp trở lại với đề tài, em sẽ phát triển đề tài này ở mức cao hơn và có tính thực tiễn hơn, đặc biệt là về vấn đề hợp tác đầu tư với Singapore khi mà thời hạn triển khai của khu vực đầu tư ASEAN (AIA) đang đến gần và việc Việt Nam đang nỗ lực vận động gia nhập WTO. Tuy nhiên do thời gian và trình độ có hạn, nên khoá luận sẽ còn nhiều thiếu sót. Kính mong nhận được sự góp ý của thầy, cô và các bạn để Khoá luận hoàn thiện hơn nữa. Cuối cùng em xin chân thành cảm ơn các thầy cô giáo và các bạn đã quan tâm giúp đỡ. Mục lục Phụ lục tài liệu tham khảo Mục lục bảng, biểu Bảng 1.1: Ngoại thương Singapore 9 Bảng 1.2: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của Singapore 19 Bảng 2.1: Thương mại hàng hoá thế giới năm 2001: các nước xuất, nhập khẩu chính 32 Bảng 2.2: Thương mại dịch vụ thế giới năm 2001: Các nước xuất, nhập khẩu chính 33 Bảng 2.3: Xuất khẩu hàng hoá của các nước ASEAN 34 Bảng 2.4: Nhập khẩu hàng hoá của các nước ASEAN 35 Bảng 2.5: Xuất nhập khẩu của Việt Nam sang các nước ASEAN 6 tháng 2002 37 Bảng 2.6: Ba nhà đầu tư lớn nhất của ASEAN tại Việt Nam 38 Bảng 2.7: Kim ngạch buôn bán của Việt Nam với Singapore. Tổng kim ngạch xuất nhập khẩu với thế giới 39 Bảng 2.8: Kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang Singapore 40 Bảng 2.9: Nhóm mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam sang Singapore 46 Bảng 2.10: Kim ngạch nhập khẩu của Việt Nam từ Singapore 47 Bảng 2.11: Nhóm mặt hàng nhập khẩu chủ lực của Việt Nam từ Singapore 50 Bảng 2.12: Xuất nhập khẩu của Singapore sang Việt Nam giai đoạn 1995 -2001 57 Bảng 2.13: FDI tại Việt Nam theo đối tác nước ngoài 1988 - 2001 59 Biểu đồ 2.1: Đầu tư của Singapore tại Việt Nam theo hình thức đầu tư 63 Biểu đồ 2.2: Vốn và dự án đầu tư của Singapore tại Việt Nam phân theo ngành 65 Bảng 2.14: Một số dự án của Singapore hoạt động có hiệu quả 67 Biểu đồ 2.3: Đầu tư của Singapore phân theo địa phương 68 Bảng 3.1: Tốc độ tăng trưởng kinh tế của các quốc gia và khu vực 1999 -2003 78 Tài liệu tham khảo 1. Trang Web 1.1. 1.2. 1.3. 1.4. 1.5. 1.6. 1.7. 1.8. 1.9. 1.10. 2. Tạp chí 2.1. Thảo Vy, "Singapore: Thị trường tiềm năng cho doanh nghiệp Việt Nam", Thị trường Chủ nhật, số 237 + 244, 01/09/2002 2.2. Bắc Hải, "Các giải pháp đẩy mạnh xuất khẩu", Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 17/04/2002 2.3. Hiểu Long, "Thủ tục cấp C/O sang ASEAN còn phức tạp", Đầu tư, ngày 19/09/2002 2.4. Anh Thi, "Hiệu quả xúc tiến thương mại. Củng cố lại hệ thống hiện tại của Việt Nam", Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 5/11/2001 2.5. Quý Hào, "Cơ chế hỗ trợ tín dụng xuất khẩu mới ", Thời báo Kinh tế Việt Nam, ngày 28/9/2001 2.6. Th.S Phạm Thị Thanh Bình, "Đầu tư của ASEAN vào Việt Nam thập kỷ 90", Tạp chí Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 2 (37), 4/2002 2.7. Ngô Thị Trinh, "Suy giảm kinh tế của các nước Đông á", Tạp chí kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 2(37), 4/2002 2.8. Nguyễn Thị Hiền, "Singapore - Quốc gia đầu tàu trong hội nhập kinh tế khu vực ở Đông Nam á", Tạp chí Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 2 (31), 4/2001 2.9. Trung Đức, "Đầu tư của các nước ASEAN có vị trí quan trọng tại Việt Nam", Đầu tư, ngày 5/8/2002 2.10. Tuấn Khánh, "Tạo sự hấp dẫn mới cho nhiều nhà đầu tư", Đầu tư, ngày 5/8/2002 2.11. Nguyễn Minh Phong, "Kinh nghiệm Nhật Bản và các nước ASEAN trong hội nhập kinh tế quốc tế", Những vấn đề Kinh tế thế giới, số 3(77), 2002 2.12. Ngô Thị Trinh, "Các nền kinh tế mới công nghiệp hoá", Kinh tế Châu á Thái Bình Dương, số 1(30), 2/2001 2.13. Thông Tin, "Việt Nam: xếp hạng theo đánh giá chính sách và thể chế quốc gia", Nghiên cứu kinh tế, số 281, 10/2001 2.14. Thanh Phương, "Hợp tác kinh tế - thương mại giữa Việt Nam với các nước thành viên ASEAN", Tạp chí Thương mại, số 24 (2002) 2.15. Thông tin chuyên đề các lĩnh vực doanh nghiệp thương mại, "Quy đinh thương mại hải quan và các tiêu chuẩn của Singapore", Tạp chí Ngoại thương, số 21, ngày 31/8/2002 2.16. Trung Đức, "Đầu tư của Singapore sẽ có vị thế mới", Chuyên đề báo Đầu tư, ngày 5/8/2002 2.17. Kinh tế tổng hợp, "Tình hình kinh tế xã hội 5 tháng đầu năm và giải pháp để thực hiện kế hoạch năm 2002", Thông tin Kinh tế - xã hội, số 2 năm 2002 2.18. Thương mại - dịch vụ - thị trường, "Về tình hình xuất khẩu trong những tháng đầu năm 2002", Thông tin Kinh tế - xã hội, số 2 năm 2002 2.19. Thương mại - dịch vụ - thị trường, "Về một số chính sách, biện pháp đẩy mạnh xuất khẩu trong những tháng cuối năm 2002, Thông tin Kinh tế - xã hội, số 1 năm 2002 2.20. Doanh nghiệp, "Singapore với vấn đề cải cách doanh nghiệp", Thông tin Kinh tế - xã hội, số 1 năm 2001 3. Các báo cáo của các Bộ, ban, ngành 3.1. Tổng quan thị trường Singapore, Vụ châu á Thái Bình Dương, Bộ Thương mại, năm 2000 3.2. Báo cáo của Thương vụ Việt Nam tại Singapore, số 79, ngày 2/12/1998 3.3. Tóm tắt quan hệ thương mại Việt Nam - Singapore (về việc chuyến thăm Việt Nam của Phó Thủ tướng Lý Hiển Long), Vụ Châu á Thái Bình Dương, Bộ Thương mại, tháng 11/1999 3.4. Báo cáo thị trường 6 tháng đầu năm 2002, Thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái Bình Dương, Bộ Thương mại 3.5. Báo cáo thị trường để xây dựng kế hoạch thương mại năm 2000 - 2010, Thị trường Singapore, Vụ Châu á Thái Bình Dương, Bộ Thương mại 3.6. Báo cáo về quan hệ hợp tác kinh tế giữa Việt Nam và Singapore, Vụ Quản lý Dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 11/9/2002 3.7. Báo cáo về tình hình FDI vào Việt Nam của các nước ASEAN, Vụ Quản lý Dự án, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, ngày 21/5/2002 3.8. Cumulative Report for Imports, Singapore Trade Development Board, 2001 3.9. Cumulative Report for Exports to Vietnam, Singapore Trade Development Board, 2001 3.10. Annual Report for External Trades (All Trade Types), Country Vietnam Soc Rep Of, Singapore Trade Development Board, 1995 - 2001 4. Giáo trình, sách 4.1. Bùi Xuân Lưu, Kinh tế ngoại thương, Nhà xuất bản Giáo dục, 1999 4.2. Vũ Chí Lộc, Đầu tư nước ngoài, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997 4.3. TS. Nguyễn Thị Hiền, Hội nhập Kinh tế khu vực của một số nước ASEAN, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia, 2002 4.4. PTS. Đào Duy Huân, Kinh tế các nước Đông Nam á, Nhà xuất bản Giáo dục, 1997 4.5. Lý Quang Diệu, Bí quyết hoá rồng. Lịch sử Singapore 1965-2000, Nhà xuất bản Trẻ, 2001 5. Các văn bản Luật 5.1. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (12/11/1996), Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 5.2. Quốc hội nước cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam (30/6/2000), Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam 5.3. Chỉ thị số 31/2001/CT/TTg về việc đẩy mạnh hoạt động và nâng cao hiệu quả xuất nhập khẩu hàng hoá năm 2002 5.4. Quyết định số 63/2002/QĐ-BTC công bố mức thưởng theo kim ngạch xuất khẩu 5.5. Quyết định số 133/QĐ-TTg về việc quy định quy chế tín dụng hỗ trợ xuất khẩu

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoaluan(lastest).doc
  • docbiaKL(Bi).doc
Tài liệu liên quan