Khóa luận Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Thái Lan: Thực trạng và triển vọng

Con người là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và đáp ứng tốt nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, ngoài việc trang bị máy móc thiết bị hiện đại phải có những cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề. Hiện nay, nước ta rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Cho nên dẫn tới tình trạng sản xuất hàng hoá: chất lượng hàng kém, không đồng đều và kiểu dáng còn đơn điệu, thiếu tính sáng tạo. Vì thế mà khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá rất thấp. Do vậy, để khắc phục tình trạng này chúng ta cần phải chú trọng tổ chức nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thuộc các lĩnh vực, các ngành kinh tế để tạo ra một đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề trong các ngành chế tạo, sản xuất, chế biến. Đồng thời, chúng ta nên phối hợp với các nước và các tổ chức quốc tế để gửi các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật trẻ có triển vọng của ta ra nước ngoài đào tạo. Nếu chỉ chú trọng đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thì chưa đủ mà phải có một đội ngũ cán bộ thương mại giỏi nữa thì mới có thể đưa những sản phẩm có chất lượng cao tới được người tiêu dùng Thái Lan. Như thế cũng vẫn chưa đủ mà phải có cả một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi thì mới đưa doanh nghiệp phát triển lên được. Về phía Nhà nước: - Nhà nước cần chú trọng tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các công ty thương mại có tham gia vào mậu dịch quốc tế. Cần có chính sách và chế độ bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại và tuyển chọn lại cán bộ thương mại một cách chặt chẽ và nghiêm túc cả về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ. - Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải tăng cường tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật. Về phía doanh nghiệp: Các doanh nghiệp phải chú trọng công tác đào tạo để nâng cao năng lực cán bộ và công nhân kỹ thuật vì họ là nhân tố quan trọng và không thể thiếu được trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường Các doanh nghiệp phải luôn nâng cao trình độ cán bộ và công nhân kỹ thuật, phát huy tính năng động, nhậy bén, học hỏiv.v. Từng doanh nghiệp phải dành một khoản kinh phí nhất định cho hoạt động này và phải biết tận dụng các chương trình đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật của Chính phủ để cử cán bộ của mình tham gia. Đối với cán bộ thương mại, các doanh nghiệp không chỉ chú trọng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn mà phải nâng cao cả ngoại ngữ vì ngoại ngữ kém sẽ khó thành công trong đàm phán và thường bị ở thế bất lợi trong giao dịch kinh doanh.

doc87 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1639 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Thái Lan: Thực trạng và triển vọng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
Lan Căn cứ vào đánh giá sơ lược về thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam –Thái Lan, có thể dự đoán triển vọng phát triển hợp tác kinh tế giữa hai nước như sau: 1. Khả năng phát triển kim ngạch xuất nhập khẩu giữa Việt Nam - Thái Lan Hiện nay kim ngạch buôn bán hai chiều giữa Việt Nam - Thái Lan chưa đạt tới 1 tỷ USD/ năm. Kết quả này chưa phản ánh hết tiềm năng thương mại của hai nước, dù rằng hai nước đã có hiệp định thương mại từ năm 1978 và thực sự có hiệu quả từ năm 1990. Trên thực tế hai nước chưa thực sự khai thác được những lợi thế vốn có của mình, chưa khai thác triệt để lợi thế của hiệp định thương mại song phương - đây là điều kiện tiên quyết để hàng hoá Việt Nam có thể cạnh tranh về giá cả trên thị trường Thái Lan và ngược lại. Việt Nam và Thái Lan vốn dĩ có nền kinh tế khá tương đồng với những sản phẩm xuất khẩu chủ yếu như gạo, hàng nông sản nên trong tương lai hai nước sẽ có một hiệp định về hàng xuất khẩu, có những quy ước chung về giá cả, chất lượng hàng bán ra trên thị trường thế giới. Trong những năm tới Việt Nam - Thái Lan sẽ khai thác tích cực hiệp định thương mại song phương, cùng với việc tham gia vào khu vực mậu dịch tự do (2006) hai nước sẽ được hưởng những mức thuế ưu đãi đối với những hàng nhập khẩu cũng như xuất khẩu. Trong vòng 5 năm tới Việt Nam vẫn có lợi thế về chi phí lao động trong khi các nước ASEAN khác hay các nước NICS đang mất dần về lợi thế sản xuất hàng hoá có độ thông dụng lao động cao vì giá nhân công ngày càng tăng. Việt Nam có khả năng xuất khẩu sang Thái Lan những loại hàng nông sản nhiệt đới như: chè, cà phê, gạo, rau, quả....và hàng hoá có tỷ trọng chi phí lao động cao như: hàng dệt may, gia công.... ngoài ra Việt Nam còn khai thác được lợi thế so sánh ở loại hàng thuỷ sản, dầu khô mặc dù đây là những loại hàng chủ yếu của Thái Lan. Các hàng hoá xuất khẩu của Việt Nam không chỉ đáp ứng nhu cầu của người Thái Lan mà các doanh nghiệp Việt Nam có thể khai thác một loại nhu cầu khác mang phong cách Việt Nam của gần một triệu Việt kiều đang làm việc và sinh sống tại Thái Lan, họ vẫn có nhu cầu những loại hàng hoá mang phong cách Việt Nam từ các loại lương thực phẩm đến các loại thủ công mỹ nghệ. Theo tính toán của các chuyên gia thì một Việt kiều ở Thái Lan có nhu cầu về hàng hoá Việt Nam trị giá khoảng 400USD/ năm. Do vậy, nếu các nhà xuất khẩu Việt Nam biết khai thác tốt thị trường này thì hàng năm có thể thu về từ hàng hoá xuất khẩu cho đối tượng này khoảng 400 triệu USD. Về nhập khẩu từ Thái Lan, Việt Nam có nhu cầu rất lớn các loại ôtô, xe máy nguyên chiếc hay linh kiện dạng CKD, SKD cùng các loại vật liệu xây dựng có chất lượng cao để phục vụ quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá, đất nước. Đây là loại hàng có lợi thế của Thái Lan trong thương mại quốc tế. Vì vậy trong tương lai Việt Nam sẽ nhập khẩu khối lượng lớn hàng hoá này, các công ty Thái Lan sẽ hoạt động tốt hơn khi Việt Nam được xem xét đưa từ nhóm nước Y (là những nước hạn chế về nhập khẩu công nghệ thiết bị hiện đại) lên nhóm nước V (là nhóm các quốc gia không bị kiểm soát nhập khẩu công nghệ). Như vậy, trong vòng 5 năm tới kim ngạch nhập khẩu hai chiều giữa Việt Nam và Thái Lan sẽ có mức tăng trung bình 50% - 60% năm. Cơ cấu hàng xuất nhập khẩu giữa hai nước sẽ phản ánh đúng lợi thế so sánh của mỗi nước mà không bị bóp méo bởi các thủ tục hải quan và công cụ thuế quan khác. 2. Thu hút FDI từ Thái Lan Hiện tại, giữa Việt Nam và Thái Lan chưa có hiệp định bảo hộ và khuyến khích đầu tư song phương. Các nhà đầu tư Thái Lan chưa dám đầu tư mạnh vào Việt Nam vì chưa có khung pháp lý bảo vệ quyền lợi cuả họ khi hoạt động đầu tư tại Việt Nam và hơn nữa họ chưa nhận được sự hỗ trợ giúp của chính phủ Thái Lan. Khi những hạn chế này được xoá bỏ, Chính phủ Thái Lan có một kế hoạch tổng quát để hỗ trợ các nhà đầu tư Thái Lan tại Việt Nam thì khối lượng vốn đầu tư của các công ty Thái Lan vào Việt Nam sẽ tăng lên nhanh chóng vì các doanh nghiệp Thái Lan có ưu thế và cũng phù hợp với hoàn cảnh hiện tại của Việt Nam, được Việt Nam khuyến khích như: sản xuất vật liệu xây dựng, chế biến thức ăn gia súc, lắp ráp xe máy và xây dựng khách sạn.... Các lĩnh vực này các nhà đầu tư có nhiều kinh nghiệm. Thái Lan là một trong những nước hiểu rõ thị trường tiêu dùng của người Việt Nam và cách ứng xử trong kinh doanh của các doanh nhân Việt Nam. Việt Nam không chỉ hấp dẫn các nhà đầu tư Thái Lan vì có một thị trường tiêu dùng rộng lớn với gần 80 triệu dân mà đối với các nhà đầu tư Thái Lan, Việt Nam còn là địa điểm lý tưởng để phát triển các ngành sản xuất sử dụng nhiều lao động, nhằm tận dụng giá nhân công rẻ sau đó lại xuất khẩu hàng hoá đó sang thị trường tiêu thụ trong khu vực cũng như trên thế giới. Hiện nay một số doanh nghiệp sản xuất đã hoạt động rất có hiệu quả xuất khẩu hàng hoá của mình vào thị trường Thái Lan và khu vực, cạnh tranh mạnh với các doanh nghiệp các nước khác thông qua giá cả. Do vậy, khi được sự hỗ trợ của Chính phủ Thái Lan thì các doanh nghiệp Thái Lan tại Việt Nam sẽ hoạt động tốt hơn, hàng hoá sản xuất ra sẽ tiêu thụ tốt hơn. Luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam không những khuyến khích các doanh nghiệp nước ngoài đầu tư vào Việt Nam mà còn quan tâm đến tiềm năng của lực lượng Việt kiều ở nước ngoài. Việt kiều ở Thái Lan không những mạnh về tiềm lực tài chính mà đây còn là một nguồn “chất xám” quan trọng. Lực lượng này có thể sử dụng kiến thức của mình góp phần phát triển quê hương. Ngoài ra họ có thể giới thiệu những tiềm năng của môi trường đầu tư Việt Nam với các công ty nơi họ đang làm việc, qua các công ty này sẽ mạnh dạn đầu tư vào Việt Nam. Các doanh nghiệp Việt Nam có nhiều ưu thế để chinh phục thị trường Việt Nam, trong tương lai với sự giúp đỡ của chính phủ Thái Lan chắc rằng các công ty Thái Lan đầu tư vào Việt Nam càng nhiều và có hiệu quả hơn. Chương III: một số giải pháp để phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam -Thái Lan trong thời gian tới *********************************************** I.Phương hướng phát triển quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam –Thái Lan 1. Mục tiêu và nhiệm vụ tổng quát giai đoạn 2001 –2005 của Việt Nam Đại hội Đảng lần thứ IX đề ra mục tiêu kinh tế đối ngoại như sau: 1.1. Mục tiêu của hoạt động xuất nhập khẩu Về xuất khẩu Tăng nhanh tổng kim ngạch xuất khẩu, tạo thị trường ổn định cho một số loại mặt hàng nông sản thực phẩm và hàng công nghiệp có khả năng cạnh tranh, tìm kiếm các thị trường cho mặt hàng xuất khẩu mới. Nâng cao chất lượng các mặt hàng xuất khẩu, tăng thêm thị phần ở các thị trường truyền thống, tiếp cận và mở mạnh các thị trường mới. Tiếp tục đầu tư, nâng cao chất lượng để tăng nhanh kim ngạch các mặt hàng chủ lực như dầu thô, gạo, cà phê, hàng thuỷ sản, dệt may,da giầy, hàng thủ công mỹ nghệ, điện tử và linh kiện điện tử, phần mềm máy tính... Bảng III - 16:Cơ cấu xuất khẩu thời kỳ 2001- 2005. Lĩnh vực xuất khẩu Kim ngạch (Tỷ USD) Tỷ trọng(%) Tốc độ tăng bình quân hàng năm Hàng nông lâm thuỷ sản 34,2 30 16 Hàng công nghiệp và tiểu thủ công 79,8 70 16,2 Tổng giá trị 114 100 15,9 - Về nhập khẩu Mục tiêu chủ yếu của thời kỳ 2001 –2005 là nhập khẩu công nghệ và thiết bị hiện đại phục vụ cho công nghệ nguồn, giảm tối đa nhập khẩu công nghệ trung gian và thiết bị đã qua sử dụng. Nhập khẩu đảm bảo cho yêu cầu sản xuất và phục vụ đời sống trong nước, cần ưu tiên nhập khẩu để phục vụ sản xuất hàng xuất khẩu. Nhập khẩu khuyến khích sản xuất trong nước đồng thời cần có chính sách bảo hộ nền sản xuất trong nước ta một cách hợp lý. Bảng III-17: Cơ cấu hàng nhập khẩu thời kỳ 2001-2005 Kim ngạch (Tỷ USD) Tỷ trọng (%) Tốc độ tăng bình quân hàng năm(%) Nguyên vật liệu 74,93 63,5 13,9 Máy móc thiết bị phụ tùng 38,46 32,6 17,2 Hàng tiêu dùng 4,61 3,9 Tổng giá trị 118 100 1.2 Mục tiêu của hoạt động thu hút đầu tư nước ngoài Đẩy mạnh thu hút vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI). Khuyến khích đầu tư nước ngoài vào các ngành công nghiệp sản xuất hàng xuất khẩu, công nghiệp chế biến, các ngành công nghệ cao, vật liệu mới, điên tử, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế, xã hội và các ngành Việt Nam có lợi thế, gắn với công nghiệp hiện đại và việc làm. Tập trung thu hút vốn FDI vào các khu công nghiệp, khu chế xuất, khu công nghệ cao, tiếp tục xây dựng khu kinh tế mở để đưa vào kế hoạch 5 năm. Thu hút và sử dụng có hiệu quả nguồn vốn hỗ trợ phát triển chính thức (ODA). Định hướng 5 năm tới dành khoảng 15 % vốn vào các ngành nông nghiệp, thuỷ lợi, lâm nghiệp, thuỷ sản, kết hợp mục tiêu phát triển nông nghiệp nông thôn, xoá đói giảm nghèo; khoảng 25 % cho ngành công nghiệp và năng lượng; khoảng 25 % cho các ngành giao thông, bưu điện, cấp thoát nước và đô thị. Coi trọng sử dụng vốn ODA trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, xã hội, giáo dục và đào tạo, khoa học, công nghệ và bảo vệ môi trường. Ngoài ra, cần tăng cường đầu tư ra nước ngoài; phát triển các dịch vụ thu ngoại tệ ; du lịch và các dịch vụ khác . 2. Định hướng quan hệ kinh tế Việt Nam - Thái Lan trong thời gian tới 2.1. Định hướng về xuất nhập khẩu với Thái Lan Trong thời gian tới Việt Nam sẽ khai thác tốt hơn thị trường Thái Lan nhờ có quan hệ ngày càng tốt đẹp giữa hai nước. Các doanh nghiệp Việt Nam sẽ khai thác triệt để mọi cơ hội kinh doanh lẫn cơ sở hợp pháp của pháp luật Thái Lan, mở công ty chi nhánh tại Thái Lan. Các doanh nghiệp có thể sử dụng Việt kiều làm kênh phân phối để đẩy mạnh xuất khẩu hàng hoá sang Thái Lan. Hiện nay, hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang Thái Lan với kim ngạch còn nhỏ, trong thời gian tới để mở rộng thị trường tiêu thụ ở thị trường Thái Lan các doanh nghiệp cần tập trung vào một số mặt hàng sau: Cà phê Giá trị xuất khẩu mặt hàng cà phê giảm mạnh trong những năm gần đây làm cho nông dân trồng cà phê gặp không ít khó khăn, tuy nhiên đây vẫn là mặt hàng chiếm tỷ trọng lớn trong kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam, vì vậy trong những năm tới Việt Nam cố gắng nâng cao giá trị kim ngạch xuất khẩu cà phê sang thị trường Thái Lan, thông qua đó tạo công ăn việc làm cho người lao động trong nước. Trong thời gian tới cà phê vẫn sẽ góp phần tăng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam. Hàng thuỷ sản Phát triển khai thác hải sản xa bờ và điều chỉnh nghề cá ven bờ hợp lý. Đầu tư phát triển mạnh ngành nuôi, trồng thuỷ sản , xây dựng vùng nuôi trồng tập trung, gắn với phát triển công nghiệp chế biến chất lượng cao; đẩy mạnh nuôi tôm xuất khẩu theo phương thức tiến bộ, bảo vệ môi trường. Xây dựng đồng bộ công nghiệp khai thác cả về đội tàu, cảng, bến cá, đóng và sửa tàu thuyền, dệt lưới, dịch vụ hậu cần, an toàn trên biển. Phấn đấu đạt sản lượng thuỷ sản năm 2005 vào khoảng 2,4 triệu tấn, giá trị xuất khẩu thuỷ sản khoảng 2,5 tỷ USD. Phấn đấu xuất sang Thái Lan giá trị khoảng 32,46 triệu USD vào năm 2005. Hàng dệt may Chú trọng tìm kiếm và mở thêm thị trường trong nước và nước ngoài. Tăng cường đầu tư, hiện đại hoá một số khâu sản xuất, tập trung đầu tư sản xuất sợi, dệt, thuộc da ; chú trọng phát triển nguồn bông và khai thác nguồn da các loại, tăng phần sản xuất trong nước về các nguyên liệu và phụ liệu trong ngành dệt may để nâng cao giá trị gia tăng các sản phẩm xuất khẩu. Đến năm 2005, đạt sản lượng 2,5-3 vạn tấn bông xơ, 750 triệu mét vải. Giá trị xuất khẩu sang Thái Lan khoảng 20 triệu USD vào năm 2005. Than đá Hơn 2 triệu USD mỗi năm thu được từ xuất khẩu than đá sang Thái Lan là một con số rất khiêm tốn so với trữ lượng và khả năng khai thác của Việt Nam. Việt Nam vốn có một trữ lượng than đá rất lớn hàng năm khai thác được một khối lượng rất cao, chất lượng cũng thuộc loại cao nhưng mặt hàng này còn bị ép giá, ép cấp. Hơn nữa cũng chưa khai thác được thị trường Thái Lan và thị trường thế giới. Trong thời gian tới cố gắng thâm nhập vào thị trường Thái Lan. 2.2 Định hướng về đầu tư trực tiếp từ Thái Lan Với một tiềm lực mạnh và cơ cấu kinh tế đa dạng, Thái Lan có đầu tư vào hầu hết các lĩnh vực của nền kinh tế Việt Nam. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm thu hút vốn đầu tư của các nước Đông Nam á cho thấy không phải bất cứ lĩnh vực nào cũng được Thái Lan quan tâm đầu tư. Xuất phát từ thực tiễn nhu cầu và thế mạnh trong từng lĩnh vực của Thái Lan có thể dự báo như sau: * Đầu tư trong lĩnh vực công nghiệp (chế biến rộng, hải sản, sản xuất nguyên vật liệu xây dựng, khai thác đá quý....). Đây là những lĩnh vực mà Thái Lan quan tâm đầu tư nhất bởi những lĩnh vực này Thái Lan có kinh nghiệm và thế mạnh riêng của mình. Trong lĩch vực này từ trước tới nay đã có 43 dự án với tỷ trọng 46,7%. Đã có một số liên doanh đi vào hoạt động có hiệu quả cao nên trong những năm tới Thái Lan vẫn tiếp tục đầu tư mạnh vào lĩnh vực này. * Đầu tư trong lĩnh vực khách sạn du lịch. Đây cũng là một lĩnh vực được nhiều nhà đầu tư Thái Lan quan tâm vì Thái Lan là một nước có ngành du lịch và khách sạn rất phát triển. Thời gian vừa qua lĩnh vực này chiếm tỷ trọng tương đối cao (25%). Đã có nhiều khách sạn Thái Lan mọc lên ở Hà Nội và Thành phố Hồ Chí Minh. Trong những năm tới sẽ hoàn thành công trình khách sạn 5 sao ở Hà Nội và trung tâm thương mại cuả SAS. Ngoài ra, Thái Lan đang chú trọng đầu tư vào xây dựng cơ sở hạ tầng công nghiệp. * Đầu tư trong lĩnh vực ngân hàng. Sau khủng hoảng tài chính- tiền tệ khu vực Đông Nam á năm 1997 đầu tư vào lĩnh vực ngân hàng của Thái Lan sang Việt Nam giảm sút nhưng sang năm 1999 kinh tế Thái Lan đã phục hồi, nên trong thời gian tới, Thái Lan sẽ tiếp tục đầu tư vào lĩnh vực này. II. Một số giải pháp nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Thái Lan Từ việc phân tích trên chúng ta thấy tiềm năng phát triển kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và Thái Lan là rất to lớn. Để quan hệ kinh tế thương mại hai nước ngày càng phát triển thì trong thời gian tới Việt Nam cần có những giải pháp để mở rộng và nâng cao hiệu quả quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và Thái Lan. Các giải pháp này không chỉ ở Nhà nước mà các doanh nghiệp cũng cần có chiến lược thích hợp để thâm nhập thị trường Thái Lan. Trong quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Thái Lan, vai trò Nhà nước rất quan trọng, là yếu tố tích cực thúc đẩy quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam -Thái Lan phát triển. Nhờ những sự kiện ngoại giao cùng với điều kiện ổn định chính trị, kinh tế - xã hội trong nước đã tạo điều kiện cho quan hệ Việt Nam - Thái Lan có những bước tiến mới. Phía Việt Nam đã tạo được môi trường kinh doanh thuận lợi cho cả doanh nghiệp trong và ngoài nước. Vấn đề quan trọng hàng đầu là hai nước cần làm thế nào để khai thác các tiềm năng, thúc đẩy hơn nữa quan hệ buôn bán giữa Việt Nam và Thái Lan. - Trước hết cả hai bên phải có kế hoạch toàn diện và đồng bộ về buôn bán hai chiều trong bối cảnh mới của tự do hoá thương mại khu vực và những biến đổi trong nền kinh tế của mỗi nước. Những thoả thuận ở cấp Chính phủ cả đối với các mặt hàng cạnh tranh trên thị trường thế giới sẽ giúp cho các doanh nghiệp của cả hai bên mở rộng các hoạt động kinh doanh buôn bán. - Cần gắn thương mại với đầu tư. Nguồn nguyên liệu và lao động dồi dào phong phú của Việt Nam nếu được kết hợp với vốn và công nghệ của Thái Lan sẽ tạo ra nguồn hàng xuất khẩu lớn, đặc biệt là hàng nông sản, theo quy chế của ASEAN các mặt hàng nông sản chưa qua chế biến chưa được đưa vào danh mục của CEPT trong khi chế biến nông sản của Việt Nam rất hạn chế. Vì vậy, hợp tác đầu tư trong việc chế biến nông sản góp phần tăng nguồn hàng xuất khẩu của Việt Nam sang thị trường khu vực. Đối chiếu nhiều ngành hàng như các ngành công nghiệp lắp ráp, công nghiệp dệt và may mặc cũng cần được hợp tác theo hướng đó. - Có thể thành lập các hội xuất khẩu của hai nước về những ngành mà cả hai nước có thế mạnh xuất khẩu. Điều này sẽ làm giảm những bất lợi do cạnh tranh giữa các nhà xuất khẩu của hai nước gây ra, đồng thời tăng khả năng thâm nhập thị trường thế giới về những mặt hàng này chẳng hạn như mặt hàng gạo. - Việt Nam nên tranh thủ sự giúp đỡ của Thái Lan trong những lĩnh vực mà Thái Lan rất có kinh nghiệm như tiếp thị các nghiệp vụ thương mại quốc tế, tổ chức hoạt động xuất nhập khẩu. Việc này không chỉ giúp cho các nhà doanh nghiệp Việt Nam vươn lên trình độ quốc tế mà còn giúp cho chính các nhà doanh nghiệp Thái Lan đang có quan hệ buôn bán với Việt Nam. Trong điều kiện thực tế hiện nay của quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam - Thái Lan thì ngoài những vấn đề trên Nhà nước và các doanh nghiệp của chúng ta cần có những biện pháp cụ thể như sau: 1. Hoàn thiện hành lang pháp lý Việt Nam mới chuyển sang nền kinh tế thị trường, do vậy hệ thống pháp luật chưa đầy đủ và thiều tính đồng bộ, phong cách làm việc quan liêu cửa quyền, các thủ tục rườm rà làm phiền hà cho các doanh nghiệp trong nước và các công ty nước ngoài. Vấn đề này gây bất bình trong giới doanh nghiệp nhất là các doanh nghiệp nước ngoài đang kinh doanh tại Việt Nam. Những mục tiêu trước mắt để thúc đẩy hơn nữa quan hệ kinh tế đối ngoại giữa Việt Nam và Thái Lan là tạo điều kiện để các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu hàng hoá của mình sang thị trường Thái Lan và thu hút nhiều vốn FDI của các công ty Thái Lan. Nhà nước Việt Nam cần phải rà soát lại hệ thống pháp luật để điều chỉnh các quy định không còn phù hợp hoặc chưa minh bạch, trước hết là Luật Thương mại, Luật Đầu tư nước ngoài và Luật Khuyến khích Đầu tư trong nước. Về Luật Thương mại: - Cần mở rộng phạm vi điều chỉnh cho phù hợp với các quy định của WTO; - Cần quy định chặt chẽ và cụ thể hơn về mọi hoạt động thương mại và liên quan đến thương mại cho phù hợp với xu hướng mở cửa thị trường và xu hướng hội nhập để khuyến khích sản xuất và xuất khẩu. Về Luật Đầu tư nước ngoài: - Cần đưa thêm các quy định để đảm bảo nguyên tắc đối xử quốc gia (national treatment) trong các lĩnh vực như các biện pháp về đầu tư có liên quan đến thương mại (TRIMs), dịch vụ; - Cần mở cửa hơn, nhìn vào lâu dài hơn thì mới thu hút được đầu tư. Về Luật khuyến khích Đầu tư trong nước: Cần quy định lại rõ hơn về ngành nghề khuyến kích đầu tư để phân biệt rõ ràng giữa “thay thế nhập khẩu” và “định hướng xuất khẩu”. Có lộ trình thống nhất hai luật đầu tư này thành một bộ luật chung về khuyến khích đầu tư. 2. Cải cách thủ tục hành chính Về lâu dài, việc cải cách thủ tục hành chính ở Việt Nam cũng cần thực hiện một cách khẩn trương để tạo động lực thúc đẩy tăng trưởng nền kinh tế đất nước và tham gia có hiệu quả các liên kết kinh tế quốc tế. Hệ thống thủ tục giấy tờ trong giao dịch càng được thay đổi theo hướng tinh giảm, giảm bớt tình trạng nhiều cửa trong giao dịch và có quá nhiều giấy tờ trong xử lý các vụ việc. Tình trạng thiếu trách nhiệm trong việc giải quyết các công việc cũng cần có sự chấn chỉnh hợp lý nhất là chuyển từ cơ chế “Xin - cho” sang cơ chế “đăng ký trong môi trường hoạt động kinh doanh ”. Phấn đấu ổn tạo tâm lý tin tưởng cho các doanh nghiệp, khuyến khích họ chấp nhận bỏ vốn đầu tư lâu dài. Phấn đấu làm cho chính sách thuế, đặc biệt là cho chính sách thuế xuất nhập khẩu có định hướng nhất quán để không gây khó khăn cho doanh nghiệp trong tính toán hiệu quả kinh doanh. Giảm dần, tiến tới ngừng áp dụng các lệnh cấm, lệnh ngừng nhập khẩu tạm thời. Tăng cường tính đồng bộ của cơ chế chính sách; áp dụng thí điểm mô hình liên kết 4 bên trong xây dựng các đề án phát triển sản xuất và xuất khẩu (doanh nghiệp liên kết với các trường, viện nghiên cứu, các tổ chức tài chính và các cơ quan quản lý nhà nước). 3. Nâng cấp cơ sở hạ tầng Cùng với các thủ tục hành chính rườm rà, hệ thống luật pháp thiếu đồng bộ thì tình trạng cơ sở hạ tầng không đáp ứng được những yêu cầu của môi trường kinh doanh hiện đại cũng gây nhiều khó khăn cho các công ty nước ngoài hoạt động tại Việt Nam. Vì vậy, chúng ta cần nâng cấp cơ sở hạ tầng để phát triển quan hệ kinh tế quốc tế như: nâng cấp hải cảng, sân bay, hoàn thiện hệ thống thông tin, liên lạc, nhất là việc nối mạng Internet. 4. Sửa đổi, hoàn thiện chính sách thuế Thuế là công cụ hữu hiệu điều tiết nền kinh tế. Một hệ thống thuế minh bạch, cụ thể sẽ góp phần ổn định, phát triển kinh tế. Vì vậy để nâng cao hiệu quả kinh doanh xuất nhập khẩu cũng như tạo điều kiện kinh doanh cho các tổ chức tín dụng cần sửa đổi, bổ sung thuế theo hướng sau: - Tăng cường sử dụng các công cụ phi thuế ‘hợp lệ’ như hàng rào kỹ thuật, hạn ngạch, thuế quan, thuế tuyệt đối, thuế mùa vụ, thuế chống bán phá giá, thuế chống trợ cấp. Giảm dần tỷ trọng của thuế nhập khẩu trong cơ cấu nguồn thu ngân sách. Khắc phục triệt để những bất hợp lý trong chính sách bảo hộ, cân đối lại đối tượng bảo hộ theo hướng chú trọng bảo hộ nông sản. Sửa đổi biểu thuế và cải cách công tác thu thuế để giảm dần, tiến tới xoá bỏ chế độ tính thuế theo giá tối thiểu. Với phương thức quản lý nhập khẩu hợp lý, chúng ta có thể đẩy mạnh nhập khẩu công nghệ nguồn từ các nước công nghiệp tiên tiến. - Chính sách thuế đối với tổ chức tín dụng phải được sửa đổi, bãi bỏ thuế giá trị gia tăng đối với hoạt động kinh doanh ngoại hối, dịch vụ thanh toán, bỏ thuế thu nhập bổ sung cho các tổ chức tín dụng; có như vậy các tổ chức tín dụng mới có lãi để đầu tư vào việc đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ nhân viên, cập nhật phương tiện, khoa học hiện đại (thương mại điện tử ), kịp hoà nhập với ngân hàng khu vực và thế giới. 5. Quản lý và điều hành tỷ giá hối đoái Những năm tháng gần đây đồng nội tệ đã dần dần khẳng định sự ổn định trong sức mua đối nội, tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam hiện đang có lợi cho hoạt động xuất khẩu. Tuy nhiên việc tỷ giá tăng là do cầu ngoại tệ của ta lớn hơn thực tế một cách giả tạo trong khi chúng ta vẫn duy trì khá lâu lãi suất ngoại tệ tương đối cao và giảm mạnh lãi suất nội tệ cùng với rất nhiều kênh tín dụng ưu đãi bằng đồng nội tệ để kích cầu. Vấn đề tỷ giá bây giờ không còn là vấn đề sách lược mà là vấn đề chiến lược cấp bách. Vì vậy, về phía các ngân hàng, cần có những chính sách quản lý tiền tệ hợp lý hơn như: - Kiểm soát chặt chẽ tiến tới triệt tiêu hoàn toàn chức năng làm phương tiện lưu thông của ngoại tệ trên lãnh thổ đất nước góp phần xác định “cầu” thực về ngoại tệ trên lãnh thổ qua từng thời điểm vận động của nền kinh tế. - Vận dụng quy luật tiền tệ để tác động trực tiếp vào mối quan hệ giữa lãi suất đồng nội tệ với lãi suất đồng ngoại tệ theo hướng ưu tiên sự tôn trọng tính ổn định giá trị của đồng nội tệ. - Cơ chế xác định và công bố tỷ giá của Ngân hàng Trung ương được thực hiện theo phương pháp gắn với thị trường ngoại tệ như hiện nay nói chung là tốt. Tuy nhiên cần bổ sung thêm các thành viên tham gia vào thị trường ngoại tệ vào việc tính tỷ giá bình quân cuối giờ ngày hôm trước và mở rộng biên độ cho phép từ 0,1 lên 0,3%. 6. Hỗ trợ tín dụng cho doanh nghiệp xuất khẩu Đại bộ phận các doanh nghiệp sản xuất và kinh doanh hàng xuất khẩu của Việt Nam sang Thái Lan đều có quy mô vừa và nhỏ, nên khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu không cao; vì thế để đẩy mạnh, mở rộng quy mô và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường này, Nhà nước cần có sự hỗ trợ các doanh nghiệp về vốn thông qua hệ thống ngân hàng. Để triển khai hoạt động hỗ trợ này, Nhà nước Việt Nam nên thực hiện các biện pháp sau đây: Sử dụng có hiệu quả quỹ hỗ trợ xuất khẩu để các doanh nghiệp được vay vốn với lãi suất thấp, giải quyết được khó khăn về vốn lưu động và vốn đầu tư đổi mới trang thiết bị. Bảo lãnh tín dụng xuất khẩu, tạo điều kiện cho doanh nghiệp thâm nhập được thị trường. Đảm bảo sự bình đẳng thực sự trong quan hệ tín dụng ngân hàng trên cơ sở pháp luật giữa các thành phần kinh tế (hiện nay các doanh nghiệp vừa và nhỏ thuộc khu vực tư nhân không được lấy giá trị quyền sử dụng đất đai để thế chấp khi vay vốn). Mở rộng khả năng tiếp cận nguồn tín dụng từ các ngân hàng cũng như các định chế tài chính. Đơn giản hoá thủ tục vay vốn và yêu cầu thế chấp tài sản của ngân hàng và các tổ chức tín dụng. - Xúc tiến thành lập ngân hàng chuyên doanh của khu vực doanh nghiệp vừa và nhỏ, thu hút sự tham gia của các doanh nghiệp kể cả doanh nghiệp lớn với sự hỗ trợ của Nhà nước và các tổ chức quốc tế. - Mở rộng khả năng tiếp cận các nguồn vốn cho doanh nghiệp vừa và nhỏ. Nhà nước cần thành lập Quỹ bảo lãnh tín dụng. Quỹ này thực hiện bảo lãnh cho các doanh nghiệp có khả năng phát triển nhưng không có đủ tài sản để thế chấp vay vốn. Quỹ được thành lập dưới hình thức là một tổ chức tài chính của Nhà nước, hoạt động không vì mục tiêu lợi nhuận, cho phép các doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả được vay vốn theo phương thức tự vay, tự trả. - Thực hiện lãi suất ưu đãi cho doanh nghiệp vừa và nhỏ sản xuất, kinh doanh xuất khẩu có hiệu quả, sản xuất sản phẩm mới hoặc nghiên cứu ứng dụng khoa học công nghệ mới. - Thông qua ngân hàng, linh hoạt hạ mức lãi suất chiết khấu để đẩy mạnh xuất khẩu sang Thái Lan cũng như sang thị trường khác . Ngân hàng thực hiện chiết khấu các kỳ phiếu và hối phiếu chưa đến hạn thanh toán trong trường hợp các doanh nghiệp Việt Nam xuất khẩu mà bị thiếu vốn . Nếu lãi suất chiết khấu hạ thì giá hàng hoá xuất khẩu cũng hạ, do đó khả năng cạnh tranh của hàng xuất khẩu VN tăng lên và chúng ta mở rộng được xuất khẩu. 7. Phát triển các ngành hàng xuất khẩu chủ lực Nhà nước cần có chính sách cụ thể để phát triển các ngành hàng xuất khẩu chủ lực. Thông qua sự hỗ trợ về vốn, ưu đãi về thuế và tạo điều kiện thuận lợi trong sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, Việt Nam có thể phát triển được nền sản xuất nội địa, đồng thời nâng cao được khả năng cạnh tranh của hàng hoá và doanh nghiệp Việt Nam trên thị trường Thái Lan. Đối với một số mặt hàng nông sản có khả năng xuất khẩu sang thị trường Thái Lan như cà phê, rau, quả,v.v... Nhà nước cần xây dựng quy hoạch, chọn lựa và có chính sách cụ thể khuyến khích đầu tư vốn tạo ra các vùng sản xuất chuyên canh ứng dụng các kỹ thuật tiên tiến, công nghệ sau thu hoạch để đảm bảo sản phẩm làm ra có năng suất cao, chất lượng tốt, đồng đều, giá thành hạ và khối lượng lớn. Việc tạo ra vùng sản xuất chuyên canh cho xuất khẩu sẽ giúp cho công tác quản lý chất lượng được thực hiện tốt từ khâu tuyển chọn giống, kỹ thuật thâm canh, chăm sóc đến lựa chọn, đảm bảo chất lượng, khắc phục được tình trạng chất lượng kém, không ổn định và nguồn cung cấp nhỏ. Với chính sách này hàng nông sản của ta có thể xâm nhập được thị trường. Chúng ta đang thực hiện tiến trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá và phương hướng đến năm 2020 Việt Nam sẽ trở thành nước công nghiệp. Như vậy, 10-20 năm tới cơ cấu hàng xuất khẩu Việt Nam sẽ chuyển mạnh theo hướng: tăng nhanh tỷ trọng hàng chế biến, chế tạo và giảm mạnh tỷ trọng hàng nguyên liệu thô. Để có cơ cấu hàng xuất khẩu như trên trong tương lai, nhà nước cần có một chính sách cụ thể khuyến khích các doanh nghiệp thuộc các ngành công nghiệp chế biến và chế tạo (thực phẩm chế biến, đồ điện, điện tử gia dụng, điện tử- tin học (phần mềm), công nghệ viễn thông,v.v. đầu tư theo chiều sâu để nâng cao chất lượng, giá trị gia tăng và tính độc đáo của sản phẩm, đa dạng hoá mặt hàng nhằm tăng nhanh khối lượng và nâng cao hiệu quả xuất khẩu sang thị trường Thái Lan. Riêng đối với các doanh nghiệp lớn của nhà nước thuộc ngành điện tử-tin học, công nghệ viễn thông,v.v. (các ngành công nghiệp có hàm lượng công nghệ cao), nhà nước cần có sự hỗ trợ về vốn và khuyến khích họ tập trung cho nghiên cứu cơ bản để tạo ra các sản phẩm công nghệ cao. Đối tượng áp dụng của chính sách là những doanh nghiệp chế biến và chế tạo có uy tín trên trường quốc tế. Cà phê Cà phê là nhóm hàng có kim ngạch xuất khẩu lớn thứ ba của VN sang thị trường Thái Lan, nhưng hiện nay xuất khẩu mặt hàng này vào thị trường Thái Lan đang có xu hướng chững lại. Nguyên nhân là do sản lượng cà phê thế giới tăng do được mùa, giá cả hạ, chất lượng cà phê của ta lại chưa tốt và chưa ổn định. Để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu nhóm hàng này sang Thái Lan, ta cần phải có chính sách phát triển những vùng trồng chuyên canh để đảm bảo nguồn sản lượng ổn định và chú trọng đầu tư công nghệ sau thu hoạch để nâng cao chất lượng và giá trị gia tăng của sản phẩm: - Đầu tư đổi mới công nghệ chế biến để nâng cao tỷ trọng cà phê cấp độ cao vì loại cà phê này được thị trường Thái Lan ưa chuộng hơn và có khuynh hướng tiêu dùng tăng, hơn nữa xuất khẩu loại này thu được lợi nhuận cao hơn; - Đổi mới tiêu chuẩn chất lượng và hoàn thiện công tác quản lý, kiểm tra chất lượng để vừa nâng cao uy tín cà phê Việt Nam trên thị trường Thái Lan, vừa góp phần tăng thêm kim ngạch xuất khẩu; - Nâng cao vai trò của Hiệp hội Cà phê Việt Nam; Có chính sách đúng đắn trong thu hút đầu tư nước ngoài vào lĩnh vực chế biến cà phê. Gạo Mặc dù đây là mặt hàng chủ lực của Thái Lan song gạo Việt Nam vẫn được xuất sang Thái Lan nhờ giá cả hợp lý. Hàng năm Thái Lan nhập khẩu gạo từ Việt Nam với giá trị khoảng 17 triệu USD. Con số này còn rất khiêm tốn so với số lượng gạo xuất khẩu hàng năm của Việt Nam. Để xuất khẩu gạo được cho Thái Lan (nơi được coi là vựa lúa Đông á) thì Việt Nam cần xây dựng được mối quan hệ lâu dài với các bạn hàng bằng cách ký các hợp đồng dài hạn hay thành lập liên doanh sản xuất chế biến gạo để xuất khẩu. Gạo xuất khẩu của Thái Lan có chất lượng rất cao nên gạo nhập khẩu từ Việt Nam chủ yếu qua chế biến để tái xuất. Việt Nam muốn xuất khẩu gạo sang Thái Lan nhiều hơn phải chú ý trước hết tới giá cả và chất lượng. Hàng thuỷ sản Tuy kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản của Việt Nam sang Thái Lan tăng khá nhanh trong vài năm gần đây, nhưng tốc độ tăng trưởng không ổn định và còn cách xa tiềm năng xuất khẩu của ta. Nguyên nhân là do nguồn nguyên liệu chưa ổn định, hàng thuỷ hải sản chưa đáp ứng tốt tiêu chuẩn chất lượng và vệ sinh thực phẩm. Thời gian qua ta chủ yếu xuất nguyên liệu và sản phẩm sơ chế nên hiệu quả xuất khẩu còn thấp. Cần phải có các biện pháp khắc phục thực trạng này để đẩy mạnh xuất khẩu thuỷ hải sản vào thị trường Thái Lan. - Cần thành lập một hiệp hội các nhà sản xuất quốc tế để kiểm soát cung cầu thị trường. - Nên thành lập một tổ chức bán hàng duy nhất. Tổ chức này đại diện cho cả quốc gia, bán hàng cho tất cả các nhà xuất khẩu với mục đích thống nhất giá để tránh tình trạng phá giá. - Cổ phần hoá các doanh nghiệp chế biến thuỷ sản xuất khẩu để thu hút vốn, nâng cao hiệu quả đầu tư và hiệu quả sản xuất kinh doanh, phát huy tính năng động trong việc đa dạng hoá sản phẩm và tìm hiểu thị trường tiêu thụ; - Tăng cường công tác tiếp thị để nắm bắt kịp thời những thay đổi về sở thích tiêu dùng trên thị trường Thái Lan nhằm cung cấp đúng những sản phẩm theo các tiêu chuẩn mà thị trường này có nhu cầu tại các thời điểm trong năm. - Các cơ sở ngành cần phải phát huy nội lực, tiếp tục xây dựng và phát triển công nghệ truyền thống nhằm tăng lượng thuỷ sản đã qua chế biến hoặc bảo quản tươi để phục vụ cho xuất khẩu và tiêu thụ trong nước.Về lâu dài cần phải đầu tư trang thiết bị, phương tiện bảo quản và phương tiện chế biến hiện đại để mang lại hiệu quả tốt như: máy sấy tôm cá, kho trữ lạnh mini. Ngoài ra, để tăng kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này còn phải chú ý cải tiến kiểu dáng, mẫu mã bao bì, thương hiệu...Doanh nghiệp nên linh động với bất cứ mức giá nào. Thời gian tới, chúng ta cần phải chú trọng phát triển mặt hàng cá xuất khẩu. Hiện nay, chúng ta chủ yếu xuất khẩu tôm, trong khi đó nhu cầu về cá trên thị trường rất lớn mà vẫn chưa khai thác được vì từ trước tới nay ta thường đánh bắt cá bằng thủ công, bảo quản không tốt, chất lượng kém nên bạn hàng ít mua. Để khắc phục tình trạng này, chúng ta phải đánh cá xa bờ và dùng phương tiện đánh bắt và bảo quản hiện đại thì mới đảm bảo chất lượng, đáp ứng được yêu cầu của người tiêu dùng. Rau quả Việt Nam cần khai thác mạnh hơn nữa ưu điểm của một nước vùng nhiệt đới rất phù hợp cho việc phát triển các loaị rau quả có chất lượng cao. Hàng năm giá trị kim ngạch xuất khẩu mặt hàng này sang thị trường Thái Lan cũng chiếm từ 1,5 - 1,8 triệu USD. Mặt hàng này của Việt Nam có chất lượng khá tốt giá cả phải chăng nên rất được ưa chuộng tại thị trường Thái Lan và thị trường Thế giới. Hiện nay, số lượng rau quả chủ yếu là do sản xuất từ người dân nên không đồng bộ về chất lượng, chủng loại và thời gian. Khó có thể tập trung trong một khoảng thời gian ngắn, điều đó đã làm giảm đi rất nhiều giá trị kim ngạch xuất khẩu nên chúng ta cần phải có biện pháp để nâng cao sức cạnh tranh trên thị trường Thái Lan và thị trường Thế giới. Như: - Cần phải áp dụng công nghệ sản xuất túi, bao bì, thùng đựng trái... nhằm nâng cao chất lượng và cả hình thức mẫu mã, đảm bảo cho việc vận chuyển xa, đáp ứng thị hiếu trong nước và xuất khẩu. - Cần phải tăng cường các biện pháp khuyến nông , phổ biến khoa học kỹ thuật, hỗ trợ vốn cho nông dân, tuyên truyền sâu rộng quy trình sản xuất sạch, không dùng phân bón hoá học, thuốc trừ sâu, thuốc diệt cỏ nhằm tăng tỷ trọng các sản phẩm nông sản sạch, nâng cao giá bán sản phẩm và mở rộng thị trường tiêu thụ.Vì tại Châu á, ngoài Nhật Bản, hiện nay thị trường một số nước trong khu vực như Đài Loan, Singapore, Thái Lan...cũng bắt đầu đòi hỏi nông sản sạch. Hàng dệt may Thái Lan là một thị trường với quần áo thuộc loại mốt nhất thế giới, loại hàng này rất phong phú về số lượng, chủng loại cũng như mẫu mã song Việt Nam vẫn xuất khẩu được sang thị trường này do giá rẻ bởi giá nhân công rẻ. Hàng may mặc Việt Nam và hàng tơ tằm, một loại hàng đặc biệt của Việt Nam xuất khẩu sang thị trường Thái Lan có giá trị khoảng 2 triệu USD/ năm so với tổng giá trị xuất khẩu loại hàng này là 1 tỷ USD thì còn quá nhỏ bé, chưa thực sự khai thác được thị trường Thái Lan. Hàng dệt may Việt Nam chủ yếu là hàng gia công và phải sử dụng nguyên liệu phụ nên gây ra những bất lợi như giá thành phải tăng lên cao. Hiện nay, mặt hàng này của ta đang phải cạnh tranh rất gay gắt với sản phẩm của Trung Quốc và Indonesia. Do đó, khả năng xuất khẩu trực tiếp hàng dệt may sang Thái Lan là rất khó khăn. Để khắc phục tình trạng này, duy trì chỗ đứng hiện có và mở ra triển vọng phát triển trên thị trường này, Nhà nước Việt Nam cần phải thực hiện một số biện pháp sau: - Đổi mới phương thức quản lý hạn ngạch, điều chỉnh lại cơ chế phân bổ hạn ngạch để thúc đẩy các doanh nghiệp sử dụng nhiều hơn nữa nguyên liệu sản xuất trong nước, biện pháp đấu thầu hạn ngạch chưa phải là biện pháp tốt nhất; - Các doanh nghiệp cần nghiên cứu biện pháp chuyển dần sang phương thức bán trực tiếp để thu được hiệu quả cao hơn và ổn định hơn, và phải có những nỗ lực cần thiết để nâng cao và ổn định chất lượng sản phẩm, đa dạng hoá mẫu mã, tăng nhanh tỷ trọng xuất khẩu trực tiếp theo hướng mua nguyên liệu- bán thành phẩm và xuất khẩu sản phẩm có tỷ lệ nội địa hoá cao, giảm tỷ trọng gia công và xuất khẩu qua nước thứ ba, từng bước tạo lập tên tuổi và khẳng định uy tín của sản phẩm trên thị trường Thái Lan, hợp lý hoá quy trình sản xuất kinh doanh theo hướng giảm chi phí và nâng cao hiệu quả. Hàng điện tử- tin học Đây là hàng mới, có triển vọng xuất khẩu sang Thái Lan. Hiện nay, chúng ta chủ yếu nhập linh kiện về lắp ráp và xuất khẩu. Vì vậy, hiệu quả xuất khẩu thấp. Do đó, để đẩy mạnh và nâng cao hiệu quả xuất khẩu mặt hàng này, ta phải tăng tỷ lệ nội địa hoá của sản phẩm. Theo dự báo của các chuyên gia kinh tế, nhu cầu hàng điện tử- tin học trên thị trường thế giới sẽ hồi phục và phát triển mạnh trong giai đoạn 2001-2010. Đây là một thuận lợi cho ngành điện tử- tin học Việt Nam và cho xuất khẩu hàng điện tử- tin học của ta sang thị trường Thái Lan trong giai đoạn tới. 8. Gắn nhập khẩu công nghệ với xuất khẩu Máy móc thiết bị tốt sẽ sản xuất ra hàng hoá chất lượng cao, cạnh tranh được trên thị trường. Trong buôn bán với Thái Lan, chúng ta nhập siêu khá lớn. Nếu chúng ta tăng cường nhập khẩu công nghệ nguồn từ Thái Lan phục vụ cho sản xuất hàng xuất khẩu giúp thay đổi cơ cấu hàng xuất khẩu nâng cao khả năng cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nói chung, sang thị trường Thái Lan nói riêng, thì sẽ cải thiện đuợc cán cân thương mại. Đây sẽ là một phương pháp hữu hiệu hỗ trợ và đẩy mạnh xuất khẩu. Nhập khẩu công nghệ nguồn từ Thái Lan có thể được thực hiện bằng hai biện pháp sau đây: (1) Đầu tư của Chính phủ; (2) Thu hút các nhà đầu tư Thái Lan tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam. “Đầu tư của Chính phủ” là biện pháp ưu việt để nhập khẩu được công nghệ hiện đại một cách nhanh nhất và đúng theo yêu cầu đặt ra. Nhưng đây không phải là biện pháp tối ưu đối với chúng ta hiện nay vì Việt Nam là nước nghèo nên kinh phí dành cho đầu tư của chính phủ còn rất hạn hẹp và chỉ ưu tiên cho những ngành trọng điểm của đất nước. Đó chính là mặt hạn chế của biện pháp này. “Thu hút các nhà đầu tư Thái Lan tham gia vào quá trình sản xuất hàng xuất khẩu tại Việt Nam” là biện pháp tối ưu để Việt Nam nhập khẩu được công nghệ nguồn từ Thái Lan và sử dụng công nghệ này đạt hiệu quả cao trong điều kiện chúng ta rất thiếu vốn và trình độ hiểu biết còn hạn chế. Để thực hiện được biện pháp này, Nhà nước Việt Nam cần phải có những ưu đãi dành riêng cho các nhà đầu tư Thái Lan ngoài những ưu đãi và quyền lợi mà họ sẽ được hưởng theo luật đầu tư nước ngoài của Việt Nam như các nhà đầu tư thuộc các khu vực khác. Những ưu đãi này có thể là những ưu đãi về thuế nhập khẩu công nghệ nguồn từ Thái Lan, thuế suất lợi tức, thuế chuyển lợi nhuận. Thực hiện biện pháp này, Việt Nam vừa thu hút được công nghệ nguồn từ Thái Lan lại vừa nâng cao và tiêu chuẩn hoá chất lượng hàng xuất khẩu sang thị trường Thế giới nói chung và sang thị trường Thái Lan nói riêng. Với sự góp mặt của các nhà đầu tư Thái Lan trong quá trình sản xuất hàng xuất khẩu, chắc chắn hàng thuỷ sản Việt Nam sẽ đạt tiêu chuẩn HACCP vì họ có kinh nghiệm trong lĩnh vực này. Hàng Việt Nam sẽ có thể đáp ứng tốt nhất các yêu cầu của các thị trường trên thế giới, kể cả thị trường khó tính nhất về chất lượng, vệ sinh, bảo vệ môi trường, kiểu dáng đẹp và chủng loại phong phú. Nếu thực hiện được biện pháp này thì số doanh nghiệp có vốn đầu tư của Thái Lan tại Việt Nam sẽ tăng lên rất nhanh. 9. Đẩy mạnh công tác xúc tiến xuất khẩu sang thị trường Thái Lan Cần tăng cường thông tin cho các doanh nghiệp thông qua khảo sát thị trường trực tiếp hoặc qua các hình thức Marketing khác nhau. Sự hiểu biết và tin cậy lẫn nhau giữa các đồng doanh nghiệp của hai nước là một yếu tố hết sức quan trọng để thúc đẩy buôn bán giữa hai nước. Thái Lan là thị trường xuất khẩu tiềm năng đối với chúng ta.Thế nhưng, cho đến nay hàng Việt Nam vào Thái Lan mới chỉ chiếm một thị phần rất nhỏ trên thị trường này. Ngoài nguyên nhân là khả năng cạnh tranh của hàng hoá Việt Nam chưa cao, còn phải kể tới một nguyên nhân quan trọng là công tác xúc tiến xuất khẩu của ta còn yếu chưa hỗ trợ nhiều cho các doanh nghiệp trong việc thâm nhập và chiếm lĩnh thị trường Thái Lan. Cơ hội mở rộng thị trường xuất khẩu của hàng hoá VN tại Thái Lan là rất lớn, thế nhưng tại thời điểm này do có những hạn chế nhất định (chất lượng còn kém, chủng loại và kiểu dáng đơn điệu,...) nên hàng của ta chỉ có thể thâm nhập được vào thị trường này một cách suôn sẻ nếu như chúng ta có hoạt động xúc tiến xuất khẩu mạnh. Hoạt động xúc tiến xuất khẩu của các doanh nghiệp Việt Nam còn yếu do nhiều doanh nghiệp còn chưa coi trọng công tác xúc tiến xuất khẩu. Một số doanh nghiệp chú trọng tới công tác này, nhưng nguồn kinh phí còn hạn chế do khả năng tài chính hạn hẹp. Một số doanh nghiệp khác thì đầu tư khá lớn cho hoạt động này, nhưng hiệu quả thu được còn thấp, nguyên nhân là do thiếu thông tin và kinh nghiệm. Do vậy, Nhà nước cần tài trợ một phần kinh phí và hỗ trợ trong công tác xúc tiến xuất khẩu để giúp cho các doanh nghiệp có thể tiếp cận, xâm nhập dễ dàng và đứng vững trên thị trường Thái Lan. Để hỗ trợ cho các doanh nghiệp và hàng hoá Việt Nam thâm nhập dễ dàng và có chỗ đứng vững chắc trên thị trường Thái Lan, Nhà nước nên thực hiện một số hoạt động trợ giúp sau: - Đẩy mạnh xây dựng chiến lược phát triển thị trường Thái Lan thông qua việc đàm phán, ký kết các Hiệp định, thoả thuận thương mại nhằm tạo ra các tiền đề, hành lang pháp lý thuận lợi để đẩy mạnh xuất khẩu. - Thảo luận ở cấp Chính phủ về mở cửa thị trường, trước hết là đối với những mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam. - Thành lập tổ tư vấn cấp cao của Bộ Thương mại hai Chính phủ nhằm tìm hiểu những vấn đề pháp lý còn thiếu cho doanh nghiệp hai bên. Cập nhật thường xuyên thông tin về thị trường để thông báo cho doanh nghiệp. Điều chỉnh hoặc khắc phục những vướng mắc cho các doanh nghiệp khi thực hiện dịch vụ kinh doanh. Giúp các doanh nghiệp tìm những đối tác trực tiếp, tin cậy lâu dài. - Nhà nước Việt Nam cần có chính sách hỗ trợ các doanh nghiệp tham gia hội chợ, triển lãm hoặc hội thảo chuyên đề thị trường, giúp các doanh nghiệp trực tiếp tiếp cận thị trường, trực tiếp tìm hiểu nhu cầu thị hiếu của thị trường và trực tiếp giao dịch với các nhà nhập khẩu chính của thị trường Thái Lan. - Cho phép thành lập một Trung tâm xúc tiến thương mại VN tại Thái Lan để hỗ trợ xuất khẩu cho các doanh nghiệp. Việc làm này có thể thu hút được các doanh nghiệp và cộng đồng người Việt thuê diện tích tại trung tâm để giới thiệu sản phẩm, bán hàng, giao dịch mua hàng của Thái Lan, tạo đầu mối, xúc tiến cho các doanh nghiệp trong nước triển khai quan hệ buôn bán với các bạn hàng Thái Lan. - Mở rộng hình thức chợ xúc tiến xuất khẩu đối với các mặt hàng xuất khẩu chủ lực. Hiện nay ở Việt Nam mới có chợ xúc tiến nông sản xuất khẩu. Chợ có sự tham gia của các nhà kinh doanh, các nhà sản xuất, các ngân hàng, các công ty giao nhận, các hãng bảo hiểm, các cơ quan giám định. Hàng ngày chợ cung cấp thông tin miễn phí về giá cả, sản lượng nông sản trên thế giới. Tại đây còn được xem truyền hình trực tiếp thị trường mua bán nông sản hạn ngạch ở London và New York. Chợ còn cung cấp các thông tin bằng fax và email theo yêu cầu. Nếu các mặt hàng khác như rau quả, thuỷ hải sản,v.v... cũng có chợ xúc tiến xuất khẩu như mặt hàng nông sản thì triển vọng xuất khẩu những năm tới sẽ rất khả quan. - Đẩy mạnh công tác trợ cấp xuất khẩu dưới hình thức thưởng xuất khẩu, tỷ giá khuyến khích đối với ngoại tệ thu được nhờ xuất khẩu, hoặc gián tiếp dùng ngân sách Nhà nước tuyên truyền xúc tiến thương mại. Mở rộng trợ cấp đối với nhiều mặt hàng Việt Nam có lợi thế, không nên chỉ bó gọn dành cho các sản phẩm nông nghiệp. 10. Phát triển nguồn nhân lực Con người là yếu tố quan trọng của quá trình sản xuất. Để tạo ra sản phẩm có chất lượng cao và đáp ứng tốt nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng, ngoài việc trang bị máy móc thiết bị hiện đại phải có những cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề. Hiện nay, nước ta rất thiếu cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật có tay nghề cao. Cho nên dẫn tới tình trạng sản xuất hàng hoá: chất lượng hàng kém, không đồng đều và kiểu dáng còn đơn điệu, thiếu tính sáng tạo. Vì thế mà khả năng cạnh tranh quốc tế của hàng hoá rất thấp. Do vậy, để khắc phục tình trạng này chúng ta cần phải chú trọng tổ chức nhiều chương trình đào tạo chuyên sâu cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thuộc các lĩnh vực, các ngành kinh tế để tạo ra một đội ngũ cán bộ kỹ thuật giỏi và công nhân lành nghề trong các ngành chế tạo, sản xuất, chế biến. Đồng thời, chúng ta nên phối hợp với các nước và các tổ chức quốc tế để gửi các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật trẻ có triển vọng của ta ra nước ngoài đào tạo. Nếu chỉ chú trọng đào tạo cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật thì chưa đủ mà phải có một đội ngũ cán bộ thương mại giỏi nữa thì mới có thể đưa những sản phẩm có chất lượng cao tới được người tiêu dùng Thái Lan. Như thế cũng vẫn chưa đủ mà phải có cả một đội ngũ cán bộ quản lý giỏi thì mới đưa doanh nghiệp phát triển lên được. Về phía Nhà nước: - Nhà nước cần chú trọng tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về thương mại cho cán bộ lãnh đạo và chuyên viên của các công ty thương mại có tham gia vào mậu dịch quốc tế. Cần có chính sách và chế độ bồi dưỡng, đào tạo, đào tạo lại và tuyển chọn lại cán bộ thương mại một cách chặt chẽ và nghiêm túc cả về phẩm chất đạo đức, năng lực chuyên môn và trình độ ngoại ngữ. - Bên cạnh đó, Nhà nước cần phải tăng cường tổ chức các chương trình đào tạo chuyên sâu về kỹ thuật cho các cán bộ kỹ thuật và công nhân kỹ thuật. Về phía doanh nghiệp: Các doanh nghiệp phải chú trọng công tác đào tạo để nâng cao năng lực cán bộ và công nhân kỹ thuật vì họ là nhân tố quan trọng và không thể thiếu được trong việc nâng cao sức cạnh tranh của hàng hoá trên thị trường Các doanh nghiệp phải luôn nâng cao trình độ cán bộ và công nhân kỹ thuật, phát huy tính năng động, nhậy bén, học hỏiv.v... Từng doanh nghiệp phải dành một khoản kinh phí nhất định cho hoạt động này và phải biết tận dụng các chương trình đào tạo cán bộ, công nhân kỹ thuật của Chính phủ để cử cán bộ của mình tham gia. Đối với cán bộ thương mại, các doanh nghiệp không chỉ chú trọng nâng cao nghiệp vụ chuyên môn mà phải nâng cao cả ngoại ngữ vì ngoại ngữ kém sẽ khó thành công trong đàm phán và thường bị ở thế bất lợi trong giao dịch kinh doanh. 11. Đẩy mạnh áp dụng thương mại điện tử trong kinh doanh Các doanh nghiệp Việt Nam nên đẩy mạnh việc áp dụng thương mại điện tử vì thương mại điện tử đem lại cho doanh nghiệp những lợi ích to lớn. Các Website của doanh nghiệp được ví như là những Trung tâm thông tin, văn phòng đại diện và cửa hàng bán lẻ của doanh nghiệp đó ở mọi nơi, mọi lúc trên mọi phương diện. Để áp dụng thương mại điện tử, mỗi doanh nghiệp cần tiến hành theo ba bước: soạn thảo, thiết kế, triển khai. ở giai đoạn soạn thảo chiến lược, vấn đề quan trọng là làm thế nào để khách hàng mua hàng của doanh nghiệp mình chứ không phải của các đối thủ và xác định khách hàng của doanh nghiệp trong hiện tại và tương lai. Đồng thời, doanh nghiệp cần xác định cụ thể sản phẩm gì, thị trường nào, đối tượng khách hàng, mục tiêu... để sẽ bán trên mạng. Bước tiếp theo là thiết kế trang web. Phải thiết kế làm sao trang web có sức hấp dẫn, tiện dụng. Muốn vậy, doanh nghiệp nên tìm đến các nhà thiết kế trang web chuyên nghiệp. Bước cuối cùng là phải lưu ký trang web. Về nguyên tắc, nếu doanh nghiệp đã có mạng riêng, có đường kết nối tốc độ, thì có thể lưu ký trên máy chủ. Ngoài ra, các doanh nghiệp cần phải nắm vững được các nguyên tắc thâm nhập thị trường Thái Lan, đó là: (1) Nắm bắt được thị hiếu của người tiêu dùng Tính đa dạng của thị trường (mùa, lứa tuổi, khu vực,v.v.) Sản xuất càng gần với thị trường càng tốt (market - in). Điều quan trọng là phải có phản ứng nhanh nhậy với khuynh hướng của người tiêu dùng. Khi tung ra mặt hàng mới phải chú ý đến phản ứng của người tiêu dùng để xem có nên tiếp tục hay không việc sản xuất mặt hàng dó. Chuẩn bị nhiều chủng loại sao cho phong phú cho dù chỉ một mặt hàng. Người tiêu dùng muốn chọn loại nào cũng có (ví dụ: to, nhỏ, nhiều chức năng, hình thái, v.v.). Hàng hoá phải đáp ứng được nhu cầu thị hiếu của người tiêu dùng. (2) Hạ giá thành sản phẩm Đối thủ cạnh tranh của ta về các hàng hoá xuất khẩu sang thị trường Thái Lan là Trung Quốc và các nước ASEAN. Nên khi xuất khẩu phải tính đến cước phí vận chuyển làm sao cước phí này là nhỏ nhất.Vì cho dù giá sản xuất rẻ hơn so với các nước khác nhưng giá vận chuyển, lưu kho...mà lớn thì cũng không cạnh tranh được. (3) Đảm bảo thời gian giao hàng Điều tối quan trọng là phải bảo đảm thời hạn mà bên mua yêu cầu. Nếu giao hàng chậm không bảo đảm được thời hạn giao hàng sẽ làm mất đi uy tín kinh doanh và cơ hội bán hàng, vì hàng thông thường tiêu thụ theo mùa vụ. Không đảm bảo thời hạn giao hàng khiến cho bên mua sẽ không đặt hàng lần sau. (4) Duy trì chất lượng sản phẩm Không nhất thiết phải là hàng hoá có chất lượng cao. Điều quan trọng là chất lượng hàng phải ổn định mà thị trường chấp nhận. Tránh những sản phẩm có chất lượng vượt quá yêu cầu không cần thiết. Những sản phẩm có chất lượng vượt quá yêu cầu của người sử dụng sẽ khiến cho giá thành cao lên và người tiêu dùng sẽ không mua nữa. Trên đây là những biện pháp mà Nhà nước và doanh nghiệp cần thực hiện để nâng cao hiệu quả sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu tiến lên thực hiện công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Kết luận Nhìn nhận lại thực trạng quan hệ kinh tế thương mại Việt Nam-Thái Lan ta thấy rõ sự phát triển mạnh mẽ đầu tư của Thái Lan, rõ ràng là thông qua việc buôn bán với Thái Lan, Việt Nam đã gặt hái được nhiều thành công phù hợp với đường lối mở cửa mà chính phủ Việt Nam đã đề xướng. Tuy nhiên, giá trị xuất khẩu sang thị trường Thái Lan chỉ chiếm 1,5-2,5% tổng giá trị xuất khẩu hàng năm của Việt Nam. Do vậy, để có thể thâm nhập thành công vào thị trường này, các doanh nghiệp Việt Nam cần phải có những hiểu biết sâu sắc về thị trường, khách hàng và các quy định về hàng hoá trên thị trường này để từ đó đưa ra các biện pháp phù hợp để cải tiến và đa dạng hoá sản phẩm, không ngừng nâng cao khả năng cạnh tranh của mình. Vì vậy, việc xúc tiến thâm nhập hàng hoá vào thị trường này không chỉ đòi hỏi những nỗ lực không ngừng từ phía doanh nghiệp mà còn cần có sự hỗ trợ từ các cơ quan nhà nước cũng như của các thành phần kinh tế. Về phía các nhà làm luật nên xây dựng luật thông thoáng, hấp dẫn các nhà đầu tư hơn, phải sửa đổi bổ sung luật sao cho phù hợp . Có như vậy mới tạo cho các doanh nghiệp Việt Nam chiếm lĩnh được thị trường này và thu hút được các nhà đầu tư nhiều hơn. Tài liệu tham khảo Nghị quyết đại hội Đảng Cộng Sản Việt Nam lần thứ IX. Cục diện kinh tế thế giới 2000 và dự báo thương mại 2001.- Bộ Thương Mại, Hà Nội, 12-2000. Về cơ chế quản lý và điều hành tỷ giá hối đoái ở Việt Nam.- Thị trường tài chính tiền tệ, 2001, số24, tr 8. Nguyễn Xuân Minh. Nâng cao giá trị trái cây và thuỷ sản.-Thương nghiệp-thị trường Việt Nam, số tháng 12.2001, tr10. Nguyễn Tương Lai. Quan hệ Việt Nam-Thái Lan trong những năm 90. Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 2001. Hoàng Thị Chính. Từ cuộc khủng hoảng tài chính ở Thái Lan đến biến động tiền tệ ở Đông Nam á.-Tạp chí Phát triển kinh tế, 1997, số 83, tr. 25-30. Việt Nam-ASEAN. Nhà xuất bản khoa học xã hội, Hà Nội, 1996. Kinh tế Thái Lan nửa đầu năm 1995.- Tạp chí Ngoại thương, 1995, số 35, tr.16-17. Huy Thành. Quan hệ kinh tế Việt Nam-Thái Lan: 20 năm phát triển.- Nghiên cứu kinh tế, Hà Nội 1997, số 1, tr. 33-37. Nguyễn Thị Trang. 20 năm quan hệ Việt Nam-Thái Lan.- Tuần tin tức, ngày 6/2/1996. Tạp chí nghiên cứu Đông Nam á, số 2/2001 Thông tin của Bộ Thương Mại

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docQuan he kinh te thuong mai Viet Nam-Thai Lan,thuc trang va .doc
Tài liệu liên quan