Khóa luận Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo

LỜI MỞ ĐẦU 1 CHƯƠNG I 5 LÝ LUẬN CHUNG VỀ VĂN BẢN VÀ CÔNG TÁC 5 XÂY DỰNG, BAN HÀNH VĂN BẢN 5 I. TỔNG QUAN VỀ VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC 5 1. Khái niệm 5 2. Chức năng của văn bản QLNN 6 3. Vai trò của văn bản QLNN 8 4. Phân loại văn bản QLNN 10 4.1. Văn bản quy phạm pháp luật (QPPL) 10 4.2. Văn bản cá biệt 12 4.3. Văn bản hành chính thông thường 13 4.4. Văn bản chuyên môn – kỹ thuật 14 II. NHỮNG YÊU CẦU VỀ KỸ THUẬT SOẠN THẢO VĂN BẢN QLNN 15 1. Văn bản phải đảm bảo tính hợp pháp 15 2. Văn bản phải đảm bảo tính khoa học 15 3. Văn bản phải đảm bảo tính khả thi 21 III. QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN 21 1. Khái niệm 21 2. Hình thức thể chế hoá quy trình 22 3. Trình tự chung xây dựng và ban hành văn bản 22 3.1. Bước 1: Sáng kiến và dự thảo văn bản 22 3.2. Bước 2: Lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo 23 3.3. Bước 3: Thẩm định dự thảo 24 3.4. Bước 4: Xem xét, thông qua 25 3.5. Bước 5: Công bố 26 3.6. Bước 6: Gửi và lưu trữ văn bản 26 CHƯƠNG II 28 QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUẢN LÝ 28 NHÀ NƯỚC CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 28 I. THẨM QUYỀN BAN HÀNH VÀ HÌNH THỨC VĂN BẢN CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 28 1. Văn bản quy phạm pháp luật 31 2. Văn bản hành chính 32 II. QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 32 1. Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật của Bộ Giáo dục và Đào tạo 33 1.1. Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quy phạm pháp luật thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo 33 1.1.1. Hình thức và nội dung của văn bản QPPL do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành 33 1.1.2. Yêu cầu đối với văn bản QPPL do Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành 35 1.1.3. Trình tự xây dựng và ban hành văn bản QPPL thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo 35 1.1.4. Cơ cấu nội dung và thể thức các văn bản QPPL do bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành 43 2. Quy trình xây dựng và ban hành các văn bản hành chính của Bộ Giáo dục và Đào tạo 58 2.1. Hình thức ban hành văn bản hành chính của Bộ Giáo dục và Đào tạo 58 2.2. Trình tự soạn thảo và ban hành các văn bản hành chính của Bộ Giáo dục và Đào tạo 60 CHƯƠNG III 66 MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM HƯỚNG TỚI 66 HOÀN THIỆN QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 66 I. MỘT SỐ NHẬN XÉT KHÁI QUÁT VỀ QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 66 1. Những kết quả đạt được 67 2. Những hạn chế, thiếu sót 71 3. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót 76 3.1. Về công tác tổ chức, xây dựng văn bản 76 3.2. Về thể chế, tổ chức 77 3.3. Về nhận thức, năng lực, trình độ của các cán bộ công chức làm công tác soạn thảo và ban hành văn bản 77 3.4. Về sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc soạn thảo văn bản 78 3.5. Về điều kiện thời gian và kinh phí 78 II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM HƯỚNG TỚI HOÀN THIỆN QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO 79 1. Lập dự kiến chương trình soạn thảo, ban hành văn bản dài hạn và hàng năm của Bộ 80 2. Hoàn thiện về thể chế, tổ chức 81 3. Hoàn thiện các bước trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo 83 4. Nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ cho cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản 86 5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân vào việc nâng cao chất lượng văn bản 88 6. Xây dựng kế hoạch kinh phí phục vụ cho việc xây dựng và ban hành văn bản của Bộ 89 7. Thường xuyên tổng kết, đúc rút kinh nghiệm 89 KẾT LUẬN 90 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 91 DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT 92

doc99 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1718 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Quy trình xây dựng và ban hành văn bản quản lý nhà nước của Bộ Giáo dục và Đào tạo, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
1 Nghị quyết liên tịch, ban hành theo thẩm quyền 03 Thông tư, 03 Chỉ thị, 44 Quyết định. Tổng số là 93 văn bản. Ngoài ra Bộ Giáo dục và Đào tạo còn ban hành với số lượng lớn các văn bản hành chính nhằm giải quyết các công việc liên quan đến hoạt động quản lý lĩnh vực của mình. Hoạt động xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đạt được những kết quả nhất định song vẫn còn những vấn đề cần nghiên cứu và có hướng giải quyết, trong đó trước hết là những vấn đề liên quan đến quy trình ban hành văn bản. 1. Những kết quả đạt được Nhận thức được tầm quan trọng của việc thực hiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản đối với chất lượng của văn bản được ban hành, góp phần thực hiện chức năng QLNN của Bộ Giáo dục và Đào tạo đồng thời tạo điều kiện thuận lợi cho công tác soạn thảo và ban hành văn bản của Bộ, trên cơ sở các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, ngày 25/4/2006 Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo đã ban hành quy chế soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL về Giáo dục kèm theo Quyết định 15/2006/QĐ-BGDĐT. Quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL đã được thực hiện theo đúng quy chế này. Do đó mà công tác soạn thảo và ban hành văn bản QPPL đã từng bước đi vào nề nếp. Bộ đã xây dựng được kế hoạch ban hành văn bản của năm 2007, trong đó phân công cụ thể đơn vị chủ trì soạn thảo, thời gian ban hành, số lượng, loại văn bản sẽ ban hành trong từng tháng. Về cơ bản , văn bản QPPL do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành đều tuân thủ các quy định của pháp luật và có tính khả thi, đáp ứng được yêu cầu của tình hình thực tế và sự thay đổi của Luật Giáo dục năm 2005, tác động tích cực đến tình hình kinh tế xã hội và công tác quản lý của Bộ. Các văn bản hành chính được soạn thảo và ban hành theo đúng quy định, đúng mục đích sử dụng, yêu cầu của công việc và có tính khả thi cao, góp phần phục vụ cho công tác quản lý nhà nước về giáo dục của Bộ. Tình hình xây dựng và ban hành văn bản QLNN của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã có những biến chuyển đáng kể. Năm 2005 số lượng văn bản QPPL của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành và trình cơ quan có thẩm quyền ban hành 55 văn bản, sang năm 2006 đã tăng lên 93 văn bản. Hầu hết các văn bản đều được ban hành theo đúng thẩm quyền, trình tự và thủ tục quy định. Những kết quả cụ thể như sau: - Về bước soạn thảo văn bản: Trên cơ sở kế hoạch ban hành các văn bản QPPL của Bộ và sự chỉ đạo trực tiếp của Bộ trưởng, các đơn vị được giao chủ trì soạn thảo văn bản đã phân công, chỉ đạo, giao trách nhiệm cụ thể cho các thành viên thực hiện công việc soạn thảo. Một số văn bản nhất định đã thành lập ban soạn thảo, tổ soạn thảo để tiến hành soạn thảo văn bản. Các đơn vị chủ trì soạn thảo văn bản đã chú ý tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đề xuất những lĩnh vực mới cần ban hành hoặc cần sửa đổi bổ sung vào văn bản hiện hành cho phù hợp với tình hình mới. Ví dụ: Trong năm 2006, Bộ Giáo dục và Đào tạo đã tiến hành rà soát văn bản QPPL về hợp tác nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục. Kết quả của công tác rà soát các văn bản QPPL về hợp tác với nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục đã chỉ ra vướng mắc khi áp dụng các quy định hiện hành về hợp tác nước ngoài trong lĩnh vực giáo dục, do đó Bộ đã đề xuất một số kiến nghị và có kế hoạch ban hành các văn bản thay thế. Cụ thể: Soạn thảo Nghị định của Chính phủ quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, thời gian hoàn thành là tháng 9/2007, Soạn thảo 1 Quyết định của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế quản lý du học tự túc, thời gian hoàn thành là tháng 6/2007, soạn thảo 1 Thông tư của Bộ Giáo dục và Đào tạo hướng dẫn thực hiện Nghị định quy định về hợp tác quốc tế trong lĩnh vực giáo dục và đào tạo, thời gian hoàn thành tháng 10/2007. Ngoài ra các tổ soạn thảo văn bản đã tổ chức các đợt đi thực tế, khảo sát, đánh giá các thực trạng quan hệ xã hội có liên quan đến nội dung cần soạn thảo, do đó mà nội dung các văn bản cần soạn thảo có tính xác thực hơn. Về nội dung và hình thức của văn bản: Đa số nội dung các văn bản soạn thảo phù hợp với các văn bản của cấp trên như Hiến pháp, Luật, Nghị quyết của Quốc hội, Nghị quyết, Nghị định của Chính phủ, Quyết định, Chỉ thị của Thủ tướng Chính phủ. Thể thức và kỹ thuật trình bày được thực hiện theo đúng quy định tại Thông tư 55/2005/TTLT-BNV-VPCP của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản. Soạn thảo văn bản là bước vô cùng quan trọng trong công tác xây dựng và ban hành văn bản do đó các đơn vị chủ trì soạn thảo đã có những quan tâm thích đáng cho việc thực hiên bước này. - Về bước lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo: Lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo là hoạt động góp phần hoàn thiện dự thảo văn bản, nâng cao chất lượng, và tính khả thi của văn bản do Bộ ban hành. Nhận thức được tầm quan trọng này, các văn bản QPPL của Bộ đều được đơn vị chủ trì soạn thảo tổ chức lấy ý kiến của các đối tượng có liên quan đến dự thảo văn bản. Một số văn bản hành chính tuỳ theo tính chất và nội dung mà cơ quan chủ trì soạn thảo lấy ý kiến đóng góp của các cơ quan hữu quan. Việc lấy ý kiến đóng góp cho dự thảo văn bản QPPL của Bộ được tiến hành thông qua nhiều hình thức như: gửi công văn xin ý kiến, tổ chức các cuộc họp, hội nghị thảo luận, qua đó các đơn vị chủ trì thu thập được nhiều ý kiến khác nhau về các phương diện của vấn đề được đề cập trong dự thảo. Nhiều dự thảo văn bản do tiếp thu được nhiều ý kiến đóng góp để hoàn thiện nên sát thực tế hơn, phản ánh được nhu cầu, nguyện vọng của các đối tượng điều chỉnh của văn bản do đó sau khi ban hành được thực thi và mang lại hiệu quả rõ nét. - Về bước thẩm định dự thảo: Thẩm định là bước kiểm tra lại văn bản cả về hình thức và nội dung của văn bản, đảm bảo tính hợp hiến, hợp pháp và tính khả thi của văn bản sau khi ban hành. Vụ Pháp chế được giao nhiệm vụ thẩm định văn bản trước khi trình Bộ trưởng ký ban hành. Tất cả các văn bản QPPL của bộ sau khi soạn thảo đều đươj đưa đến Vụ Pháp chế để thảm định. Cụ thể năm 2005 Vụ Pháp chế đã thẩm định 55 văn bản QPPL , năm 2006 là 56 văn bản QPPL. Nội dung thẩm định nhìn chung đạt chất lượng tốt, hầu hết các văn bản đã đưa ra phương án xử lý đối với những vấn đề có ý kiến khác nhau giữa cơ quan soạn thảo và các cơ quan, tổ chức khác có liên quan tham gia ý kiến với ban soạn thảo. Quy trình thẩm định đã được thực hiện theo đúng quy định của Luật ban hành văn bản QPPL đối với các văn bản QPPL. - Về bước xem xét, thông qua văn bản: Văn bản của Bộ trước khi trình Bộ trưởng ký ban hành đều được Văn phòng kiểm tra về thể thức và thủ tục, đảm bảo văn bản có hình thức phù hợp với thẩm quyền, tuân thủ các yêu cầu về kỹ thuật và ngôn ngữ soạn thảo, được ban hành đúng trình tự mà pháp luật quy định. - Về bước công bố, gửi và lưu trữ văn bản: Văn bản sau khi ban hành được kịp thời gửi đến nơi nhận, gửi đăng công báo và lưu trữ theo quy định. - Về công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản: Công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản được thực hiện định kỳ và thường xuyên theo từng lĩnh vực cụ thể như: quy định về hệ thống và tổ chức, hoạt động của nhà trường; về nội dung, chương trình giáo dục; về tổ chức quá trình giáo dục, đánh giá kết quả giáo dục; về nhà giáo và cán bộo quản lý; về hợp tác quốc tế; về thanhh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm; về đầu tư tài chính…Kết quả rà soát, hệ thống hoá văn bản đã góp phần quan trọng trong công tác ban hành văn bản của Bộ, kịp thời đề xuất để Bộ trưởng ban hành hoặc kiến nghị cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản thay thế những văn bản không còn phù hợp với thực tế và các văn bản của cơ quan nhà nước cấp trên, tạo sự đồng bộ, thống nhất của toàn bộ hệ thống văn bản. Trong năm 2006, công tác kiểm tra, rà soát văn bản đã có nhiều cố gắng và đạt được một số kết quả đáng khích lệ với tổng số văn bản đã tiến hành rà soát là 630 văn bản QPPL, kiểm tra 1126 Quyết định cá biệt, 1936 công văn hành chính. Qua kiểm tra đã kịp thời phát hiện và đề nghị huỷ bỏ một số công văn, quyết định cá biệt có chứa QPPL. Nhìn chung, quy trình xây dựng và ban hành văn bản của Bộ được thực hiện khá thống nhất, tuân thủ đầy đủ các bước theo quy định của Bộ và của Luật ban hành văn bản QPPL. 2. Những hạn chế, thiếu sót Bên cạnh những kết quả đạt được, trong việc thực hiện quy trình soạn thảo và ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn còn bộc lộ những hạn chế, thiếu sót. Cụ thể như sau: - Về bước soạn thảo văn bản: Việc soạn thảo văn bản được các Vụ giao cho các cán bộ công chức của mình thực hiện. Các thành viên tham gia soạn thảo tiến hành các công việc: thu thập thông tin, tài liệu có liên quan, phân tích tình hình thực tế, xác định yêu cầu nội dung và tiến hành dự thảo văn bản theo nhiệm vụ được giao. Tuy nhiên các thành viên tham gia soạn thảo chưa chú ý thích đáng đến việc tổng kết thực tiễn, tập hợp, nghiên cứu các văn bản của cấp trên do đó dẫn đến việc văn bản đã ban hành phải huỷ bỏ vì trái với văn bản của cấp trên. Về kỹ thuật soạn thảo: Phần lớn các văn bản được ban hành đều đảm bảo các yêu cầu về tính pháp lý, đảm bảo các yêu cầu về nội dung và hình thức của văn bản. Tuy nhiên nhiều quy định còn mang tính nguyên tắc, không cụ thể, không rõ ràng giữa việc ban hành văn bản QPPL hay văn bản cá biệt, vẫn còn tồn tại một số sai sót trong kỹ thuật soạn thảo văn bản đặc biệt là kỹ thuật soạn thảo các văn bản hành chính. Ví dụ: Nội dung của văn bản vẫn còn tồn tại các sai sót như: - Về căn cứ ban hành: căn cứ ban hành là cơ sở pháp lý cho việc ban hành văn bản. Tuy nhiên các văn bản vẫn còn mắc một số lỗi về căn cứ ban hành như: + Thiếu căn cứ ban hành: Quyết định số 1762/QĐ-BGDĐT; Quyết định số 1763/QĐ-BGDĐT và Quyết định số 2026/QĐ-BGDĐT chỉ căn cứ vào điều lệ bảo hiểm xã hội và các văn bản hướng dẫn thực hiện điều lệ bảo hiểm xã hội, thiếu căn cứ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu của Bộ. + Căn cứ không rõ ràng: Quyết định số 1770/QĐ-BGDĐT ngày 10/4/2006 về việc công nhận nghiên cứu sinh năm 2006 thuộc Viện nghiên cứu tôn giáo, có căn cứ ghi “căn cứ các quyết định của Thủ tướng Chính phủ giao nhiệm vụ đào tạo nghiên cứu sinh cho các trường đại học và các viện nghiên cứu” là không rõ ràng. + Dẫn sai căn cứ: Công văn số 2824/BGDĐT-VP ngày 10/4/2006 về việc xét tặng danh hiệu Nhà giáo nhân dân- Nhà giáo ưu tú lần thứ 9 năm 2006, đã dẫn tríh yếu văn bản “Thông tư số 07/2005/TT-BGDĐT” là không đúng vì Thông tư này ban hành ngày 20/3/2006. - Về kỹ thuật soạn thảo làm sai lệch nội dung văn bản: Ví dụ: công văn số 2862/BGDĐT-GDTX ngày 11/4/2006 gửi Đại học Quốc gia Thành phố Hồ Chí Minh, Học viện Công nghệ Bưu chính - Viễn thông, Viện Đại học Mở Hà Nội đề nghị xây dựng dự thảo “Quy chế đào tạo từ xa qua mạng” là không đúng với quy trình soạn thảo văn bản QPPL vì các đối tượng trên không có nhiệm vụ, chức năng soạn thảo văn bản QPPL. - Một số văn bản có cụm từ diễn đạt lủng củng hoặc thừa như: Công văn số 3369/BGDĐT-TCCB ngày 27/4/2006 về việc đề nghị cho ý kiến về Đề án thành lập trường Cao đẳng công nghiệp và xây dựng có cụm từ diễn đạt còn thừa như: “Nâng cấp trường Trung học Công nghiệp xây dựng trên cơ sở trường Trung học Công nghiệp xây dựng” - Danh sách kèm theo văn bản không có nội dung: Ví dụ: Quyết định số 2140/QĐ-BGDĐT ngày 29/4/2006 về việc tặng bằng khen có danh sách kèm theo nhưng danh sách kèm theo lại là danh sách trống. - Một số văn bản còn chứa QPPL: Ví dụ: Quyết định số 2105/QĐ-BGDĐT ngày 25/4/2006 ban hành quy định về công tác thiết bị giáo dục phổ thông, nội dung của văn bản đưa ra các chế tài đối với các đối với các trường phổ thông. Về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản: Thông tư 55/2005/TTLT-BNV-VPCP hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản được ban hành ngày 6/5/2005, song nhiều đơn vị vẫn chưa quán triệt trong quá trình soạn thảo văn bản. Thường gặp những lỗi là: sai về kiểu chữ, cỡ chữ, sai về lề:để lề quá nhỏ, một số văn bản không có tên nhưng vẫn ghi “kính gửi” ở đầu văn bản như Tờ trình số 2730/TTr-BGDĐT ngày 07/04/2006 về việc xin mở rộng trường Đại học sư phạm tại Ba Vì - Hà Tây; lỗi chính tả còn tồn tại trong không ít văn bản như: Từ quyết định số 1717/QĐ-BGDĐT đến 1719/QĐ-BGDĐT về việc xếp lương đối với cán bộ viên chức ghi “mần non” thay vì “mầm non”… Nhìn chung kỹ thuật soạn thảo văn bản của các đơn vị, cá nhân soạn thảo còn nhiều hạn chế về năng lực cũng như trình độ trong đó các lỗi thường gặp chủ yếu tập trung ở việc soạn thảo các văn bản hành chính do chưa chú ý quan tâm đúng mức vào kỹ thuật soạn thảo đối với các văn bản này. - Về bước lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo: Lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo là góp phần hoàn thiện dự thảo văn bản, nâng cao chất lượng cũng như tính khả thi của văn bản đặc biệt là các văn bản QPPL. Tuy nhiên hoạt động lấy ý kiến cho dự thảo của một số văn bản vẫn còn mang tính hình thức. Việc lấy ý kiến mới chỉ tiến hành tại các đơn vị chủ trì soạn thảo và các đơn vị phối hợp hoặc lấy ý kiến của các cơ quan nhà nước hữu quan mà chưa chú trọng đến việc lấy ý kiến của các đối tượng chịu sự điều chỉnh trực tiếp của văn bản. Ví dụ như: Quyết định số 08/2007/QĐ-BGDĐT ngày 6/4/2007 về việc sửa đổi bổ sung một số điều của Quy chế tuyển sinh trung cấp chuyên nghiệp ban hành kèm theo Quyết định số 06/2006/QĐ-BGDĐT ngày 17/3/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Việc tổ chức lấy ý kiến mới chỉ được gửi đến các cơ quan hữu quan là: Vụ Thanh tra, Vụ Giáo dục chuyên nghiệp, Cục khảo thí và kiểm định chất lượng giáo dục, các trường có đào tạo trung cấp chuyên nghiệp, các Sở giáo dục đào tạo, tuy nhiên đối tượng thi hành trực tiếp của quyết định là các thí sinh lại chưa được chú ý lấy ý kiến. Các đơn vị được gửi văn bản xin ý kiến mặc dù đã quy định thời gian trả lời là không quá 05 ngày làm việc kể từ ngày nhận văn bản nhưng thường trả lời chậm, góp ý sơ sài, có đơn vị khi nhận được văn bản đến ngày trả lời chỉ ghi vẻn vẹn: “đồng ý như dự thảo”. Ví dụ như văn bản góp ý kiến của trường Trung cấp kỹ thuật Hưng Yên về việc góp ý kiến cho dự thảo Quyết định 08/2007/QĐ-BGDĐT nêu trên, chỉ ghi vẻn vẹn “đồng ý như dự thảo”. Việc tổ chức các cuộc họp, hội nghị để lấy ý kiến cho dự thảo nếu thực hiện tốt sẽ mang lại hiệu quả nhưng các hoạt động này được tổ chức không nhiều. Ví dụ như Chỉ thị số 12/2005/CT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hưởng ứng “Năm quốc tế Thể thao và Giáo dục thể chất-2005” của Liên hiệp quốc, chỉ được tiến hành được 2 cuộc họp , 1 cuộc họp để phân công đơn vị, cá nhân soạn thảo và 1 cuộc họp để lấy ý kiến của các đơn vị có liên quan. Bên cạnh đó cũng có ý kiến đóng góp không được tiếp thu do đơn vị chủ trì soạn thảo còn mang nặng tính cục bộ, muốn bảo vệ ý kiến của mình dù ý kiến đó chưa thực sự khách quan và khả thi. - Về bước thẩm định dự thảo: Thẩm định là việc kiểm tra lại văn bản cả về hình thức lẫn nội dung của văn bản đảm bảo tính hợp pháp, tính khả thi của văn bản sau khi ban hành. Nhưng công tác này vẫn còn một số tồn tại như: Nội dung thẩm định của một số văn bản còn mang nặng tính hình thức, chưa đi sâu vào những vấn đề của dự thảo. Ý kiến thẩm định của Vụ Pháp chế do chưa có quy định giá trị pháp lý của văn bản thẩm định nên chưa có sự ảnh hưởng bắt buộc đối với các đơn vị chủ trì. Hồ sơ thẩm định của dự thảo theo quy định bao gồm: Tờ trình dự thảo văn bản do thủ trưởng đơn vị ký (ký tờ trình và ký nhỏ vào góc bên phải từng trang dự thảo), bản thuyết minh quá trình soạn thảo văn bản, bản tổng hợp tiếp thu ý kiến, các văn bản làm căn cứ để ban hành, hướng dẫn thi hành, sửa đổi, bổ sung. Nhưng hồ sơ gửi Vụ Pháp chế thẩm định thường không đủ, chủ yếu chỉ có tờ trình và dự thảo văn bản. Điều này gây khó khăn cho công tác thẩm định của Vụ Pháp chế về tính khả thi của văn bản. Ví dụ như Chỉ thị số 12/2005/CT-BGDĐT của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc hưởng ứng “Năm quốc tế Thể thao và Giáo dục thể chất-2005” của Liên hiệp quốc, hồ sơ thẩm định chỉ có tờ trình do Vụ trưởng Vụ Học sinh sinh viên ký và bản dự thảo văn bản, còn các văn bản khác có liên quan là không có trong hồ sơ. - Về bước xem xét thông qua văn bản: Văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo trước khi trình Bộ trưởng ký đều được Văn phòng kiểm tra về nội dung, hình thức, thủ tục ban hành văn bản. Tuy nhiên công việc này làm còn sơ sài, mang tính hình thức. Đặc biệt là đối với việc kiểm tra các văn bản hành chính. Vẫn còn tồn tại một số văn bản ban hành sai thẩm quyền như: Nghị quyết liên tịch giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với Hội Khuyến học Việt Nam triển khai thực hiện Quyết định số 122/2005/ QĐ-TTg ngày 18/5/2005 của Thủ tướng Chính phủ về việc phê duyệt đề án “ Xây dựng xã hội học tập giai đoạn 2005-2010” đã phải huỷ bỏ do ban hành sai thẩm quyền, Công văn số 2756/ BGDĐT-ĐH,SĐH ngày 7/4/2006 về việc cho phép đào tạo đại học ngành dược hệ vừa học vừa làm của trường Đại học Y Thái Bình, thẩm quyền ký ban hành phải là lãnh đạo Bộ ký nhưng lại do Vụ trưởng Vụ Đại học và Sau đại học ký ban hành. - Về bước công bố, gửi và lưu trữ văn bản: Các văn bản QPPL sau khi ký ban hành theo quy định phải được gửi đăng công báo và gửi đến các đơn vị có liên quan, tuy nhiên một số văn bản vẫn chưa được đăng công báo hoặc gửi đăng công báo chậm. Ví dụ: Trong năm 2006, có 03 văn bản chưa được đăng Công báo, gồm: Quyết định số 24/2006/QĐ-BGDĐT ngày 29/5/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành Đề cương chi tiết 11 môn học hệ dự bị đại học, Chỉ thị số 42/2006/CT-BGDĐT ngày 20/10/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về nhiệm vụ trọng tâm của giáo dục trung cấp chuyên nghiệp trong năm học 2006 - 2007, Nghị quyết liên tịch số 177/2006/NQLT-HNDVN-BGD&ĐT ngày 15/3/2006 của Hội Nông dân Việt Nam, Bộ Giáo dục và Đào tạo về việc phối hợp hoạt động nâng cao trình độ văn hoá, kiến thức khoa học đời sống, kỹ thuật nông nghiệp trong nông dân giai đoạn 2006 – 2010. Có văn bản được ban hành nhưng chậm gửi đăng Công báo làm ảnh hưởng đến hiệu lực thi hành như Quyết định số 16/2006/QĐ-BGDĐT ngày 05/05/2006 ban hành Chương trình giáo dục phổ thông, ban hành từ ngày 05/05/2006 nhưng đến tháng 8 năm 2006 mới đăng Công báo. - Về công tác kiểm tra văn bản: Việc kiểm tra văn bản do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành chưa được đầy đủ và kịp thời. Công tác kiểm tra văn bản do địa phương ban hành còn rất yếu, hầu hết các cơ quan có thẩm quyền ban hành văn bản quy phạm pháp luật khi ban hành văn bản liên quan đến lĩnh vực giáo dục chỉ gửi cho Bộ để kiểm tra khi có yêu cầu. Vì vậy, Bộ Giáo dục và Đào tạo không kiểm soát chính xác được trong năm có bao nhiêu văn bản quy phạm pháp luật liên quan đến giáo dục do các Bộ, cơ quan ngang Bộ, HĐND cấp tỉnh, UBND cấp tỉnh ban hành. 3. Nguyên nhân của hạn chế, thiếu sót Trong quá trình soạn thảo và ban hành văn bản QLNN của Bộ Giáo dục và Đào tạo mặc dù đã đạt được những kết quả nhất định, thực hiện được một quy trình khá thống nhất trong quá trình soạn thảo và ban hành văn bản, góp phần nâng cao chất lượng của văn bản được ban hành. Nhưng trong việc thực hiện từng bước trong quy trình vẫn còn một số tồn tại, thiếu sót như đã nêu ở trên. Nguyên nhân của những hạn chế, thiếu sót trên đây có thể kể đến một số nguyên nhân chủ yếu sau: 3.1. Về công tác tổ chức, xây dựng văn bản Việc lập kế hoạch xây dựng văn bản hàng năm và dài hạn của Bộ là một yêu cầu cần thiết. Qua kế hoạch xây dựng văn bản của Bộ, Bộ sẽ phân công cho các đơn vị soạn thảo và quy định thời gian hoàn thành. Khi đó các đơn vị sẽ chú ý và quan tâm đúng mức đến công việc được giao. Tuy nhiên Bộ chưa có dự kiến về chương trình soạn thảo, ban hành văn bản QPPL dài hạn của Bộ. Việc xây dựng kế hoạch soạn thảo, ban hành văn bản hàng năm còn mang nặng tính hành chính và chủ quan. Việc đề xuất soạn thảo văn bản của các đơn vị chưa qua giai đoạn thẩm định có tính chuyên môn, có khi kế hoạch năm của đơn vị chưa xác định rõ loại văn bản. Đây là một trong những nguyên nhân làm cho công tác soạn thảo văn bản thường chậm, các cá nhân soạn thảo không đi sâu nghiên cứu tìm hiểu các vấn đề có liên quan đến văn bản cần soạn thảo, làm cho văn bản được ban hành kém tính khả thi trong thực tế. 3.2. Về thể chế, tổ chức Hệ thống thể chế về ban hành văn bản QLNN nhằm tạo cơ sở pháp lý cho hoạt động xây dựng và ban hành văn bản của Bộ chưa hoàn thiện và đầy đủ. Mặc dù Bộ đã có quy định khá chi tiết và cụ thể về quy trình xây dựng và ban hành các văn bản QPPL, nhưng vẫn chưa có văn bản nào quy định cụ thể về trình tự soạn thảo, ban hành các văn bản hành chính của Bộ, chưa có văn bản quy định về giá trị pháp lý của văn bản thẩm định của Vụ Pháp chế, cũng như chưa có văn bản nào quy định cụ thể cơ chế kiểm soát việc thực hiện chương trình, việc xử lý các vi phạm trong quá trình soạn thảo, ban hành văn bản. Vì vậy, các đơn vị, cá nhân soạn thảo chưa chú ý quan tâm đúng mức đến chất lượng soạn thảo văn bản, chỉ làm cho xong công việc được giao. Hệ thống Pháp chế của Bộ mới được thành lập và kiện toàn, lực lượng cán bộ làm công tác soạn thảo, thẩm định còn thiếu. Hiện Vụ Pháp chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo mới có 12/15 cán bộ theo định mức biên chế, do đó khâu thẩm định văn bản còn gặp không ít khó khăn. 3.3. Về nhận thức, năng lực, trình độ của các cán bộ công chức làm công tác soạn thảo và ban hành văn bản Một số đơn vị, cán bộ, chuyên viên trong Bộ chưa thực sự coi việc soạn thảo, ban hành văn bản là nhiệm vụ quan trọng trong công tác QLNN của Bộ. Vì vậy, chưa đàu tư thích đáng thời gian, công sức cho việc này. Việc soạn thảo các văn bản được các Vụ giao cho các cán bộ công chức trong vụ thực hiện, nhưng các cán bộ công chức này đặc biệt là các thành viên trực tiếp tham gia soạn thảo văn bản thường phải kiêm nhiệm nhiều công việc, quỹ thời gian đầu tư cho việc nghiên cứu các vấn đề liên quan đến dự thảo, phân tích vấn đề rất hạn hẹp. Bên canh đó, còn có hiện tượng quá chú trọng sao cho văn bản được ký ban hành hoặc làm cho xong tiến độ. Do đó văn bản được soạn thảo chưa đảm bảo về chất lượng còn có nhiều sai sót, hiệu quả không cao. Số cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản ở các đơn vị thuộc Bộ tuy có kinh nghiệm về công tác giáo dục song hầu hết chưa bồi dưỡng cơ bản về pháp luật, kỹ năng soạn thảo nhìn chung còn thấp, trong số cán bộ của các đơn vị thuộc Bộ ngoài Vụ Pháp chế, hầu như chưa có ai tốt nghiệp đại học luật hoặc bồi dưỡng cơ bản về luật, về kỹ năng soạn thảo văn bản. Đây là nguyên nhân dẫn đến những sai sót về kỹ thuật soạn thảo văn bản. Lực lượng cán bộ làm công tác soạn thảo, thẩm định văn bản còn thiếu. Hiện Vụ Pháp chế của Bộ Giáo dục và Đào tạo mới có 12/15 cán bộ theo định mức biên chế, trong đó có 01 Phó giáo sư, tiến sĩ luật học, 05 cán bộ có bằng tốt nghiệp trình độ thạc sĩ luật, 06 cán bộ có bắng tốt nghiệp trình độ đại học luật, 03 cán bộ có 2 bằng đại học. Số lượng cũng như chất lượng của cán bộ pháp lý của Vụ Pháp chế còn hạn chế ảnh hưởng đến công tác thẩm định văn bản của Bộ. Biên chế của Vụ còn thiếu, trong khi khối lượng công việc ngày cầng nhiều, mỗi cán bộ phải đảm nhận nhiều công việc khác nhau trong khi công tác thẩm định đòi hỏi về thời gian do đó bước thẩm định thực hiện chưa thực sự hiệu quả. 3.4. Về sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc soạn thảo văn bản Hiện nay trong phân công và phối hợp giữa các cơ quan, đơn vị còn có sự bất hợp lý, sự phối hợp chưa đồng bộ nên chưa đạt được kết quả như mong muốn dẫn đến quá trình soạn thảo chậm, không lấy được hết ý kiến các cơ quan, nhiều trường hợp làm đi làm lại nhiều lần. 3.5. Về điều kiện thời gian và kinh phí Một số văn bản phải soạn thảo gấp do tình thế đòi hỏi. Khi tiến hành soạn thảo nhiều khi chưa cân đối thời gian hợp lý cho việc xin ý kiến của các cơ quan, tổ chức nên việc góp ý kiến nhiều khi rất chiếu lệ, chất lượng không cao. Cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản của các đơn vị thường đảm nhiệm nhiều nhiệm vụ thường xuyên khác nên chưa dành nhiều thời gian nghiên cứu, giải quyết những vướng mắc khi soạn thảo. Ngày 23/10/2006, Bộ Tài Chính đã ban hành Thông tư số 100/2006/TT-BTC hướng dẫn việc quản lý và sử dụng kinh phí ngân sách nhà nước bảo đảm cho công tác xây dựng các văn bản QPPL, trong đó quy định cụ thể nội dung chi, mức chi, đối với việc soạn thảo các văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Quốc hội, Uỷ ban Thường vụ Quốc hội, Chính phủ, Thủ tướng Chính phủ, Bộ trưởng, Thủ truởng cơ quan ngang bộ. Tuy nhiên, mức chi và kinh phí dành cho việc soạn thảo văn bản, đặc biệt là các văn bản thuộc thẩm quyền ban hành của Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ còn rất thấp, chưa đáp ứng được yêu cầu của công tác soạn thảo. Quy trình soạn thảo văn bản phải tiến hành nhiều công việc cần thiết như điều tra, khảo sát, đánh giá, tổng kết thực tiễn, biên dịch tài liệu, lấy ý kiến của các nhà khoa học…Nếu thực hiện tất cả các công việc trên thì kinh phí đã quy định như trong Thông tư số 100/2006/TT-BTC là không đủ. Mặt khác, cũng là văn bản QPPL thuộc thẩm quyền của Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành nhưng Quyết định, Thông tư có kinh phí, còn Chỉ thị lại không có kinh phí. Điều kiện thời gian và kinh phí là nguyên nhân ảnh hưởng lớn đến việc tổ chức lấy ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan; tiến hành việc khảo sát thực tế. Do đó mà các văn bản ban hành nhiều khi chưa có tính xác thực do không có điều kiện để tiếp thu nhiều ý kiến cũng như đi khảo sát thực tế. Những nguyên nhân nêu trên đã làm cho công tác xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo còn tồn tại những hạn chế, thiếu sót, chưa đảm bảo chất lượng, làm ảnh hưởng đến hiệu quả quản lý nhà nước của Bộ. Do đó cần có các biện pháp khắc phục. II. MỘT SỐ KIẾN NGHỊ VÀ ĐỀ XUẤT NHẰM HƯỚNG TỚI HOÀN THIỆN QUY TRÌNH XÂY DỰNG VÀ BAN HÀNH VĂN BẢN QUẢN LÝ NHÀ NƯỚC CỦA BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO Trong những năm qua, công tác xây dựng và ban hành văn bản QLNN đặc biệt là việc ban hành các văn bản QPPL của Bộ Giáo dục và Đào tạo đã đáp ứng một phần quan trọng trong việc quản lý lĩnh vực giáo dục của Bộ cũng như đáp ứng một phần quan trọng vào công cuộc đổi mới đất nước. Tuy nhiên, trên thực tế nhiều văn bản có tính khả thi chưa cao, chưa đáp ứng được nhu cầu của thực tiễn, vẫn còn nhiều bất cập trong xây dựng và ban hành văn bản của Bộ: Các sáng kiến xây dựng văn bản còn mang tính trực quan, thiếu tầm nhìn xa, dẫn đến tình trạng “ chỉ thấy cây chứ chưa thấy rừng”. Không thiếu những văn bản chưa quy định cụ thể , phải chờ các văn bản hướng dẫn thi hành. Điều đáng quan tâm hiện nay là lực lượng chuyên gia giỏi, có nhiều kinh nghiệm chưa được huy động vào việc tham gia soạn thảo, góp ý kiến và thẩm định văn bản. Do đó chất lượng văn bản còn có mặt hạn chế, chưa thực sự đáp ứng đòi hỏi của thực tiễn. Chính vì vậy việc hoàn thiện quy trình soạn thảo và ban hành văn bản là một yêu cầu hết sức cần thiết hiện nay. Việc hoàn thiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản trên cơ sở các định hướng sau: - Hoàn thiện quy trình thao hướng xây dựng một quy trình thống nhất, toàn diện, tuân thủ những quy định của pháp luật về xây dựng và ban hành văn bản. - Hoàn thiện quy trình theo hướng phát huy tính dân chủ, công khai, minh bạch trong việc xây dựng và ban hành văn bản. - Quy trình xây dựng và ban hành văn bản phải xác định rõ vai trò, trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân trong từng bước, từng khâu, từng bước trên cơ sởphù hợp với chức năng, nhiệm vụ mà các đơn vị được giao. Có thể đưa ra một số kiến nghị và giải pháp hướng tới hoàn thiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo như sau: 1. Lập dự kiến chương trình soạn thảo, ban hành văn bản dài hạn và hàng năm của Bộ Kế hoạch hoá hoạt động xây dựng và ban hành văn bản là một biện pháp quan trọng cần được củng cố, tăng cường nhằm đảm bảo cho công tác xây dựng và ban hành văn bản của Bộ được thực hiện một cách có tổ chức, có mục tiêu, có cơ sở khoa học và liên tục, đảm bảo tính thống nhất, đồng bộ và nhất quán của hệ thống văn bản mà Bộ ban hành. Bộ cần lập dự kiến chương trình soạn thảo văn bản QPPL về giáo dục giai đoạn 2006-2010 có tầm nhìn đến 2015. Chương trình này phải thể hiện rõ kết cấu của hệ thống văn bản QPPL điều chỉnh các quan hệ về giáo dục, hình thức văn bản, thứ tự ưu tiên trong đó chú ý việc ban hành các văn bản có hiệu lực pháp lý cao theo hướng quy định cụ thể, hạn chế các văn bản hướng dẫn. Việc xây dựng chương trình phải dựa trên cơ sở rà soát, hệ thống văn bản hiện hành. Trên cơ sở chương trình dài hạn và đòi hỏi của tình hình thực tiễn, Bộ tiến hành xây dựng kế hoạch cụ thể hàng năm trong đó xác định rõ tên, loại văn bản, lãnh đạo phụ trách, đơn vị chủ trì, đơn vị phối hợp, thời gian hoàn thành. Trong chương trình dài hạn và kế hoạch hàng năm, các văn bản dự kiến soạn thảo phải nêu rõ sự cần thiết, phạm vi và đối tượng điều chỉnh, nội dung chỉnh, thời gian và kinh phí thực hiện, dự báo tác động của văn bản… trước khi công bố thực hiện. Việc lập dự kiến chương trình soạn thảo văn bản dài hạn và hàng năm sẽ giúp cho các đơn vị biết được nhiệm vụ của đơn vị mình và có kế hoạch thực hiện trong việc hoàn thành công việc được giao, nâng cao trách nhiệm của đơn vị soạn thảo cũng như cá nhân soạn thảo.Có như vậy quy trình xây dựng và ban hành văn bản mới được thực hiện đầy đủ. 2. Hoàn thiện về thể chế, tổ chức Hoàn thiện hệ thống thể chế về ban hành văn bản QLNN là một nhiệm vụ cần thiết đặt ra hiện nay, nhằm tạo cơ sở pháp lý đầy đủ cho hoạt động xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo được thực hiện trong khuôn khổ và trật tự. Đối với các văn bản QPPL: trên cơ sở các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên, Bộ đã ban hành quy chế soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL về giáo dục kèm theo Quyết định số 15/2006/QĐ-BGDĐT ngày 25/4/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo. Quy trình xây dựng và ban hành các văn bản QPPL đã được tuân thủ đầy đủ trình tự theo quy chế và quy định của Luật ban hành văn bản QPPL. Tuy quy chế đã quy định khá đầy đủ về công tác ban hành các văn bản QPPL, nhưng vẫn còn chưa thực sự hoàn thiện, một số quy định còn chung chung chưa cụ thể. Có thể bổ sung một số nội dung nhằm hoàn thiện quy chế như sau: - Bộ cần quy định giá trị pháp lý của các văn bản thẩm định của Vụ Pháp chế để các đơn vị soạn thảo có ý thức tiếp thu nghiêm túc. - Bộ cần quy định cụ thể về cơ chế kiểm soát việc thực hiện các chương trình cũng như việc xử lý các vi phạm trong quy trình soạn thảo, ban hành văn bản của Bộ nhằm nâng cao trách nhiệm của các đơn vị, cá nhân soạn thảo văn bản. Đối với các văn bản hành chính: Quy trình soạn thảo văn bản hành chính của Bộ Giáo dục và Đào tạo vẫn còn nhiều bất cập dẫn đến văn bản ban hành sai về thể thức, phạm vi về thẩm quyền, mẫu mã…Nguyên nhân có thể do Bộ chưa có văn bản quy định cụ thể về trình tự xây dựng và ban hành văn bản hành chính. Do đó để hoàn thiện hệ thống thể chế của Bộ đảm bảo cho hoạt động xây dựng và ban hành các văn bản hành chính đi vào trật tự bộ cần: - Ban hành quy chế về soạn thảo, ban hành văn bản hành chính của Bộ, trong đó quy định cụ thể về trách nhiệm và quyền hạn của người soạn thảo và các đơn vị có liên quan cho mỗi công đoạn của quá trình soạn thảo. - Tiến hành mẫu hoá một số văn bản thông dụng để giảm tới mức tối thiếu các lỗi vi phạm về mẫu mã, cách trình bày, về thể thức của văn bản. Bên cạnh việc xây dựng, hoàn thiện cơ sở pháp lý cho công tác xây dựng và ban hành văn bản QLNN của Bộ, Bộ Giáo dục và Đào tạo cũng cần hoàn thiện cơ cấu tổ chức của Bộ để đảm nhận nhiệm vụ xây dựng và ban hành văn bản đáp ứng yêu cầu QLNN trong tình hình mới. Kiện toàn tổ chức của Bộ trên cơ sở phân định rõ chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của từng đơn vị, quy định cụ thể trách nhiệm của các đơn vị trong việc đề xuất và tiến hành xây dựng văn bản đặc biệt là các văn bản QPPL phù hợp với chuyên môn và lĩnh vực phụ trách của mình. Đặc biệt, cần kiện toàn tổ chức, củng cố và nâng cao vai trò của Vụ Pháp chế. Tiếp tục kiện toàn hệ thống pháp chế từ Bộ xuống các sở giáo dục và đào tạo, các đơn vị trực thuộc theo tinh thần Chỉ thị số 40/2004/CT-BGDĐT ngày 12/12/2004 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo về tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa trong ngành giáo dục. Bổ sung đủ số lượng và nâng cao năng lực cán bộ của Vụ Pháp chế, bố trí cán bộ phụ trách công tác pháp chế ở các đơn vị thuộc Bộ Giáo dục và Đào tạo, các sở giáo dục và đào tạo, các trường, các đơn vị trực thuộc Bộ. 3. Hoàn thiện các bước trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo Mỗi bước trong quy trình có vai trò nhất định trong việc xây dựng và ban hành văn bản, giữa các bước có mối quan hệ với nhau tạo nên quy trình thống nhất. Để hoàn thiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo trước hết cần hoàn thiện các bước trong quy trình đó. - Nâng cao chất lượng của bước soạn thảo văn bản: Chất lượng của văn bản phụ thuộc vào nhiều yếu tố khác nhau, vào việc thực hiện các bước trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản. Trong đó bước soạn thảo là bước giữ vai trò quan trọng nhất. Để thực hiện soạn thảo văn bản thì việc phân công Tổ soạn thảo để tiến hành soạn thảo là hết sức cần thiết. Bộ cần quy định trong thành phần soạn thảo gồm các thành viên sau: Thủ truởng đơn vị chủ trì để phân công, chỉ đạo đôn đốc và giám sát việc soạn thảo của các thành viên trong đơn vị mình; các cán bộ có trình độ chuyên môn để thực hiện các công việc: nghiên cứu đường lối, chính sách của Đảng và nhà nước, tổng kết tình hình thi hành pháp luật, đánh giá, khảo sát các quan hệ xã hội có liên quan đến nội dung cần soạn thảo; thành viên của các đơn vị có liên quan; ngoài ra để giải quyết những vấn đề phức tạp, còn tranh cãi, tăng tính khách quan cho việc giải quyết các vấn đề của dự thảo, đồng thời giúp cho việc lấy ý kiến thẩm định sau này được nhanh chóng cần có cán bộ của Vụ Pháp chế trong thành viên của Tổ soạn thảo. Các thành viên tham gia Tổ soạn thảo phải là những công chức có trình độ về pháp luật, có sự hiểu biết về những vấn đề mà văn bản sẽ điều chỉnh, có trách nhiệm với công việc được giao. Hiện nay việc phân công soạn thảo một số văn bản của Bộ vẫn giao cho một cá nhân phụ trách, họ phải thực hiện nhiều công việc cùng một lúc nên không có nhiều thời gian chuyên tâm vào công việc. Do vậy, Bộ cần quy định bắt buộc việc thành lập Tổ soạn thảo để phân công công việc cho các thành viên. Bộ cần có sự quan tâm thích đáng và xử lý tốt các vấn đề về kỹ thuật soạn thảo văn của các nhân trực tiếp tham gia soạn thảo. - Đẩy mạnh hoạt động lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo Lấy ý kiến tham gia xây dựng dự thảo là góp phần hoàn thiện dự thảo văn bản, nâng cao chất lượng cũng như tính khả thi của văn bản. Tuy các đơn vị chủ trì soạn thảo đã chú ý đến việc tổ chức lấy ý kiến nhưng việc lấy ý kiến của dự thảo mới chỉ dừng lại ở các đơn vị có liên quan trong khi đối tượng thi hành văn bản lại rất ít được lấy ý kiến. Do đó cần đẩy mạnh hoạt động lấy ý kiến của các đối tượng thi hành văn bản. Đối tượng thi hành văn bản tham gia càng nhiều ý kiến thì văn bản được xây dựng càng đáp ứng được yêu cầu của họ, càng có tính khả thi trong thực tế. Để việc lấy ý kiến được toàn diện cần thu hút được sự tham gia tích cực của các tổ chức chính trị - xã hội, các tổ chức xã hội nghề nghiệp, các tổ chức hoạt động trong lĩnh vực có liên quan đến giáo dục…Điều này sẽ giúp cho văn bản mang tính toàn diện và hoàn thiện theo hướng thiết thực nhất. Về hình thức tổ chức lấy ý kiến: cần đa dạng hoá các hình thức lấy ý kiến. Ngoài việc tổ chức các cuộc họp, hội thảo, gửi công văn lấy ý kiến, có thể cử cán bộ trực tiếp về cơ sở để lấy ý kiến, đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến của đông đảo tầng lớp nhân dân…làm tốt công tác này sẽ góp phần nâng cao hiệu quả của việc lấy ý kiến của đơn vị chủ trì soạn thảo. Để hoạt động lấy ý kiến có chất lượng thì việc lấy ý kiến phải được tiến hành có trọng tâm, tránh hiện tượng lấy ý kiến tràn lan hoặc ý kiến quá hẹp. - Nâng cao vai trò và tính pháp lý của hoạt động thẩm định dự thảo Thẩm định là khâu bắt buộc trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản QPPL của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Tất cả các văn bản QPPL trước khi trình Bộ trưởng ký đều phải qua Vụ Pháp chế để thẩm định. Tuy nhiên giá trị pháp lý của văn bản thẩm định còn hạn chế, mới chỉ ở dạng tư vấn, chưa có tính chất bắt buộc đối với đơn vị chủ trì trong việc tiếp thu, chỉnh lý dự thảo. Do đó Bộ cần quy định giá trị pháp lý của các văn bản thẩm định, phát huy vai trò của tổ chức Pháp chế trong công tác thẩm định văn bản, đồng thời quy định cụ thể trách nhiệm của Vụ Pháp chế trong việc thẩm định giá trị pháp lý của văn bản với chất lượng và tính khả thi của văn bản khi được ban hành. Để nâng cao chất lượng thẩm định đối với các nội dung cần thẩm định của văn bản, cần kiện toàn và nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ Vụ Pháp chế. Cần mở các lớp huấn luyện về kỹ năng thẩm định, kỹ năng phân tích chính sách, kỹ thuật soạn thảo và ban hành văn bản, nhằm tạo nền tảng kiến thức toàn diện cho cán bộ của Vụ Pháp chế. Hiện nay, cán bộ của Vụ pháp chế còn thiếu, cùng một lúc họ phải kiêm nhiệm nhiều công việc, đây là một trong những nguyên nhân ảnh hưởng đến chất lượng thẩm định văn bản. Do đó bộ cần bổ sung thêm biên chế cho Vụ để đáp ứng nhu cầu công việc ngày càng nhiều của Vụ. Những cán bộ này cần phải đảm bảo các yêu cầu về trình độ chuyên môn, kiến thức pháp luật, kiến thức về quản lý nhà nước. Việc thẩm định văn bản được thực hiện tốt sẽ nâng cao hiệu lực pháp lý của văn bản và có tính khả thi trong tực tế. Có thể thấy nâng cao vai trò của hoạt động thẩm định là yêu cầu cần thiết hiện nay. - Hoàn thiện các hoạt động xem xét, thông qua, công bố, gửi và lưu trữ văn bản Tất cả các văn bản trước khi trình Bộ trưởng ký ban hành đều phải được Văn phòng kiểm tra một cách nghiêm túc để đảm bảo văn bản có hình thức phù hợp với thẩm quyền, tuân thủ các yêu cầu về kỹ thuật và ngôn ngữ soạn thảo, được xây dựng và ban hành theo thủ tục trình tự quy định. Việc gửi đăng công báo: Bộ cần quy định và giao trách nhiệm cho Văn phòng gửi kịp thời đến cơ quan nhà nước có thẩm quyền để đăng công báo. Văn bản cần được công bố rộng rãi trên các phương tiện thông tin đại chúng để đối tượng thi hành biết và thực hiện. - Tăng cường công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá các văn bản hiện hành Định kỳ và thường xuyên tổ chức rà soát, hệ thống văn bản QPPL trên cơ sở đó hệ thống hoá các văn bản theo từng lĩnh vực cụ thể như quy định về hệ thống giáo dục và tổ chức, hoạt động của nhà trường; về nội dung, chương trình giáo dục, về tổ chức quá trình giáo dục, đánh giá kết quả giáo dục, về thanh tra, kiểm tra, xử lý vi phạm, …Trong quá trình rà soát và hệ thống hoá văn bản cần tiến hành phân loại và xác định những văn bản, những quy định nào không cần thiết, không còn hiệu lực hoặc chồng chéo, trùng lặp, hoặc cần bổ sung…kết quả có thể được bổ sung vào chương trình xây dựng văn bản của Bộ dưới dạng các văn bản cần ban hành mới hoặc văn bản để sửa đổi bổ sung. Bên cạnh việc rà soát, hệ thống hoá văn bản cần thường xuyên tiến hành kiểm tra văn bản nhằm phát hiện những nội dung trái pháp luật, mâu thuẫn, chồng chéo với các văn bản của các cơ quan nhà nước cấp trên… để kịp thời đình chỉ thi hành hoặc sửa đổi bổ sung, bãi bỏ, huỷ bỏ…đảm bảo tính hợp pháp, tính khả thi và tính thống nhất của văn bản. Tăng cường công tác kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản sẽ góp phần định hướng cho công tác soạn thảo văn bản của Bộ, góp phần tạo nên tính đồng bộ, thống nhất của văn bản. 4. Nâng cao nhận thức, năng lực, trình độ cho cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản Văn bản có vai trò quan trọng trong hoạt động quản lý nhà nước về giáo dục của Bộ Giáo dục và Đào tạo. Do vậy, Bộ cần tiến hành tuyên truyền sâu rộng để nâng cao nhận thức của các cấp lãnh đạo và các cán bộ công chức của Bộ về tầm quan trọng của văn bản cũng như công tác xây dựng và ban hành văn bản trong hoạt động quản lý, để họ có sự quan tâm và đầu tư thích đáng thời gian và công sức vào công việc được giao, nhằm nâng cao hiệu quả của công tác xây dựng và ban hành văn bản của Bộ. Đặc biệt, Bộ cần nâng cao nhận thức cho các cán bộ công chức về ý nghĩa của việc tuân thủ các quy trình xây dựng và ban hành văn bản đối với chất lượng của văn bản. Nâng cao trình độ cho cán bộ công chức đặc biệt là cán bộ công chức làm công tác soạn thảo văn bản là vấn đề cần thiết sớm được giải quyết. Bộ cần có biện pháp tăng cường đầu tư và có kế hoạch lâu dài trong công tác đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản. Các cán bộ làm công tác soạn thảo phải được trang bị những kiến thức chuyên môn sâu về lĩnh vực giáo dục, có kinh nghiệm và kiến thức quản lý nhà nước đối với ngành giáo dục, phải có những kiến thức về chính trị, pháp lý cần thiết, bên cạnh đó các yếu tố về nghiệp vụ, kỹ năng soạn thảo văn bản là những yếu tố không thể thiếu đối với những người làm công tác này. Để nâng cao trình độ cho cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản, mỗi năm Bộ có thể mở 1-2 lớp bối dưỡng, nâng cao năng lực soạn thảo văn bản cho 30-40 cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản ở các đơn vị thuộc Bộ; thường xuyên tổ chức tập huấn kỹ năng soạn thảo văn bản để cập nhật thông tin cho cán bộ soạn thảo văn bản ở các đơn vị thuộc Bộ; lựa chọn các cán bộ có trình độ, có khả năng gửi đi đào tạo cơ bản về lý luận và kỹ năng phân tích chính sách, kỹ năng soạn thảo văn bản ở trong và ngoài nước (mỗi năm khoảng 2-3 người). Bên cạnh đội ngũ cán bộ làm công tác soạn thảo cần chú trọng nâng cao năng lực, trình độ cho cán bộ làm công tác pháp lý của Bộ. Đây là lực lượng đóng góp một phần rất lớn vào việc nâng cao tính pháp lý, tính thống nhất, đồng bộ, tính khả thi của văn bản. Hiện nay, Vụ Pháp chế vẫn còn ở trong tình trạng thiếu cán bộ làm công tác pháp lý cả về số lượng và chất lượng, ảnh hưởng tới hiệu quả hoạt động xây dựng và thẩm định văn bản của Vụ. Bộ cần tiến hành đánh giá khả năng, trình độ của đội ngũ cán bộ làm công tác pháp lý của Vụ Pháp chế để có kế hoạch đào tạo, bồi dưỡng, đáp ứng yêu cầu hoạt động của Vụ, đồng thời bổ sung cán bộ có trình độ, hiểu biết pháp luật và nghiệp vụ pháp chế để từng bước hoàn thiện và nâng cao hiệu quả hoạt động xây dựng và thẩm định văn bản của Vụ Pháp chế. Để nâng cao trách nhiệm cũng như tạo điều kiện cho cán bộ chuyên tâm hơn vào công tác, Bộ cũng cần có quy định cụ thể về trách nhiệm, cơ chế giám sát và động viên khen thưởng kịp thời đối với cán bộ làm công tác soạn thảo và ban hành văn bản. Ngoài ra, Bộ cần xem xét tình hình để bố trí thêm cán bộ làm công tác soạn thảo cho các đơn vị thuộc Bộ, tránh tình trạng cán bộ kiêm nhiệm nhiều công việc khác nhau, không chuyên tâm vào việc soạn thảo. Trong việc lựa chọn cán bộ làm công tác soạn thảo cũng cần đưa ra những tiêu chí cụ thể: phải là người có kiến thức chuyên môn của ngành, lĩnh vực được giao soạn thảo, có kiến thức pháp luật liên quan đến chuyên ngành và công tác soạn thảo văn bản, am hiểu thực tế, có khả năng đưa ra đề xuất, sáng kiến trong quá trình soạn thảo, có tinh thần trách nhiệm trong công việc. Việc nâng cao nhận thức, năng lực cho cán bộ làm công tác soạn thảo văn bản là một yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay. Làm tốt công tác này sẽ góp phần nâng cao công tác xây dựng và ban hành văn bản của Bộ. 5. Tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức và cá nhân vào việc nâng cao chất lượng văn bản Nâng cao chất lượng của hoạt động xây dựng văn bản là yêu cầu cấp thiết đặt ra hiện nay đối với các cơ quan nhà nước nói chung cũng như đối với Bộ Giáo dục và Đào tạo. Cần phải có sự phối hợp đồng bộ của các cơ quan có liên quan trong việc tham gia xây dựng văn bản. Bộ cần có sự phân công hợp lý cho các cơ quan về những công việc liên quan đến nội dung soạn thảo đồng thời phải quy định rõ ràng trách nhiệm cũng như thời gian thực hiện. Như thế mới tạo được sự phối hợp giữa các cơ quan trong việc xây dựng văn bản. Ngoài ra, để đảm bảo chất lượng và tính khả thi của văn bản, khi ban hành văn bản cần phải chú trọng vấn đề thu hút sự tham gia đông đảo của các chuyên gia, các nhà khoa học, các nhà chuyên môn, các đối tượng phải thi hành văn bản và công dân vào công tác xây dựng văn bản. Cần phải xác định phạm vi, phương thức thích hợp của việc tham gia ý kiến của các cơ quan, tổ chức, cá nhân và công dân trong giai đoạn soạn thảo. Việc lấy ý kiến là bắt buộc đối với mọi dự thảo. Cần tăng cường sự phối hợp giữa các cơ quan, tổ chức, cá nhân vào việc tham gia xây dựng văn bản bằng cách đa dạng hoá các hình thức tham gia ý kiến. Thường việc lấy ý kiến hiện nay mới chỉ thông qua hình thức gửi công văn để lấy ý kiến và qua các cuộc họp, trong khi việc cử cán bộ trực tiếp xuống cơ sở để lấy ý kiến hoặc đưa lên các phương tiện thông tin đại chúng để lấy ý kiến ít được quan tâm, vì thế mà chưa tạo được sự phối hợp chặt chẽ trong việc lấy ý kiến. Cần chú ý thích đáng các hình thức lấy ý kiến này. 6. Xây dựng kế hoạch kinh phí phục vụ cho việc xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Đảm bảo kinh phí cho công tác soạn thảo văn bản là một nhu cầu cấp thiết, góp phần đảm bảo tiến độ và chất lượng của văn bản ban hành. Bộ cần tiến hành xây dựng kế hoạch kinh phí hàng năm phục vụ cho công tác soạn thảo. Kinh phí phục vụ cho việc soạn thảo, ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo cần được xây dựng thành kế hoạch bao gồm: kinh phí rà soát, hệ thống hoá các văn bản hiện hành; nghiên cứu thực tiễn trong và ngoài nước; tổ chức đào tạo, bồi dưỡng cán bộ làm công tác soạn thảo… Kinh phí xây dựng văn bản hàng năm được ghi thành mục riêng trên cơ sở kế hoạch xây dựng từng văn bản cụ thể. Bên cạnh nguồn kinh phí của Bộ, kinh phí cần được huy động từ nhiều nguồn như: kinh phí quản lý nhà nước, các chương trình, mục tiêu, các dự án trong và ngoài nước... 7. Thường xuyên tổng kết, đúc rút kinh nghiệm Bộ Giáo dục và Đào tạo cần thường xuyên tổ chức các đợt tổng kết quý, 6 tháng, và hàng năm để xem xét, đánh giá những việc đã làm được, những hạn chế thiếu sót để tìm các biện pháp khắc phục. Đồng thời qua các đợt tổng kết ban lãnh đạo sẽ đúc rút kinh nghiệm và xây dựng kế hoạch hành động cho phù hợp hơn. KẾT LUẬN Văn bản là công cụ quan trọng không thể thiếu để đảm bảo hoạt động thường xuyên, liên tục của mọi cơ quan, tổ chức nói chung và của Bộ Giáo dục và Đào tạo nói riêng. Chúng vừa là phương tiện, vừa là sản phẩm của hoạt động quản lý. Nhận thức được tầm quan trọng của của công tác văn bản, lãnh đạo Bộ Giáo dục và Đào tạo đã rất quan tâm, đầu tư, tạo điều kiện, ban hành các quy chế quy định để việc ban hành văn bản tuân theo đúng quy trình quy định. Vì vậy chất lượng, hiệu quả của các văn bản QPPL cũng như các văn bản hành chính do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành ngày càng nâng cao, có tính khả thi và đáp ứng tốt nhu cầu của hoạt động quản lý nhà nước của Bộ. Tuy nhiên bên cạnh những kết quả đạt được công tác xây dựng và ban hành văn bản của Bộ vẫn còn tồn tại một số hạn chế thiếu sót trong quy trình xây dựng và ban hành văn bản cần sớm được khắc phục. Trách nhiệm của Bộ Giáo dục và Đào tạo trong việc kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản cần được đề cao và có sự quan tâm đúng mức. Trước yêu cầu của công cuộc đổi mới đất nước, công tác xây dựng và ban hành văn bản QLNN của Bộ Giáo dục và Đào tạo và các cơ quan nhà nước nói chung ngày càng trở thành một yêu cầu bức thiết hiện nay. Vì vậy với những đề xuất, kiến nghị trong khoá luận này, tác giả hy vọng sẽ góp phần nhỏ bé vào việc hoàn thiện quy trình xây dựng và ban hành văn bản của Bộ Giáo dục và Đào tạo nhằm nâng cao chất lượng của các văn bản do Bộ ban hành. Do thời gian có hạn, phạm vi đề tài rộng, bản thân lại chưa trải qua kinh nghiệm thực tế nên khoá luận khó tránh khỏi những thiếu sót nhất định. Em rất mong được các thầy cô giáo và các độc giả đóng góp ý kiến để khoá luận tốt nghiệp được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO A. Văn bản pháp luật 1. Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992, sửa đổi năm 2001. 2. Luật Ban hành văn bản QPPL (1996). 3. Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL (2002). 4. Nghị định 161/2005/NĐ-CP ngày 27/12/2005 của Chính phủ quy định chi tiết và hướng dẫn thi hành một số điều của Luật ban hành văn bản QPPL và Luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật Ban hành văn bản QPPL. 5. Nghị định 86/2002/NĐ-CP ngày 05/11/2002 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn của bộ, cơ quan ngang bộ. 6. Nghị định 85/2003/NĐ-CP ngày 18/7/2003 của Chính phủ quy định chức năng, nhiệm vụ, quyền hạn và cơ cấu tổ chức của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 7. Nghị định 135/2003/NĐ-CP ngày 14/11/2003 của Chính phủ về Kiểm tra và xử lý văn bản QPPL. 8. Nghị định 104/2004/NĐ-CP ngày 23/3/2004 của Chính phủ về Công báo nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam. 9. Nghị định 110/2004/NĐ-CP ngày 8/4/2004 của Chính phủ về công tác văn thư. 10. Thông tư 55/2005/TTLT-BNV-VPCP ngày 06/5/2005 của Bộ Nội vụ và Văn phòng Chính phủ hướng dẫn về thể thức và kỹ thuật trình bày văn bản. 11. Quyết định 15/2006/QĐ-BGDĐT ngày 25/4/2006 của Bộ trưởng Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành quy chế soạn thảo, thẩm định, ban hành, kiểm tra và xử lý văn bản QPPL về giáo dục. B. Sách tham khảo 12. Giáo trình Kỹ thuật xây dựng và ban hành văn bản – Học viện Hành chính Quốc gia – H.: ĐHQG, 2004. 13. Nguyễn Văn Thâm. Soạn thảo và xử lý văn bản QLNN – H.: CTQG, 2006. 14. Lưu Kiếm Thanh. Hướng dẫn soạn thảo văn bản quản lý hành chính nhà nước – Xuất bản lần 1, H.: TK, 1999, Xuất bản lần 2, H.: TK, 2002. 15. Lưu Kiếm Thanh. Hướng dẫn soạn thảo văn bản lập quy – H.: TK, 1999. 16. Tạ Hữu Ánh. Soạn thảo, ban hành và quản lý văn bản QLNN. H.: CTQG, 1999. 17. Sổ tay hướng dẫn nghiệp vụ soạn thảo, thẩm định văn bản QPPL – Dự án Vie/98/01- Nhà XB Văn hoá Dân tộc và Bộ Tư pháp, 2002. 18. Quy trình soạn thảo văn bản QPPL – Dự án Vie/94/2003 - Nhà XB Văn hoá Dân tộc và Bộ Tư pháp, 2002. C. Tài liệu tham khảo khác 19. Đề án nâng cao chất lượng soạn thảo, ban hành văn bản QPPL của Bộ Giáo dục và Đào tạo. 20. Báo cáo số 4693/BC-BGDĐT về tình hình công tác soạn thảo, ban hành, kiểm tra, rà soát, hệ thống hoá văn bản QPPL năm 2006 của Bộ Giáo dục và Đào tạo. DANH MỤC TỪ VIẾT TẮT Hội đồng nhân dân : HĐND Uỷ ban nhân dân : UBND Văn bản quy phạm pháp luật : Văn bản QPPL Quản lý nhà nước : QLNN MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docHCD (21).doc
Tài liệu liên quan