Khóa luận Thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng: Thực trạng và giải pháp

- Ban hành bổ sung các quy định cụ thể, chi tiết về nội dung, quy trình và phương pháp thẩm định. - Ngân hàng cũng cần thu thập các thông tin về các chỉ tiêu hiệu quả của các ngành, lĩnh vực giúp cho các cán bộ thẩm định ở các chi nhánh dưới dễ dàng có sự so sánh giúp đưa ra các nhận xét chính xác. - Hàng năm, tổ chức các buổi hội nghị tổng kết kinh nghiệm trong toàn hệ thống ngân hàng nông nghiệp, nhằm đánh giá những mặt đạt được, hạn chế trong năm, rút kinh nghiệm và đề ra định hướng mục tiêu trong năm tới. - Ngân hàng nông nghiệp cấp trên cũng cần có các biện pháp hỗ trợ các ngân hàng cấp dưới trong việc thuê chuyên gia tư vấn giúp các cán bộ thẩm định có thể thẩm định tốt các khía cạnh phức tạp, đòi hỏi phải có sự chuyên môn sâu.

doc99 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1589 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn Hai Bà Trưng: Thực trạng và giải pháp, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
-21552 5395 7282 6418 6478 6541 6611 6740 6927 7119 7318 Dòng tiền thuần -21552 4817 5805 4568 4117 3712 3349 3049 2798 2567 2356 Dòng tiền thuần cộng dồn -21552 -16735 -10930 -6362 -2245 1467 4816 7865 10662 13229 15585 Thời gian hoàn vốn 4 < T < 5 năm NPV 15585.43 IRR 27% Kết quả tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính: + NPV = 15.585,43 (triệu VNĐ) + IRR = 27% + Thời gian hoàn vốn đầu tư: 4 < T < 5 (4). Đánh giá mức độ rủi ro của dự án * Giả định do cạnh tranh, giá bán giảm, dẫn đến doanh thu giảm, chi phí không thay đổi: Bảng12. phân tích độ nhạy của dự án trong trường hợp doanh thu giảm: Chỉ tiêu NPV (Triệu VNĐ) IRR (%) T (Năm) Doanh thu ban đầu 15.585,43 27 4 < T < 5 Doanh thu giảm 3% 9.045,34 21 5 < T < 6 Doanh thu giảm 5% 4.685,25 17 7 < T < 8 Doanh thu giảm 7% 325,22 12 9 < T < 10 Doanh thu giảm 8% -1.854,81 10 Như vậy: +Doanh thu giảm tới 7%, NPV > 0 : dự án vẫn có tính khả thi. + Doanh thu giảm 8%, NPV < 0: dự án không có tính khả thi về mặt tài chính. * Khả năng hoàn vốn của dự án: Nguồn hoàn vốn của dự án là từ lợi nhuận và khấu hao hàng năm. Năm 2006, nhà máy bắt đầu xây dựng, công ty chưa có kế hoạch hoàn vốn và trả nợ. Sang năm 2007, nhà máy đi vào hoạt động. Do đó, từ năm 2007, công ty mới có kế hoạch hoàn vốn đầu tư và trả nợ ngân hàng, công ty dự kiến nguồn hoàn vốn và trả nợ như sau: Hoàn vốn chung: Nguồn hoàn vốn chung lấy 100% vốn khấu hao và 50% tổng lợi nhuận sau thuế. Bảng 13: Nguồn hoàn vốn chung của dự án Nguồn HV 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Khấu hao TSCĐ 2155 2155 2155 2155 2155 2155 Lợi nhuận 660 1699 1459 1682 1905 2132 Cộng 2815 3854 3614 3837 4060 4287 Lũy kế 2815 6669 10284 14120 18180 22467 (Nguồn: Báo cáo thẩm định dự án) Như vậy thời gian hoàn vốn chung của dự án là ≈ 5,7 năm Khả năng hoàn vốn vay: Nguồn hoàn vốn vay của dự án dự tính là 100% khấu hao và 30% phần lợi nhuận sau thuế. Bảng 14: Nguồn hoàn vốn vay của dự án Nguồn HV 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Khấu hao TSCĐ 2155 2155 2155 2155 2155 2155 Lợi nhuận 396 1020 876 1009 1143 1279 Cộng 2551 3175 3031 3164 3298 3434 Lũy kế 2551 5726 8756 11920 15218 18652 (Nguồn: Báo cáo thẩm định dự án) Như vậy khi dự án thực thi thì sẽ có nguồn trả nợ theo kế hoạch đề ra, thời gian hoàn vốn vay của dự án ≈ 5,2 năm. * Kế hoạch vay và trả nợ vốn vay - Kế hoạch vay vốn: Theo kế hoạch, thời hạn vay vốn là 72 tháng, trong đó 12 tháng thực hiện xây dựng nhà máy theo tiến độ đã định. - Kế hoạch trả nợ + Tiền gốc trả đều trong các quý. Thời điểm trả nợ đầu tiên vào 15/07/2007 (Sau 3 tháng nhà máy đi vào hoạt động). + Tiền lãi trả hàng quý theo số dư thực tế Bảng 15: Kế hoạch vay và trả nợ: KH vay, trả nợ KH vay KH trả nợ 2006 2007 2007 2008 2009 2010 2011 2012 Quý I 600 800 800 800 800 800 Quý II 5.200 800 800 800 800 800 Quý III 800 800 800 800 800 Quý IV 10.200 800 800 800 800 800 Tổng cộng 15.400 600 1.600 3.200 3.200 3.200 3.200 1.600 (Nguồn: Báo cáo thẩm định dự án) Nhận xét: + NPV = 15.585,43 (Triệu VNĐ) > 0 : Dự án có tính khả thi về mặt tài chính (chỉ tính trong thời gian 10 năm hoạt động của dự án). + IRR = 27 % > 12% : Dự án có thể được chấp nhận. + Thời gian hoàn vốn < 5 năm: chứng tỏ khả năng thu hồi vốn của dự án cao. + Dự án sẽ hoàn trả cả vốn và lãi cho ngân hàng sau 6 năm. 4.4.5.2. Hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án: Dự án đầu tư xây dựng nhà máy in công ty cổ phần bao bì và in nông nghiệp là dự án xây mới, đầu tư trang thiết bị tương đối hiện đại. Do đó, khi dự án hoàn thành sẽ tạo ra bước phát triển mới về cả số lượng và chất lượng, tạo thêm công ăn việc làm cho người lao động, tăng thêm lợi nhuận cho công ty và đóng góp thêm cho ngân sách nhà nước. 4.4.6. Đánh giá và kiến nghị của cán bộ tín dụng - Đánh giá: + Hoạt động của doanh nghiệp có đầy đủ tư cách pháp nhân, chủ đầu tư có năng lực pháp luật dân sự và năng lực hành vi dân sự. + Mục đích sử dụng vốn hợp pháp. + Khả năng tài chính: Nguồn vốn của chủ sở hữu tương đối cao và ổn định, khả năng phát triển và tăng trưởng tốt, có khả năng trả nợ ngân hàng đúng hạn trong thời hạn vay vốn. + Dự án đầu tư có tính khả thi cao. + Bảo đảm tiền vay: cho vay không có bảo đảm bằng tài sản, do công ty được ngân hàng xếp loại A theo tiêu chí phân loại khách hàng của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam, tại văn bản số 1261/NHN0-06 ngày 13/04/2004 và phiếu xếp loại doanh nghiệp ngày 05/02/2006. - Kiến nghị: Trên cơ sở các kết quả thẩm định trên, phòng tín dụng trình Ban Giám đốc xem xét và quyết định cho Công ty cổ phần bao bì và in Nông nghiệp vay với các điều kiện: + Phương thức cho vay: Theo dự án đầu tư. + Số tiền cho vay: 16.000.000.000 VNĐ (mười sáu tỷ đồng). + Mục đích sử dụng tiền vay: Đầu tư xây dựng dự án nhà máy in của Công ty cổ phần bao bì và in Nông nghiệp tại Cụm công nghiệp Ngọc Hồi. + Thời hạn cho vay: 72 tháng. + Thời gian xây dựng: 12 tháng. + Lãi suất cho vay: lãi suất 0,95%/ tháng; áp dụng lãi suất thả nổi, cứ 06 tháng điều chỉnh một lần theo quy định lãi suất của Ngân hàng N0&PTNT Hà Nội. + Phương thức giải ngân: Giải ngân bằng chuyển khoản, phát tiền vay theo tiến độ thi công công trình. + Trả lãi theo quý. 4.5. Nhận xét về công tác thẩm định dự án “Dự án đầu tư xây dựng nhà máy in công ty cổ phần bao bì và in Nông nghiệp” - Mặt đạt được: Công tác thẩm định dự án “Dự án đầu tư xây dựng nhà máy in công ty cổ phần bao bì và in Nông nghiệp” được thực hiện theo đúng quy trình thẩm định từ nhận hồ sơ, thẩm định và ra quyết định cho vay. Phương pháp thẩm định được sử dụng một cách linh hoạt. Cán bộ thẩm định đã tính đến các dự báo trong tương lai và sử dụng phương pháp độ nhạy trong quá trình thẩm định. Về cơ bản, cán bộ thẩm định đã đánh giá được dự án trên nhiều khía cạnh liên quan: tính pháp lý, thị trường, kỹ thuật, hiệu quả tài chính, hiệu quả kinh tế xã hội của dự án. Đặc biệt, cán bộ thẩm định đã tiến hành thẩm định dự án khá kỹ và tương đối đầy đủ trên các nội dung như: Khía cạnh pháp lý của dự án, năng lực pháp luật dân sự, khả năng tài chính của khách hàng. Khi đánh giá về hiệu quả tài chính, cán bộ thẩm định đã xác định được các chỉ tiêu hiệu quả tài chính. Đồng thời, cán bộ thẩm định còn sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy để tính sự thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả khi yếu tố giá bán thay đổi, dẫn đến doanh thu thay đổi. Trong quá trình thẩm định, bên cạnh những thông tin từ phía khách hàng, cán bộ thẩm định đã sử dụng những thông tin khác nhau từ sách, báo, tạp chí, internet để tăng tính chính xác cho kết quả thẩm định. - Mặt hạn chế: Mặc dù các nội dung chính của dự án đã được cán bộ thẩm định tương đối đầy đủ. Song vẫn còn những khía cạnh chưa được phân tích một cách cặn kẽ. Cụ thể là: Khi thẩm định khía cạnh thị trường, cán bộ thẩm định đã xem xét tình hình sản xuất của các cơ sở sản xuất sản phẩm cùng loại, nhưng lại chưa đánh giá được ưu thế, khả năng cạnh tranh về sản phẩm của dự án. Mặc dù công ty đã có những bạn hàng truyền thống là những khách hàng lớn đã có tên tuổi, nên thị trường tiêu thụ sản phẩm của công ty khá là ổn định. Song để đảm bảo hiệu quả lâu dài, cán bộ thẩm định cũng cần xác định được chênh lệch cung cầu của sản phẩm trong hiện tại và tương lai, số sản phẩm có khả năng sẽ tiêu thụ được. Trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định đã bỏ qua vấn đề này mà mới chỉ xác định thị trường sản phẩm thông qua việc xem xét nhu cầu của những khách hàng đã và đang ký hợp đồng với công ty. Khi thẩm định khía cạnh kỹ thuật, cán bộ thẩm định chưa xem xét kỹ máy móc thiết bị về công suất, giá cả, mức độ hiện đại, mức độ phù hợp với dự án, mà mới chỉ đánh giá dựa trên những nhận định khách hàng đưa ra. Việc đánh giá các giải pháp xây dựng còn sơ sài, chưa đánh giá được kết cấu công trình có phù hợp với hoạt động sản xuất của nhà máy không. Nguyên vật liệu phục vụ cho quá trình sản xuất của nhà máy được cung cấp từ nguồn trong nước và nước ngoài. Song, cán bộ thẩm định mới chỉ xem xét nguồn cung cấp nguyên vật liệu trong nước, mà chưa xét đến nguồn cung cấp, phương thức vận chuyển, khả năng tiếp nhận, giá cả, số lượng cũng như chất lượng nguyên vật liệu nhập khẩu ở nước ngoài. Về thẩm định phương diện tổ chức thực hiện và khả năng sử dụng lao động, cán bộ thẩm định mới đưa ra được nhu cầu, hướng tuyển dụng và đào tạo lao động của dự án mà chưa có sự đánh giá về phương diện tổ chức, quản lý thực hiện dự án. Khi thẩm định hiệu quả tài chính, cán bộ thẩm định đã tiến hành phân tích độ nhạy trong trường hợp canh tranh, giá bán giảm dẫn đến doanh thu giảm; nhưng chưa phân tích sự thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả khi chi phí đầu vào thay đổi theo hướng bất lợi. Việc tính toán nguồn trả nợ và khả năng trả nợ của dự án còn sơ sài, chưa tính đến các yếu tố rủi ro và đưa việc phân tích rủi ro vào tính toán nguồn trả nợ của dự án. III. Đánh giá công tác thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp tại Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng Qua việc xem xét quy trình, phương pháp, nội dung thẩm định, công tác thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp của Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng đã đặt được nhiều kết quả, nhưng cũng còn không ít những tồn tại. 1. Kết quả đạt được 1.1. Quy trình thẩm định Quy trình thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp được tiến hành một cách nghiêm túc, theo quy định của hệ thống Ngân hàng No&PTNT từ nhận hồ sơ, thẩm định và ra quyết định cho vay, với phương châm: đẩy mạnh cho vay đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng mà cụ thể ở đây là cho vay đối với khách hàng có đủ điều kiện, dự án vay vốn khả thi. 1.2. Phương pháp thẩm định Trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định đã sử dụng đồng thời nhiều phương pháp khác nhau. Tuỳ thuộc vào khía cạnh thẩm định, các phương pháp có khi được sử dụng song hành, có khi lại được sử dụng riêng rẽ. Việc sử dụng linh hoạt các phương pháp thẩm định đã góp phần làm tăng tính hiệu quả cho công tác thẩm định. Đặc biệt, trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định đã sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy để đánh giá mức độ an toàn của dự án. 1.3. Nội dung thẩm định Các nội dung cần thẩm định đều được quy định khá chi tiết và cụ thể trong Hướng dẫn thẩm định cho vay do Hội sở chính Ngân hàng No&PTNT ban hành. Các nội dung thẩm định khá đầy đủ nhằm đánh giá tính khả thi của dự án trên các phương diện khác nhau. Đặc biệt, cán bộ thẩm định đã tập trung phân tích kỹ các chỉ tiêu tài chính của dự án vì nó có ảnh hưởng trực tiếp tới khả năng trả nợ của dự án. 1.4. Cán bộ thẩm định Mặc dù đội ngũ cán bộ thẩm định tại ngân hàng đa số là các cán bộ trẻ, nhưng lại là những cán bộ có năng lực, có tinh thần học tập, trao đổi để nâng cao trình độ chuyên môn, kỹ năng giao tiếp và quan hệ với khách hàng. Các cán bộ thẩm định tại ngân hàng luôn nhận thức được trách nhiệm của mình trong công tác thẩm định. Điều này đã góp phần làm nên chất lượng công tác thẩm định dự án tại ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng. Trong suốt quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định luôn tuân thủ quy trình, nội dung thẩm định đã được quy định. Tuy nhiên, tuỳ vào đặc điểm cụ thể của mỗi dự án, cán bộ thẩm định đã có sự linh hoạt trong việc sử dụng các phương pháp, tập trung vào các nội dung khác nhau. 1.5. Thông tin trong quá trình thẩm định Bên cạnh những thông tin từ phía khách hàng, trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định còn thu thập thêm những thông tin khác nhau từ sách, báo, tạp chí, internet nhằm tăng tính chính xác cho kết quả thẩm định. Phòng tín dụng, nơi tiến hành thẩm định dự án tại ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng được trang bị đầy đủ các trang thiết bị như: máy vi tính, máy in, máy Fax, internet và các phần mềm hỗ trợ góp phần đa dạng nguồn thông tin, hiện đại hóa nguồn thông tin cung cấp cho công tác thẩm định. Việc sử dụng các công nghệ ngân hàng đã giúp cho công tác thẩm định được diễn ra nhanh chóng, nhưng vẫn đảm bảo tính chính xác, ngoài ra còn thúc đẩy việc trao đổi thông tin giữa các tổ chức tín dụng khác, rút ngắn thời gian thu thập thông tin về khách hàng, về dự án, từ đó rút ngắn thời gian thẩm định. 2. Tồn tại và nguyên nhân 2.1. Tồn tại 2.1.1. Quy trình thẩm định Mỗi loại dự án khác nhau lại có những đặc điểm, đặc trưng khác nhau. Trong bối cảnh nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu xây dựng cơ sở hạ tầng, nhà máy, mua sắm máy móc, thiết bị ngày một gia tăng, các dự án trong lĩnh vực xây dựng công nghiệp có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng không ngừng gia tăng cả về số lượng và quy mô vốn. Điều này đòi hỏi công tác thẩm định cần nhanh chóng đưa ra kết luận chấp nhận hay từ chối cho vay đối với dự án, nhưng vẫn đảm bảo được chất lượng của các kết quả thẩm định. Việc thực hiện một quy trình thẩm định chung đối với tất cả các dự án đã làm cho quá trình thẩm định trở nên máy móc, rườm rà, quá nhiều thủ tục hành chính, đặc biệt đối với những dự án có quy mô vay vốn nhỏ, đơn giản; song lại vội vàng thẩm định mang tính hình thức ở nhiều nội dung đối với các dự án có quy mô lớn, tính chất phức tạp. 2.1.2. Phương pháp thẩm định Mặc dù, cán bộ thẩm định đã sử dụng nhiều phương pháp trong quá trình thẩm định. Song, cán bộ thẩm định vẫn chưa thực sự chú trọng đến phương pháp dự báo và phương pháp quán triệt rủi ro để phân tích khả năng thực hiện dự án, thị trường đầu ra, đầu vào, khả năng tiêu thụ sản phẩm của dự án. Dự án là tập hợp các yếu tố dự kiến trong tương lai, từ khi thực hiện dự án đến khi dự án hoàn thành, đi vào vận hành, khai thác, thời gian hoàn vốn thường rất dài, do đó, có rất nhiều rủi ro có thể xảy ra. Điều này đỏi hỏi cán bộ thẩm định cần có tầm nhìn xa, cần dự báo trước được những biến động, những rủi ro có thể xảy ra, gây ảnh hưởng trực tiếp đến tính khả thi của dự án. Tránh trường hợp các dự án khả thi ở thời điểm hiện tại, nhưng khi đi vào thực hiện, vận hành, khai thác, có nhiều biến động khiến cho dự án không khả thi, gây ảnh hưởng lớn đến khả năng thu hồi vốn và lãi của ngân hàng. Trong khi đó, phương pháp thẩm định theo trình tự lại được sử dụng một cách máy móc, nhất là đối với các dự án có quy mô nhỏ, nhưng trình tự thẩm đinh lại rườm rà, gây mất nhiều thời gian, ảnh hưởng tới việc thẩm định các dự án khác. 2.1.3. Nội dung thẩm định Trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định đã đánh giá dự án trên nhiều khía cạnh khác nhau. Tuy nhiên, việc đánh giá dự án mới chỉ chú trọng đến thẩm định tài chính, chưa chú trọng đến việc thẩm định hiệu quả kinh tế-xã hội của dự án. Việc thẩm định hiệu quả kinh tế xã hội của dự án mới chỉ dừng lại ở việc xem xét các đánh giá mà chủ đầu tư đưa ra, còn thiếu tìm hiểu thực tế về dự án. Khi sử dụng phương pháp phân tích độ nhạy trong thẩm định hiệu quả tài chính của dự án, cán bộ thẩm định thường chỉ xem xét sự thay đổi của các chỉ tiêu hiệu quả tài chính khi một yếu tố liên quan thay đổi. Trong khi đó, các yếu tố ảnh hưởng lớn đến các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án là rất nhiều như: vượt chi phí đầu tư, giá các chi phí đầu vào tăng, giá tiêu thụ sản phẩm giảm… Hơn nữa, yếu tố liên quan đến hiệu quả tài chính mà cán bộ thẩm định lựa chọn để tiến hành phân tích độ nhạy thường lại là yếu tố mà khách hàng đã chọn để phân tích độ nhạy trong dự án. Tức là những yếu tố này đã làm cho dự án có độ an toàn cao. Nếu chỉ dừng lại ở việc phân tích độ nhạy ở một yếu tố đó, cán bộ thẩm định rất dễ có thể đưa ra kết luận không chính xác. Việc đánh giá khía cạnh kỹ thuật của dự án: máy móc, trang thiết bị, dây chuyền công nghệ, nhà xưởng hoàn toàn chỉ dựa trên những thông tin mà khách hàng cung cấp cộng với việc tham quan nhà xưởng của cán bộ thẩm định mà thiếu ý kiến chuyên gia trong việc đánh giá mức độ phù hợp của công nghệ, thiết bị mà dự án lựa chọn. Điều này gây ra rủi ro lớn đối với ngân hàng do các dự án xây dựng công nghiệp thường đòi hỏi chuyên môn về quy trình công nghệ, về cơ khí, tự động hóa, an toàn ở mức độ cao. Khi đánh giá thị trường, nhất là thị trường nguyên vật liệu của dự án đặc biệt là các dự án nhập khẩu nguyên vật liệu, cán bộ thẩm định mới chỉ xem xét nguồn cung cấp nguyên vật liệu mà chưa đánh giá được khả năng cung cấp nguyên vật liệu theo yêu cầu của dự án, hoặc nếu có thì cũng chỉ dựa trên những thông tin cung cấp từ khách hàng, hoặc do cán bộ tự tìm, không có nguồn cung cấp thông tin chính thống. Bên cạnh đó, khi thẩm định, cán bộ thẩm định vẫn còn coi nhẹ việc đánh giá lại doanh thu và chi phí của dự án. Song đây lại là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả dự án từ đó ảnh hướng tới khả năng trả nợ của dự án. Việc tính toán khả năng trả nợ của dự án còn sơ sài, chưa tính đến các yếu tố rủi ro và đưa việc phân tích rủi ro vào tính toán nguồn trả nợ của dự án. Đối với các dự án xây dựng công nghiệp, cán bộ thẩm định cần đặc biệt chú ý hơn tới tổng mức đầu tư, việc triển khai sử dụng vốn, tiến độ cũng như chất lượng công trình, mức độ phù hợp của máy móc, trang thiết bị. Xong thực tế trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định vẫn chưa chú ý đúng mức tới các nội dung này. 2.1.4. Cán bộ thẩm định Hầu hết các cán bộ thẩm định tại ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng đều là những cán bộ trẻ. Bên cạnh những thế mạnh là năng động, nhanh chóng tiếp thu được những kiến thức mới, thì những cán bộ thẩm định vẫn chưa có kinh nghiệm sâu trong lĩnh vực thẩm định. Cán bộ thẩm định tại ngân hàng mặc dù có năng lực, song vẫn còn thiếu kỹ năng trong thẩm định dự án, đặc biệt là đối với các dự án xây dựng công nghiệp. Trong quá trình thẩm định, cán bộ làm việc chủ yếu theo kiểu đa năng: một cán bộ thẩm định có thể thẩm định nhiều loại dự án khác nhau. Điều này giúp cán bộ thẩm định tích luỹ được nhiều kinh nghiệm, song lại không đi sâu vào một chuyên ngành cụ thể, nên không có nhiều kiến thức chuyên ngành. Khi nộp hồ sơ vay vốn, các dự án đặc biệt là các dự án xây dựng công nghiệp thường có những thông số kỹ thuật máy móc chuyên ngành, các thông số về kết cấu… hoàn toàn xa lạ với cán bộ thẩm định. Do đó, mà khi thẩm định, cán bộ thẩm định thường coi nhẹ, không tập trung đúng mức vào việc xem xét các khía cạnh này. Song đây lại là những khía cạnh đặc biệt quan trọng, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng sản phẩm của dự án. 2.1.5. Thông tin phục vụ cho công tác thẩm định Thông tin chủ yếu phục vụ cho công tác thẩm định là từ hồ sơ vay vốn, mà hồ sơ vay vốn lại do khách hàng lập, cộng với việc thiếu đi thực tế ở một số dự án đã khiến cho các kết quả thẩm định thiếu tính khách quan. 2.1.6. Công nghệ và cơ sở vật chất ngân hàng phục vụ cho công tác thẩm định Hiện tại, phòng thẩm định và thanh toán quốc tế nơi thẩm định các dự án vay vốn mới chỉ có 2 máy in, còn máy photo dùng chung với các phòng chức năng khác. Với nhu cầu vay vốn ngày một gia tăng, số lượng các dự án cần thẩm định nói chung và các dự án xây dựng công nghiệp nói riêng cũng ngày càng nhiều, cơ sở vật chất ngân hàng phục vụ cho công tác thẩm định như vậy là chưa đầy đủ. 2.2. Nguyên nhân - Định hướng, các quy hoạch, các kế hoạch phát triển kinh tế của từng ngành, từng địa phương còn chưa được cụ thể, rõ ràng; nhiều chủ trương chỉ đạo của các ngành, địa phương còn chưa đồng bộ, chồng chéo; thiếu tính ổn định trong các quy hoạch dẫn đến khó khăn cho công tác thẩm định, đặc biệt là thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp. - Sự phối hợp giữa các ngân hàng còn hạn chế trong việc cung cấp, trao đổi những thông tin về khách hàng. Do đó, trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định phải tự tìm hiểu thông tin về khách hàng từ các nguồn khác, gây ảnh hưởng tới việc thẩm định các nội dung khác của dự án. - Quy trình thẩm định hiện nay của ngân hàng được áp dụng chung cho mọi loại dự án, vẫn chưa có một quy trình thẩm định cụ thể đối với các dự án xây dựng công nghiệp. Trong khi nền kinh tế đang phát triển, nhu cầu vay vốn cho các dự án xây dựng công nghiệp ngày càng tăng, việc áp dụng một quy trình thẩm định chung sẽ hạn chế năng lực thẩm định của cán bộ thẩm định. - Đội ngũ cán bộ thẩm định còn hạn chế cả về số lượng và trình độ chuyên môn, chưa có kinh nghiệm trong việc thẩm định, đặc biệt đối với các dự án lớn, phức tạp. Trình độ cán bộ thẩm định còn có hạn, chưa bao quát được hết các khía cạnh của một dự án, đặc biệt là khía cạnh kỹ thuật. Ở nhiều nội dung thẩm định, cán bộ thẩm định còn lúng túng, chưa chủ động trong việc mời chuyên gia, các ý kiến đánh giá còn mang tính chủ quan, thiếu chính xác. Các cán bộ làm công tác thẩm định chủ yếu được đào tạo từ các trường kinh tế, nên kỹ năng đánh giá tài chính khá tốt, song những am hiểu về khía cạnh kỹ thuật của dự án còn hạn chế. - Ngân hàng vẫn ít có sự phân công cán bộ thẩm định theo từng ngành nghề, từng lĩnh vực. Việc một cán bộ thẩm định nhiều loại dự án khác nhau sẽ khó có thể giúp cho cán bộ thẩm định tích luỹ được những kiến thức chuyên ngành. - Thông tin phục vụ cho công tác thẩm định chủ yếu là từ hồ sơ vay vốn do đó mà kết quả thẩm định còn thiếu tính khách quan. Ngoài hồ sơ vay vốn, cán bộ thẩm định còn thu thập thêm thông tin từ các nguồn báo chí, internet, bạn hàng, tổ chức tín dụng… tuy nhiên, những thông tin này còn mang tính chắp vá, số lượng không nhiều. - Do thời gian thẩm định dự án bị giới hạn, cán bộ thẩm định khó có thể thẩm định dự án một cách công phu, chi tiết với đầy đủ các nội dung ở tất cả các dự án. Chương 3: Một số giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp tại Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng I. Định hướng phát triển của Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng 1. Định hướng phát triển chung Trong các năm qua, với định hướng chiến lược, mục tiêu và giải pháp kinh doanh đúng đắn, ngân hàng No&PTNT đã vượt qua khó khăn, thách thức, hoàn thành vượt mức các chỉ tiêu đề ra, tiếp tục tạo đà phát triển cho những năm tới. Với phương châm vì sự thịnh vượng và phát triển bền vững của khách hàng và ngân hàng, mục tiêu của Ngân hàng No&PTNT là tiếp tục giữ vững vị trí ngân hàng thương mại hàng đầu Việt Nam, tiên tiến trong khu vực và có uy tín cao trên trường quốc tế. Ngân hàng No&PTNT kiên trì với định hướng chiến lược phát triển, tiếp tục triển khai mạnh mẽ đề án tái cơ cấu, chuẩn bị điều kiện để cổ phần hóa. Trong xu thế hội nhập chung, ngân hàng thực hiện đẩy nhanh tiến trình hội nhập khu vực và quốc tế, tăng cường hợp tác, tranh thủ tối đa sự hỗ trợ về tài chính, kỹ thuật, công nghệ tiên tiến của các nước bạn, các tổ chức tài chính-ngân hàng quốc tế, đảm bảo cho hoạt động đạt hiệu quả cao, ổn định và phát triển bền vững. Ngân hàng vẫn tiếp tục duy trì tốc độ tăng trưởng ở mức hợp lý, đảm bảo cân đối, an toàn và khả năng sinh lời; đáp ứng được yêu cầu chuyển dịch cơ cấu sản xuất nông nghiệp, nông thôn; đáp ứng một phần nhu cầu vốn cho các thành phần kinh tế; mở rộng và nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng, tập trung đầu tư, đào tạo nguồn nhân lực, đổi mới công nghệ ngân hàng theo hướng hiện đại hóa, đủ năng lực cạnh tranh và hội nhập. Nâng cao năng lực tài chính và phát triển giá trị thương hiệu trên cơ sở đẩy mạnh và kết hợp với văn hóa doanh nghiệp. Góp phần vào việc thực hiện các mục tiêu chung mà Ngân hành No&PTNT đã đề ra, PGD Hai Bà Trưng đã đề ra mục tiêu kinh doanh năm 2009: - Tăng trưởng nguồn vốn từ 15-20%, dư nợ tăng từ 16-18%, nợ xấu từ nhóm 3 đến nhóm 5 dưới 1% trên tổng dư nợ. - Nâng cao chất lượng dịch vụ ngân hàng đảm bảo đủ năng lực cạnh tranh. Nâng cao chất lượng tín dụng, trích và xử lý rủi ro theo quy định của Ngân hàng No&PTNT Việt Nam, hạn chế tối đa nợ tồn đọng phát sinh. - Triển khai các biện pháp phòng ngừa rủi ro, nhằm đảm bảo cho hoạt động của ngân hàng được an toàn, hiệu quả và bền vững. - Nhanh chóng thực hiện hiện đại hóa ngân hàng để đáp ứng được nhu cầu cạnh tranh, phát triển trong thời đại hội nhập. 2. Định hướng phát triển đối với hoạt động thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp tại Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng Để góp phần thực hiện các định hướng chung đã đề ra, ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng đã đề ra những định hướng cụ thể đối với hoạt động thẩm định: - Vẫn giữ vững trọng tâm hàng đầu là đẩy mạnh cho vay, đi đôi với nâng cao chất lượng tín dụng. - Việc cho vay được thực hiện chủ yếu trên cơ sở tính khả thi, tính hiệu quả của dự án, không cho vay dựa trên uy tín và tài sản đảm bảo của khách hàng. - Nâng cao chất lượng công tác thẩm định cả về quy trình và nội dung thẩm định: + Dựa vào thực tiễn để ngày càng hoàn thiện hơn quy trình và nội dung thẩm định. Xây dựng quy trình thẩm định riêng đối với các dự án xây dựng công nghiệp cho phù hợp với tình hình thực tế: nhu cầu xây dựng công nghiệp và các dự án xây dựng công nghiệp vay vốn tại ngân hàng ngày càng tăng. + Bồi dưỡng và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ thẩm định. II. Giải pháp hoàn thiện công tác thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp tại Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng Xuất phát từ tình hình thực tế và những tồn tại trong công tác thẩm định các dự án xây dựng công nghiệp, để hoạt động thẩm định đạt hiệu quả cao. Ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng cần thực hiện các giải pháp: 1. Về thông tin trong quá trình thẩm định Trong quá trình thẩm định, thông tin giữ vai trò đặc biệt quan trọng giúp cho ngân hàng ra quyết định chấp thuận hay từ chối cho vay đối với dự án. Số lượng và chất lượng của thông tin sẽ ảnh hưởng trực tiếp tới thời gian và chất lượng của công tác thẩm định. Các thông tin từ phía khách hàng cung cấp nhiều khi thiếu tính đầy đủ, chính xác. Bởi vậy, trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định không thể chỉ dựa vào thông tin một chiều từ phía khách hàng mà phải tìm hiểu, thu thập, xử lý các thông tin từ nhiều nguồn khác nhau có liên quan đến dự án. Để đảm bảo chất lượng công tác thẩm định, hạn chế rủi ro cho ngân hàng đòi hỏi cán bộ thẩm định cần có nhiều thông tin chính xác, đầy đủ. Do đó, trong quá trình thẩm định, cán bộ thẩm định có thể thu thập thông tin từ các nguồn: - Thông tin do khách hàng cung cấp: Thông tin này được thể hiện dưới dạng: hồ sơ xin vay vốn, các báo cáo tài chính của doanh nghiệp… Đây là nguồn thông tin được sử dụng nhiều nhất trong quá trình thẩm định. Do đó, nguồn thông tin này yêu cầu phải có độ chính xác cao. Để làm được điều này, cán bộ thẩm định khi tiếp xúc với khách hàng, nên làm việc một cách cụ thể, chi tiết hơn về thời gian cung cấp, về tính chính xác của thông tin, yêu cầu thông tin phải qua kiểm toán độc lập để đảm bảo khách hàng cung cấp thông tin chính xác, đúng thời điểm, không chậm chễ gây ảnh hưởng tới thời gian cũng như kết quả thẩm định. Ngoài ra, ngân hàng cũng nên cử cán bộ thẩm định trực tiếp xuống cơ sở sản xuất kinh doanh của khách hàng để kiểm tra tính chính xác của thông tin mà khách hàng cung cấp. - Thông tin từ thị trường như thông tin về giá cả , tình hình cung cầu sản phẩm, các nghiên cứu tổng kết thị trường, thông tin của các nhà cung cấp nguyên vật liệu đầu vào, khách hàng tiêu thụ sản phẩm… để đánh giá khía cạnh thị trường của dự án. - Thông tin từ các phương tiện truyền thông, tin tức: đài, báo, truyền hình… Đặc biệt chú ý khai thác thông tin qua internet vì nếu biết cách khai thác thì đây là nguồn thông tin hiệu quả và đa dạng nhất. Tuy nhiên, trong quá trình khai thác, thông tin phải được chọn lọc và đánh giá lại nhằm đảm bảo tính chính xác, không để cho thông tin lệch lạc làm ảnh hưởng tới kết quả của công tác thẩm định. - Thông tin từ các mối quan hệ với các tổ chức tín dụng khác trong việc tìm hiểu, đánh giá uy tín, nguồn thu nhập chính, nhà xưởng thiết bị, trình độ quản lý sản xuất kinh doanh, khả năng tài chính, thực trạng tài sản đảm bảo và các thông tin khác nhằm phục vụ cho việc phân tích, đánh giá về khách hàng và hiệu quả của dự án xin vay vốn. Việc thu thập thông tin từ các tổ chức tín dụng khác đặc biệt có ý nghĩa quan trọng hơn trong việc thẩm định dự án của những khách hàng ở xa, bởi cán bộ tín dụng không đủ thời gian và có sẵn các đầu mối tin cậy để phân tích, nắm bắt hoặc dễ rơi vào sự sắp đặt trước của những khách hàng thiếu trung thực. Hơn nữa, chi phí cho một lần thẩm định như vậy cho khách hàng tiềm năng bao gồm: chi phí xăng xe đi lại, công tác phí, chi phí lưu trú cho cán bộ làm nhiệm vụ thẩm định, xét duyệt cho vay…, chi phí này là khá lớn so với dự kiến tiền lãi sẽ thu được nếu khoản vay được chấp nhận. Tuy nhiên, trên thực tế, việc trao đổi, khai thác thông tin từ các tổ chức tín dụng khác là tương đối khó, do vai trò quan trọng của thông tin trong cạnh tranh giữa các tổ chức tín dụng. Điều này đòi hỏi cán bộ thẩm định phải có quan hệ mật thiết với các tổ chức tín dụng khác. Cán bộ tín dụng cần tạo được sự tin cậy với các đồng nghiệp ở các ngân hàng khác trên cơ sở đôi bên cùng có lợi. Việc thu thập, trao đổi thông tin có thể thông qua các buổi họp, các buổi hội thảo, tổng kết, trao đổi kinh nghiệm giữa các ngân hàng. Bên cạnh đó, cán bộ thẩm định cũng có thể thu thập thông tin từ hệ thống Thông tin phòng ngừa rủi ro của ngân hàng No&PTNT Việt Nam, thông tin nội bộ giữa các chi nhánh của ngân hàng nông nghiệp. Các nguồn thông tin này sẽ chứa đựng những rủi ro thường gặp phải, những thông tin chung về khách hàng và những quan hệ tín dụng của khách hàng với ngân hàng trong quá khứ. Trên cơ sở đó, cán bộ thẩm định sẽ tiến hành chọn lọc, phân tích thông tin phục vụ cho công tác thẩm định. Trong điều kiện nền kinh tế đang trong quá trình đổi mới, các chính sách quan lý chưa hoàn thiện, hệ thống thông tin chưa đáp ứng kịp thời cho hoạt động thẩm định. Do đó, rủi ro về thiếu thông tin rất dễ dẫn đến rủi ro cho ngân hàng. Để hạn chế điều này, ngân hàng cũng cần xây dựng hệ thống thông tin phục vụ cho công tác thẩm định, trong đó, có lưu trữ những thông tin về khách hàng có quan hệ với ngân hàng giúp cho cán bộ thẩm định nâng cao chất lượng thẩm định đồng thời giảm bớt thời gian thu thập thông tin. Ngoài ra, cán bộ thẩm định còn có thể nghiên cứu chọn lựa, khai thác hiệu quả nhất các loại thông tin khác nhau qua nhiều kênh thông tin khác như: - Kênh thông tin từ các cơ quan quản lý chức năng. - Kênh thông tin về các định mức kinh tế-kỹ thuật, các tiêu chuẩn thiết kế, xây dựng, suất đầu tư của các cơ quan chuyên môn, cơ quan quản lý nhà nước… - Thông tin tư vấn của các chuyên gia Việc kết hợp một cách đa dạng thông tin từ các nguồn khác nhau giúp cho cán bộ thẩm định có được những thông tin đầy đủ, hạn chế tối đa sự sai lệch thông tin. 2. Về đội ngũ cán bộ thẩm định Con người là nhân tố trung tâm, chi phối, quyết định đến hoạt động thẩm định dự án. Do đó, để nâng cao chất lượng thẩm định, trước hết, phải nâng cao năng lực của đội ngũ cán bộ làm công tác thẩm định cả về trình độ chuyên môn, năng lực, kinh nghiệm và đạo đức nghề nghiệp. Để làm được điều này, mỗi cán bộ thẩm định không những phải thường xuyên nghiên cứu, học tập, nắm vững và thực hiện đúng các quy định liên quan, mà còn phải không ngừng nâng cao năng lực công tác. Mỗi cán bộ thẩm định phải luôn tự tu dưỡng về phẩm chất, đạo đức, nâng cao ý thức, trách nhiệm trong công việc. Trên mọi lĩnh vực, con người luôn là yếu tố quan trọng nhất quyết định đến sự thành công hay thất bại của bất cứ hoạt động nào. Đối với hoạt động thẩm định dự án, yếu tố con người lại càng đóng vai trò quan trọng, quyết định đến chất lượng của công tác thẩm định, hình ảnh của ngân hàng từ đó quyết định đến hiệu quả của hoạt động tín dụng. Bởi vậy, ngân hàng cần quan tâm nhiều hơn đến việc đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ, tạo điều kiện thuận lợi cho cán bộ trong công tác, đồng thời phải căn cứ vào kết quả công tác của họ để có chế độ đãi ngộ, chính sách ưu đãi nhằm khuyến khích tinh thần trách nhiệm, ý thức vươn lên và tự hoàn thiện của mỗi cán bộ làm công tác thẩm định. Về việc đào tạo, nâng cao đội ngũ cán bộ thẩm định, ngân hàng cần có những chính sách cụ thể như: khuyến khích các cán bộ thẩm định đi học để nâng cao kiến thức và nghiệp vụ thẩm định, tạo điều kiện cho các cán bộ thẩm định tham dự các buổi hội thảo, bồi dưỡng kiến thức chuyên môn, thương thảo hợp đồng do ngân hàng cấp trên tổ chức. Đối với những nội dung thẩm định mà các cán bộ chưa biết hoặc không rõ, ngân hàng cũng cần thuê chuyên gia, một mặt giúp cán bộ thẩm định hoàn thành công việc, mặt khác có thể giúp họ hiểu biết thêm về khía cạnh đó, nhằm phục vụ cho việc thẩm định các khía cạnh đó ở các dự án sau. Ngân hàng cũng cần có những chính sách hỗ trợ, động viên kịp thời cả về vật chất và tinh thần đối với cán bộ thẩm định nhằm khuyến khích tinh thần làm việc, đặt lợi ích tập thể lên trên lợi ích cá nhân. Bên cạnh hình thức khen thưởng, động viên khuyến khích, ngân hàng cũng cần có những hình thức kỷ luật, xử lý nghiêm khắc đối với những sai sót do cán bộ làm việc không nghiêm túc, thiếu trách nhiệm dẫn đến rủi ro, gây thất thoát tài sản của ngân hàng. Ngoài ra, ngân hàng cũng phải thường xuyên kiểm tra về trình độ kết hợp với chất lượng xử lý công việc của đội ngũ cán bộ thẩm định làm cơ sở để đánh giá, phân loại cán bộ, đồng thời xem xét và thuyên chuyển những cán bộ thẩm định không đáp ứng được yêu cầu công việc sang làm công việc khác. Bố trí các cán bộ có trình độ, năng lực, tinh thần trách nhiệm cao vào các vị trí quan trọng để phát huy hơn nữa thế mạnh về con người. Hàng năm, ngân hàng nên tổ chức tổng kết, đánh giá để rút kinh nghiệm nhằm hoàn thiện và nâng cao chất lượng công tác thẩm định ở những năm tiếp theo. 3. Về quy trình, tổ chức thẩm định Trên mỗi lĩnh vực khác nhau, các dự án đầu tư lại có những đặc điểm, đặc trưng khác nhau trên nhiều phương diện: công nghệ, nguyên vật liệu đầu vào, sản phẩm, thị trường tiêu thụ, quy mô đầu tư, mức độ hiệu quả và rủi ro… Do đó, quy trình thẩm định cần phải được xem xét một cách thích hợp cho từng loại hình dự án. Việc áp dụng một quy trình thẩm định chung đối với tất cả các loại dự án sẽ dẫn đến tình trạng thủ tục rườm rà, phức tạp, dẫn đến kéo dài thời gian không cần thiết đối với các dự án quy mô nhỏ, tính chất đơn giản; song lại vội vàng, thẩm định mang tính hình thức trong nhiều nội dung đối với các dự án quy mô lớn, phức tạp, dẫn đến rủi ro cho ngân hàng; ví dụ như thẩm định một dự án xây dựng công nghiệp không thể yêu cầu quy trình hoàn toàn giống một dự án nông nghiệp vì đây là các dự án khác nhau về trình độ công nghệ, mức độ đầy đủ của các thông tin có liên quan đến rủi ro. Vì vậy, ngân hàng nên xây dựng quy trình thẩm định riêng cho từng loại dự án, đặc biệt là những dự án xây dựng công nghiệp vì đây là những dự án có nhu cầu vay vốn tại ngân hàng không ngừng gia tăng cả về số lượng và quy mô vay vốn. Việc xây dựng quy trình thẩm định cần thực hiện theo hướng gon nhẹ, hiệu quả, trên cơ sở những quy định chung. Hơn nữa, để hạn chế rủi ro cho ngân hàng thì việc thường xuyên cập nhật, hoàn thiện quy trình thẩm định dự án là một công việc cần thiết đối với mỗi ngân hàng. Hoàn thiện quy trình thẩm định dự án cần phải đi đôi với việc hoàn thiện tổ chức thực hiện dự án. Việc tổ chức thực hiện dự án hiện tại của ngân hàng còn chưa có sự chuyên môn hóa, điều này gây ảnh hưởng đến chất lượng công tác thẩm định. Nhằm thực hiện tốt quá trình chuyên môn hóa hoạt động thẩm định, từ đó nâng cao chất lượng thẩm định, ngân hàng cần quan tâm hàng đầu đến vấn đề tổ chức, quản lý điều hành thẩm định. Theo đó, việc tổ chức, quản lý điều hành công tác thẩm định cần được chú trọng với quy trình thẩm định chặt chẽ theo các ngành, lĩnh vực khác nhau. Các dự án nói chung và các dự án xây dựng vay vốn tại ngân hàng nói riêng có quy mô, lĩnh vực khác nhau. Bởi vậy, việc bổ nhiệm, phân công cán bộ cần phải dựa vào khả năng, thực lực của mỗi người; đồng thời, phải có sự kết hợp chặt chẽ, cùng hợp tác giúp đỡ nhau để phát huy hơn nữa trình độ, kinh nghiệm và thế mạnh của mỗi cán bộ nhằm đạt được hiệu quả cao nhất trong công tác thẩm định. Việc phân công công tác thẩm định cần phải gắn chặt với trách nhiệm của mỗi cán bộ thẩm định và kết quả của mỗi dự án mà người đó đảm nhiệm. Ngân hàng nên quy định chi tiết, cụ thể hơn về trách nhiệm cũng như quyền lợi của cán bộ đối với kết quả thẩm định. Việc đề cao cơ chế tự chịu trách nhiệm sẽ giúp nâng cao ý thức trách nhiệm của mỗi cán bộ thẩm định. Bên cạnh đó, để thực hiện chuyên môn hóa trong công tác thẩm định, ngân hàng có thể kiến nghị lên ngân hàng nông nghiệp cấp trên cho phép tách bộ phận thẩm định ra khỏi phòng tín dụng và thanh toán quốc tế và nghiệp vụ thẩm định cũng cần phải được chuyên môn hóa theo ngành, lĩnh vực kinh tế. 4. Hoàn thiện nội dung thẩm định Nội dung thẩm định dự án là cơ sở quan trọng để đưa ra những nhận xét, đánh giá có độ chính xác, tin cậy. Nội dung thẩm định dự án một cách toàn diện, khách quan, chuẩn xác sẽ đáp ứng yêu cầu đặt ra cho công tác thẩm định dự án. Ngược lại, nếu nội dung thẩm định không đầy đủ, các nhận xét đưa ra không có căn cứ thì chất lượng cũng như hiệu quả thẩm định dự án sẽ không đảm bảo, ảnh hưởng đến quyết định cho vay đối với dự án. Chính vì vậy, việc ngân hàng không ngừng hoàn thiện, cụ thể hóa các nội dung thẩm định theo hướng ngày càng chi tiết và thuận lợi cho cán bộ thẩm định trong công tác là điều cần thiết. Khi thẩm định khách hàng, cán bộ thẩm định không nên sa đà vào nhận xét từ kết quả một chỉ số cụ thể mà cần có cái nhìn tổng thể về các chỉ số và hiểu về mối liên hệ giữa các chỉ số để việc đánh giá, nhận xét được chính xác và toàn diện. Đối với các dự án xây dựng, cán bộ thẩm định cần đặc biệt chú ý hơn tới tổng mức đầu tư, việc triển khai sử dụng vốn, tiến độ cũng như chất lượng công trình. Song thực tế hiện nay, đa số các số liệu để thẩm định nội dung này là số liệu do chủ đầu tư đưa ra, đặc biệt là tổng vốn đầu tư. Do đó, ngân hàng cần đưa ra một khung thống nhất về các vấn đề khi xem xét tổng mức vốn đầu tư của dự án nhằm tạo ra sự thống nhất cho các cán bộ thẩm định khi xem xét các dự án, như đối với vốn xây lắp, việc tính toán tổng mức đầu tư thường được ước tính trên cơ sở khối lượng xây dựng phải thực hiện và đơn giá xây lắp tổng hợp, vì vậy khi kiểm tra, cán bộ thẩm định cần chú ý kiểm tra những công việc có tính chất trùng lặp, những công việc không nằm trong thành phần chi phí xây lắp, kiểm tra sự đúng đắn, tính hiện hành của các định mức, đánh giá mà dự án sử dụng. Bên cạnh đó, khi thẩm định, cán bộ thẩm định vẫn còn coi nhẹ việc đánh giá lại doanh thu và chi phí của dự án. Song đây lại là những yếu tố ảnh hưởng trực tiếp đến hiệu quả dự án từ đó ảnh hướng tới khả năng trả nợ của dự án. Doanh thu và chi phí mà ngân hàng sử dụng để thẩm định chủ yếu là do khách hàng đưa ra theo hướng có lợi cho khách hàng trong việc xin vay vốn. Để khắc phục tồn tại này, ngân hàng nên tổ chức, tạo điều kiện cho cán bộ tham gia các chương trình đào tạo cán bộ trong công tác thẩm định thị trường, công nghệ thiết bị... Đồng thời, ngân hàng có thể thuê cán bộ chuyên môn, thuê các tổ chức hỗ trợ bên ngoài, thực hiện phân tích cung cầu thị trường trên những phần mềm chuyên biệt đồng thời tham khảo ý kiến của chuyên gia trong khi thẩm định các nội dung mới, đòi hỏi chuyên môn sâu chứ không chỉ là sự phân tích của các nhân cán bộ thẩm định. Việc tính toán các chỉ tiêu phản ánh hiệu quả tài chính của dự án cần có biện bắt buộc, yêu cầu cán bộ thẩm định phải thực hiện theo đúng quy định, thẩm định đủ số chỉ tiêu đã quy định với chất lượng cao, không chỉ sơ sài, qua loa cho có. Đặc biệt khi phân tích độ nhạy, cán bộ thẩm định cũng cần phân tích hiệu quả của dự án khi nhiều yếu tố liên quan thay đổi. Khi thẩm định hiệu quả của dự án, ngân hàng chủ yếu là xác định các chỉ tiêu NPV, IRR, thời gian hoàn vốn đầu tư, thời gian hoàn vốn vay. Đây là các chỉ tiêu cơ bản để xác định hiệu quả tài chính của dự án. Tuy nhiên, chi nhánh nên tính toán thêm các chỉ tiêu khác như: - Điểm hoà vốn là điểm mà tại đó, doanh thu của dự án vừa đủ bù bù đắp các khoản chi phí bỏ ra. Tại điểm hoà vốn, tổng doanh thu bằng tổng chi phí, tại đây, dự án chưa có lãi cũng không bị lỗ. Việc tính toán điểm hoà vốn cho biết khối lượng sản phẩm hoặc mức doanh thu thấp nhất mà dự án cần đạt được để đảm bảo bù đắp được chi phí bỏ ra. - Chỉ số đánh giá khả năng trả nợ dài hạn của dự án (DSCR) Chỉ số này được tính trên cơ sở so sánh gữa nguồn trả nợ hàng năm từ dự án với nợ phải trả (gốc và lãi) theo kế hoạch trả nợ. DSCR = Chỉ tiêu này thường được so sánh với 1. Nếu DSCRt > 1 dự án đảm bảo khả năng hoàn trả nợ vay như dự kiến tính toán. Ngoài ra, ngân hàng cũng cần chú trọng vào việc phân tích khía cạnh khác của dự án: khía cạnh môi trường, khía cạnh kinh tế xã hội. Tuỳ theo đặc điểm và yêu cầu cụ thể của từng dự án, cán bộ thẩm định xác định các chỉ tiêu khác như: khả năng tái tạo ngoại tệ, khả năng tạo công ăn việc làm, khả năng đổi mới công nghệ, đào tạo nhân lực… Khi tính toán các chỉ tiêu hiệu quả tài chính của dự án, cán bộ thẩm định cần chú trọng việc xác định lãi suất chiết khấu của dự án, vì nó ảnh hưởng trực tiếp tới kết quả tính toán của các chỉ tiêu hiệu quả. Thông thường, lãi suất chiết khấu được xác định dựa trên chi phí cơ hội của vốn và phương pháp bình quân gia quyền mà quyền số là tỷ trọng của các nguồn vốn khác nhau mà dự án cần sử dụng. Vì vậy, để xác định được mức lãi suất chiết khấu thích hợp và chính xác nhất, cán bộ thẩm định cần thu thập được thông tin đầy đủ về các khoản vay, các nguồn tài trợ cho dự án. Ngoài ra cũng cần chú ý đến những yếu tố ảnh hưởng cụ thể và phổ biến tới lãi suất chiết khấu của dự án như: tỷ lệ trượt giá, tỷ lệ trích lợi nhuận của các thành viên góp vốn đầu tư, sự thay đổi tỷ giá…Ngân hàng nên nghiên cứu phương pháp tính lãi suất chiết khấu biến đổi, có tính đến sự biến động của những yếu tố này để việc tính toán lãi suất chiết khấu được chính xác hơn. Đảm bảo hiệu quả trong thẩm định các chỉ tiêu hiệu quả. 5. Giải pháp về phương pháp thẩm định Phương pháp thẩm định giữ một vai trò quan trọng trong việc đảm bảo hiệu quả cho công tác thẩm định. Thực tế hiện nay, ngân hàng không quy định một cách chặt chẽ về các phương pháp thẩm định cần được áp dụng trong quá trình thẩm định, mà mới chỉ đưa ra các phương pháp thẩm định, còn việc sử dụng các phương pháp này lại phụ thuộc vào nhận định chủ quan của cán bộ thẩm định. Vì vậy, ngân hàng nên bổ sung những quy định cụ thể, chi tiết về việc áp dụng các phương pháp thẩm định trong quá trình thẩm định dự án. Trong đó, đối với các dự án thuộc các lĩnh vực khác nhau, cán bộ thẩm định cũng cần tập trung nhiều hơn vào các phương pháp thẩm định khác nhau, ví dụ như đối với các dự án xây dựng công nghiệp, các yếu tố kinh tế-kỹ thuật là rất quan trọng thì cán bộ thẩm định nên tập trung nhiều hơn vào phương pháp phân tích độ nhạy, phương pháp thẩm định, so sánh đối chiếu các chỉ tiêu; đối với các dự án mới, ngân hàng nên chú trọng áp dụng phương pháp phân tích độ nhạy kết hợp với phương pháp dự báo khi xem xét, đánh giá dự án. Bên cạnh đó, ngân hàng cũng nên đề xuất các giải pháp và kiến nghị với ngân hàng cấp trên về việc nghiên cứu, tập huấn cho các cán bộ thẩm định cách tiến hành thẩm định dự án đa dạng sao cho vừa đảm bảo thời gian thẩm định cho khách hàng, vừa đạt được chất lượng thẩm định cao hơn. 6. Hiện đại hóa công nghệ và cơ sở vật chất ngân hàng phục vụ cho công tác thẩm định Trong hoạt động thẩm định, rút ngắn thời gian thẩm định và nâng cao chất lượng của công tác thẩm định là yếu tố thu hút sự chú ý của khách hàng đến với ngân hàng. Do đó, đây là vấn đề mà các ngân hàng đang tập trung hướng tới đặc biệt trong giai đoạn cạnh tranh ngày càng gay gắt giữa các ngân hàng như hiện nay. Một trong những giải pháp hữu hiệu cho vấn đề này là hiện đại hóa công nghệ và cơ sở vật chất phục vụ cho công tác thẩm định. Với yêu cầu phải giải quyết một lượng thông tin lớn liên quan đến nhiều cá nhân, đối tượng ở nhiều dự án, lĩnh vực khác nhau, các cán bộ thẩm định không thể chỉ dựa vào bản thân để giải quyết cùng lúc nhiều công việc, công nghệ có vai trò quan trọng, giúp rút ngắn thời gian thẩm định, đảm bảo độ chính xác của các kết quả tính toán. Cùng với nhu cầu vay vốn gia tăng, số lượng các dự án cần thẩm định nói chung và các xây dựng công nghiệp nói riêng cũng ngày càng nhiều. Song hiện tại, phòng tín dụng và thanh toán quốc tế nơi thẩm định các dự án vay vốn mới chỉ có 2 máy in, còn máy photo dùng chung với các phòng chức năng khác. Do đó, ngân hàng cũng cần tăng thêm lượng máy in, máy photo… đảm bảo cho cán bộ thẩm định có thiết bị riêng để thực hiện công việc, tránh mất thời gian chờ đợi không cần thiết khi có nhiều người cùng sử dụng. Hiện tại, phần mềm mà ngân hàng sử dụng để phân tích các chỉ tiêu tài chính, tính điểm, xếp loại doanh nghiệp vẫn chủ yếu là phần mềm EXCEL. Đây là loại phần mềm hữu ích, dễ sử dụng, dễ quản lý, các cán bộ thẩm định hầu hết đều sử dụng thành thạo. Tuy nhiên, không phải vì vậy mà ngân hàng không cần tìm những phần mềm mới. Với xu thế phát triển ngày càng nhanh của khoa học-kỹ thuật, đi kèm với sự đầu tư của các ngân hàng khác cho công nghệ để dành ưu thế trong cạnh tranh, song song với việc phát huy tính năng sẵn có của các phần mềm đang sử dụng, ngân hàng cũng cần tìm hiểu những phần mềm có công dụng tiên tiến hơn, đầu tư nâng cấp phần cứng và phần mềm nhằm đảm bảo cho hoạt động thẩm định được diễn ra liên tục và mang lại hiệu quả cao hơn. Ngoài việc hiện đại hóa công nghệ phục vụ công tác thẩm định, ngân hàng cũng cần quan tâm tới cơ sở vật chất, thiết bị chung cho các phòng ban khác nhằm tạo được ấn tượng ban đầu cho khách hàng về tính chuyên nghiệp cũng như sự phát triển của ngân hàng. III. Kiến nghị để hoàn thiện công tác thẩm định 1. Kiến nghị với chính phủ, Ngân hàng nhà nước và các bộ ngành liên quan Nhà nước cần tiếp tục hoàn thiện hệ thống chính sách pháp luật ổn định, tạo môi trường đầu tư thông thoáng. - Nâng cao chất lượng công tác quy hoạch, đảm bảo tính hợp lý, ổn định trong việc xây dựng các định hướng phát triển kinh tế-xã hội, các quy hoạch, kế hoạch phát triển. - Đề nghị NHNN phối hợp với các bộ ngành liên quan như: Bộ Tài chính, Bộ Kế hoạch và Đầu tư, Bộ Xây dựng… xây dựng đề án xác định hệ thống các chỉ tiêu thẩm định mang tính chuẩn mực, các ngưỡng đánh giá cho từng ngành kinh tế làm cơ sở để so sánh, đánh giá dự án. NHNN cần hỗ trợ các ngân hàng thương mại nâng cao nghiệp vụ thẩm định, đồng thời mở rộng phạm vi, tăng tính cập nhật của trung tâm phòng ngừa rủi ro tín dụng, hệ thống CIC của NHNN Việt Nam. Hàng năm, NHNN cần tổ chức các hội nghị tổng kết kinh nghiệm toàn ngành nhằm rút kinh nghiệm, tăng sự hiểu biết và hợp tác giữa các ngân hàng thương mại trong công tác thẩm định. - Đề nghị các Bộ, ngành phối hợp chặt chẽ trong việc thẩm định, phê duyệt các dự án đầu tư. - Nhà nước cần quy định cụ thể hơn về trách nhiệm của chủ đầu tư và những người có thẩm quyền quyết định đầu tư, trách nhiệm của các bên liên quan đối với các kết quả thẩm định dự án. - Nhà nước chỉ đạo các doanh nghiệp nghiêm túc trong việc thực hiện chế độ kiểm toán, thống kê và báo cáo theo đúng quy định. Nhà nước cũng cần có các định chế tài chính đối với các doanh nghiệp cố tình cũng cấp thông tin sai lệch cho ngân hàng. - Các ngân hàng cũng cần phối hợp, trao đổi kinh nghiệm, thông tin với nhau. Đặc biệt trong xu hướng hiện nay, các ngân hàng cho vay đồng tài trợ ở những dự án có quy mô lớn, việc trao đổi sẽ giúp các ngân hàng tiết kiệm được thời gian thu thập thông tin, đồng thời tận dụng được thế mạnh của mỗi ngân hàng trong quá trình thẩm định. 2. Kiến nghị với Ngân hàng No&PTNT Việt Nam - Ban hành bổ sung các quy định cụ thể, chi tiết về nội dung, quy trình và phương pháp thẩm định. - Ngân hàng cũng cần thu thập các thông tin về các chỉ tiêu hiệu quả của các ngành, lĩnh vực giúp cho các cán bộ thẩm định ở các chi nhánh dưới dễ dàng có sự so sánh giúp đưa ra các nhận xét chính xác. - Hàng năm, tổ chức các buổi hội nghị tổng kết kinh nghiệm trong toàn hệ thống ngân hàng nông nghiệp, nhằm đánh giá những mặt đạt được, hạn chế trong năm, rút kinh nghiệm và đề ra định hướng mục tiêu trong năm tới. - Ngân hàng nông nghiệp cấp trên cũng cần có các biện pháp hỗ trợ các ngân hàng cấp dưới trong việc thuê chuyên gia tư vấn giúp các cán bộ thẩm định có thể thẩm định tốt các khía cạnh phức tạp, đòi hỏi phải có sự chuyên môn sâu. Kết luận Nền kinh tế Việt Nam tiếp tục tăng trưởng, ngày càng có thêm nhiều dự án đầu tư xây dựng nhằm đáp ứng nhu cầu phát triển nền kinh tế. Cùng với đó, nhu cầu vay vốn để thực hiện các dự án này đang ngày một gia tăng. Theo báo cáo của ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng, các dự án xây dựng vay vốn tại ngân hàng ngày càng tăng cả về số lượng và quy mô. Do đó, công tác thẩm định tại ngân hàng ngày có ý nghĩa quan trọng. Tuy nhiên, hiện nay, công tác thẩm định các dự án xây dựng của ngân hàng vẫn còn một số tồn tại như: các phương pháp thẩm định chưa được áp dụng một cách đa dạng, nhiều nội dung thẩm định vẫn bị coi nhẹ, mang tính hình thức, cán bộ thẩm định thiếu kỹ năng, kinh nghiệm trong nhiều khía cạnh, thiếu thông tin trong quá trình thẩm định… Khắc phục những tồn tại này, ngân hàng cần thực hiện một số giải pháp về thông tin, đội ngũ cán bộ, quy trình, tổ chức thẩm định, nội dung, phương pháp thẩm định, và các giải pháp về công nghệ, cơ sở hạ tầng ngân hàng phục vụ cho công tác thẩm định. Thực hiện các giải pháp này, công tác thẩm định của ngân hàng No&PTNT Hai Bà Trưng có thể khắc phục được những tồn tại, nâng cao hơn nữa chất lượng thẩm định các dự án xây dựng, góp phần nâng cao hiệu quả hoạt động của ngân hàng. Tài liệu tham khảo Nguyễn Bạch Nguyệt, Từ Quang Phương, Kinh tế đầu tư, NXB ĐH Kinh tế Quốc Dân, 2007 Trần Thị Mai Hương, Bài giảng Thẩm định Dự án Đầu tư, 2008 Quyết định số 169/QĐ/HĐQT của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng No&PTNT Việt Nam về việc ban hành quy chế tổ chức và hoạt động của Chi nhánh Ngân hàng No&PTNT Việt Nam. Quyết định số 324/1998/QĐ-NHNN1 ngày 30/09/1998 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam Quyết định số 1627/2001/QĐ-NHNN ngày 31/12/2001 của Thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam về việc ban hành quy chế cho vay đối với khách hàng Quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/03/2002 của Chủ tịch Hội đồng quản trị Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn Việt Nam Báo cáo kế hoạch kinh doanh các năm của PGD Hai Bà Trưng Dự án đầu tư xây dựng nhà máy in công ty cổ phần bao bì và in Nông nghiệp www.vbard.com www.agribankhanoi.com.vn www.moc.gov.vn www.google.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc21323.doc