Khóa luận thanh toán trong thương mại điện tử và triển vọng ở Việt Nam

Đảng và nhà nước ta đã nhận thấy rõ vai trò quan trọng và yêu cầu phát triển kinh tri thức, phát triển thương mại điện tử. Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đậi biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, phần IV - Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã nêu rõ: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức.” “Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả thương mại điện tử, hàng không, hàng hải và các lọai hình vận tải khác, bưu chính viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường. Sớm phổ cập sử dụng tin học và Internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội” Có thể thấy rõ ràng thương mại điện tử là một phương thức hoạt động trên quy mô rộng lớn tầm quốc gia và quốc tế, có tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Đây là một thành tố của nền kinh tế tri thức, nó vừa tạo ra cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thứcđối với Việt Nam. Chúng ta không được bỏ lỡ cơ hội, nhưng cũng không được nóng vội, phi thực tế phát triển thương mại điện tử mà, cần phaỉ có quan điểm chiến lược, kế hoạch tổng thể quốc gia và sự chỉ đạo, quản lí thống nhất của nhà nước trong phát triển thương mại điện tử ,đồng thời, các đòi hỏi của TMĐT về môi trường pháp lý, về tính an toàn, bảo mật cần được ưu tiên đáp ứng. Việt Nam ủng hộ các sáng kiến về xúc tiến thương mại điện tử của ASEAN, nỗ lực thực hiện cam kết khu vực và quốc tế của mình về phát triển thương mại điện tử.

doc95 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1715 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận thanh toán trong thương mại điện tử và triển vọng ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
tế thế giới, muốn nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp, cần phải phát triển hạ tầng cơ sở viễn thông, tạo môi trường kinh doanh lành mạnh. 2. Các nghiệp vụ thanh toán điện tử ở Việt Nam Từ trước đến nay, ngân hàng luôn đóng một vai trò rất quan trọng trong việc tiến hành thanh toán, đặc biệt trong lĩnh vực thanh toán trong nước và quốc tế. Nhưng, tại Việt Nam, thanh toán điện tử chỉ mới ở mức sơ đẳng . Hiện nay, Ngân hàng Nhà nước đang vận hành hệ thống chuyển tiền điện tử và đã đưa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng (một trong 7 tiểu dự án trong khuôn khổ dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán ký kết giữa chính phủ Việt Nam và World Bank (WB)) vào hoạt động được gần 5 tháng. ở mức độ tự động và hiện đại khác nhau, nhiều ngân hàng thương mại đã có hệ thống chuyển tiền nội bộ ngân hàng mình. Có thể nói, mặc dù so với thế giới, dịch vụ thanh toán qua ngân hàng ở Việt Nam còn hạn chế nhưng, dù sao nó cũng đạt được những thành tựu đáng khích lệ. Khi xem xét nghiệp vụ thanh toán điện tử ở Việt Nam sẽ chỉ có thể tiến hành nghiên cứu các hoạt động chuyển tiền điện tử hay thanh toán điện tử liên ngân hàng trong đó có thanh toán bù trừ điện tử, thanh toán bằng thẻ từ hệ thống rút tiền tự động ATM… 2.1 Thanh toán thẻ Từ những năm 1960, tại các nước phát triển, phương tiện thanh toán bằng thẻ tín dụng bắt đầu phát triển rộng rãi; một số tổ chức kinh doanh thẻ ra đời không những hoạt động trong nước, mà trở thành tổ chức thẻ Quốc tế, như các tổ chức thẻ Quốc tế Visa, Master… Mở đầu cho nghiệp vụ thanh toán thẻ tín dụng Quốc tế của Việt Nam, là việc ngân hàng Vietcombank ký kết Hợp đồng đại lý thanh toán thẻ Visa Card với ngân hàng BFCE Pháp tại thành phố Hồ Chí Minh ngày 27.6.1990. Hợp đồng qui định ngân hàng Vietcombank là ngân hàng đầu mối triển khai tiếp thị, thiết lập hệ thống đơn vị chấp nhận thẻ Visa tại Việt Nam, và là ngân hàng trung gian thanh toán trả tiền cho các đơn vị chấp nhận thẻ, sau đó, ngân hàng sẽ đòi lại tiền đối với các tổ chức phát hành thẻ Visa trong hệ thống thẻ Visa quốc tế tại Mỹ thông qua ngân hàng BFCE Pháp. Tiếp đó, tại thành phố Hồ Chí Minh, ngày 24.7.1991, Vietcombank ký hợp đồng đại lý thẻ Master Card với công ty thẻ MBF Malaysia. Ngày 18.9.1991, Vietcombank làm đại lý thẻ JCB Card cho công ty JCB International Co.LTD.Nhật Bản . Đến tháng 7/1993, những tấm thẻ thông minh Vietcombank/Card đầu tiên ra đời, đánh dấu một thời điểm lịch sử mà khách hàng Việt Nam lần đầu tiên được cầm tấm thẻ do chính ngân hàng ngoại thương Việt Nam (NHNTVN) phát hành để làm công cụ thanh toán cho mình. Ngày 4.2.1994, NHNT làm đại lý cho tổ chức thẻ quốc tế Mỹ, American Express (AMEX). Tháng 8.1996, Ngân hàng ngoại thương Việt Nam trở thành đại lý thẻ chính thức cho hai tổ chức thẻ quốc tế, là Master Card và Visa Card. Và, với sự kiện tháng tư năm 1996, những tấm thẻ tín dụng quốc tế Vietcombank /Master Card đầu tiên của Ngân hàng ngoại thương Việt Nam, hay những tấm thẻ tín dụng đầu tiên của Việt Nam ra đời, đã đánh dấu một sự phát triển mới trong chặng đường kinh doanh dịch vụ thẻ của Việt Nam. Nó là tiền đề cho 8000 thẻ rút tiền tự động VCB/ATM ra đời vào ngày 15.5.2002. Mới đây, NHNT còn ký hợp đồng thanh toán thẻ Diner Club. Bên cạnh đó, một loạt các chi nhánh ngân hàng thương mại như Eximbank, Indovina, ANZ, ngân hàng á châu (ACB) cũng lần lượt xâm nhập vào thị trường thanh toán thẻ ở Việt Nam, một loạt các điểm thanh toán thẻ đặt ở các khách sạn nhà hàng sân bay...và vô số các nơi công cộng như siêu thị, các điểm vui chơi giải trí, các khu du lịch đã tạo được điều kiện thuận lợi nhất cho khách hàng. Một số ngân hàng tiến hành liên kết với các công ty để cung cấp loại thẻ tín dụng mua hàng. Ngân hàng thương mại cổ phần á châu (ACB) cũng là ngân hàng phát triển mạnh về lĩnh vực phát hành và thanh toán thẻ. Từ tháng 12 /2000, ACB là ngân hàng đầu tiên phát hành thẻ tín dụng nội địa với các nhãn hiệu ACB_SG Tourist, ACB_SG Cooperation … đây là thẻ tín dụng bằng tiền đồng và ước tính sẽ đạt con số 50.000 thẻ vào năm 2005. Sau đó, vào ngày 4/6/2002, Ngân hàng thương mại cổ phần á châu (ACB) lại tiếp tục phát hành thẻ thanh toán và rút tiền mặt biểu tượng E_card, thẻ ghi nợ debit đầu tiên ở Việt Nam. Ngoài ra, ACB còn trang bị máy đọc thẻ điện tử EDC đặt tại chi nhánh Lê Lợi- Hồ Chí Minh để đáp ứng nhu cầu chuyển tiền nhanh . Trong khi, việc sử dụng thẻ tín dụng ở nước ngoài đã trở nên rất phổ biến, như là một phần không thể thiếu được trong cuộc sống thì, ở Việt Nam, thẻ tín dụng chỉ sử dụng hạn chế đối với một bộ phận dân chúng. Một trong những lý do khiến cho tình hình thanh toán bằng thẻ tín dụng ở Việt Nam vẫn còn ở giai đoạn đầu, là do: _ Thủ tục ký hợp đồng mua thẻ còn rườm rà, nên việc mua thẻ vẫn còn khó khăn. _ Việc quảng cáo thẻ còn chưa được chú ý đến, nên người dân vẫn còn cảm thấy thẻ tín dụng rất xa lạ. 2.2 Hệ thống máy đổi tiền tự động ATM Từ năm 1996, NHNT là ngân hàng đầu tiên triển khai máy ATM và bây giờ thì, cả 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh (NHTMQD) đều đã lắp đặt máy rút tiền tự động ATM. Tuy nhiên, trong năm 2002 này, hai ngân hàng ngoại thương (NHNT) và ngân hàng công thương (NHCT) triển khai lĩnh vực này mạnh hơn. Năm nay, ngân hàng NT dự tính sẽ lắp khoảng 50 máy ATM vào cuối năm 2002. NHCT cũng chú trọng đến lĩnh vực này, đã lắp đặt 10 máy ATM ở Hà Nội và 4 máy ở trong thành phố Hồ Chí Minh. Máy ATM đem lại sự tiện lợi cho khách hàng, giúp khách hàng rút tiền mà không phải làm các thủ tục giấy tờ phức tạp, có thể rút bất kỳ lúc nào 24/24 giờ. Hiện tại, ATM chỉ làm chức năng rút tiền mặt là chính, nhưng trong tương lai, ATM sẽ được đưa vào sử dụng thêm các tính năng khác như chuyển tiền, nộp tiền vào tài khoản, thanh toán hoá đơn điện, nước… 2.3 Chuyển tiền điện tử Hiện nay NHTMQD và ngân hàng Nhà nước đều đã thực hiện chuyển tiền điện tử thông qua: hệ thống thanh toán nội bộ trong cùng một ngân hàng, hệ thống thanh toán giữa các ngân hàng, mạng thanh toán toàn cầu liên ngân hàng (hệ thống SWIFT). Hệ thống thanh toán nội bộ trong cùng một ngân hàng và hệ thống thanh toán giữa các ngân hàng dành chủ yếu cho các đợt chuyển tiền trong nước, trong khi đó, hệ thống SWIFT lại dành phần nhiều cho việc chuyển tiền ra nước ngoài mặc dù nó vẫn có thể dùng để chuyển tiền trong nước. * Chuyển tiền qua hệ thống thanh toán trong cùng một ngân hàng Việc thanh toán thông qua mạng nội bộ ngân hàng đã giải quyết được vấn đề thanh toán giữa các khách hàng có tài khoản cùng mở trong một hệ thống ngân hàng làm thoả mãn nhu cầu của khách hàng. Khách hàng có thể yêu cầu chuyển tiền khẩn hoặc chuyển tiền thường (đương nhiên sẽ phải trả chi phí dịch vụ phù hợp với từng loại chuyển đó). Chính vì thời gian chuyển tiền điện tử được rút ngắn mà tỉ lệ thanh toán uỷ nhiệm chi (một phương tiện thanh toán gắn liền với chuyển tiền điện tử) chiếm rất cao trong phương tiện thanh toán, (khoảng trên 90% số tiền ) trong tổng doanh số thanh toán của các phương tiện thanh toán. Tiền thân của hệ thống chuyển tiền điện tử là thanh toán ngân hàng bằng chứng từ giấy tờ gửi qua đường bưu điện, sau này được thay thế bằng thanh toán ngân hàng thông qua mạng vi tính (từ 1992) và hiện nay là chuyển tiền điện tử (bắt đầu thí điểm từ 1995). Việc thanh toán vốn được thực hiện vào cuối ngày, điều này tạo điều kiện thuận lợi cho việc quản lý vốn của các ngân hàng thương mại. * Chuyển tiền qua hệ thống thanh toán giữa các ngân hàng Việc thanh toán liên ngân hàng giữa các ngân hàng khác hệ thống theo lối thủ công thì thực hiện theo phương thức: thanh toán trực tiếp qua tài khoản tiền gửi của các tổ chức tín dụng mở tại các chi nhánh ngân hàng Nhà nước và thanh toán bù trừ bằng các chứng từ giấy tại các chi nhánh ngân hàng Nhà nước. Chính việc thanh toán thủ công này làm ảnh hưởng rất lớn đến tốc độ thanh toán của các món thanh toán khác hệ thống ngân hàng. Do đó, Ngân hàng Nhà nước đã đưa hệ thống thanh toán điện tử liên ngân hàng quốc gia đi vào hoạt động tháng 5/2002. Ngày 2.5.2002, hệ thống đã chính thức đi vào hoạt động. Hệ thống bao gồm Trung tâm thanh toán quốc gia lắp đặt tại NHTƯ, các trung tâm xử lý cấp tỉnh tại thành phố Hà Nội, TP Hồ Chí Minh, Hải Phòng, Đà Nẵng và đã kết nối với gần 100 chi nhánh của các TCTD ở các địa bàn khác nhau trên cả nước. Sau hơn 2 tháng hoạt động, hệ thống đã thực hiện thanh toán trên 39 ngàn món với 17 tỉ đồng, thời gian thực hiện chỉ tiến hành trong 10 giây, an toàn, chính xác. Vào ngày 15.7.2002, ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã tổ chức Lễ khai trương hệ thống thanh toán điện tử Liên ngân hàng. * Chuyển tiền qua hệ thống liên ngân hàng toàn cầu (SWIFT) Thông qua hệ thống SWIFT, các khách hàng có thể an tâm trong việc thanh toán tiền hàng với các đối tác nước ngoài. Ưu điểm của hệ thống SWIFT là bất kì một thành viên nào mới gia nhập đều đương nhiên trở thành Ngân hàng đại lý của các thành viên cũ, do đó sẽ tiết kiệm thời gian thiết lập quan hệ đối tác với các ngân hàng. Mặt khác, do các lệnh thanh toán đều được mã hoá và lập trên các mẫu đơn thống nhất nên sẽ đơn giản hoá quá trình thực hiện, đồng thời, các thao tác đều được xử lý trên máy và gửi trên mạng SWIFT, nên sẽ làm giảm những sai sót cho quá trình thanh toán. Các đợt thanh toán thông qua hệ thống SWIFT thường cuối ngày sẽ tổng hợp lại giữa các ngân hàng, do đó nếu có sai lầm nào phát sinh sẽ nhanh chóng được khắc phục. Hiện nay, các giao dịch mở thư tín dụng với nước ngoài đều yêu cầu thực hiện thanh toán thông qua hệ thống SWIFT đảm bảo tính chính xác và tiện lợi của các giao dịch. Vì vậy, khâu chuyển tiền cũng được ngân hàng ngoại thương chú trọng. Cụ thể trong năm 1998, Vietcombank đã thực hiện 76.258 điện chuyển khoản đi nước ngoài, trong đó có 43905 bức điện chuyển tiền cho các tổ chức cá nhân, 13.115 bức điện chuyển tiền cho các tổ chức tín dụng (Nguồn: Báo cáo cuối năm 1998 của Ngân hàng Ngoại Thương) 2.4 Các hình thức dịch vụ Ngân hàng điện tử khác Bên cạnh dịch vụ thanh toán điện tử, các NHTM còn mở rộng thêm các dịch vụ ngân hàng điện tử khác, ví dụ: Ngân hàng công thương Việt Nam, ngân hàng ngoại thương, ngân hàng ACB …, đã mở các Website để giới thiệu về các dịch vụ của mình như thủ tục chuyển tiền, mức phí chuyển tiền, thủ tục và điều kiện vay vốn, tỉ gía hàng ngày, biểu lãi suất đang áp dụng… Tháng 3 /2001, ngân hàng ACB khai trương dịch vụ ngân hàng tại nhà thông qua mạng Intranet, tháng 4/2002, Ngân hàng thương mại cổ phần kỹ thương (Techcombank) đưa dịch vụ truy vấn thông tin tại nhà có tên là “TCB fast Access” với một máy tính cá nhân và một modem khách hàng có thể ngồi ở nhà dùng mật mã của mình tra cứu số dư tài khoản và các giao dịch trên tài khoản của mình thông qua mạng thông tin Techcombank. Ngân hàng HSBC-Hong Kong Shanghai Banking Corporation từ ngày 4/10/1999 tiến hành áp dụng dịch vụ ngân hàng ảo được thực hiện dưới dạng ngân hàng qua điện thoại – Telephone Banking. Dịch vụ mới này cho phép khách hàng truy cập vào tài khoản 24/24 giờ qua điện thoại, khách hàng có thể thu thập thông tin về tài khoản cũng như tình hình các giao dịch, thanh toán. Ngân hàng CitiBank, một ngân hàng Mĩ đầu tiên có mặt tại Việt Nam thông qua chi nhánh của mình ở Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh đã thực hiện thanh toán các loại thẻ như MasterCard, Visa, Amex..., cũng đã áp dụng dịch vụ mới gồm chi trả và thu nhận nội địa Paylink, ExpresPay và Speedcollect giúp khách hàng nhận và chuyển tiền trong ngày ở tất cả 61 tỉnh thành phố ở Việt Nam. 3. Phần mềm trợ giúp TTĐT Vấn đề làm sao thanh toán thật thuận tiện các hóa đơn mua hàng qua Internet, hóa đơn dịch vụ... vốn là mối quan tâm của những người dùng Internet Việt Nam, bước đầu tham gia các giao dịch thương mại điện tử. Có thể nói, nhu cầu thanh toán không dùng tiền mặt phát triển ngày càng cao, chiếm đến 80% khối lượng tiền tệ giao dịch tại các ngân hàng lớn. Xuất phát từ nhu cầu cấp thiết đó, công ty VASC đã đưa ra phần mềm VASC Payment nhằm thiết lập một cổng thanh toán điện tử (Payment Gateway) cung cấp dịch vụ cho các hệ thống thanh toán hoá đơn và các khách hàng có nhu cầu thanh toán hoá đơn dịch vụ, các hoá đơn mua hàng qua mạng. Việc bảo mật và xác thực thông tin giao dịch giữa các bên tham gia hệ thống sẽ sử dụng chứng chỉ số do hệ thống VASC CA của VASC cung cấp. Điều kiện để tham gia VASC Payment là người sử dụng phải có một tài khoản tại ngân hàng và đăng kí tham gia hệ thống thanh toán của VASC. Các dữ liệu về số dư tài khoản, chữ kí điện tử... của người sử dụng sẽ được lưu giữ ở cơ sở dữ liệu của VASC Payment. Khi cần chi trả các hoá đơn dịch vụ, người sử dụng chỉ cần click chuột vào các cửa sổ đồng ý thanh toán trên mạng, lệnh này sẽ được truyền về cổng thanh toán điện tử, sau đó, lệnh thanh toán tiếp tục được hệ thống VASC Payment truyền đến trung tâm xử lý của Ngân hàng. Tại đây, Ngân hàng sẽ có trách nhiệm chuyển tiền của người sử dụng vào tài khoản của người được hưởng miễn là, người này cũng phải là người đăng kí tham gia VASC Payment và có tài khoản ở ngân hàng. Việc thanh toán diễn ra nhanh chóng cùng với việc số dư trên tài khoản của người sử dụng sẽ giảm đi một số tiền tương ứng với số tiền mà người thanh toán đã đồng ý chi trả. Việc cung cấp dịch vụ thanh toán qua Internet có thể hiểu tương tự như việc cung cấp các dịch vụ Internet khác, nhà cung cấp dịch vụ này chuyển lệnh thanh toán cho khách hàng và quản lý tất cả các giao dịch của họ thực hiện qua hệ thống. Tiện ích thanh toán trực tuyến này sẽ tạo ra một môi trường, một cách thức giao dịch, thanh toán mới mẻ cho tất cả các khách hàng. II. Triển vọng phát triển TTĐT ở VN 1. Thuận lợi Quy định pháp lý liên quan Internet, TMĐT và TTĐT ở Việt Nam đang ngày một được hoàn thiện và mở rộng Cùng với chủ trương khuyến khích việc phát triển mạng lưới Internet và số người sử dụng ở Việt Nam, môi trường pháp lý và các thủ tục quy định lĩnh vực này đang ngày một được hoàn thiện và rộng mở. Chỉ vài năm trước đây, Internet vẫn còn là lĩnh vực “nằm ngoài vòng quản lý” của pháp luật Việt Nam. Vậy mà đến nay, hàng chục văn bản pháp lý đã được xây dựng và liên tục được sửa đổi, phủ rộng trên hầu hết các vấn đề liên quan đến hoạt động cung cấp đường truyền, dịch vụ truy cập Internet, việc đưa tin tức, xây dựng Website ngày càng phù hợp với thực tế. Về các hoạt động cuả các quán truy cập Internet công cộng, Nghị định số 55/2001/NĐ-CP ngày 23 tháng 08 năm 2001 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet (gọi tắt là nghị định 55) được coi là bước đột phá, mở đường cho sự phát triển của loại hình dịch vụ này với những quy định rõ ràng về nguyên tắc, trách nhiệm, điều kiện và quyền lợi của các đại lý. Cho dù còn nhiều ý kiến trái ngược, việc các trung tâm Internet công cộng ra đời đã có những đóng góp không nhỏ trong quá trình phổ cập Internet ở Việt Nam. Về điều kiện để xây dựng một Website, mua tên miền, hosting và đưa nội dung thông tin lên mạng, Nghị định 55 cũng xoá bỏ những bất cập trong việc quản lý được quy định trước đây. Theo quy định cũ, bất kì một tổ chức doanh nghiệp nào muốn có một tên miền và một trang Web trên mạng Internet đều phải đăng ký và xin phép rất phức tạp. Với những quy định mới, các doanh nghiệp, tổ chức, cơ quan hoàn toàn chủ động và dễ dàng đăng ký mua tên miền và cung cấp thông tin giới thiệu về tổ chức của mình lên mạng Internet theo quy định của pháp luật. Đặc biệt, Chính phủ Việt Nam đang nỗ lực hoàn thiện những quy định cụ thể và rõ ràng để khuyến khích các doanh nghiệp Việt Nam xúc tiến các hoạt động thương mại điện tử, hình thức hiện còn rất mới lạ tại nước ta. Thương mại điện tử là lĩnh vực còn mới, song với nỗ lực của mình, Chính phủ Việt Nam đã xem xét xây dựng thông qua nhiều quy định liên quan đến lĩnh vực này. Từ năm 1997, Thủ tướng Chính phủ Việt Nam đã đưa ra qui định 196/TTg (QĐ-196) cho phép Ngân hàng được phép sử dụng chứng từ điện tử trong thanh toán kế toán. Tiếp theo QĐ196/TTg, Ngân hàng Nhà nước đưa ra nhiều qui định, qui chế thực hiện như : Quyết định 307-QĐ/NH2, ban hành “Qui định kí hiệu của chứng từ, và kí hiệu về nội dung nghiệp vụ liên quan đến thanh toán” và Quyết định 308-QĐ/NH2, ban hành “Qui chế lập, sử dụng, kiểm soát xử lý, bảo quản và lưu trữ chứng từ điện tử của các ngân hàng và tổ chức tín dụng”. Tiếp đó, ngày 21-3-2002, Thủ tướng Chính phủ đã có quyết định mang số 44-2002 về việc công nhận giá trị của chữ ký điện tử dùng trong thanh toán. Theo đó, các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán gồm ngân hàng Nhà nước Việt Nam, các ngân hàng, các tổ chức khác được làm dịch vụ thanh toán, được sử dụng chứng từ điện tử làm chứng từ kế toán để hạch toán và thanh toán vốn. Chứng từ điện tử phải có đủ yếu tố qui định cho chứng từ kế toán, bảo đảm tính pháp lý của chứng từ kế toán và phải được mã hoá để đảm bảo an ninh trong quá trình xử lý truyền tin và lưu trữ. Quyết định trên cũng qui định việc mã hoá bằng khoá mật mã cho chữ ký điện tử và công nhận giá trị của chữ ký điện tử như chữ ký tay trên chứng từ . Việc công nhận chữ ký điện tử này là bước khởi đầu cho thương mại điện tử phát triển ở Việt Nam. Tuy nhiên, xây dựng hành lang pháp lý cho thương mại điện tử phát triển vẫn còn nhiều việc phải làm như: chế độ bảo mật… Ngày càng nhiều doanh nghiệp được cấp phép và đi vào kinh doanh dịch vụ Internet và cung cấp đường truyền Internet, tạo cơ sở cạnh tranh bình đẳng Cho đến nay, đã có 12 doanh nghiệp được cấp phép hoạt động kinh doanh cung cấp dịch vụ Internet. Trong số đó, 4 công ty đã triển khai hoạt động kinh doanh của mình trên lĩnh vực này là VDC, FPT, Saigonnet, Netnam. Với sự cạnh tranh ngày càng gay gắt và quyết liệt hơn, chắc chắn chất lượng và chi phí dịch vụ dành cho khách hàng sẽ tốt hơn rất nhiều. Bên cạnh việc cấp thêm nhiều giấy phép mới cho các công ty kinh doanh dịch vụ Internet (ISP), Chính phủ Việt Nam cũng tiếp tục mở rộng cấp phép cho hình thức kinh doanh cung cấp dịch vụ kết nối Internet. Những doanh nghiệp mới như FPT, Vietel... đang và sẽ trở thành những đối thủ lớn của VDC, nhưng nó sẽ là nhân tố đem đến lợi ích cuối cùng cho người sử dụng . Theo định hướng chiến lược, thị trường Internet sẽ được mở rộng cho sự cạnh tranh bình đẳng giữa các nhà cung cấp dịch vụ Internet: đến năm 2005, có tới 30 đến 40 công ty kinh doanh dịch vụ Internet (ISP) được cấp phép hoạt động. Đây là sự chuẩn bị cho sự mở cửa của thị trường Internet cho đầu tư nước ngoài. Trong khi sức ép của cạnh tranh trong nước chưa đủ mạnh, thì hơi thở của cạnh tranh quốc tế đang phả đến rất gần: Cụ thể là sau khi Hiệp định Thương mại Việt Mỹ chính thức có hiệu lực từ tháng 11 năm 2001, chúng ta sẽ có khoảng thời gian chuẩn bị 3 năm cho việc mở cửa thị trường Internet. Việc cho nhiều doanh nghiệp làm trong lĩnh vực cung cấp dịch vụ Internet, viễn thông là động lực rất lớn cho từng doanh nghiệp đi lên, để các doanh nghiệp tập sự làm quen, cạnh tranh trong môi trường trong nước và đem lại nhiều lợi ích cho người dùng Internet Việt Nam. Nhiều công nghệ, dịch vụ mới được đưa vào sử dụng Các loại hình dịch vụ Internet, Internet thuê bao, Internet trả trước, bùng nổ trong 2 năm đầu tiên của thiên niên kỉ mới. Bên cạnh công nghệ truy cập Internet gián tiếp qua mạng điện thoại công cộng với tốc độ tối đa là 56kb/giây, đã xuất hiện các công nghệ truy cập Internet tốc độ cao. Đó là ISDN và ADSL. Tất các dịch vụ này rất hữu ích với người dùng chuyên nghiệp như các doanh nghiệp, người dùng Internet chất lượng cao, tốc độ nhanh, và hy vọng sẽ đáp ứng được phần thị trường này hiện nay đang bỏ trống. Hiện nay, công nghệ mạng số tích hợp đa dịch vụ ISDN đã được triển khai tại Hà Nội và thành phố Hồ Chí Minh. Dịch vụ này cho phép truy cập Internet với tốc độ cao 128kbps/giây gấp đôi tốc độ dial-up, cho phép sử dụng kết hợp nhiều dịch vụ khác như điện thoại, truyền số liệu, hội nghị truyền hình... nhưng giá thành chỉ hơn 1,2 lần so với Internet thông thường. Cũng là Internet băng thông rộng sử dụng hạ tầng cáp đồng của mạng điện thoại nhưng tốc độ cao hơn, từ 1,5 megabit/giây tới trên 8 megabit/giây là công nghệ thuê bao số bất đối xứng ADSL. Công nghệ tiên tiến này đang được thử nghiệm tại 3 thành phố Hải Phòng, Hà Nội, thành phố Hồ Chí Minh và dự kiến sẽ chính thức đưa ra thị trường vào cuối năm 2002. Những công nghệ mới sẽ dần dần thay đổi diện mạo của Internet Việt Nam. Nền băng thông rộng, tốc độ cao chắc chắn sẽ là mảnh đất tốt lành cho nhiều dịch vụ gia tăng giá trị như “Video theo yêu cầu”, các chương trình trò chơi trực tuyến và các nội dung tương tác khác. Khó khăn, thách thức 2.1. Yếu tố con người Yếu tố con người thực sự có những ảnh hưởng nhất định đến sự phát triển TTĐT, bởi vì khách hàng, nhân viên ngân hàng và các chuyên gia công nghệ là những người tham gia trực tiếp vào hoạt động của TTĐT. * Khách hàng Hiện nay, nhu cầu sử dụng Internet ở Việt Nam vẫn chưa cao. Điểm qua các dịch vụ truy cập Internet công cộng, hầu hết giới trẻ đều nối mạng với mục đích chính là gửi và nhận thư điện tử, chơi game và đặc biệt nhiều quan tâm đến “chat”. Ngoài ra, hầu hết các độc giả Việt Nam cũng chỉ lướt qua những trang Web thông tin như , Giải thích cho thực tế này, ngoài lý do chủ quan từ nhu cầu của độc giả trẻ tìm đến với Internet với mục đích tìm bạn, trao đổi trò chuyện, còn có lý do khác là các Website của Việt Nam chưa thực sự thu hút hoặc quá khó tìm kiếm. Hầu hết, chỉ có một bộ phận nhỏ người Việt Nam sử dụng Internet với mục đích tìm kiếm các mặt hàng, tức là quan tâm đến việc mua sắm trên mạng, đến việc tìm kiếm bạn hàng, còn hầu hết, họ chỉ quan tâm đến việc giải trí vào các trang báo thông tin. Nguyên nhân là do, trình độ sử dụng và khai thác công nghệ trên mạng của người dùng Internet Việt Nam còn khá thấp, việc sử dụng Internet trong nghiên cứu và học tập mới chỉ thể hiện ở một số ít người sử dụng, chủ yếu là những người đã có quá trình tiếp xúc lâu dài với công nghệ thông tin hoặc các chuyên gia nghiên cứu. Hơn nữa, nhiều người Việt Nam có tâm lý không muốn tiến hành thanh toán qua mạng, tức là không muốn mua hàng mạng với hình thức TTĐT, do cảm giác không an tâm; người mua lo các chi tiết về thẻ tín dụng của mình bị lộ và kẻ xấu sẽ lợi dụng mà rút tiền. * Doanh nghiệp. Về phía các doanh nghiệp, phần lớn các doanh nghiệp có trình độ công nghệ thông tin còn thấp, nhận thức còn hạn hẹp so với sự tiến bộ vượt bậc của nền khoa học kỹ thuật tiên tiến trên thế giới. Khái niệm TTĐT đối với một số doanh nghiệp vẫn còn rất mới lạ. Có nhiều doanh nghiệp trang bị máy tính chỉ làm những công việc đơn thuần tính toán, lưu sổ sách hoặc chỉ áp dụng TMĐT ở mức sơ đẳng nhất, đó là gửi e-mail và nhận e-mail. Mặt khác, các doanh nghiệp vẫn quen với cách thức thanh toán truyền thống, chưa thấy hết được những lợi ích to lớn của việc tham gia vào việc TTĐT. Hơn nữa, nhiều doanh nghiệp không thích việc ký hợp đồng bán hàng thanh toán theo kiểu điện tử , do người bán lo việc thanh toán qua Web không được thực hiện khi các văn bản pháp luật quy định chưa rõ ràng và đầy đủ. *Cán bộ ngân hàng Bản thân cán bộ ngân hàng cũng gặp những khó khăn với việc áp dụng những phần mềm công nghệ hiện đại vào nghiệp vụ thanh toán, mặt khác, do trình độ quản lý của các ngân hàng còn yếu kém, còn xảy ra nhiều rủi ro thanh toán, vì vậy, các ngân hàng phải thường xuyên tổ chức các khoá học đào tạo cho các cán bộ ngân hàng về kiến thức cơ bản, các giải pháp đầu tư vào kĩ thuật-nghiệp vụ, các biện pháp quản lý và khai thác tốt nhất hệ thống kỹ thuật mới hiện đại. * Cán bộ công nghệ Hiện nay, ở Việt Nam, các chuyên gia chủ yếu nghiên cứu các phần mềm. Nhưng ngay trong lĩnh vực phần mềm, các chuyên gia Việt Nam chưa phải đã đủ năng lực xử lý các hệ thống và các phần mềm ứng dụng có quy mô lớn. Điều này thể hiện rất rõ trong việc triển khai dự án “Thanh toán điện tử liên ngân hàng”, việc thực hiện toàn bộ dự án này đều do tập đoàn Huyndai Công nghệ thông tin Hàn Quốc cùng liên doanh với nhiều công ty tin học quốc tế là chính. Nguyên nhân chủ yếu là cơ sở hạ tầng công nghệ tin học toàn quốc chưa có nền tảng vững chắc, chưa tạo môi trường thuận lợi cho tin học ứng dụng và phát triển ở Việt Nam. Mặt khác, nhiều chuyên gia tin học có năng lực ở Việt Nam thường được trả lương cao ở các công ty nước ngoài để thực hiện việc ứng dụng các phần mềm hiệu quả và quản lý hệ thống tin học của công ty, do đó, đã làm giảm một lực lượng nghiên cứu phần mềm đáng kể. Còn, một số kỹ sư tin học được nhận vào cơ quan nhà nước nhưng chủ yếu làm tiếp thị, văn phòng, sửa chữa những lỗi của máy tính một cách đơn giản, làm mai một dần kiến thức. Một số kỹ sư lại đứng ra mở cửa hàng kinh doanh thiết bị, linh kiện điện tử. Vì thế, việc tập hợp một lực lượng đã được đào tạo để tiến hành những dự án lớn là điều rất khó. Những điểm yếu trên của đội ngũ cán bộ công nghệ thông tin đã thể hiện rõ phần nào hạn chế về nhân lực của Việt Nam trong việc phát triển TTĐT - một hình thức thanh toán hiện đại cần nhiều ứng dụng được công nghệ thông tin. 2.2. Cơ sở hạ tầng kinh tế cuả Việt Nam còn thấp Khi đầu tư vào cơ sở hạ tầng, phát triển được dịch vụ Internet, phát triển TTĐT, thì một yêu cầu đặt ra đó là phải có sự kết hợp giữa Chính phủ và người sử dụng đầu tư một lượng tiền không nhỏ để mua sắm thiết bị máy móc, trả cước phí đường truyền...Nhưng hiện nay, thu nhập đầu người của Việt Nam còn rất thấp, đại bộ phận dân chúng là thành phần nông nghiệp cho nên họ “chưa cần dùng Internet”. Đối với những người dùng Internet, do thu nhập thấp, nên dù mức cước truy cập Internet trong thời gian qua đã liên tục giảm và sẽ còn giảm trong tương lai song dù giá cước có giảm đến mức bằng hoặc thấp hơn tại các nước khác trong khu vực, nhưng mức sống của người dân Việt Nam vẫn thấp hơn nhiều so với các nước đó thì xét về giá cước truy cập so sánh, người Việt Nam vẫn phải trả một mức cao hơn so với người dân nước khác, tức là, so với các nước khác chi phí sử dụng Internet chiếm một tỉ trọng lớn trong tổng số chi tiêu. Ví dụ: nếu như chi phí dùng Internet ở Mỹ chiếm 1,2% thu nhập/người, úc 1,25% thu nhập/người thì ở Việt Nam chiếm 4,5% thu nhập/người (đối với các đối tượng có thu nhập tương đối cao). Tổng cục Bưu chính viễn thông cũng đã thực hiện lộ trình điều chỉnh cước viễn thông và Internet. Từ ngày 1/7/2002, cước hầu hết các dịch vụ viễn thông giảm trung bình 20-30 %, góp phần mở rộng phạm vi cung cấp dịch vụ tới những đối tượng có thu nhập thấp. Thực sự, để có thể thúc đẩy nhu cầu sử dụng Internet ở Việt Nam, Chính phủ và các cơ quan, công ty hoạt động trên lĩnh vực liên quan đến cung cấp dịch vụ Internet cần phải nỗ lực rất nhiều. Còn đối với các doanh nghiệp vừa và nhỏ, thì giá cước cao quả là đã hạn chế ít nhiều đối với sự tham gia vào TTĐT. Đối với một số công ty vừa và nhỏ, phí nối mạng là quá cao và không hợp lí, đối với một số khác vấn đề lại là thiếu cơ sở hạ tầng cần thiết. Các công ty này hoặc không nhận thức đầy đủ được về môi trường kinh doanh trên mạng, hoặc thiếu kĩ năng cần thiết hay điều kiện tài chính cần thiết để thực hiện những bước đi đầu tiên áp dụng công nghệ mới. 2.3. Hành lang pháp lý Mặc dù hiện nay chúng ta đã có văn bản pháp lý điều chỉnh một số vấn đề liên quan đến Internet, liên quan đến chữ ký điện tử, chứng từ điện tử nhưng chưa có luật điều chỉnh hoạt động thanh toán, quy định về an ninh bảo mật công nghệ thông tin, việc thực hiện hợp đồng thương mại điện tử, bảo vệ quyền sở hữu trí tuệ một cách cụ thể. Theo điều 6 nghị định 55-CP thì vấn đề bảo vệ quyền sở hữu chỉ được ghi sơ qua: thông tin đưa vào lưu trữ, truyền đi và nhận đến trên Internet phải tuân thủ các quy định tương ứng của Luật Báo chí, Luật xuất bản, Pháp lệnh bảo vệ bí mật Nhà nước và các quy định của pháp luật về sở hữu trí tuệ. Mặt khác, các chính sách, đường lối quản lý hiện thời của Nhà nước hay các cơ quan có thẩm quyền liên quan còn bất cập, có hiện tượng quản lý chồng chéo và vấn đề liên quan đến tính pháp lý của loại hoá đơn điện tử được sử dụng trong phương thức thanh toán bằng hoá đơn điện tử chưa được thừa nhận trên phạm vi toàn thế giới cũng như ở Việt Nam nên việc đảm bảo, cưỡng chế thi hành có nhiều yếu tố rủi ro. Tuy rằng QĐ44 /TTg là văn bản pháp lý đầu tiên công nhận chứng từ điện tử, chữ ký điện tử trong nghiệp vụ kế toán và thanh toán, nhưng nó chỉ áp dụng hạn chế đối với các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán, do đó, nó không thể đảm bảo pháp lý cho TMĐT nói chung. Mặt khác, đây là một vấn đề mới ở Việt Nam nên, khi triển khai không tránh khỏi những khó khăn và thiếu đồng bộ giữa cái cũ và cái mới. Như vậy, sự hạn chế về hành lang pháp lý đối với TTĐT sẽ là một rào cản đối với triển vọng của hình thức thanh toán mới mẻ này, do vậy Việt Nam cần phải tiếp tục xây dựng hệ thống pháp lý liên quan đến thương mại điện tử một cách hoàn chỉnh. III. Giải pháp cho TTĐT ở Việt Nam Rõ ràng thương mại điện tử không những là cơ hội đối với các nước phát triển mà còn có ý nghĩa đặc biệt đối với các nước đang phát triển, vì bằng các phương tiện điện tử thông qua Internet, các nước này có thể dễ dàng tiếp xúc với các thị trường rộng lớn trong và ngoài nước. Thương mại điện tử có khả năng giúp cho một số nước chuyển sang kinh tế số hoá - kinh tế tri thức; và bằng cách đó các nước đang phát triển có thể tạo một bước tiến nhảy vọt, tiến kịp các nước đi trước trong một thời gian ngắn hơn. Nhưng thương mại điện tử thực sự có hiệu quả cũng có những đòi hỏi phức tạp về hạ tầng cơ sở công nghệ, hạ tầng cơ sở nhân lực, bảo mật và an toàn, hạ tầng thanh toán tài chính tự động, khả năng bảo hộ sở hữu trí tuệ, tác động văn hoá xã hội của Internet, trình độ công nghệ… Hiện nay, ở Việt Nam vấn đề áp dụng TMĐT đã được Đảng và Chính phủ kịp thời quan tâm và khuyến khích. Bước đầu, nước ta đã tham gia tiểu ban điều phối thương mại điện tử của ASEAN (CCEC), tham gia soạn thảo và thoả thuận các nguyên tắc chung cho TMĐT của tổ chức này. Khi gia nhập APEC (14/11/1998), Việt Nam đã thoả thuận tham gia vào “Chương trình hành động về thương mại điện tử APEC”. Hai tổ chức chuyên trách về thương mại điện tử của Việt Nam đã được thành lập năm 1998, đó là tổ công tác thương mại điện tử thuộc ban chỉ đạo Chương trình Quốc gia về Công nghệ thông tin và Ban thương mại điện tử trực thuộc Bộ thương mại. Đến nay, ở Việt Nam, một số công ty đã bắt đầu triển khai hoạt động bán hàng qua mạng như công ty FPT, và một số cửa hàng ảo đã xuất hiện trên mạng. Siêu thị điện tử đầu tiên là Việt Nam Cybermall đã được khai trương vào cuối năm 1998, với sự cộng tác của VDC và công ty TNHH Thiên Phát. Người tiêu dùng có thể vào siêu thị này ngay tại nhà hoặc tại chỗ làm, miễn là nơi đó có máy tính kết nối mạng; có thể tìm trên mạng các loại hàng gia dụng, kim khí, điện máy, điện tử, điện lạnh và cả ôtô các loại. Bước đầu người dùng có thể nhận thấy sự thuận tiện của việc mua sắm trên siêu thị ảo như không mất công đi lại không phải mang vác nặng nề và hàng hoá có thể rẻ hơn đáng kể so với các siêu thị thật. TTĐT là một khâu quan trọng trong TMĐT, trong bối cảnh TTĐT đã bắt đầu triển khai trên toàn thế giới, thì TTĐT ở Việt Nam vẫn còn là một lĩnh vực bị bỏ ngỏ. TTĐT là một giai đoạn phát triển cao của TMĐT, đó là giai đoạn khá phức tạp, và thương mại điện tử chỉ thực sự phát triển khi có sự áp dụng thanh toán thông qua hệ thống điện tử. Như vậy, phát triển TTĐT là một yêu cầu cấp thiết và cần thiết đối với sự phát triển kinh tế nói chung, do đó, chúng ta phải đưa ra những giải pháp để TTĐT sẽ trở thành một lĩnh vực gần gũi quen thuộc với chúng ta. Mục tiêu cho TMĐT và TTĐT ở Việt Nam 1.1 Mục tiêu cho TMĐT Việt Nam hiện nay có thuận lợi là đã tiếp cận được với công nghệ hiện đại, xác định được chủ trương và cả tiềm năng để phát triển cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia. Điều hạn chế là hiện nay quy mô còn rất nhỏ bé và cần phải được nhanh chóng đổi mới tổ chức quản lý, thúc đẩy cạnh tranh và đào tạo nguồn nhân lực. Theo ý kiến của các chuyên gia, cơ sở hạ tầng của Việt Nam hiện nay còn nhiều vấn đề. Về viễn thông, mức độ số hoá của chúng ta chưa cao, băng thông mạng lưới chuyển mạch hẹp, truyền dẫn chưa dễ dàng mở rộng, mạng truy nhập băng hẹp, dịch vụ có tính tương tác và tính cá nhân hoá chưa cao. Trong khi đó, công nghệ thông tin và tin học cũng như dịch vụ thương mại điện tử và các dịch vụ trực tuyến của Việt Nam đều chưa phát triển. Nhìn chung, các dịch vụ của Việt Nam đều chưa đảm bảo được 4 tính chất theo như quan điểm của liên minh viễn thông thế giới (ITU). Chính vì vậy, ngay từ giờ, Việt Nam cần phải xác định rõ quyết tâm phát triển cơ sở hạ tầng quốc gia của mình. Mục tiêu đặt ra là phải đáp ứng được nhu cầu của xã hội thông tin dựa trên tri thức. Đến năm 2005, Việt Nam phải cơ bản hoàn thành việc xây dựng cơ sở hạ tầng thông tin quốc gia với các mục tiêu cụ thể bao gồm một mạng truyền thông vật lý hiện đại, phát triển tối đa thương mại điện tử. Thêm vào đó, với cơ sở hạ tầng thông tin trên, có thể nghiên cứu, giáo dục, chữa bệnh qua mạng, tạo môi trường pháp lý phù hợp và đào tạo thêm được nhiều việc làm mới. Quyết tâm đổi mới cho sự phát triển được thể hiện ở một loạt các văn bản, nghị định quan trọng được ban hành, có tính hướng cho sự phát triển của Internet và mạng viễn thông Việt Nam. Nghị định 55 tiếp bước Nghị định 21 của Chính phủ về quản lý, cung cấp và sử dụng dịch vụ Internet với những điều chỉnh mang tính khuyến khích, hỗ trợ Internet phát triển ở nước ta cũng đã qua 9 tháng đi vào cuộc sống. Bước tiến mới quan trọng trong Nghị định 21 CP chính là việc quản lý Internet, thay vì “khả năng quản lý đến đâu thì mở tới đó” như trước kia. Kế hoạch phát triển Internet Việt Nam giai đoạn 2001-2005 cũng đã được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt. Mục tiêu tổng quát là đẩy nhanh việc phổ cập Internet trong mọi hoạt động kinh tế, văn hóa, xã hội, an ninh quốc phòng với chất lượng tốt, giá cả thấp hơn hoặc tương đương với các nước trong khu vực. Chỉ tiêu phát triển cụ thể bao gồm: năm 2002-2003, tất cả các viện nghiên cứu, trường đại học, cao đẳng, trung học dạy nghề được kết nối Internet; đến năm 2005, đạt mật độ bình quân 1,3-1,5 thuê bao/100 dân, tỷ lệ số dân sử dụng Internet là 4%-5%, tiến tới đạt tỷ lệ này ở mức trung bình khu vực vào năm 2020; khoảng 50% số trường PTTH, 100% số bệnh viện trung ương và trên 50% bệnh viện tỉnh được kết nối Internet. Chủ trương tạo môi trường phát triển thông thoáng trong lĩnh vực viễn thông, Internet cũng thể hiện rõ trong Pháp lệnh Bưu chính viễn thông mới được ban hành. Theo đó, mọi thành phần kinh tế sẽ được khuyến khích tham gia kinh doanh các dịch vụ viễn thông, Internet. Các biện pháp chủ yếu sẽ được thực hiện nhằm đạt mục tiêu trên là: hoàn chỉnh hệ thống pháp lý, nâng cao năng lực quản lý Nhà nước về Internet; phát triển cơ sở hạ tầng viễn thông phục vụ phát triển Internet; phát triển các dịch vụ ứng dụng truy nhập Internet; nâng cao nhận thức, thói quen sử dụng công nghệ thông tin và Internet. Kế hoạch được phê duyệt còn đề ra việc huy động các nguồn lực vào việc đầu tư, phát triển và phổ cập Internet. 1.2. Mục tiêu cho TTĐT ở Việt Nam Thanh toán điện tử là một hình thức thanh toán mới, đã và đang được sự quan tâm rất nhiều của các Bộ, Ngành cũng như của Chính phủ. Vì vậy, Việt Nam đã đề những mục tiêu cơ bản cho việc tiếp cận hơn nữa và đẩy mạnh phát triển hình thức thanh toán điện tử này ở Việt Nam để phục vụ cho TMĐT. -Nâng cao nhận thức về TTĐT cho các cán bộ, doanh nhân, và dân chúng. -Đào tạo nguồn nhân lực phục vụ hoạt động TTĐT. -Các ngân hàng tiến hành triển khai một số ứng dụng của TTĐT như dịch vụ e-banking và các phương thức TTĐT khác. -Thu hút những khoản tài trợ nhất định (về thiết bị, giải pháp, hỗ trợ tài chính...) của nước ngoài hỗ trợ các ngân hàng đổi mới, hiện đại, phát triển hệ thống thanh toán giữa các ngân hàng. -Xây dựng cơ sở hạ tầng cho hệ thống TTĐT, mở rộng hệ thống Ngân hàng thương mại Việt Nam - tiền đề cho việc đưa TTĐT vào phục vụ phát triển và hội nhập với các quốc gia khu vực và thế giới. -Thúc đẩy sự phát triển Công nghệ thông tin trong giai đoạn chuyển tiếp sang nền kinh tế số hoá, kinh tế tri thức, từng bước xây dựng một xã hội thông tin ở nước ta. 2. Đề xuất cho việc phát triển TTĐT ở Việt Nam Hiện nay, nước ta có hơn 70.000 doanh nghiệp và khoảng 1,4 triệu hộ kinh doanh, nhưng 90% trong số đó vẫn thờ ơ với thương mại điện tử. Số người đăng ký truy nhập Internet mới ở mức khoảng 130.000 thuê bao, thấp hơn nhiều so với các nước khác trong khu vực. Mặt khác hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông chưa đáp ứng được nhu cầu truy nhập Internet của người tiêu dùng và các doanh nghiệp, hơn nữa giá cước viễn thông cao cũng làm hạn chế số lượng người truy nhập Internet và ảnh hưởng đến sự phát triển của TTĐT. Hệ thống thanh toán điện tử qua các ngân hàng Việt Nam chưa phát triển đầy đủ để đáp ứng các yêu cầu của TTĐT. Thêm vào đó, nước ta chưa có một tổ chức chuyên trách thuộc Chính phủ có đủ khả năng, thẩm quyền và một cơ chế tài chính để điều hành hữu hiệu việc xây dựng và phát triển hoạt động TTĐT điện tử. Như vậy, để nhanh chóng xây dựng và phát triển TTĐT ở Việt Nam, chúng ta cần tập trung giải quyết hàng loạt vấn đề bức thiết như: 2.1 Nâng cấp hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin và truyền thông quốc gia lên ngang tầm với các nước trung bình trong khu vực ASEAN Phát triển công nghệ thông tin và truyền thông quốc gia là bộ phận không thể tách rời của chiến lược và kế hoạch phát triển kinh tế–xã hội trong tương lai, nhằm mục đích rút ngắn khoảng cách giàu nghèo giữa các quốc gia, giữa hiện đại và lạc hậu và giúp cho việc thanh toán trong TMĐT có thể thực hiện dễ dàng được. Một đất nước nước muốn phát triển thì trước hết phải có một cơ sở hạ tầng thông tin hiện đại, đó là một yếu tố cần thiết cho sự phát triển của nền kinh tế số hoá. Chính vì thế, việc nâng cao hạ tầng cơ sở công nghệ thông tin thực sự là vấn đề cần được ưu tiên, chú trọng ở Việt Nam. Tuy ngành Bưu chính Viễn thông Việt Nam đã có nhiều cố gắng để cải thiện tình trạng Internet hiện nay, song giá cả vẫn còn chưa phù hợp , kỹ thuật chưa đảm bảo. Trong năm 2002, giá cước và chất lượng của các dịch vụ Internet vẫn chưa thay đổi nhiều, do vậy, ngành Bưu chính Viễn thông cần phải có biện pháp để có những bước biến đổi tích cực, nhằm thúc đẩy dịch vụ Internet ngày càng tốt hơn. Việt Nam nhất định phải tạo ra được sự bùng nổ Internet, sự đột biến Internet, thì mới có thể hòa nhập, sử dụng thương mại điện tử, tiến hành TTĐT, Chính phủ điện tử. Vấn đề này đã được Chính phủ Việt Nam cam kết với nguyên thủ các nước khối Đông Nam á phấn đấu có được một cơ sở hạ tầng Viễn thông Internet ngang bằng với khu vực. Đây thực sự là thách thức đối với Việt Nam, vì hiện nay, so hầu hết các nước trong Đông Nam á, cơ sở hạ tầng Internet và Bưu chính Viễn thông còn nhiều yếu kém. 2.2 Đào tạo nguồn nhân lực để phát triển công nghệ thông tin (CNTT) Cán bộ công nghệ thông tin là những người gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng và quá trình thanh toán điện tử. Những người này có vai trò quan trọng trong việc phát triển các phần mềm phục vụ thanh toán – là yếu tố đầu tiên để việc tiến hành hoạt động thanh toán điện tử có thể thực hiện được. Do vậy, việc nâng cao trình độ của các cán bộ công nghệ thông tin là một yêu cầu cấp thiết để phát triển việc TTĐT ở Việt Nam. Theo kết quả của nghiên cứu của nhiều nhà quản lý, nhà khoa học trong nước cũng như nước ngoài đều thấy rằng Việt Nam có rất nhiều tiềm năng về công nghệ thông tin (CNTT). Tuy nhiên, cho đến giờ chúng ta vẫn phải chấp nhận một sự thật là Việt Nam vẫn ở trong nhóm thứ hai gồm Việt Nam, Myanma, Lào, Cămpuchia còn lạc hậu về CNTT của ASEAN. Hiện thực này phản ánh một sự thực là chúng ta có nhiều tiềm năng nhưng chưa biến thành khả năng có thể vận dụng để phát triển kinh tế-xã hội đất nước. Trong mọi lĩnh vực, nguồn nhân lực là hết sức quan trọng, nhưng nguồn nhân lực ấy mới ở dạng tiềm năng chứ chưa phải ở dạng khả năng khai thác. Do vậy, để chuyển từ dạng tiềm năng thành khả năng cần có một chính sách đồng bộ, có thời gian, và biện pháp thiết thực thì mới có thể chuyển biến được để phục vụ cho sự phát triển KHCN đất nước. Điều này chỉ có thể thực hiện đựơc thông qua việc đào tạo một nguồn nhân lực có năng lực thật tốt bằng cách hợp tác đào tạo với các Chính phủ, các công ty CNTT hàng đầu của các nước phát triển CNTT như Nhật Bản... Hiện nay, Hội công thương và kinh tế Nhật Bản đã phối hợp với Việt Nam thành lập trung tâm phát triển kỹ sư phần mềm và đã chuyển giao công nghệ đào tạo. Hệ thống đào tạo này sẽ cấp chứng chỉ cho các học viên theo học nếu đủ trình độ của Nhật Bản, trước hết có thể làm việc được với các công ty của Nhật Bản. Ngoài ra, việc tổ chức đào tạo, nâng cao nhận thức về TTĐT cho các cán bộ, ngành, doanh nghiệp và xây dựng chương trình phổ cập về thương mại điện tử cho toàn dân là điều rất cần thiết. 2.3 Nhà nước hỗ trợ các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) và một số doanh nghiệp thử nghiệm áp dụng TTĐT trong quan hệ quốc tế Việc Nhà nước hỗ trợ các nhà cung cấp dịch vụ Internet (ISP) là điều cần thiết vì các doanh nghiệp này hiểu rõ lợi ích và các thuộc tính của TTĐT. Các ISP cung ứng các dịch vụ làm trung gian thanh toán, kết hợp với các công ty phát hành các loại thẻ, cung cấp phần mềm thanh toán..., đó là các dịch vụ thúc đẩy sự phát triển của TTĐT. Hiện nay, các công ty cung cấp dịch vụ đều có những hướng đi riêng cho mình như: VDC, đơn vị chiếm thị phần lớn nhất trong thuê bao Internet, hợp tác với Công ty Tiền phong mở siêu thị sách trên mạng, tiến hành TTĐT. VDC cũng vừa khai trương siêu thị trên mạng hồi đầu tháng 9. Còn, công ty phát triển phần mềm VASC vừa đưa ra hệ thống chứng chỉ số VASC CA tương tự như chứng minh thư điện tử, được sử dụng khi giao dịch trên mạng nhằm bảo đảm sự nhận diện đúng đối tượng giao dịch và đảm bảo an toàn bảo mật cho các nội dung giao dịch. Nhưng để các công ty ISP có thể phát triển hơn nữa, thì Nhà nước cần phải có những chính sách ưu đãi, khuyến khích các công ty này. Ngòai các ISP, nhóm thứ hai gồm một số doanh nghiệp hoạt động trong khu vực dịch vụ như du lịch, lữ hành, khách sạn, giải trí, công ty xuất – nhập khẩu cũng như một số đơn vị sản xuất có liên quan đến xuất – nhập khẩu (may mặc, thủ công mĩ nghệ...) cũng sẽ tạo cho TTĐT ở Việt Nam những bước tiến triển mới. Đặc điểm của nhóm này là bắt đầu nhận thức được tầm quan trọng của TTĐT nhưng hầu hết chưa hiểu rõ hay nói chính xác hơn là chưa được thuyết phục rằng TTĐT đem lại lợi ích to lớn. Theo nhận xét của các chuyên gia WB, nhóm này sẽ tạo ra bước ngoặt cần thiết cho TTĐT và sẽ là thị trường lớn nhất trong giai đoạn đầu của TTĐT ở Việt Nam. Do vậy, Nhà nước cần hỗ trợ cho một số doanh nghiệp thử nghiệm áp dụng TTĐT như đào tạo, nâng cao kĩ năng và cung ứng nguồn nhân lực cho doanh nghiệp ... Việc Nhà nước hỗ trợ cho các công ty cung cấp dịch vụ Internet và các doanh nghiệp là một chương trình khá quan trọng, vì nó sẽ góp phần đảm bảo cho sự phát triển thành công của TTĐT ở Việt Nam. Theo WB, chiến lược phát triển của TTĐT ở Việt Nam cần có một chương trình thúc đẩy, trong đó có hai nhân tố chính là nhà nước và công nghệ thông tin. WB đã cho 2,7 điểm trên thang điểm 4 về chính sách cho TTĐT ở Việt Nam. Điều này cho thấy tính khả thi của việc triển khai TTĐT ở Việt Nam. Cùng với việc xây dựng luật lệ, các chính sách của nhà nước sẽ tạo hành lang pháp lý đủ cơ sở cho TTĐT phát triển. Ngoài ra, Nhà nước phải có chính sách mở cửa đối với ngành viễn thông để giá cước viễn thông không còn là rào cản đối với sự phát triển của TTĐT. Bên cạnh đó,vai trò của Nhà nước, công nghiệp công nghệ thông tin cần đủ mạnh để cung cấp cho thị trường các phần cứng, phần mềm giá thấp, phù hợp với quy mô của các doanh nghiệp vừa và nhỏ của Việt Nam. Trong giai đoạn đầu, cần hình thành thị trường giao dịch điện tử (chứng từ, hàng hoá), từ đó khuyến khích các doanh nghiệp áp dụng theo. Các mục tiêu cụ thể trong giai đoạn tới, bao gồm hình thành các hiệp hội của các doanh nghiệp vừa và nhỏ; hiệp hội của ISP. Đồng thời, cần có chương trình phát triển phần cứng, phần mềm hướng đối tượng đến các doanh nghiệp nhỏ và vừa. Một khâu quan trọng là nghiên cứu và áp dụng các giao dịch tài chính điện tử giữa các đơn vị của nhà nước cũng như các doanh nghiệp tư doanh. 2.4 Xây dựng một số văn bản pháp lý cho TTĐT Để thực hiện việc thanh toán điện tử một cách hiệu quả, an toàn, thuận lợi thì hệ thống pháp luật phải có đầy đủ các quy phạm pháp luật nhằm điều chỉnh các quan hệ trong giao dịch thanh toán điện tử. Chính vì vậy mà, Nhà nước cần phải tiếp tục xây dựng các văn bản pháp lý nhằm bảo vệ pháp lý các hợp đồng thương mại điện tử, bảo vệ sở hữu trí tuệ, bảo vệ bí mật riêng, bảo vệ pháp lý đối với mạng thông tin, chống tội phạm xâm nhập với các mục đích bất hợp pháp như thu thập tin tức mật, thay đổi thông tin trên các trang Web, thâm nhập các dữ liệu, sao chép trộm các phần mềm, truyền virus phá hoại v.v…, và các qui định pháp lý liên quan đến việc lập một hợp đồng thương mại điện tử và hiệu lực thực hiện hợp đồng này như : thời hạn hiệu lực của hợp đồng, sự cố đường truyền và khó khăn, cản trở trong việc truyền số liệu, năng lực pháp lý của các bên tham gia thương mại điện tử, những giao dịch không hợp pháp.., cũng như Nhà nước phải đưa ra các giải pháp giải quyết tranh chấp khi có sự vi phạm hợp đồng thương mại điện tử như: kiện ở đâu, kiện như thế nào, sẽ được bảo vệ khi bị thiệt hại như thế nào... Ngoài ra, liên quan đến vấn đề pháp lý của TTĐT còn nhiều vấn đề khác mà Chính phủ cần sớm ban hành Nghị định riêng trong đó xác định cụ thể: -Đối tượng tham gia: cá nhân, các tổ chức kinh tế xã hội, các cơ quan chính phủ, các doanh nghiệp, các tổ chức kinh doanh tiền tệ tín dụng, ngân hàng Nhà nước, cơ quan xác nhận và công chứng chữ kí điện tử. -Các điều kiện pháp lý và kỹ thuật liên quan đến với các đối tượng tham gia các hệ thống thanh toán điện tử. -Vấn đề tổ chức thanh toán, các loại phí...quản lý thanh toán, báo cáo thống kê, cạnh tranh lành mạnh, tranh chấp và xử lý. -Vấn đề miễn giảm thuế VAT, thuế thu nhập, thuế nhập khẩu, đơn giản hoá các thủ tục xác định giá trị tài sản vô hình là các giải pháp kĩ thuật hoặc phần mềm máy tính, chế độ trích khấu hao và sử dụng nguồn vốn này một cách hợp lý đối với các thiết bị và phần mềm máy tính...thừa nhận và có chính sách miễn thuế đối với nguồn vốn tái đầu tư vào cơ sở hạ tầng thanh toán điện tử và công nghệ. Như vậy, việc xây dựng các văn bản pháp lý liên quan đến TTĐT là điều cần thiết để việc thanh toán qua hệ thống điện tử có thể hình thành được. Đó là nền móng đầu tiên cho việc tiến hành TTĐT, một hình thức thanh toán trong tương lai. Kết luận Từ nghiên cứu lý luận cũng như thực tiễn hoạt động thanh toán điện tử, có thể đi đến một số kết luận như sau: Cùng với sự bùng nổ của Internet, sự phát triển TMĐT là một tất yếu khách quan, có tác động lớn đến mọi mặt đời sống kinh tế-xã hội của loài người. Việc tham gia vào TMĐT thực sự là cơ hội để các nước có thể thu được những khoản lợi nhuận khổng lồ, do vậy, các nước cần phải nhanh chóng xúc tiến tham gia vào các hoạt động TMĐT, mà trước hết, cần thiết phải phổ cập những kiến thức liên quan đến TMĐT tới đông đảo người dân. 2. TTĐT là một khâu quan trọng trong việc tiến hành hoạt động TMĐT, do đó, các bên trong giao dịch cần phải hiểu biết về hoạt động TTĐT cũng như nắm vững luật liên quan đến TTĐT, có như vậy, việc thanh toán tiến hành qua mạng mới diễn ra suôn sẻ được. Trong xu thế hội nhập và toàn cầu hoá, Việt Nam cũng không thể đứng ngoài vòng xoáy phát triển của TTĐT, mà phải nỗ lực đưa ra những giải pháp để phát triển TTĐT tiến kịp với sự phát triển của TTĐT trên thế giới. Có như thế thì chúng ta mới không bị tụt hậu, mới tạo được bước phát triển nhảy vọt được. Đảng và nhà nước ta đã nhận thấy rõ vai trò quan trọng và yêu cầu phát triển kinh tri thức, phát triển thương mại điện tử. Trong báo cáo chính trị của ban chấp hành trung ương Đảng khoá VIII tại Đại hội đậi biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam, phần IV - Đường lối và chiến lược phát triển kinh tế xã hội đã nêu rõ: “Phát huy những lợi thế của đất nước, tận dụng mọi khả năng để đạt trình độ công nghệ tiên tiến, đặc biệt là công nghệ thông tin và công nghệ sinh học, tranh thủ ứng dụng ngày càng nhiều hơn, ở mức cao hơn và phổ biến hơn những thành tựu mới về khoa học và công nghệ, từng bước phát triển kinh tế tri thức...” “Phát triển mạnh và nâng cao chất lượng các ngành dịch vụ: thương mại, kể cả thương mại điện tử, hàng không, hàng hải và các lọai hình vận tải khác, bưu chính viễn thông, du lịch, tài chính, ngân hàng, kiểm toán, bảo hiểm, chuyển giao công nghệ, tư vấn pháp lý, thông tin thị trường. Sớm phổ cập sử dụng tin học và Internet trong nền kinh tế và đời sống xã hội” Có thể thấy rõ ràng thương mại điện tử là một phương thức hoạt động trên quy mô rộng lớn tầm quốc gia và quốc tế, có tác động đến nhiều lĩnh vực của đời sống kinh tế – xã hội. Đây là một thành tố của nền kinh tế tri thức, nó vừa tạo ra cơ hội nhưng đồng thời cũng đặt ra những thách thứcđối với Việt Nam. Chúng ta không được bỏ lỡ cơ hội, nhưng cũng không được nóng vội, phi thực tế phát triển thương mại điện tử mà, cần phaỉ có quan điểm chiến lược, kế hoạch tổng thể quốc gia và sự chỉ đạo, quản lí thống nhất của nhà nước trong phát triển thương mại điện tử ,đồng thời, các đòi hỏi của TMĐT về môi trường pháp lý, về tính an toàn, bảo mật cần được ưu tiên đáp ứng. Việt Nam ủng hộ các sáng kiến về xúc tiến thương mại điện tử của ASEAN, nỗ lực thực hiện cam kết khu vực và quốc tế của mình về phát triển thương mại điện tử. Lời cảm ơn Em xin bày tỏ lòng biết ơn sâu sắc nhất tới thầy giáo hướng dẫn - Lê Thế Bình_ người đã chỉ bảo giúp đỡ em tận tình trong nhiều tháng qua kể từ những ý tưởng ban đầu cho đến khi hoàn thành khoá luận. Em cũng xin bày tỏ sự biết ơn đối với những kiến thức quý báu mà thầy đã cung cấp cho em trong suốt quá trình học tập tại trường Đại học Ngoại Thương. Do điều kiện và trình độ còn hạn chế nên khoá luận không thể tránh khỏi những sai sót nhất định. Vì vậy em xin cảm ơn và rất mong nhận được những góp ý, phê bình của thầy cô giáo và bạn bè quan tâm đến đề tài này. Hà nội, ngày 12 tháng 12 năm 2002

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docLUAN VAN.doc
  • docBIA.doc
Tài liệu liên quan