Khóa luận Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng

MỤC LỤC MỞ ĐẦU 1. Tính cấp thiết của đề tài. 2. ý nghĩa luận và thực tiễn của đề tài. 3. Mục đích nghiên cứu. 4. Đối tượ.ng, phạm vi, khách thể nghiên cứu. 5. Phương pháp nghiên cứu. 6. Giả thuyết nghiên cứu và khung lý thuyết. CHƯƠNG I: CƠ SỞ LÝ LUẬN VÀ THỰC TIỄN VỀ CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN. 1. Tổng quan về vấn đề nghiên cứu. 2. Một số khái niệm công cụ 3.Một số lý thuyết xã hội học vận dụng vào đề tài. 4. Thực tiễn tình hình chăm sóc sức khỏe sinh sản ở huyện đảo Bạch Long Vĩ. CHƯƠNG II- MỘT SỐ YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN Ở HUYỆN ĐẢO BẠCH LONG VỸ. 1. Nhận thức về chăm sóc sức khỏe và chăm sóc sức khỏe sinh sản. 2. Nhận thức và sử dụng các biện pháp tránh thai. 3. Tình hình chăm sóc thai nghén và sinh đẻ. 4. Nạo phá thai. 5. Nhiễm khuẩn đường sinh sản. 6. Trẻ em chết chu sinh. 7. Chất lượng dịch vụ Y tế. 8. Phong tục tập quán. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ MỞ ĐẦU 1-TÍNH CẤP THIẾT CỦA ĐỀ TÀI. Đất nước ta sau 20 năm đổi mới đã thu được những thành tựu về kinh tế, chính trị, xã hội. Nền kinh tế đã vượt qua thời kỳ suy giảm, đạt tới tốc độ tăng trưởng khá cao, năm sau cao hơn năm trước bình quân trong 5 năm 2001 - 2005 là 7.5%/năm và phát triển tương đối toàn diện. Văn hoá và xã hội có nhiều tiến bộ trên nhiều mặt, việc gắn phát triển kinh tế với các vấn đề xã hội có chuyển biến tốt, nhất là trong công cuộc xoá đói, giảm nghèo, tỷ lệ hộ nghèo giảm đáng kể từ 10% năm 2000 xuống còn 7% năm 2005, đời sống các tầng lớp nhân dân được cải thiện, tuổi thọ bình quân và dân trí được nâng cao. Chính trị xã hội ổn định vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế ngày càng được củng cố và nâng cao nhờ đường lối cải cách đúng đắn của Đảng và nhà nước. Tuy nhiên Việt Nam vẫn còn là một trong những nước nghèo, GDP bình quân đầu người còn thấp dưới mức nghèo khổ theo tiêu chuẩn quốc tế. Trình độ phát triển của ta còn thấp hơn nhiều so với các nước trung bình trong khu vực và trên thế giới. Nền kinh tế đang đứng trước những thách thức trong tiến trình hội nhập và phát triển, các dịch vụ xã hội cơ bản chưa đáp ứng được nhu cầu của nhân dân như: thiếu trường học phục vụ cho học sinh, nhiều nơi còn học ca 3; trang thiết bị y tế thiếu, lạc hậu không đáp ứng được nhu cầu chữa bệnh, trình độ của nhân viên y tế cần được đào tạo và nâng cao; các hoạt động văn hoá tinh thần cho nhân dân ở vùng sâu, vùng xa còn thiếu; phúc lợi xã hội chưa giúp đỡ được nhiều cho các đối tượng trẻ mồ côi, trẻ lang thang, người già cô đơn; quy mô dân số còn tiếp tục gia tăng, chất lượng dân số chưa cao, phân bố dân số chưa hợp lý vẫn đang là vấn đề lớn đối với sự phát triển bền vững và nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Trong bối cảnh công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước và hội nhập quốc tế, vai trò của nguồn nhân lực trở nên quan trọng hơn bao giờ hết. Nguồn nhân lực là một trong những nhân tố quyết định sự phát triển của đất nước. Không có sự đầu tư nào mang lại nguồn lợi lớn như đầu tư phát triển nguồn nhân lực. Hướng tới mục tiêu nói trên, với mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội của nước ta từ 2001 - 2010 mà Nghị quyết đại hội IX đã đề ra là: Đưa đất nước ta ra khỏi tình trạng kém phát triển, nâng cao rõ rệt đời sống vật chất tinh thần của nhân dân, tạo nền tảng để đến năm 2020 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng hiện đại. Vì vậy để thực hiện được mục tiêu trên thì trước tiên phải nâng cao chất lượng giáo dục, nâng cao sức khoẻ của người dân để tạo ra một lực lượng khoẻ mạnh về thể chất, tinh thần được trang bị những tri thức phù hợp với nhu cầu phát triển của xã hội, đây là mối quan tâm hàng đầu là phương tiện quan trọng trong chính sách phát triển kinh tế xã hội của đất nước. Vậy, với thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ vùng sâu vùng xa luôn là vấn đề quan tâm của những nhà hoạch định chính sách, nhà xã hội học, nhà dân số học, nhà quản lý xã hội, y tế Trong quá trình phát triển kinh tế - xã hội của đất nước, Đảng và nhà nước ta đã có nhiều chính sách ưu tiên nhằm nâng cao đời sống, sức khoẻ cho đồng bào các dân tộc thiểu số sống ở vùng sâu, vùng xa cũng như đẩy mạnh sự phát triển toàn diện của miền núi, hải đảo. Tuy nhiên, thực tế cho thấy sự phát triển về kinh tế, văn hoá - xã hội tại khu vực này vẫn còn thấp hơn nhiều so với các khu vực khác của cả nước. Mức sống thấp, trình độ dân trí chưa được nâng cao, giao thông đi lại khó khăn, điều kiện chăm sóc y tế và phúc lợi xã hội còn thiếu thốn, là những vấn đề bức xúc đang đòi hỏi sự quan tâm, đầu tư nhiều hơn nữa của chính phủ đối với người dân sống ở những vùng khó khăn này. Tăng cường chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ và trẻ em cả nước nói chung, cho miền núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa nói riêng đang là một vấn đề ưu tiên trong chiến lược chăm sóc sức khỏe cộng đồng. Những nỗ lực trong việc triển khai các chiến lược quốc gia cũng như các chương trình y tế đã đem lại những cơ hội khả quan cho việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ. Tuy nhiên, trong thực tế, không diễn ra một sự phát triển đồng đều giữa các vùng: miền xuôi và miền núi, nông thôn và thành thị, hải đảo và đất liền. Chăm sóc sức khỏe sinh sản là một trong những mục tiêu và là nội dung công tác quan trọng của Uỷ ban Dân số Gia đình và Trẻ em, hiện nay là chức năng của Tổng cục Dân số- Kế hoạch hóa gia đình- (Bộ Y tế). Đối với chiến lược Dân số- Kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản là một bộ phận tối quan trọng. Nó có vai trò quyết định tới sự thành công hay thất bại của chiến lược quốc gia này. Tuy nhiên, ở mỗi địa phương, ở mỗi vùng và ở mỗi dân tộc khác nhau, công tác dân số- kế hoạch hóa gia đình cũng khác nhau, vì thế kết quả thu được ở mỗi vùng, mỗi tộc người cũng rất khác nhau. Nhìn chung, ở các vùng đô thị, các tỉnh đồng bằng chăm sóc sức khỏe sinh sản, dân số- kế hoạch hóa gia đình đạt kết quả cao hơn nhiều so với vùng núi, hải đảo, vùng sâu vùng xa. Ở miền núi và hải đảo, do điều kiện tự nhiên và xã hội có nhiều khó khăn như giao thông đi lại khó khăn, các dịch vụ sức khỏe và thuốc men, trang thiết bị y tế còn thiếu, do trình độ dân trí thấp (đặc biệt là phụ nữ) đã hạn chế những cơ hội chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ và trẻ em. Đặc biệt, là vấn đề chăm sóc sức khoẻ sinh sản đối với phụ nữ ở vùng sâu vùng xa, thực trạng mức sinh cao và phong tục tập quán lạc hậu là những nguyên nhân gây lên tình trạng tử vong của sản phụ và trẻ sơ sinh hoặc là ảnh hưởng lớn đến sức khoẻ của bà mẹ và trẻ em sau này. Bên cạnh đó ở khu vực này hệ thống chăm sóc chăm sóc y tế và dịch vụ cung cấp các biện pháp tránh thai tại đây còn có một khoảng cách khá xa so với tình hình chung của cả nước. Mục tiêu giảm quy mô dân số của chương trình dân số thực hiện tại nơi này còn gặp nhiều khó khăn, do vậy, những vấn đề liên quan đến nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khoẻ sinh sản đang là vấn đề đòi hỏi phải giải quyết lâu dài. Nhận thức được tầm quan trọng cũng như ý nghĩa của vấn đề xã hội trên, tôi chọn đề tài "Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng ” làm đề tài khóa luận tốt nghiệp của mình. Với mong muốn tìm hiểu thực trạng sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo và các yếu tố tác động đến đời sống sức khỏe sinh sản ra sao, để đóng góp một phần nhỏ bé của mình vào việc nghiên cứu , từ đó đưa ra các giải pháp đề xuất và kiến nghị với chính quyền địa phương nhằm tháo gỡ, cải thiện và nâng cao đời sống sức khỏe nhân dân địa phương nói chung và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ huyện đảo nói riêng. 2. Ý NGHĨA LUẬN VÀ THỰC TIỄN CỦA ĐỀ TÀI. 2.1. Ý nghĩa lý luận khoa học. Nghiên cứu xã hội học về "Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng” nhằm tìm hiểu thực trạng chăm sóc sức khỏe cũng như chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng sâu, vùng xa. Tìm hiểu xem mức độ họ nhận thức, thái độ và hành vi của họ với công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản, yếu tố nào tác động đến việc chăm sóc sức khỏe sinh sản của họ. Qua đó làm sáng tỏ hơn cho một số lý thuyết xã hội học như lý thuyết hành động xã hội của Max Weber, lý thuyết giới (Thuyết nữ quyền cấp tiến). Đồng thời từ nghiên cứu này có tác dụng đóng góp những tri thức, kinh nghiệm thực tiễn để kiểm nghiệm, minh họa tính tương thích của lý thuyết và thực tiễn xã hội, làm sáng tỏ, củng cố và hoàn thiện thêm một số lĩnh vực nghiên cứu xã hội học và sức khỏe/ sức khỏe sinh sản. 2.2. Ý nghĩa thực tiễn. Nghiên cứu về sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng sâu, vùng xa có một ý nghĩa hết sức thiết thực. Một mặt nó chỉ rõ hiện trạng nhận thức của phụ nữ vùng sâu vùng xa về các vấn đề sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản đã đầy đủ, toàn diện chưa hay hiểu biết chưa đầy đủ, thậm chí còn hiểu sai lệch. Mặt khác, nghiên cứu giúp chỉ rõ các nguồn tiếp cận thông tin và dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ vùng sâu vùng xa thực tế như thế nào. Từ đó đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị nhằm nâng cao nhận thức về sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo, thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản và nâng cao hơn nữa chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ vùng sâu, vùng xa. 3- MỤC ĐÍCH NGHIÊN CỨU. Mục tiêu cụ thể của cuộc nghiên cứu này nhằm: -> Tìm hiểu thực trạng mức độ nhận thức về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo hiện nay như thế nào và từ nhận thức đó họ hành động ra sao, thực trạng hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của họ có liên quan như thế nào tới sức khỏe sinh sản của họ. -> Tìm hiểu các yếu tố tác động đến việc chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo, nguyện vọng của phụ nữ huyện đảo với công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản ở địa phương, nhu cầu sử dụng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. -> Đưa ra một số giải pháp, khuyến nghị phù hợp giúp nâng cao nhận thức, làm thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản theo hướng tích cực, tăng cường nâng cao chất lượng dịch vụ Ytế cũng như nâng cao chất lượng dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ huyện đảo. 4- ĐỐI TƯỢNG, PHẠM VI, KHÁCH THỂ NGHIÊN CỨU. 4.1. Đối tượng nghiên cứu. Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ. 4.2. Khách thể nghiên cứu. Phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ đã kết hôn và chưa kết hôn. 4.3. Phạm vi nghiên cứu. Về không gian: Huyện đảo Bạch Long Vĩ – Hải Phòng. Thời gian nghiên cứu: Từ tháng 01/ 2008 đến tháng 05/2008. Giới hạn các vấn đề nghiên cứu về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản; do hạn chế về thời gian và nhận thức cho nên trong khuôn khổ khóa luận tốt nghiệp chỉ đề cập nghiên cứu tới một số khía cạnh cơ bản nhất của chăm sóc sức khỏe sinh sản như: nhận thức về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản; nhận thức và sử dụng các biện pháp tránh thai; tình hình chăm sóc thai nghén và sinh đẻ; tình hình trẻ em chết chu sinh; tình hình nạo phá thai và nhiễm khuẩn đường sinh sản. 5. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 5.1 Phương pháp luận. * Chủ nghĩa duy vật biện chứng: Theo phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật biện chứng yêu cầu phải nhìn các sự vật hiện tượng trong mối quan hệ biện chứng. Nghĩa là phải nhìn mọi sự vật, hiện tượng không tồn tại riêng biệt tách rời mà luôn luôn trong mối quan hệ tương tác quyết định lẫn nhau. Trong quá trình xem xét, đánh giá mọi hiện tượng, sự kiện xã hội phải đặt trong mối quan hệ toàn diện với điều kiện kinh tế- xã hội đang vận động, biến đổi trên địa bàn nghiên cứu. Trong đề tài nghiên cứu này, khi tìm hiểu về thực trạng nhận thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ chúng ta phải đặt trong bối cảnh kinh tế- xã hội nước ta ở thời điểm hiện tại. Các giá trị mới của xã hội hiện đại, sự hội nhập vào nền kinh tế quốc tế, sự toàn cầu hóa đang tác động lên mọi mặt của đời sống xã hội, trong đó có người phụ nữ. * Chủ nghĩa duy vật lịch sử: Phương pháp luận của chủ nghĩa duy vật lịch sử yêu cầu người nghiên cứu khi nghiên cứu các sự vật, hiện tượng xã hội cần phải đặt trong một giai đoạn lịch sử nhất định, trên quan điểm kế thừa và phát triển. Nghiên cứu này được xuất phát từ thực tế lịch sử xã hội cụ thể ở trong mỗi giai đoạn trong sự phát triển của nó, và thực tế lịch sử này được xem xét như cơ sở mục tiêu, tiêu chuẩn của thông tin thực nghiệm. Nghiên cứu này đặt thực trạng nhận thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ vùng hải đảo trong bối cảnh xã hội Việt Nam đang trong thời kỳ công nghiệp hóa- hiện đại hóa. Nền kinh tế thị trường với tác động tích cực làm cho đời sống vật chất và tinh thần của người dân được nâng cao. Tuy nhiên, trong quá trình chuyển đổi nền kinh tế nước ta cũng bộc lộ nhiều vấn đề xã hội ảnh hưởng đến công tác chăm sóc sức khỏe nhân dân, đặc biệt là nhóm xã hội dễ bị tổn thương như phụ nữ và trẻ em. 5.2 Những phương pháp thu thập thông tin. 5.2.1. Phương pháp phân tích tài liệu. Phân tích tài liệu là phương pháp thu thập thông tin gián tiếp thông qua nguồn tài liệu có sẵn. Những nguồn tài liệu này đã có trước khi nghiên cứu. Để báo cáo thực tập được hoàn thiện đầy đủ nội dung và thông tin phong phú, cá nhân đã khai thác thu thập và xử lý thống kê được từ nhiều nguồn khác nhau. Phương pháp phân tích tài liệu là một phương pháp quan trọng trong nghiên cứu của đề tài. Tài liệu thu thập được từ các báo cáo tổng kết năm của Huyện ủy, Uỷ ban Nhân dân huyện Bạch Long vĩ phản ánh tình hình kinh tế- xã hội của huyện đảo. Ngoài ra, còn sử dụng một số tài liệu của Trung tâm Ytế huyện; số liệu thống kê của Hội liên hiệp phụ nữ huyện trong 03 năm trở lại đây và sử dụng một số tài liệu liên quan tới sức khỏe sinh sản của phụ nữ như Tạp chí xã hội học, Tạp chí dân số và phát triển, tài liệu chuyên ngành dân số, Ytế Các thông tin trong các tài liệu này được xử lý, phân tích và nêu ra nhằm giải quyết các vấn đề trong giả thuyết nghiên cứu. 5.2.2. Phương pháp quan sát. Phương pháp này được sử dụng để tìm hiểu địa bàn thông qua tri giác trực tiếp về huyện đảo Bạch Long Vĩ, về người phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ để có những thông tin độ chính xác cao, bản thân quan sát ghi nhận đầy đủ qua quan sát thấy được. Những thông tin này được bổ sung làm cho thông tin thu được qua các tài liệu đầy đủ hơn. 5.2.3. Phương pháp tiếp cận phỏng vấn sâu cá nhân. Cuộc nghiên cứu được tiến hành theo phương pháp phỏng vấn sâu. Những vấn đề liên quan đến đề tài nghiên cứu được soạn thảo chi tiết thành một đề cương để người phỏng vấn sử dụng trong quá trình tiến hành các cuộc phỏng vấn. Đây là những phỏng vấn để xem xét nghiên cứu một cách sâu sắc có căn cứ và cũng là để hiểu sâu bản chất nguồn gốc của vấn đề đang nghiên cứu. Phương pháp này phục vụ cho việc khai thác sâu các thông tin định tính như nhận thức và hành vi của phụ nữ về chăm sóc sức khỏe sinh sản, đánh giá của họ về những người xung quanh cũng như thái độ của chị em phụ nữ khi nói đến chuyện chăm sóc sức khỏe sinh sản. Phỏng vấn sâu ở đây đã được tiến hành tới 30 người, gồm: một số cán bộ chủ chốt thuộc các ngành văn hoá, Ytế, giáo dục và xã hội, người đứng đầu các đoàn thể xã hội, chị em phụ nữ trong độ tuổi sinh đẻ trên địa bàn huyện. Phỏng vấn sâu ở đây còn có ý nghĩa minh hoạ và khẳng định kết quả nghiên cứu bởi những thông tin qua phân tích tài liệu, qua quan sát địa bàn huyện đảo trong những năm gần đây. 6- GIẢ THUYẾT NGHIÊN CỨU VÀ KHUNG LÝ THUYẾT. 6.1.Giả thuyết nghiên cứu. -> Nhận thức và hành vi của phụ nữ huyện đảo hiện nay về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản có hơn trước nhưng còn sơ sài, chưa đầy đủ. -> Có sự khác biệt về mức độ nhận thức và hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản giữa các nhóm xã hội. -> Các yếu tố điều kiện tự nhiên, kinh tế, phong tục, tập quán có ảnh hưởng lớn tới hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo.

doc74 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 3165 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo Bạch Long Vỹ - Hải Phòng, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
cơ sở, Cư trú tại Làng Thanh niên xung phong). Nữ hộ sinh, Phụ trách công tác kế hoạch hóa gia đình cũng cho biết: “Đối tượng đến Trung tâm y tế mua và sử dụng các phương tiện tránh thai, thực hiện nạo, hút thai chủ yếu là phụ nữ đã có gia đình, sử dụng các biện pháp tránh thai chưa đúng phương pháp… Chị cũng cho biết tỷ lệ chị em biết ít nhất một biện pháp tránh thai hiện đại tương đối cao nhưng không tương xứng với tỷ lệ chị em sử dụng biện pháp tránh thai, nói chung tỷ lệ chị em phụ nữ huyện đảo tự nguyện sử dụng biện pháp tránh thai tương đối thấp so với mặt bằng chung các quận huyện trong đất liền, cho nên số chị em có thai ngoài ý muốn cũng tương đối nhiều, một số chị em đến trung tâm thai đã 3 hoặc 4 tuần tuổi, cho nên phải chuyển chị em về bệnh viện chuyên khoa trong đất liền”. Như vậy, nhận thức của chị em phụ nữ về các biện pháp thánh thai còn chưa đầy đủ đã nâng tỷ lệ phụ nữ có thai ngoài ý muốn tăng cao. Qua quan sát tại Làng Thanh niên xung phong chúng tôi nhận thấy rằng: Trong 45 hộ quan sát được có tới 23 hộ (51%) gia đình trẻ sinh con một bề toàn là gái, họ có nguyện vọng muốn sinh con thứ ba nếu điều kiện cho phép, nhưng do áp lực từ quy định và kỷ luật đơn vị, nên các cặp vợ chồng này chỉ sử dụng biện pháp tránh thai tạm thời cho nên nhóm phụ nữ này có nguy cơ có thai ngoài ý muốn và dẫn đến tỷ lệ nạo, hút thai tương đối cao. Qua việc phân tích phỏng vấn sâu các nhóm phụ nữ khác nhau, ngoài việc khẳng định thêm những xu hướng đã thấy qua số liệu tỷ lệ phụ nữ huyện đảo đã từng nạo hút thai tương đối cao, nó phản ánh sự chưa sẵn có của các phương tiện tránh thai và chưa thuận tiện, sự đa dạng của các biện pháp tránh thai ở huyện đảo này còn rất yếu. 5. Nhiễm khuẩn đường sinh sản. Sự hiểu biết về các bệnh do nhiễm khuẩn đường sinh sản, về HIV/AIDS của các nhóm phụ nữ trên huyện đảo còn rất sơ đẳng và những yếu tố gây ra nguy cơ mắc các bệnh truyền nhiễm đường sinh sản và các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản chị em chưa được hiểu tường tận, cho nên các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản (phụ khoa) còn nhiều tồn tại, ảnh hưởng trực tiếp tới sức khỏe của phụ nữ. “Kết quả các đợt khám phụ khoa cho chị em phụ nữ, Tỷ lệ chị em bị nhiễm khuẩn đường sinh sản hơi cao 68% do điều kiện vệ sinh môi trường kém, thiếu nước sạch sinh hoạt, đối tượng này chủ yếu là chị em sống và làm dịch vụ ở khu vực âu cảng” (Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ huyện). Qua kết quả của nghiên cứu, ta thấy tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản của phụ nữ huyện đảo rất cao (68% phụ nữ mắc các bệnh phụ khoa) (số liệu do Trung tâm y tế và Hội liên hiệp phụ nữ huyện cung cấp) mà nguyên nhân chính là do điều kiện vệ sinh môi trường kém, thiếu nước sạch. Đặc biệt, là nhóm phụ nữ sinh sống tại khu vực âu cảng, cả gia đình sống trong một chiếc tàu hoặc thuyền máy, diện tích trật trội, thiếu nước sinh hoạt hàng ngày, nguồn nước ngọt (nước giếng khoan) chưa qua xử lý đã ảnh hưởng xấu và liên quan tới các bệnh phụ khoa của nhóm phụ nữ này (có tới 80 % phụ nữ khu vực âu cảng viêm nhiễm đường sinh sản do thiếu nước sạch). Đánh giá của đồng chí Giám đốc Trung tâm y tế huyện về tình hình mắc bệnh phụ khoa của phụ nữ cho thấy: “ Tỷ lệ chị em mắc các bệnh viêm nhiễm đường sinh dục cũng tương đối cao, khoảng gần 70%, chủ yếu tập trung ở đối tượng là dân cư sống dưới âu cảng”. Nhóm phụ nữ, sống trên đảo ở các khu dân cư tỷ lệ mắc các bệnh phụ khoa ít hơn, đặc biệt là nhóm phụ nữ cán bộ, công nhân viên chức do được sống trong điều kiện sinh hoạt tốt hơn, đủ nguồn nước sạch sinh hoạt hàng ngày và chị em ý thức được việc vệ sinh cơ thể thường xuyên, chị em cũng hiểu về các nội dung của chăm sóc sức khỏe sinh sản sâu sắc hơn. Qua điều tra nghiên cứu về cơ cấu bệnh phụ khoa của chị em phụ nữ huyện đảo cho thấy: (xem bảng 4) Bảng 4: Cơ cấu bệnh phụ khoa thường gặp Bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản Tỷ lệ % Trùng roi âm đạo 50% Nấm can di da 30% Nhiễm tạp khuẩn 20% Tổng 100% Nguồn: Báo cáo công tác y tế của Trung tâm ytế huyện, năm 2006. Qua bảng số liệu trên cho chúng ta thấy các bệnh phụ khoa chị em phụ nữ huyện đảo thường mắc là nhiễm Trùng roi âm đạo (50% trong số chị em phụ nữ mắc bệnh phụ khoa), nhiễm nấm can di da (30% trong số chị em phụ nữ mắc bệnh phụ khoa), nhiễm tạp khuẩn (20% trong số chị em phụ nữ mắc bệnh phụ khoa) . Như vậy, bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản của phụ nữ huyện đảo chủ yếu là do vệ sinh môi trường kém và thiếu nguồn nước sạch sinh hoạt, ý thức vệ sinh cơ thể của phụ nữ ngư dân chưa tốt do thiếu nước sạch sinh hoạt. 6. Trẻ em chết chu sinh. Chết chu sinh hay chết xung quanh sự sinh đẻ là những trường hợp thai nhi hoặc trẻ chết khi thai được tròn 28 tuần tuổi cho tới 07 ngày sau khi sinh. Chết chu sinh thường được xem là một chỉ báo phản ánh tình trạng kinh tế- xã hội cũng như tình trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em trong cộng đồng. ở đây, qua nghiên cứu tình trạng trẻ em chết chu sinh để đánh giá việc nâng cao sức khỏe sinh sản cho chị em phụ nữ nói chung, chị em phụ nữ huyện đảo nói riêng. Trong nghiên cứu, mỗi nhóm phụ nữ có những đặc điểm riêng về điều kiện kinh tế, phong tục tập quán. Bởi vậy, việc sinh đẻ và tình hình chết chu sinh của trẻ em ở từng nhóm cũng khác nhau. Bằng phương pháp quan sát và phỏng vấn sâu trong thời gian qua tôi đã thu thập thông tin về những người mẹ, tiền sử sản khoa của họ, cùng sự diễn biến thai nghén. Trong thời gian nghiên cứu, qua thu thập thông tin và phân tích tài liệu, trong 3 năm trở lại đây có 14 bà mẹ có con chết chu sinh. Với những bà mẹ có con chết chu sinh này, các phỏng vấn sâu đã được tiến hành để tìm hiểu thêm về các yếu tố xã hội tác động đến cái chết của thai nhi và trẻ. *Trình độ học vấn của các bà mẹ ảnh hưởng không nhỏ tới việc chăm sóc sức khỏe cho họ và chăm sóc thai nghén. Trình độ học vấn của các bà mẹ được chia theo các mức từ thấp đến cao là: Tiểu học, Trung học cơ sở, Trung học phổ thông, từ Trung học trở lên. Thông tin thu được cho thấy: Qua điều tra nghiên cứu về tương quan giữa trình độ học vấn của chị em phụ nữ huyện đảo với số trẻ em chết chu sinh: (xem bảng 5) Bảng 5: Tương quan trình độ học vấn với số trẻ chết chu sinh Học vấn Tiểu học TH cở sở THPT TH,CĐ,ĐH Tổng số Số trẻ chết chu sinh 11 02 01 0 14 % 78,5% 14,2% 7,1% 0 100% (Nguồn: Báo cáo công tác kế hoạch hóa gia đình của Trung tâm y tế huyện năm 2005; 2006; 2007.) Bảng số liệu cho thấy trong số 14 bà mẹ có con chết chu sinh có tới 11(78,5%) bà mẹ trình độ học vấn ở bậc Tiểu học; 02 (14,2%) bà mẹ có trình độ học vấn ở bậc Trung học cơ sở; 01 (7,1%) bà mẹ có trình độ học vấn Trung học phổ thông và bậc học trung học trở lên không có trường hợp trẻ chết chu sinh. Như vậy, một khi học vấn của các bà mẹ bị hạn chế thì đi cùng với họ là sự thiếu hiểu biết về chăm sóc và bảo vệ thai nghén do đó điều kiện sinh đẻ của họ cũng gặp khó khăn hơn. Hầu hết trong số 14 bà mẹ có con chết chu sinh có tới 13 (92,8%) bà mẹ cư trú tại khu vực âu cảng làm ngư nghiệp và dịch vụ hàng hóa trong điều kiện sóng gió; chỉ có 01 (7,2%) bà mẹ làm ngư nghiệp nhưng cư trú trên đảo do nhận thức hạn chế nên không biết giữ gìn và chăm sóc thai nghén. “Lúc có thai được 7 tháng, thấy hơi đau bụng trong mấy ngày liền, hôm ấy thấy đỡ đau bụng, thấy người ta đi câu mực được nhiều, thấy tiếc của cũng xuống thuyền đi biển, hôm sau về lại thấy ra máu và đau bụng dữ dội, đi khám chẩn đoán dọa sảy thai, sau một tuần thai chết lưu, phải về đất liền đẻ chỉ huy, chết mất đứa con trai, giá như em không đi biển câu mực thì con em không chết” (Nữ, 31 tuổi, lớp 3, Nghề ngư, Khu dân cư số 1). Mức thu nhập, nhìn tổng thể thì mức thu nhập của chị em phụ nữ hải đảo tuy không thấp quá như chị em phụ nữ vùng rừng núi và vùng dân tộc thiểu số. Do đó, mức sống của chị em chưa đến mức khó khăn quá, nhưng vẫn còn khoảng cách khá xa với mặt bằng chung và thu nhập không ổn định so với chị em phụ nữ trong đất liền, vùng đồng bằng và thành thị. Bởi vậy, chị em ít khi có điều kiện bồi dưỡng thêm khi mang thai ngoài nguồn thực phẩm là cá. Trong khi hoàn cảnh khó khăn, điều kiện lao động nặng nhọc của thai phụ là nguyên nhân chủ yếu khiến tỷ lệ chết chu sinh cao. Khi phỏng vấn sâu các bà mẹ có con chết chu sinh ở tại gia đình của các bà mẹ này, tôi nhận thấy phần lớn các gia đình có con chết chu sinh đều có mức sống trung bình nhưng vẫn còn khó khăn, tài sản, đồ dùng dụng cụ trong gia đình không có gì đáng giá. Với câu hỏi của tôi: “ Chị có bồi dưỡng thêm gì khi mang thai không” thì câu trả lời gần như giống nhau “ chúng em làm đủ ăn là tốt lắm rồi, không dám nghĩ tới bồi dưỡng và thuốc men”. Họ có nguồn thu nhập gắn liền với biển cho nên rất bấp bênh, không vững chắc, không có gì đảm bảo là ngày mai họ có cái để ăn khi biển động, gió bão kéo dài, lương thực, thực phẩm dự trữ rất hạn chế. Điều kiện lao động của họ khá nặng nhọc, hầu hết các bà mẹ phải chịu đựng với sóng gió, làm việc trong môi trường lao động khá gian khổ. Việc chăm sóc thai nghén cũng như thăm khám thai ở những bà mẹ này cũng không được đầy đủ. Trong số 14 bà mẹ có con chết chu sinh thì có 08 bà mẹ trong quá trình mang thai không khám thai lần nào, 06 bà mẹ do không khám thai ở những tháng cuối nên không phát hiện được thai đó thuộc nhóm thai nghén có nguy cơ cao như ngôi ngang, ngôi ngược khi đẻ ra ngoài con bị chết ngạt. Như vậy, chết chu sinh chịu tác động từ nhiều hướng, những trường hợp các bà mẹ có con chết chu sinh trong nghiên cứu đã gặp một hoặc một số điều kiện khó khăn trong việc chăm sóc thai nghén và nguy cơ cao gây chết chu sinh. II- NHỮNG YẾU TỐ TÁC ĐỘNG ĐẾN CÔNG TÁC CHĂM SÓC SỨC KHỎE SINH SẢN. 1. Vị trí địa lý. Địa lý là yếu tố đầu tiên tác động tới việc chăm sóc sức khỏe nói chung và sức khỏe sinh sản nói riêng trong các cộng đồng, đặc biệt là đối với huyện đảo Bạch Long Vĩ. Yếu tố địa lý- xã hội trong nghiên cứu trước hết tôi tập trung vào địa bàn cư trú của chị em phụ nữ, cấu trúc xã hội thích ứng, Khó khăn trong việc tiếp cận các dịch vụ chăm sóc y tế là các yếu tố khách quan tác động tới việc chăm sóc sức khỏe sinh sản. Huyện đảo Bạch Long Vĩ, cách xa đất liền 132 hải lý, có vị trí địa lý không thuận lợi cho việc giao thông đi lại của người dân và người dân sống ở đảo hạn chế việc giao tiếp xã hội, khó khăn trong việc tiếp cận, tìm hiểu những thông tin mới, hạn chế việc tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe. Khoảng cách đến các cơ sở dịch vụ y tế luôn luôn có ảnh hưởng đến tính kịp thời của quyết định tìm kiếm dịch vụ, và làm cho việc tìm kiếm đến cơ sở cung cấp dịch vụ trở thành không kịp thời. Nó cũng có thể khiến cho người ta tìm đến những dịch vụ không an toàn nhưng thuận tiện. Đây là một trong những lý do không sinh tại cơ sở y tế của những phụ nữ ở vùng xa. Khoảng cách ảnh hưởng tới nguyên nhân 3 chậm trễ của các trường hợp tử vong mẹ. Trong nghiên cứu tử vong mẹ năm 2002 (Bộ y tế) có 100% các trường hợp tử vong mẹ trên đường đi là thuộc các vùng nông thôn và miền núi. Phỏng vấn sâu Giám đốc Trung tâm y tế huyện, cho biết: “Trường hợp phải giải quyết khi cấp cứu bệnh nhân - Nói đến chuyện cấp cứu phải chuyển bệnh nhân về đất liền thì khổ lắm, khổ cả bệnh nhân, khổ cả nhân viên y tế; nếu là cán bộ công chức thì có tàu của các cơ quan thuê đưa cán bộ của họ về đất liền vì họ có chế độ bảo hiểm; nếu là dân thì gia đình họ phải phụ thuộc vào những chuyến tàu công tác nếu tranh thủ được, bằng không thì phải thuê tầu thu mua hải sản hoặc là tàu đánh bắt của ngư dân; những ngày sóng yên biển lặng thì không sao nếu là biển động thì nguy hiểm đến tính mạng của cả bệnh nhân và nhân viên y tế”. Sự chậm chễ trong việc tiếp cận (hoặc chuyển tuyến) của các cơ sở ytế cũng là một yếu tố góp phần gây ra các trường hợp tử vong mẹ. Số liệu cho thấy 41,3% các trường hợp đã có sự chậm chễ này (Tử vong mẹ Việt nam 2002- Bộ y tế). Sự chậm chễ tiếp cận cơ sở y tế có thể xuất phát từ nhiều nguyên nhân như nơi sinh sống xa các cơ sở y tế hay do thiếu phương tiện vận chuyển cấp cứu. Bên cạnh đó, đường xá phương tiện giao thông khó khăn, đặc biệt là những cơ sở vùng sông nước, phương tiện đi lại chủ yếu bằng tàu thủy, ghe xuồng. Một số cơ sở y tế không có phương tiện vận chuyển nhanh, nên việc cấp cứu bệnh nhân không kịp thời. Phỏng vấn sâu Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ huyện cho biết: “Điều kiện kinh tế- xã hội của huyện đảo có tác động tới công tác chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ- điều kiện huyện đảo xa sôi như thế này, nam giới sống và làm việc ở đảo đã thấy vất vả khổ cực nhưng chị em phụ nữ còn muôn phần khó khăn hơn, điều kiện giao thông đi lại giữa đất liền với đảo làm cho chị em khó tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe cũng như các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản. Nhất là khi chị em gần đến ngày đẻ bụng mang dạ chửa như vậy mà vượt biển về đất liền sau đó con còn đang non yếu đã phải đưa con ra đảo thì mức độ nguy hiểm đến tính mạng mẹ và con, về đất liền sinh đẻ cho an toàn lại không an toàn chút nào”. Như vậy, Đối với huyện đảo Bạch Long Vĩ, là một cộng đồng dân cư cư trú ở khu vực khó khăn về giao thông, tách biệt, biệt lập về thông tin, khó giao tiếp với cộng đồng khác, khó tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe, chi phí cho việc chăm sóc sức khỏe tương đối tốn kém kinh phí cho việc đi lại và tốn kém thời gian, gây ảnh hưởng tới đời sống của người dân, đây là những yếu tố bắt buộc những người dân sống ở đảo phải chấp nhận và thích nghi. 2. Điều kiện kinh tế - xã hội. Có thể nói sức khỏe sinh sản là vấn đề sức khỏe cộng đồng lớn nhất trong bối cảnh hiện nay. Sức khỏe sinh sản cũng là vấn đề mang tính xã hội lớn nhất, điều này không chỉ bao hàm các nội dung của vấn đề sức khỏe sinh sản rộng lớn mà vấn đề cốt yếu là các vấn đề kinh tế- xã hội và văn hóa nó tác động rất lớn tới mục tiêu của lĩnh vực sức khỏe sinh sản mà trước hết tác động tới hành vi của khách hàng trong việc tìm kiếm dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho mình và cho cộng đồng. Các hành vi chăm sóc sức khỏe của người dân phụ thuộc vào nhiều yếu tố tác động, có thể gộp thành các nhóm yếu tố chính: yếu tố về kinh tế- xã hội; các yếu tố thuộc về năng lực chủ quan và các điều kiện tiền đề được thừa hưởng hay phải gánh chịu; các yếu tố phong tục tập quán, văn hóa và chuẩn mực giá trị của các cộng đồng dân cư. Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện- Chủ nhiệm Uỷ ban dân số, gia đình và trẻ em cho biết tình hình phát triển kinh tế- xã hội, đời sống của nhân dân huyện đảo hiện nay so với những năm trước. “ Được sự quan tâm đầu tư từ Trung ương và Thành phố, trong những năm gần đây tình hình kinh tế- xã hội Huyện đảo có bước phát triển, cơ sở hạ tầng có nhiều đổi mới, đời sống nhân dân đựợc cải thiện, nâng lên và dần ổn định song vẫn thiếu tính vững chắc. Tuy nhiên, so với yêu cầu chung của Thành phố và đất nước thì tình hình kinh tế- xã hội Huyện đảo còn ở mức thấp có nhiều khó khăn, huyện đảo xa đất liền, mới thành lập, điều kiện thời tiết khắc nghiệt, diện tích tự nhiên hẹp, dân số ít, giao thông đi lại giữa đảo với đất liền chưa được cải thiện, các hoạt động dịch vụ công như: điện, nước ngọt sinh hoạt, hoạt động tín dụng lưu thông tiền tệ phục vụ đời sống cho nhân dân đang là những khó khăn nan giải. Trình độ dân trí được nâng lên nhưng vẫn còn là hạn chế, các điều kiện để hưởng thụ và tiếp cận về văn hóa xã hội còn nghèo nàn, đơn điệu và cách biệt, công tác y tế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân còn nhiều khó khăn và hạn chế”. Nghề nghiệp là yếu tố tác động nhiều đến hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản của người phụ nữ, nghề nghiệp quyết định về thu nhập, cường độ lao động, ảnh hưởng của nhóm bạn và cơ hội thu nhận thông tin. Phụ nữ làm nghề nông chiếm 83,3% trong số các trường hợp tử vong mẹ “Tử vong mẹ Việt Nam 2002”- (Bộ ytế), nghề nghiệp còn đóng góp vào xu hướng chuyển trách nhiệm chăm sóc sức khỏe người phụ nữ, chăm sóc thai nghén, sinh đẻ từ gia đình sang các thiết chế xã hội khác. Ở Bạch Long Vĩ, nghề nghiệp và mức sống của người mẹ, trong nghiên cứu tôi đã tìm hiểu được nghề nghiệp cũng như phần nào về mức sống của các bà mẹ. Nghề nghiệp của bà mẹ có liên quan nhiều đến điều kiện lao động của họ đặc biệt khi họ mang thai nhưng chưa có trường hợp tử vong mẹ khi mang thai và sinh con. Với phụ nữ là viên chức nhà nước, phụ nữ làm kinh doanh dịch vụ trên đảo thì điều kiện lao động phần nào có nhẹ nhàng hơn trong khi đó phụ nữ làm ngư nghiệp hoặc dịch vụ hàng hóa dưới âu cảng đã phải lao động nặng nhọc, chịu đựng sóng gió cho tới tận ngày sinh con. Phụ nữ làm nghề ngư nghiệp họ có quan niệm làm cố để lúc đẻ con có cái mà ăn. Thực tế họ cũng nhận thấy lao động nặng nhọc sẽ ảnh hưởng tới thai nhi nhưng đều nghĩ “ Cái khó nó bó cái khôn, không ai muốn vất vả cả nhưng không có thì lấy cái gì mà ăn trong khi ở cữ” (Nữ, 28 Tuổi, Thuyền số 205, Khu âu cảng). Nhìn chung, hiện nay cơ cấu gia đình ở huyện đảo 100% gia đình 02 thế hệ, trong độ tuổi sinh đẻ, trong đó cặp vợ chồng trẻ có vai trò chủ động về kinh tế, người phụ nữ có đóng góp nhiều hơn vào kinh tế gia đình, được thông tin nhiều hơn, trình độ văn hóa tăng lên đang làm thay đổi mô hình quyết định hành vi chăm sóc sức khỏe. Tuy nhiên, một số gia đình, người chồng vẫn có vai trò quan trọng trong những quyết định liên quan tới thai nghén và sinh đẻ. Huyện đảo, là cộng đồng dân cư ở vùng sâu, vùng xa, cộng đồng có cản trở văn hóa (dân cư định cư đến từ nhiều vùng khác nhau), cộng đồng ở vùng thiếu cơ sở hạ tầng và xã hội là nơi thiếu thông tin. Thiếu thông tin khiến cho con người ta phụ thuộc kinh nghiệm và chậm thay đổi hành vi. Theo sau yếu tố tác động của yếu tố địa lý, một trong những yếu tố có ảnh hưởng quyết định đến việc chăm sóc sức khỏe sinh sản là điều kiện kinh tế của gia đình và của cả cộng đồng. Huyện đảo Bạch Long Vĩ, người dân vốn đã cư trú ở điều kiện vị trí địa lý bất lợi, hơn nữa, trong nền kinh tế thị trường cạnh tranh gay gắt, những bất lợi vốn có đối với họ lại càng được nhân nên gấp bội. Trong nghiên cứu thấy các hộ có mức sống trung bình chiếm tỷ lệ khá cao, đời sống của họ cũng khá bấp bênh, thiếu tính bền vững. Họ có thể dễ dàng rơi từ mức sống trung bình xuống mức sống nghèo khổ vì những biến động nhanh chóng và không dễ lường trước của nền kinh tế thị trường (Giá cả xăng dầu tăng cao đột biến đã tác động mạnh và ảnh hưởng xấu đến sản xuất khai thác thủy sản của ngư dân). Ngược lại, việc cải thiện mức sống cho các hộ nghèo rất khó chứ không phải là việc dễ làm. Tuy nhiên, cũng cần ghi nhận rằng trong những năm gần đây, được sự quan tâm đầu tư của Trung ương và Thành phố Hải Phòng đã giúp người dân cải thiện cuộc sống của cộng đồng dân cư nơi đây. Kết quả đó phần nào tạo điều kiện cho phụ nữ có điều kiện tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe/ sức khỏe sinh sản, có quyền quyết định trong việc thực hiện thay đổi hành vi kế hoạch hóa gia đình. 3. Trình độ học vấn. Trình độ học vấn cao thường gắn liền với ý muốn kết hôn, độ tuổi lấy chồng lần đầu của phụ nữ có chiều hướng cao hơn, sức khỏe tốt hơn, thời gian cho con bú ngắn hơn, có nhiều khả năng là những kiêng kỵ truyền thống trong hành động tính dục được từ bỏ nhiều hơn. Những thái độ liên quan tới gia đình lý tưởng, khả năng cảm nhận được những điều lợi của con cái, những phí tổn cho con cái nhìn thấy được và khả năng tương lai có thể trả được tiền cho con cái. Đó là những cân nhắc thích đáng và chúng đều có thể chịu ảnh hưởng của trình độ học vấn của người phụ nữ. Các kết quả nghiên cứu trước đây cho thấy: Trình độ học vấn của phụ nữ càng cao thì quy mô gia đình lý tưởng càng nhỏ và trình độ học vấn của phụ nữ càng cao thì đòi hỏi về “chất lượng” của đứa con càng lớn và do đó, nếu những điều khác như nhau thì nhu cầu về số lượng con cái sẽ thấp hơn. Tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh và trẻ em tùy theo trình độ học vấn của người mẹ: những bà mẹ có trình độ học vấn cao hơn sẽ tránh được một cách có hiệu quả hơn cho con khỏi bị chết. Sự khác nhau về tỷ lệ tử vong của trẻ sơ sinh có lẽ liên quan tới cách chăm sóc của người mẹ trước khi sinh. Trình độ học vấn cao thì càng thuận lợi cho việc kiểm soát sinh đẻ và việc trao đổi bàn bạc giữa hai vợ chồng về điều tiết mức sinh cũng nhiều hơn. Kết quả nghiên cứu cho thấy: “Trình độ học vấn nhóm phụ nữ Làng Thanh niên xung phong cao hơn Trình độ học vấn nhóm phụ nữ ở các khu dân cư cho nên trong 45 hộ gia đình Thanh niên xung phong có 23 (51%)hộ sinh con một bề (02 con gái) nhưng không có hộ sinh con thứ ba. Ngược lại, trong 62 hộ gia đình khu dân cư số một có tới 19 (30,6%) hộ có 03 con trở lên, mặc dù đã có đủ số con cả trai và gái, thậm trí có chị vì muốn có con trai, đã đẻ đến con thứ năm”. Những người có trình độ văn hóa thấp cũng gặp những cản trở, ảnh hưởng tới việc tiếp thu những thông tin và kiến thức. Họ cũng bị hạn chế về quan hệ xã hội. Từ chỗ đó họ dễ bị rơi vào tình trạng lệ thuộc trong việc tìm kiếm sự chăm sóc ytế. Trong nghiên cứu tử vong mẹ 2002- Bộ ytế, nhóm mù chữ có tỉ lệ tử vong mẹ cao nhất 17,3%. Qua điều tra nghiên cứu về trình độ học vấn của chị em phụ nữ huyện đảo cho thấy trình độ học vấn của phụ nữ huyện đảo rất thấp, trong 325 phụ nữ có: 05 người có trình độ học vấn đại học chiếm 1,5%; 12 người có trình độ học vấn Trung học chuyên nghiệp và Cao đẳng chiếm 3,6%; 32 người có trình độ học vấn Trung học phổ thông chiếm 9,84%; 57 người có trình độ học vấn Trung học cơ sở chiếm 17,5 %; 219 người có trình độ học vấn Tiểu học chiếm 67,4 %; Không có người mù chữ. Như vậy trình độ học vấn thấp là nguyên nhân hạn chế sự hiểu biết cần thiết của phụ nữ trong việc chăm sóc sức khỏe sinh sản. Phỏng vấn sâu Chủ tịch Hội liên hiệp phụ nữ huyện cho thấy: “Trình độ học vấn của phụ nữ, Không tính đến phụ nữ ở khối công nhân viên chức; về mặt bằng chung thì trình độ học vấn của phụ nữ ở các khu dân cư là tương đối thấp, rất ít chị em có trình độ phổ thông trung học (cấpIII); chủ yếu là chị em có trình độ tiểu học và trung học cơ sở, không có chị em mù chữ (chương trình xóa mù chữ được thực hiện năm 1995)” Kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản tùy thuộc vào những điều kiện cụ thể, trước hết đó là trình độ học vấn, học vấn giúp cho việc nhận thức các phương pháp hữu hiệu cho việc phòng bệnh, phát hiện các dấu hiệu và triệu chứng bệnh tật, xử lý tình huống trong chăm sóc sức khỏe sinh sản. học vấn cũng là phương tiện quan trọng để tìm hiểu và tiếp thu tri thức về sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản. Vì vậy, Phụ nữ có trình độ học vấn thấp là nguyên nhân chính của tình trạng thờ ơ, thiếu hụt về kiến thức chăm sóc sức khỏe sinh sản. Xuất phát từ học vấn thấp kiến thức và hiểu biết chủ yếu bằng kinh nghiệm truyền lại thiếu cơ bản, hệ thống nên họ thường tự ty, an phận thủ thường. Điều này khiến họ khó tiếp nhận những kiến thức mới, phương pháp mới trong khi đó chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản có bước phát triển mới, cao hơn, nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản yêu cầu phải có những phương pháp, kỹ thuật mới. 4. Chất lượng dịch vụ Y tế. Qua nghiên cứu, có thể thấy tình hình cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản ở huyện đảo Bạch Long vĩ hiện nay còn nhiều hạn chế. Một số nghiên cứu trước đây về dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản đã đưa ra nhận định những khó khăn của các cơ sở y tế vùng sâu, vùng xa là thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn giỏi, thiếu trang thiết bị thuốc men, thiếu thông tin chuyên ngành phục vụ cho công tác khám chữa bệnh,… những vấn đề này còn làm ảnh hưởng tới công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em tại các địa phương, là nguyên nhân gián tiếp gây ra các ca tử vong mẹ. Về phía cơ sở y tế, nhiều trường hợp tử vong mẹ là do thầy thuốc có trình độ chuyên môn kém, trong khi khám bệnh không phát hiện ra bệnh, không có hướng điều trị đúng hoặc là chẩn đoán sai. Nhiều cơ sở y tế có điều kiện đầy đủ về nhân lực và trình dộ quản lý chuyên môn nhưng do thiếu trang thiết bị thuốc men lên cũng đành bó tay trước một số trường hợp bất thường. * Hệ thống y tế và hoạt động y tế: Cũng tương tự như nhiều vùng sâu, vùng xa trong cả nước, hệ thống y tế của huyện đảo mang tính đặc thù, chỉ có một Trung tâm y tế duy nhất, không có nhân viên y tế hoạt động tại các khu dân cư. Do đó, Trung tâm y tế Huyện là đơn vị có vai trò chính trong việc quản lý và chăm sóc sức khoẻ cho người dân trong Huyện, từ việc tuyên truyền, chăm sóc sức khoẻ ban đầu và sơ cứu, người dân bị bệnh nặng hơn thì chuyển tuyến về đất liền. Hoạt động của Trung tâm y tế huyện được đặt ở gần Uỷ ban nhân dân huyện gần như là trung tâm Đảo, Trung tâm y tế chỉ có một số phòng cơ bản như: Phòng mổ cấp cứu; Phòng tiểu phẫu; Phòng hồi sức cấp cứu; Phòng đỡ đẻ, khám phụ khoa; phòng khám và tiêm thuốc, mới được nâng cấp 20 giường bệnh cho bệnh nhân lưu nội trú. Theo quy định của Bộ y tế và đặc thù của huyện đảo xa đất liền trung tâm y tế huyện là nơi thực hiện việc khám thai và tiêm phòng uốn ván, đỡ đẻ, khám phụ khoa, là nơi tư vấn và cung cấp phương tiện tránh thai (Bao cao su, đặt vòng, thuốc viên tránh thai) cho người dân. Đội ngũ nhân viên y tế là những trợ thủ đắc lực cho chính quyền địa phương trong việc tuyên truyền, vận động vệ sinh môi trường, thực hiện tiêm chủng mở rộng. Kết quả thực hiện chương trình y tế 112 (Quân dân y kết hợp), hoạt động phối hợp của Trung tâm y tế huyện với Bệnh xá Trung đoàn 952 trong công tác khám chữa bệnh cho quân và dân huyện đảo đã tổ chức sơ cứu, cấp cứu và mổ được những ca mổ cấp cứu thông thường (mổ ruột thừa), bệnh nhân nặng thì hồi sức cấp cứu chuyển tuyến về đất liền. Công tác tuyên truyền vận động chăm sóc sức khỏe sinh sản chưa có sự phối hợp vận động, do đặc thù đảo xa lực lượng quân sự 100% là nam giới, không có nữ. Nhìn chung, Trung tâm y tế huyện còn hạn chế, chưa có đủ cơ cấu và đủ nhân lực theo quy định, điểm mạnh của Trung tâm y tế huyện là vị trí ở gần dân nên có thể thực hiện việc chăm sóc sức khoẻ ban đầu cho cộng đồng, tuy nhiên, mức độ hiệu quả của hoạt động y tế còn nhiều bất cập do trang thiết bị y tế còn hạn chế, thô sơ, trình độ chuyên môn và tinh thần trách nhiệm của nhân viên y tế cũng còn hạn chế. *Mức độ đáp ứng nhu cầu của người dân: Phỏng vấn sâu Chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ huyện cho thấy: Mức độ đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho chị em phụ nữ của hệ thống chăm sóc sức khỏe và kế hoạch hóa gia đình ở địa phương: “Hệ thống chăm sóc sức khoẻ sinh sản của y tế còn có khoảng cách quá là xa so với tình hình chung của cả nước, nếu trong đất liền chị em bị vỡ kế hoạch thì chỉ cần một buổi sáng là có thể giải quyết xong nhưng chị em ở đảo nếu gặp bác sỹ tăng cường thì có thể hút điều hòa kinh nguyệt, có chị phải chờ có tàu mới về đất liền được lúc đó thai đã to mới phá rất ảnh hưởng tới tinh thần và sức khỏe”. Mặc dù, các cấp các ngành của Huyện Bạch Long Vĩ đã có nhiều cố gắng trong việc chăm sóc sức khoẻ sinh sản cho người dân, nhưng họ còn gặp không ít những khó khăn như sau: * Thiếu trang thiết bị y tế: Cơ sở vật chất, trang thiết bị cho Trung tâm y tế huyện có ý nghĩa lớn đối với chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người dân/phụ nữ huyện đảo xa xôi này. Mặc dù, đã được nhà nước và ngành Y tế quan tâm đầu tư nhưng so với nhu cầu công tác hiện nay thì vẫn còn thiếu thốn. Trung tâm y tế còn thiếu phương tiện truyền thông đơn giản như (đài, loa, cát sét, tăng âm,..) Qua khảo sát, tình trạng vừa thừa vừa thiếu dụng cụ, có những loại dụng cụ được cấp quá lâu (15 năm, từ khi thành lập huyện đảo) đã han gỉ nếu sử dụng sẽ không đảm bảo điều kiện vô khuẩn, còn dụng cụ thừa thì do không đủ trình độ chuyên môn để sử dụng (máy siêu âm, máy chụp X quang, máy xét nghiệm), số lượng thuốc nhiều nhưng cũng trong tình trạng quá hạn sử dụng hoặc không thích hợp với mô hình bệnh tật của địa phương (những thuốc kháng sinh thông thường, thuốc chuyên khoa) nhiều nhưng ít được sử dụng đến. Thuốc kháng sinh mới hoặc thuốc chất lượng cao chưa có nhiều chủng loại. Hàng năm, việc bổ sung thêm trang thiết bị và thuốc men không nhiều, người dân mỗi khi ốm đau đến khám có thuốc gì thì cấp bán thuốc ấy. Phỏng vấn sâu Giám đốc Trung tâm y tế huyện, cho thấy: Mức độ đầu tư trang thiết bị y tế phục vụ cho công tác khám chữa bệnh: “Cuối năm 2006, Trung tâm y tế được đầu tư nâng cấp 20 giường bệnh và đầu tư một số trang thiết bị phục vụ cho công tác khám và điều trị cho bệnh nhân, nhưng do nguồn điện cung cấp cho máy hoạt động không đều (đây là khó khăn chung của toàn đảo), việc tiếp cận với các thiết bị y tế chất lượng cao của cán bộ y tế và người dân chưa trở thành thói quen, làm cho công tác khám chữa bệnh còn nhiều bất cập… Chưa có phương tiện truyền thông. Khi thực hiện công tác tuyên truyền vận động, Trung tâm thực hiện việc này phải phụ thuộc vào hệ thống phát thanh của ủy ban nhân dân huyện sắp xếp thời gian và nguồn điện”. *Đội ngũ cán bộ y tế: Biên chế cán bộ của đội bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em/ kế hoạch hóa gia đình và cộng tác viên dân số còn rất thiếu; chưa có cán bộ chuyên trách làm công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em/kế hoạch hóa gia đình, chỉ có một nữ hộ sinh trung học. Không thể đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người dân. Đó là chưa nói đến trình độ chuyên môn thấp của đội ngũ nhân viên y tế. Phỏng vấn sâu Giám đốc Trung tâm y tế huyện, cho thấy tình hình biên chế cán bộ của Trung tâm y tế hiện nay: “Hiện tại lực lượng cán bộ của Trung tâm y tế Huyện chỉ còn 01 Bác sỹ, 01 Y sỹ, 03 Y tá, 01 Nữ hộ sinh. Với đội ngũ nhân viên y tế như vậy để đáp ứng được nhu cầu khám chữa bệnh cho nhân dân là vô cùng khó khăn”. Bệnh xá Trung đoàn 952 là đơn vị phối kết hợp với Trung tâm y tế huyện cũng chỉ có 02 bác sỹ, 02 y sỹ và đội ngũ y tá sơ cấp của các đại đội trực thuộc tăng cường theo tháng để phục vụ chuyên môn. Thông thường thì một tua trực ngoài thời gian huấn luyện bệnh xá Trung đoàn 952 cũng chỉ có 01 Bác sỹ và 01 y sỹ, họ thay đổi về đất liền học nâng cao trình độ chuyên môn. Họ cũng không có bác sỹ sản khoa mà chỉ có bác sỹ ngoại khoa. Đánh giá về thực trạng hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình của địa phương hiện nay: “Tuy hệ thống đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh và đi vào hoạt động nhiều năm, song vẫn còn nhiều nhược điểm và tồn tại. Đội ngũ cán bộ còn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là Bác sỹ sản khoa , trình độ kiến thức, tay nghề chưa đáp ứng được nhu cầu, hệ thống giám sát chất lượng các dịch vụ hoạt động chưa có hiệu lực và ít có khả năng cải thiện tình hình, Dịch vụ kém hấp dẫn với người sử dụng. Trong lĩnh vực hoạt động UBDSGĐ&TE cán bộ 100% kiêm nhiệm chức danh, không có cán bộ chuyên trách và không có cộng tác viên dân số ở cơ sở, cho lên công tác vận động thực hiện kế hoạch hóa gia đình kém hiệu quả”. (Phó chủ tịch Uỷ ban nhân dân huyện- chủ nhiệm ủy ban dân số, gia đình và trẻ em). *Thiếu năng lực chuyên môn: Tuy đã có sự phối kết hợp với bệnh xá Trung đoàn 952 về chuyên môn để chẩn đoán và điều trị những ca bệnh khó, giải quyết những trường hợp cấp cứu nâng cao hiệu quả khám chữa bệnh nhưng những hiểu biết về các lĩnh vực như tai biến do nạo phá thai, nhiễm khuẩn đường sinh sản, bệnh lây truyền qua đường tình dục,…, cũng như các thao tác kỹ thuật trong nạo, hút thai, khám thai, đỡ đẻ, chăm sóc thai sản và trẻ sơ sinh còn hạn chế. Thiếu cán bộ y tế nhất là bác sỹ có tay nghề cao, chuyên môn của một số cán bộ y tế còn hạn chế, phương tiện để thực hiện thủ thuật chuyên môn chưa được trang bị đủ, chế độ làm việc và phụ cấp, lương chưa thích hợp, dẫn đến hiệu quả việc chăm sóc bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em/ kế hoạch hóa gia đình còn thấp. “Trong công tác chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em/kế hoạch hóa gia đình không thành lập ban(đội) để tổ chức tuyên truyền vận động - Trung tâm giao trách nhiệm đó cho một nữ hộ sinh trung cấp theo dõi, quản lý và tổ chức tuyên truyền vận động”. (Giám đốc Trung tâm y tế huyện) Tình trạng này đã hạn chế lớn đến việc cung cấp dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản cho phụ nữ. *Về chi phí cho chăm sóc sức khoẻ: Trung bình chi phí cho thuốc men (Không kể ốm đau nặng) của một gia đình khoảng 500.000đ/năm. Tuy nhiên con số này có thể thấp hơn thực tế vì người dân ở đây chưa được nhà nước cấp cho thẻ bảo hiểm y tế, khám bệnh vẫn phải mất tiền, khi nào bị ốm nặng thì phải đi vào đất liền chi phí cho khám chữa bệnh ở bệnh viện Thành phố thì càng tốn kém hơn. "Thường là ốm nhẹ thì chỉ khám ở Trung tâm y tế huyện, nhưng ở đó cũng không có nhiều thuốc chất lượng tốt mà không có dịch vụ thuốc chất lượng cao thì bắt buộc chúng tôi phải về đất liền chữa chạy, tốn tiền cũng phải chịu”(Nữ, 32 Tuổi, Kinh doanh dịch vụ, Khu dân cư số 2). Như vậy, kết quả nghiên cứu cho thấy chị em phụ nữ huyện đảo rất thiệt thòi về hưởng lợi từ dịch vụ chăm sóc sức khỏe nói chung, sức khỏe sinh sản nói riêng, ít có niềm tin vào hệ thống chăm sóc sức khỏe để chăm sóc sức khỏe cho bản thân và gia đình. 5. Phong tục tập quán. Vấn đề sinh đẻ đối với người Việt nam truyền thống là rất quan trọng, nhất là vùng nông thôn, vùng sâu, vùng xa, hải đảo. Sự kiện sinh đẻ không chỉ đơn thuần là hành vi tự nhiên sinh học nữa mà đã được (xã hội hóa) đến mức nằm trong sự kiềm tỏa chi phối của cả hệ thống chuẩn mực về hành vi ứng xử. Những tập tục kiêng cữ nhiêu khê đối với trẻ sơ sinh và người mẹ ở các vùng văn hóa khác nhau đã phản ánh thực tế đó. Những tập quán và niềm tin sai lầm , những tập quán kiêng khem quá mức, những hủ tục chăm sóc bà mẹ và trẻ em gây ảnh hưởng không tốt cho sức khỏe còn tồn tại. Ở một số cộng đồng còn có những chế tài nhất định liên quan tới sự vi phạm các tập tục dù ở mức độ nhẹ (thái độ của các thành viên lớn tuổi hơn trong gia đình và cộng đồng) tạo điều kiện cho việc áp đặt những tập quán này. Những yếu tố khác góp phần áp đặt những tập quán lên thực hành thai nghén, sinh đẻ là sự phụ thuộc, sự thiếu kinh nghiệm, thiếu thông tin và trình độ văn hóa thấp của những phụ nữ trẻ. Niềm tin của cộng đồng đối với chăm sóc y tế. Niềm tin này rất quan trọng đối với những cộng đồng truyền thống, nó gây ra sự thay đổi hành vi trước khi thay đổi nhận thức. Vẫn còn gặp những nghi ngại nhất định về giá trị của vấn đề chăm sóc y tế, khiến cho một số thành viên trong cộng đồng không muốn sử dụng dịch vụ y tế, cho rằng việc thai nghén và sinh đẻ là hoàn toàn tự nhiên, không có gì cần đặc biệt quan tâm. Cùng với các nhân tố kinh tế, các tác động của thể chế và tổ chức xã hội thì văn hóa, phong tục tập quán có một sức mạnh ghê gớm đối với việc chăm sóc sức khỏe cho phụ nữ trong cộng đồng. Qua nghiên cứu cho thấy, huyện đảo là nơi không còn tác động của văn hóa, phong tục, tập quán đậm nét, nhưng cũng không tránh khỏi những phong tục, tập quán đã trở thành lạc hậu, thành lực cản với tiến bộ xã hội. Có lẽ một trong những trở ngại lớn nhất đối với chương trình chăm sóc sức khỏe sinh sản của huyện đảo áp dụng cho các gia đình, đối với phụ nữ, đó là tập quán sinh sớm, sinh dày và sinh nhiều con của phụ nữ có nguồn gốc xuất thân từ các vùng biển (Quảng Tiến, Quảng Xương- Sầm Sơn- Thanh Hóa và ngư dân vùng Lập Lễ, Phả Lễ- Thủy Nguyên- Hải Phòng) đến định cư tại đảo từ năm 1993. Điều này vừa gây khó khăn cho việc chăm sóc người mẹ, vừa cản trở khả năng chăm sóc trẻ em, kể cả trẻ sơ sinh. Phỏng vấn sâu Chủ tịch hội liên hiệp phụ nữ huyện cho thấy: “ Những phụ nữ đã sinh con thứ 3 nhiều nhưng chỉ là quá khứ; nhiều nhất là nhóm ngư dân, nhóm phụ nữ đã ở độ tuổi 40 quê vùng biển Sầm Sơn Thanh Hóa; những năm gần đây cũng có phụ nữ sinh con thứ 3 ở độ tuổi 30 nhưng không nhiều, đó là chị em sinh con một bề là gái hoặc là chị em quê ở Thanh Hóa vẫn còn mang phong tục ở quê cũ đến quan niệm đông của không bằng đông con, di cư ra đảo làm kinh tế đến lúc kinh tế khá lên một chút thì muốn sinh thêm con”. Hầu hết các chị phụ nữ từ Thanh Hóa đến định cư đều mong muốn có đông con, càng nhiều con càng tốt, họ quan niệm “Đông của không bằng đông con” hoặc là “Có vàng, vàng chẳng hay phô. Có con, con nói trầm trồ mẹ nghe”. Kết quả nghiên cứu cho thấy rằng đằng sau các mong muốn mang tính đạo đức đó và tập quán thì nhu cầu sâu xa dẫn đến mong muốn có nhiều con là nhằm đáp ứng nhu cầu sức lao động và đặc thù nghề nghiệp của họ là nghề đánh bắt xa bờ rất nguy hiểm tới tính mạng của các ngư dân. Hiện nay, quan niệm“Trọng nam khinh nữ” đã có chuyển biến nhiều nhưng tâm lý cần phải có con trai vẫn còn tồn tại khá dai dẳng trong một bộ phận đáng kể những ngư dân tại địa bàn nghiên cứu. Tâm lý của một số phụ nữ còn nặng nề về giá trị của con trai (khát con trai), còn sợ nếu mình không đẻ được con trai thì chồng sẽ bỏ hoặc lấy thêm vợ lẽ. “nếu không đẻ được con trai thì anh ấy lấy vợ lẽ, cho nên mình phải cố gắng đẻ lấy đứa con trai” (Nữ, 41 tuổi, Khu dân cư số 1, Có 05 con). Nhiều phụ nữ còn cho là không có con trai thì chồng mình ít nhiều cũng bị thua thiệt và kém cỏi. Phỏng vấn sâu (Nữ, 42 tuổi, Khu dân cư số 3, Có 3 con, Nghề ngư. Cho thấy rõ nét tâm lý này. “ Tôi đã có 02 con gái rồi, các cháu lớn về đất liền học đã mấy năm nay, nhà chỉ có hai vợ chồng, nghĩ rằng các cháu là gái sau này đi lấy chồng, mình không thể đến ở nhà chồng với các cháu được, lúc đó mình phải nhờ con rể à, vấn đề là phải có con trai nối dõi tông đường, để còn nhờ cậy lúc về già. Nhiều lúc bố nó cũng khổ với lời nhạo báng của anh em bạn bè, xót xa với lời nhạo báng, đẹp trai nhất nhà, cứ mải làm sau này để con rể đến phá, thế đấy chị ạ,…,vợ chồng tôi cũng bàn bạc đẻ thêm được cháu trai này đây ”. Kết quả nghiên cứu cũng cho thấy, Phụ nữ và nam giới đã nhận thức được nên kiêng khem những gì (không quan hệ tình dục sau sinh trong vòng 45 ngày, không dùng các chất kích thích) và nên bồi dưỡng những nguồn thực phẩm giàu chất dinh dưỡng như thế nào. Cho con bú sớm có tác dụng kích thích bài tiết sữa và tận dụng nguồn sữa non giàu dinh dưỡng và sức đề kháng cao cho con. Phần lớn chị em đã nhận thức được việc người mẹ được ăn uống đầy đủ, được nghỉ ngơi, được động viên và chăm sóc của chồng, gia đình. Không nặng nề với tập quán kiêng cữ lạc hậu ở quê quán cũ của mình.“ Những thông tin chăm sóc phụ nữ sau khi sinh con chúng em được biết thông qua bác sỹ sản nói chuyện chuyên đề với chị em phụ nữ”. (Nữ , 26 tuổi , Khu dân cư số 2, Kinh doanh dịch vụ ). Như vậy, vai trò ảnh hưởng của các kênh truyền thông khác nhau có vai trò ảnh hưởng rất lớn đến nhận thức và hành vi sinh đẻ và nuôi con của phụ nữ. Do điều kiện kinh tế còn gặp nhiều khó khăn, điều kiện đi lại không thuận lợi, vì vậy kinh tế và dân trí của người dân ở đảo kém phát triển hơn. công tác y tế chăm sóc sức khoẻ cho người dân gặp nhiều khó khăn và hạn chế. Bên cạch đó, một số phong tục tập quán của bà con ngư dân còn đè nặng tư tưởng của người dân nơi đây. KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 1. Kết luận. Trong những năm gần đây đời sống của người dân huyện đảo ngày càng ổn định hơn, mức sống có phần khá hơn trước, công tác ytế chăm sóc sức khỏe cho nhân dân ngày một đảm bảo hơn. Tuy nhiên, so với tốc độ phát triển chung của toàn xã hội thì Huyện đảo Bạch Long Vĩ vẫn còn khoảng cách khá xa về điều kiện phát triển kinh tế- xã hội. Qua kết quả nghiên cứu và phân tích ở trên về thực trạng chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo bạch long vĩ, có thể đưa ra kết luận như sau: Nhận thức của người dân về nội dung và ý nghĩa của sức khỏe sinh sản chưa được đầy đủ, sự thiếu hiểu biết về sức khỏe sinh sản như nạo hút thai, bệnh đường sinh sản, các biện pháp tránh thai, chăm sóc thai nghén, cách đề phòng và các nguy cơ đối với sức khỏe sinh sản của phụ nữ chủ yếu ở mức độ cảm tính sơ sài. Các cấp lãnh đạo chính quyền địa phương tuy đã quan tâm đến công tác chăm sóc sức khỏe cho nhân dân, bảo vệ sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình song vì tiếp nhận được ít những kiến thức và thông tin về sức khỏe sinh sản và sức khỏe tình dục nên chưa có quan tâm chỉ đạo đúng mức. Mức sinh tuy đã giảm nhưng chất lượng công tác kế hoạch hóa gia đình còn yếu, thể hiện ở tỷ lệ thất bại trong việc sử dụng các biện pháp tránh thai còn cao, nhiều phụ nữ ở độ tuổi sinh đẻ sinh con thứ 3 trong những năm vừa qua, việc chăm sóc sức khỏe cho vị thành niên chưa làm được bao nhiêu, việc chăm sóc phụ nữ có thai và các bà mẹ còn nhiều thiếu sót, tỷ lệ các bà mẹ được khám thai còn thấp, việc hướng dẫn cho con bú mẹ và cách nuôi con còn hạn chế; tỷ lệ mắc các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản khá cao. Công tác thông tin, giáo dục truyền thông và tư vấn về sức khỏe sinh sản còn nhiều thiếu sót về nội dung và loại hình, về kỹ năng giáo dục truyền thông, về tài liệu tuyên truyền vận động cũng như về kinh phí. Người dân ở khu vực vùng sâu, vùng xa, hải đảo có nhu cầu chăm sóc sức khỏe bà mẹ và trẻ em cũng như kế hoạch hóa gia đình rất cao. Tuy nhiên, hoạt động của hệ thống cung cấp dịch vụ bảo vệ chăm sóc sức khỏe bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình tuy đã được xây dựng tương đối hoàn chỉnh song vẫn còn nhiều nhược điểm và tồn tại, bộc lộ những hạn chế ngày càng rõ rệt. Đội ngũ cán bộ ytế còn thiếu nghiêm trọng, đặc biệt là Bác sỹ sản nhi, Nữ hộ sinh. Trình độ chuyên môn tay nghề của các cán bộ ytế chưa đáp ứng được nhu cầu, lại không được định kỳ cập nhật một cách cần thiết, ít khả năng cải thiện tình hình, đã làm cho dịch vụ này kém hấp dẫn đối với người sử dụng. Trong khi đó mặt bằng dân trí của những người dân thấp hơn các địa phương khác trong đất liền, sống cách biệt và cô lập, ít có điều kiện giao tiếp và tiếp cận với các nguồn thông tin. Việc điều động và tuyển dụng đội ngũ cán bộ ytế ra đảo công tác là không dễ dàng, trong khi khả năng thích ứng với điều kiện kinh tế , chính sách đãi ngộ với bác sỹ có trình độ chuyên môn tay nghề cao chưa được nhà nước quan tâm. Điều này, không đáp ứng được nhu cầu của người dân về khám chữa bệnh cũng như nhu cầu về dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản cho chị em phụ nữ huyện đảo. Trung tâm y tế huyện bạch Long Vĩ còn thiếu kinh phí để duy trì, thuốc và phương tiện chữa bệnh chưa đầy đủ. Mặc dù trong thời gian qua trung tâm y tế đã được nâng cấp và xây mới thêm (dự án bệnh viện 20 giường bệnh cho bệnh nhân lưu trú), tuy nhiên vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu chăm sóc sức khỏe của người dân tại huyện đảo, một huyện đảo tiền tiêu có kinh tế- xã hội phát triển chưa đủ mạnh ngang tầm với các địa phương trong đất liền. Như vậy, còn nhiều vấn đề bất cập và nan giải về sức khỏe sinh sản đang tồn tại ở khu vực vùng sâu, vùng xa, hải đảo. 2. Giải pháp và Kiến nghị. 2.1. Giải pháp. Lợi ích của vấn đề chăm sóc sức khỏe sinh sản là rất lớn, nó ảnh hưởng tới nhiều vấn đề xã hội như ytế, giáo dục, dân số, tệ nạn xã hội và đặc biệt là chất lượng nguồn nhân lực trong tương lai. Để khắc phục những hạn chế trước đây chúng ta cần phải có những giải pháp tốt: Tạo sự chuyển biến về nhận thức, cũng như sự ủng hộ và cam kết thực hiện các mục tiêu và các nội dung của chăm sóc sức khỏe sinh sản trong mọi tầng lớp nhân dân, trước hết là trong cán bộ lãnh đạo các cấp ở địa phương. Huy động cộng đồng đẩy mạnh truyền thông giáo dục thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản, nâng cao kỹ thuật giao tiếp, truyền thông và tăng cường việc tận dụng các dịch vụ thông tin- giáo dục- truyền thông của nhà cung cấp dịchvụ. Duy trì vững chắc xu thế giảm sinh, bảo đảm quyền sinh con và lựa chọ các biện pháp tránh thai có chất lượng của phụ nữ và các cặp vợ chồng. Giảm tỷ lệ có thai ngoài ý muốn. Nâng cao nhận thức và hiểu được vai trò chăm sóc sức khỏe sinh sản cho các bà mẹ trong thời kỳ có thai và sinh đẻ là rất cần thiết. Củng cố niềm tin phù hợp và các chuẩn mực, cũng như góp phần gỡ bỏ các quan niệm sai lầm về sức khỏe sinh sản. Dự phòng có hiệu quả để làm giảm số mắc mới và điều trị tốt các bệnh nhiễm khuẩn đường sinh sản và các bệnh lây qua đường tình dục. Cải thiện tình hình sức khỏe sinh sản, sức khỏe tình dục của vị thành niên, thông qua việc giáo dục, tư vấn và cung cấp các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản phù hợp với lứa tuổi. Nâng cao nhận thức của phụ nữ và nam giới về giới tính và tình dục để thực hiện đầy đủ về quyền và trách nhiệm sinh sản, xây dựng quan hệ tình dục an toàn, có trách nhiệm, bình đẳng và tôn trọng lẫn nhau nhằm nâng cao sức khỏe sinh sản và chất lượng cuộc sống.Vận động nam giới vào vào chương trình kế hoạch hóa gia đình và sức khỏe sinh sản nhằm nâng cao nhận thức và sức khỏe cho cả hai giới là việc làm cần thiết. Thay đổi mức độ phân phát dịch vụ bằng cách tăng số lượng phụ nữ và nam giới được phục vụ, tăng chất lượng chăm sóc mà họ được nhận cũng như duy trì tính bền vững của các dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản trên địa bàn huyện. 2.2. Kiến nghị. Để góp phần thực hiện thành công những mục tiêu trên nhanh chóng, Tôi xin kiến nghị như sau: Với thực trạng về tình hình sức khỏe sinh sản và chăm sóc sức khỏe sinh sản của phụ nữ huyện đảo, vùng xa như trên thì song song với việc nâng cấp cơ sở y tế và chú trọng hiệu quả của công tác chăm sóc sức khỏe cho người dân thì các chính sách hỗ trợ phát triển kinh tế- xã hội cho huyện đảo cũng rất cần thiết. Một khi người dân huyện đảo có điều kiện đáp ứng được các nhu cầu cơ bản của cuộc sống thì những điều kiện sức khỏe nói chung của họ sẽ được góp phần cải thiện. Họ có nhiều cơ hội để chi trả các khoản phí tổn nếu phải tiếp cận các cơ sở y tế. Kiến nghị nhà nước quan tâm nhiều hơn đối với hải đảo khi đời sống người dân còn gặp nhiều khó khăn, có chính sách ưu đãi, hỗ trợ tăng nguồn vốn đầu tư cho các dự án phát triển kinh tế- xã hội. Chính quyền địa phương cần nâng cao nhận thức, hiểu đúng đắn và đầy đủ về nội dung, ý nghĩa cấp thiết cũng như đẩy mạnh sự cam kết chính trị và sự ủng hộ rộng rãi của các cán bộ lãnh đạo chính trị, đoàn thể xã hội (Mặt trận tổ quốc, Hội Phụ nữ , Đoàn thanh niên) và những người có uy tín ảnh hưởng trong xã hội về chăm sóc sức khỏe sinh sản. Chuyển cách tiếp cận kế hoạch hóa gia đình sang cách tiếp cận toàn diện dân số/ sức khỏe sinh sản với ổn định và phát triển bền vững, lồng ghép các vấn đề dân số/ sức khỏe sinh sản vào chương trình phát triển kinh tế xã hội ở địa phương. Có chế độ chính sách đãi ngộ tốt, khuyến khích động viên bác sỹ sản nhi công tác tại đảo lâu dài, tránh hiện tượng thiếu vắng Bác sỹ như hiện nay. Nâng cao chất lượng khám chữa bệnh và chăm sóc sức khỏe sinh sản cho người dân, đặc biệt là phụ nữ và trẻ em. Tăng cường sự hoạt động của mạng lưới y tế để cải thiện tình trạng chăm sóc sức khỏe bà mẹ, trẻ em và kế hoạch hóa gia đình tiến tới việc xã hội hóa công tác này. Trước mắt cần đào tạo nâng cao trình độ cho đội ngũ nhân viên y tế và giám sát họ trong việc chăm sóc và quản lý thai nghén tại địa phương, mở rộng mô hình theo dõi sức khỏe tại nhà, đặc biệt là đối với người mẹ đã có nhiều con hoặc mới mang thai lần đầu, người mẹ có tiền sử sản khoa hoặc nguy cơ cao về thai nghén để theo dõi chặt chẽ sự phát triển của thai và các biến cố của người mẹ từ đó có kế hoạch tham vấn và chuyển tuyến kịp thời. Tuy nhiên, trước mắt với những điều kiện kinh tế chưa phát triển,việc cung cấp bảo hiểm y tế miễn phí cho người dân sinh sống tại huyện đảo có thể là một trong những giải pháp tốt. Tăng cường giáo dục và nâng cao nhận thức cho người dân có trách nhiệm hơn đối với tình trạng sức khỏe của bản thân, đặc biệt là phụ nữ, các bà mẹ mang thai và các thành viên trong gia đình, để chính bản thân họ ý thức được nhu cầu và lợi ích từ việc chăm sóc sức khỏe. Nâng cao năng lực cho phụ nữ. Nâng cao trình độ văn hóa chung và nâng cao kiến thức của phụ nữ về sức khỏe sinh sản, tạo cho họ nhiều nguồn thông tin, những nguồn kiến thức và kinh nghiệm riêng giúp cho họ độc lập hơn trong các quyết định, xây dựng các chuẩn mực mới phù hợp hơn và những thực hành đúng đắn, tránh được những áp đặt của tập quán lạc hậu. Mở rộng và nâng cao chất lượng việc tuyên truyền, giáo dục cho phụ nữ và toàn cộng đồng về chăm sóc sức khỏe cho bà mẹ trẻ em và kế hoạch hóa gia đình bên cạnh việc cung cấp đầy đủ, dễ dàng, thuận lợi và an toàn các dịch vụ kế hoạch hóa gia đình, chăm sóc sức khỏe sinh sản góp phần làm nâng cao chất lượng nguồn nhân lực. Nhà nước cần tăng cường đầu tư hơn nữa cho phúc lợi công cộng cho huyện đảo. Trong đó chú trọng đầu tư phương tiện giao thông thủy (tàu tải trọng lớn), tăng cường bổ xung nguồn ngân sách nhà nước để tăng chuyến trong tháng tạo điều kiện thuận lợi cho nhân dân giao thương với đất liền, tiếp cận với nguồn thông tin, nâng cao nhận thức và tiếp cận với các dịch vụ chăm sóc sức khỏe có chất lượng, phù hợp với địa phương góp phần cải thiện điều kiện sống, giảm nhẹ gánh nặng công việc gia đình, đảm bảo sức khỏe cho người phụ nữ, tạo điều kiện nâng cao trình độ dân trí- nên coi huyện đảo Bạch Long Vĩ là vùng ngoại lệ cần thiết trong giai đoạn đầu phát triển, cần phải hỗ trợ về mọi mặt. Chính quyền địa phương có giải pháp tốt phát triển kinh tế huyện đảo nhằm nâng cao đời sống vật chất cho người dân, duy trì mức sống không có hộ đói nghèo góp phần gỡ bỏ những cản trở về kinh tế của những hộ gia đình có mức sống chưa ổn định bền vững trong việc lựa chọn dịch vụ chăm sóc sức khỏe sinh sản, nâng cao các điều kiện chăm sóc đối với người phụ nữ, tạo quyền cho phụ nữ: Thông qua các chương trình phát triển kinh tế, xóa đói giảm nghèo của Hội Phụ nữ, để tạo cho phụ nữ một vị thế xã hội mới, tăng vai trò của họ trong gia đình từ đó gỡ bỏ được những cản trở về phong tục tập quán và quan hệ gia đình đang cản trở người phụ nữ thay đổi hành vi chăm sóc sức khỏe sinh sản. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Huyện ủy- UBND Huyện Bạch Long Vỹ- Báo cáo thực hiện nhiệm vụ kinh tế- xã hội năm 2005; 2006; 2007. 2- TTYT Huyện- Báo cáo tổng kết năm 2005; 2006; 2007. 3- GS. Phạm Tất Dong - Lê Ngọc Hùng (Chủ biên) - XHH Đại cương – NXB ĐHQG Hà Nội 2001. 4- Phạm Văn Quyết - Nguyễn Quý Thanh- Phương pháp nghiên cứu XHH - NXB ĐHQG Hà Nội ,1997. 5- Điều tra biến động dân số- kế hoạch hóa gia đình 01/04/2006- NXB Thống kê, Hà Nội, 2006. 6- Chiến lược quốc gia về chăm sóc sức khỏe sinh sản giai đoạn 2001- 2010, Bộ Ytế, Hà Nội- 2001. 7- Tạp chí khoa học về phụ nữ, số 4,1996. 8- Trung tâm nghiên cứu Giới, Gia đình và Môi trường trong phát triển- Phụ nữ, sức khỏe và môi trường. Nhà xuất bản chính trị quốc gia , 2001. 9- Bộ Y tế - Tử vong mẹ Việt Nam 2002. 10- Phân tích tình hình phụ nữ và trẻ em Việt nam, Unicef. 11- Dân số và phát triển ở Việt Nam- Nhà xuất bản thế giới 2004. 12- Lê Ngọc Hùng- Nguyễn Thị Mỹ Lộc- XHH về giới và phát triển- NXB ĐHQG Hà Nội, 2000. MỤC LỤC

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docXHH28t.doc
Tài liệu liên quan