Khóa luận Thực trạng thi hành luật phá sản doanh nghiệp và những kiến nghị nhằm hoàn thiện luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam

Phá sản doanh nghiệp đối với hoạt động kinh tế nói chung, đối với hoạt động của doanh nghiệp nói riêng là điều tất yếu của nền kinh tế thị trường. Ở đâu có nền kinh tế thị trường thì ở đó có phá sản, bởi vì không có pháp luật và hoàn thiện pháp luật về phá sản sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp, một vấn đề để lại nhiều hậu quả cho nền kinh tế cũng như cho xã hội đó là việc phá sản doanh nghiệp. Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế “ theo cơ chế thị trường có quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác” đó là nền kinh tế hàng hoá, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế do Nhà nước quản lý theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.Vì vậy ban hành Luật phá sản ở nước ta có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bằng kết quả của mình khoá luận trình bày và kiến nghị các vấn đề sau: 1. Khoá luận khẳng định luật phá sản doanh nghiệp đối với lĩnh vực quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường là một vấn đề quan trọng của nước ta hiện nay. 2. Khoá luận khái quát sự ra đời của Luật phá sản doanh nghiệp và pháp luật về phá sản doanh nghiệp. 3. Khoá luận nêu lên những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp. 4. Khoá luận nêu thực trạng thi hành Luật phá sản doanh nghiệp và một số khía cạnh pháp lý để nhằm kiến nghị và hoàn thiện Luật phá sản doanh nghiệp. Tóm lại : Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp là một đề tài lớn đòi hỏi tầm nhìn vĩ mô. Trong khoá luận này với trình độ còn hạn chế nên em không thể phân tích được những điểm thiếu sót của Luật phá sản doanh nghiệp, hay sự cần thiết của nó đối với hoạt động kinh tế ở Việt Nam. Khoá luận này em chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản với mong muốn khoá luận sẽ góp phần làm sáng tỏ một vấn đề pháp luật phá sản Việt Nam.

doc58 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1472 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng thi hành luật phá sản doanh nghiệp và những kiến nghị nhằm hoàn thiện luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thiết theo quy định của pháp luật để bảo đảm toàn tài sản doanh nghiệp mắc nợ. - Ra quyết định tạm đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. - Tổ chức và chủ trì Hội nghị chủ nợ. - Tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, nếu phát hiện có dấu hiệu phạm tội, thẩm phán sẽ gửi hồ sơ cho Viện kiểm sát cùng cấp để khởi tố hình sự. Trong khi tiến hành nhiệm vụ của mình, tập thể thẩm phán hay thẩm phán phụ trách có thể ra những quyết định liên quan đến quyền hạn của mình đã được quy định trong luật. Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam tại Điều 40 chỉ quy định việc khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố phá sản sẽ do Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao cứu xét, riêng đối với các khiếu nại về danh sách chủ nợ sẽ do thẩm phán phụ trách việc phá sản xem xét. Như vậy các quyết định khác của thẩm phán là có hiệu lực thi hành ngay và chủ nợ lẫn doanh nghiệp mắc nợ phải chấp hành mà không có khiếu nại gì cả. 3. Thành lập Tổ quản lý tài sản: Quản lý tài sản của doanh nghiệp bị lâm vào tình trạng phá sản là một trong những vấn đề cơ bản mà Luật phá sản các nước đều đề cập tới. Mục đích của việc quản lý tài sản là nhằm tránh việc tẩu tán, thất thoát tài sản, bảo đảm quyền lợi của các chủ nợ khi doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Luật phá sản của các nước đều có điều khoản quy định về người quản lý tài sản. Tuy nhiên, do điều kiện kinh tế, xã hội của các nước khác nhau nên pháp luật quy định cơ cấu tổ chức cũng như vị trí, vai trò của các cơ quan này là khác nhau: Thứ nhất: Về thời điểm cử nhân viên quản lý tài sản. Đa số các nước quy định việc cử nhân viên quản lý tài sản được bắt đầu khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp (Luật phá sản của Nam Tư, Thuỵ Điển…). Có nước quy định việc cử nhân viên quản lý tạm thời trong khoảng thời gian từ khi có đơn yêu cầu tuyên bố phá sản tới khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản (Luật phá sản của Anh). Thứ 2: Về đối tượng có quyền chỉ định nhân viên quản lý tài sản. Phần lớn các nước đều quy định quyền này thuộc toà án (Pháp, Đức, Thuỵ Sỹ, Malayxia…) cũng có nước nếu hội nghị chủ nợ không chấp nhận quản lý viên do hội nghị chủ nợ bầu (Luật phá sản của ESTland). Luật phá sản của Anh, Mỹ quy định chủ nợ có quyền cử người quản lý tài sản. Thứ 3: Về số lượng nhân viên quản lý tài sản. Có nước quy định chỉ có một nhân viên đứng ra quản lý tài sản (Luật phá sản úc, Nga). Theo bộ luật thương mại Sài Gòn 1972 thì số quản tài viên có thể thay đổi trong quá trình giải quyết phá sản nhưng không nhiều hơn 3 người. Cũng có nước như Hunggari đã quy định một tập thể có trách nhiệm quản lý tài sản của doanh nghiệp phá sản. Thứ 4: Về vị trí, vai trò, chức năng, nhiệm vụ của nhân viên quản lý tài sản. Luật phá sản của nhiều nước quy định cho nhân viên quản lý tài sản có quyền hạn rất lớn. Luật phá sản Mỹ quy định nhân viên quản lý tài sản là người thực hiện các giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Luật phá sản úc quy định, Toà án chỉ định một nhân viên quản lý tài sản sau khi có sự thoả thuận của người đó với các chủ nợ, nhân viên quản lý tài sản có quyền hạn rất lớn, họ tham gia tố tụng một cách độc lập và không lệ thuộc vào thẩm phán khi giải quyết các vấn đề có tính chất kinh doanh. Bên cạnh đó một số nước, Tổ quản lý tài sản chỉ có chức năng là kiểm tra và giám sát tài sản của doanh nghiệp đẻ ngăn chặn và loại trừ những hành vi nhằm tẩu tán tài sản của doanh nghiệp (Luật phá sản Hunggary). Như vậy mặc dù có những điểm khác nhau nhưng Luật phá sản của các nước đều thể hiện vai trò quan trọng của nhân viên quản lý tài sản, coi đó là một chủ thể không thể thiếu trong quá trình giải quyết phá sản. ở Việt Nam xuất phát từ hoàn cảnh thực tế của đất nước Luật phá sản doanh nghiệp đã quy định tổ quản lý tài sản được thành lập cùng với quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản. Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp và Điều 17 Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 thì thành phần Tổ quản lý tài sản bao gồm: a. Một cán bộ Toà kinh tế cấp tỉnh, do Chánh toà kinh tế cùng cấp chỉ định làm tổ trưởng. b. Một chấp hành viên của phòng thi hành án cấp tỉnh do trưởng phòng phân công. c. Chủ nợ có số nợ nhiều nhất. d. Một đại diện cho doanh nghiệp mắc nợ do đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp 100% vốn đầu tư nước ngoài do Hội đồng quản trị cử. e. Một đại diện Sở Tài chính, do giám đốc sở Tài chính cử. f. Một đại diện ngân hàng Nhà nước cấp tỉnh, do giám đốc ngân hàng đó cử. Và tuỳ trường hợp cụ thể, Chánh toà kinh tế có thể mời thêm một số chuyên gia khác tham gia tổ quản lý tài sản (Điều 17 Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994). Thành viên tổ quản lý tài sản có thể mời tham gia cùng một lúc 3 tổ quản lý tài sản và có thể từ chối sự chỉ định nếu có lý do chính đáng. Thành viên tổ quản lý tài sản chịu sự điều hành của tổ trưởng tổ quản lý tài sản và chịu sự giám sát của thẩm phán. Chánh toà kinh tế có thể bác bỏ thành viên do Hội nghị chủ nợ đề cử, nếu có lý do chính đáng và trong vòng 15 ngày kể từ ngày nhận được thông báo này. Hội nghị chủ nợ phải chọn người khác đại diện. Nếu có khiếu nại sẽ do Chánh toà án nhân dân cấp tỉnh quyết định. Nhiệm vụ, quyền hạn của tổ quản lý tài sản được quy định chi tiết tại Nghị định 189/CP và Công văn 457/KHXX ngày 21/7/1994 của Toà nhân dân tối cao như sau: Tổ quản lý tài sản có nhiệm vụ giám sát, kiểm tra hoạt động của doanh nghiệp từ khi có quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp cụ thể là: - Lập bảng kê toàn bộ tài sản của doanh nghiệp. - Giám sát, kiểm tra việc quản lý tài sản của doanh nghiệp, trong trường hợp cần thiết, có quyền đề nghị thẩm phán áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn doanh nghiệp. - Tập hợp danh sách chủ nợ và số nợ phải trả cho từng chủ nợ, danh sách người mắc nợ doanh nghiệp. Thực chất tổ quản lý tài sản là người duy nhất thay mặt cho Toà án thực hiện chức năng giám sát việc chủ doanh nghiệp quản lý tài sản cũng như giám sát toàn bộ hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp từ giai đoạn mở thủ tục phá sản cho đến giai đoạn tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Các chức năng và nhiệm vụ đã được cụ thể hoá trong Nghị định 189/CP và quy chế làm việc của tổ quản lý tài sản. Như vậy đặc điểm thứ 2 của tổ quản lý tài sản ở Việt Nam là khác với quy định của một số nước, tổ quản lý tài sản của ta không tham gia giải quyết các vấn đề liên quan đến hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, không can thiệp vào hoạt động đó. Hoạt động này vẫn do những người đứng đầu doanh nghiệp điều hành. Tổ quản lý tài sản chỉ làm nhiệm vụ giám sát, kiểm tra quá trình đó. Sở dĩ phải quy định như vậy là vì chúng ta chưa có điều kiện nhất thiết là các thành viên tổ quản lý tài sản chưa có đủ trình độ chuyên môn nghiệp vụ để có thể đứng ra quản lý tài sản, vừa quản lý điều hành các hoạt động sản xuất kinh doanh thay cho người đứng đầu doanh nghiệp. IV.Hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp – Hội nghị chủ nợ. 1.Hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp: Tuỳ theo mỗi nước mà việc xây dựng phương án hoà giải giao cho các người khác nhau, tại Anh – Mỹ nhiệm vụ đó có thể giao cho Toà án bổ nhiệm hay do doanh nghiệp hoặc các chủ nợ đề cử nhưng phải được Toà án chấp nhận. Tại Trung Quốc, việc điều chỉnh vốn do ngành chủ quản cấp trên của họ chủ trì và đưa ra Hội nghị chủ nợ để thương lượng. Tại Việt Nam, phá sản là một hiện tượng kinh tế xã hội phức tạp liên quan đến nhiều vấn đề của đời sống xã hội, do đó cả chủ nợ, con nợ và người lao động đều không muốn. Vấn đề đặt ra là làm sao khắc phục được các hậu quả của phá sản và xử lý vấn đề phá sản một cách có lợi nhất cho các bên có liên quan. Để giải quyết vấn đề này, Luật phá sản hiện đại có sự thay đổi lớn so với trước kia. Nếu như trước đây, mỗi khi Toà án nhận được đơn yêu cầu tuyên bố phá sản, xét thấy có đủ chứng cứ thì toà án ra quyết định phá sản ngay. Ngày nay, người ta thấy rằng hiện tượng doanh nghiệp “lâm vào tình trạng phá sản” là một hiện tượng phổ biến, rất dễ xảy ra, nếu cứ có một dấu hiệu ngừng thanh toán là tuyên bố phá sản ngay thì không có lợi cho chủ nợ, con nợ và người lao động. Vì vậy việc tập trung các biện pháp để cứu doanh nghiệp là vấn đề được mọi người quan tâm. Để giải quyết được vấn đề này, Luật phá sản của hầu hết các nước đều đưa ra quá trình phá sản tiềm năng: - Giai đoạn trước gọi là giai đoạn phá sản tiềm năng: Trong giai đoạn này chủ nợ, con nợ và Nhà nước (đại diện là toà) tìm mọi cách để khôi phục lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Do đó khi nhận được đơn yêu cầu tuyên bố phá sản của doanh nghiệp mắc nợ hoặc đơn xin phá sản của con nợ. Toà án chưa cho tuyên bố phá sản ngay, mà còn để lại một thời gian “đệm” nhằm tạo cơ hội phục hồi lại doanh nghiệp bằng cách tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh, cải tạo bộ máy lãnh đạo, quản lý doanh nghiệp. Giai đoạn này ở Việt Nam gọi là giai đoạn hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Thời gian phục hồi doanh nghiệp dài hay ngắn phụ thuộc vào điều kiện hoàn cảnh cụ thể mỗi nước. Trong thời gian này, Luật phá sản của nhiều nước cho phép các doanh nghiệp bị mắc nợ được hoãn thanh toán các khoản nợ đến hạn ( kể cả thuế) để tập trung cố gắng vào phục hồi sản xuất kinh doanh. Việc tạo ra cơ hội cũng như việc tìm ra các giải pháp để ngăn chặn phá sản là một điều rất cần thiết, xuất phát từ mục đích như vậy, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam đã quy định cơ chế hoà giải và tái tổ chức lại doanh nghiệp khi doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản. Vì thế, khi phát hiện doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản, Toà án không ra quyết định tuyên bố phá sản ngay mà chỉ ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Thẩm phán phải yêu cầu chủ doanh nghiệp hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp xây dựng phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại kinh doanh. Phương án hoà giải phải có biện pháp, kế hoạch cụ thể và lịch trả nợ cho các chủ nợ, trả lương cho người lao động (Điều 20). Điều này cho thấy, pháp luật nước ta đã giải quyết theo hướng tích cực, cải tạo điều kiện cho doanh nghiệp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của mình và thoát ra khỏi nguy cơ phá sản. Trên cơ sở đó, chủ doanh nghiệp thấy được sai lầm của mình, rút kinh nghiệp để kinh doanh tốt hơn. Nội dung của phương án hoà giải doanh nghiệp bao gồm: + Các kiến nghị về hoãn nợ, giảm nợ, xoá nợ, bảo lãnh nợ và các biện pháp khắc phục tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn của doanh nghiệp. + Các biện pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bao gồm các biện pháp tài chính, tổ chức lại bộ máy, sắp xếp lại lao động cải tiến quản lý, hoàn thiện đổi mới công nghệ và các biện pháp cần thiết khác, trong đó nêu rõ thời hạn và kế hoạch thực hiện cụ thể. Phương án hoà giải và tái tổ chức lại doanh nghiệp được nêu ra tại Hội nghị chủ nợ và được thông qua khi có quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm nhất trí, sau khi thông qua phải có sự phê chuẩn của toà án thì phương án hoà giải mới có giá trị thi hành. Thời gian tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp mắc nợ do Hội nghị chủ nợ ra quyết định nhưng không được quá hai năm kể từ ngày Hội nghị chủ nợ thông qua phương án hoà giải. Đây chính là khoảng thời gian cần thiết để đánh giá một cách chính xác khả năng kinh doanh của doanh nghiệp. Trong thời gian này nếu doanh nghiệp kinh doanh có hiệu quả, thực hiện nghĩa vụ của mình theo thoả thuận và không có khiếu nại của các chủ nợ đến toà án, doanh nghiệp đã trở lại hoạt động bình thường, kinh doanh có lãi và tình trạng mất khả năng thanh toán nợ đến hạn không còn nữa thì chủ doanh nghiệp có quyền đề nghị thẩm phán ra quyết định đình chỉ việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Ngược lại, nếu trong thời gian tổ chức hoạt động sản xuất kinh doanh mà doanh nghiệp vẫn làm ăn thua lỗ, công việc sản xuất kinh doanh trì trệ và vẫn không có khả năng thanh toán nợ đến hạn thì các chủ nợ có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Tóm lại: Hoà giải và giải pháp tổ chức lại sản xuất kinh doanh là trình tự không thể thiếu, là giai đoạn bắt buộc trong quá trình xử lý phá sản, là phương án hữu hiệu nhất tạo cơ hội mở đường cho doanh nghiệp thoát ra khỏi nguy cơ bị phá sản. Hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh cũng là khoảng thời gian thử thách cần thiết để quyết định số phận một doanh nghiệp. 2. Hội nghị chủ nợ: Hội nghị chủ nợ là tổ chức duy nhất của các chủ nợ được thành lập để giải quyết một cách tập thể các vấn đề liên quan đến lợi ích của họ. Trong vụ kiện dân sự, kinh tế, nguyên đơn làm đơn yêu cầu toà án bảo vệ các quyền, lợi ích hợp pháp của mình, toà án chỉ giải quyết cho cá nhân có đơn yêu cầu này và thi hành án về phần tài sản cũng chỉ riêng cho cá nhân nguyên đơn này, dù thực tế bị đơn có rất nhiều tổ chức, cá nhân khác đến hạn mà chưa được trả, các tổ chức, cá nhân này đều muốn đòi nợ phải nộp đơn yêu cầu và toà án giải quyết yêu cầu này một cách riêng lẻ, nếu tài sản của bị đơn được thanh toán hết, các nguyên đơn sau này sẽ bị tạm đình chỉ thi hành án mặc dù số nợ đã được toà án xác nhận trong một bản án có hiệu lực pháp luật. Trái lại trong thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp thủ tục tiến hành theo một phương thức hoàn toàn khác, kể cả trong giai đoạn thanh toán tài sản doanh nghiệp để trả nợ. Tất cả các chủ nợ không phân biệt nợ dân sự, nợ kinh tế, nợ Nhà nước , nếu đã gửi giấy đòi nợ đều được tập hợp chung lại thành một tổ chức gọi là Hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ này sẽ quyết định các vấn đề chính mà phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp đặt ra. Trong thời hạn 30 ngày kể từ ngày khóa sổ sách chủ nợ, thẩm phán phụ trách việc phá sản doanh nghiệp sẽ triệu tập và chủ trì Hội nghị chủ nợ. Để đảm bảo quyền lợi cho các chủ nợ, giấy triệu tập tham gia Hội nghị chủ nợ phải được gửi cho các chủ nợ trong danh sách chủ nợ và những người tham gia hội nghị 15 ngày trước khi khai mạc hội nghị, kèm theo giấy triệu tập và bản sao phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Việt Nam Hội nghị chủ nợ là một tổ chức duy nhất của các chủ nợ tham gia vào việc giải quyết một cách tập thể, công bằng lợi ích của họ. Vai trò trung tâm trong vụ phá sản thuộc về toà án. Hội nghị chủ nợ chỉ có quyền xem xét, thông qua các biện pháp cứu vãn doanh nghiệp mắc nợ hoặc thảo luận và kiến nghị phương án phân chia tài sản trong trường hợp không có phương án hoà giải hoặc phương án hoà giải không thông qua được. Hội nghị chủ nợ không phải là chủ nợ có toàn quyền quyết định đối với việc tuyên bố phá sản doanh nghiệp hay không hoặc phân chia tài sản của doanh nghiệp mắc nợ như thế nào. Thành phần của Hội nghị chủ nợ gồm có: - Cá nhân, doanh nghiệp, tổ chức có tên trong danh sách chủ nợ hoặc người được uỷ quyền bằng văn bản đều là thành viên của Hội nghị chủ nợ. - Người bảo lãnh sau khi đã trả nợ thay cho doanh nghiệp mắc nợ thì trở thành chủ nợ có bảo đảm, có quyền và nghĩa vụ như các chủ nợ không có bảo đảm khác. - Đại diện công đoàn hay đại diện người lao động nơi chưa có tổ chức công đoàn. Nếu đại diện công đoàn hay đại diện người lao động không nộp đơn yêu cầu giải quyết tuyên bố phá sản doanh nghiệp, vẫn được tham gia Hội nghị chủ nợ nhưng không có quyền biểu quyết. Chủ doanh nghiệp tư nhân, chủ doanh nghiệp có vốn đầu tư 100% nước ngoài nơi không có thành lập hội đồng Quản trị hoặc đại diện hợp pháp của doanh nghiệp phải có mặt, nếu có lý do chính đáng có thể uỷ quyền cho người khác bằng văn bản. Trường hợp chủ doanh nghiệp tư nhân bị chết thì người thừa kế hợp pháp thay mặt cho chủ doanh nghiệp tham gia Hội nghị chủ nợ. Hội nghị chủ nợ chỉ hợp lệ khi có sự tham gia của quá nửa số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không bảo đảm. Nếu không đủ số tham gia hoặc đa số chủ nợ có mặt tại hội nghị biểu quyết hoãn hội nghị thì Hội nghị chủ nợ sẽ được hoãn nợ có mặt tại Hội nghị biểu quyết hoãn Hội nghị thì Hội nghị chủ nợ sẽ được hoãn một lần. Hội nghị chủ nợ lần sau chỉ được coi là hợp lệ khi có sự tham gia của số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 tổng số nợ không có bảo đảm. Quyết định thông qua phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp ở hội nghị này, chỉ có giá trị pháp lý khi được sự chấp thuận của số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 số nợ không có bảo đảm thông qua. Trường hợp hội nghị họp lần thứ 2 thì phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại kinh doanh của doanh nghiệp ở hội nghị này chỉ có giá trị pháp lý khi được sự chấp thuận của số chủ nợ đại diện cho ít nhất 2/3 số nợ không có bảo đảm của các chủ nợ có mặt tại hội nghị chủ nợ thông qua. V. Tuyên bố phá sản doanh nghiệp: 1. Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp: Điều 36 Luật phá sản doanh nghiệp đã ấn định thẩm phán ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong 6 trường hợp: 1. Doanh nghiệp không có phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. 2. Chủ nợ hoặc đại biểu hợp pháp của doanh nghiệp không có mặt tại Hội nghị chủ nợ để trình bày phương án hoà giải và trả lời các vấn đề do Hội nghị chủ nợ đặt ra. 3. Phương án hoà giải và giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp không được Hội nghị chủ nợ thông qua. 4. Trong hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh, doanh nghiệp vi phạm nghiêm trọng những thoả thuận tại Hội nghị chủ nợ và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản. 5. Hết thời hạn tổ chức lại hoạt động kinh doanh mà doanh nghiệp vẫn kinh doanh không có hiệu quả và các chủ nợ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. 6. Trong quá trình giải quyết việc phá sản mà chủ doanh nghiệp bỏ trốn hoặc bị chết và người thừa kế từ chối thừa kế hoặc không có người thừa kế. Ngoài 6 trường hợp nêu trên, Điều 14 Khoản 3 Nghị định 189/CP còn nêu thêm một trường hợp nữa. Trong thời hạn thực hiện phương án tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp, nếu xét thấy không thể thực hiện được phương án hoà giải và các giải pháp tổ chức lại hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Doanh nghiệp đề nghị toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp của chính mình. Trường hợp việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp do tập thể 3 thẩm phán phụ trách thì khi ra quyết định tuyên bố phá sản, tập thể thẩm phán phải thảo luận và quyết định theo đa số. Luật phá sản doanh nghiệp không nói rõ khi xảy ra một trong những trường hợp nêu trên thẩm phán phụ trách việc tuyên bố phá sản phải làm gì và trong thời hạn bao nhiêu lâu. Nhưng căn cứ quyền hạn, nhiệm vụ của thẩm phán phụ trách việc tuyên bố phá sản và nhiệm vụ quyền hạn của Hội nghị chủ nợ tại Điều 20, Khoản 2 Điều 24 Luật phá sản doanh nghiệp, thì thẩm phán phải triệu tập Hội nghị chủ nợ và để cho Hội nghị chủ nợ thảo luận và kiến nghị với thẩm phán về việc phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp, dĩ nhiên thẩm phán phải chủ trì hội nghị để hướng dẫn phương thức phân chia giá trị tài sản còn lại của doanh nghiệp. Tuy nhiên Luật phá sản doanh nghiệp lại không quy định trong trường hợp này Hội nghị chủ nợ phải có tổng số bao nhiêu chủ nợ, đại diện cho bao nhiêu tổng số nợ và các loại chủ nợ nào có quyền biểu quyết. Phương thức phân chia tài sản doanh nghiệp, khác với trường hợp Hội nghị chủ nợ họp trong giai đoạn mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Điều 29,30,31 Luật phá sản doanh nghiệp đã quy định rõ, loại chủ nợ nào được biểu quyết và bao nhiêu chủ nợ, đại diện cho bao nhiêu tổng số nợ. Việc quy định này là cần thiết vì phương thức phân chia tài sản của doanh nghiệp sẽ liên quan đến các chủ nợ có bảo đảm vì trong thời gian này việc quy định giá tài sản đã cầm cố, thế chấp cho các chủ nợ chưa thực hiện, hơn nữa luật không quy định cụ thể những tài sản đảm bảo có món nợ được thanh toán bằng cách nào, bán đấu giá lấy tiền trả nợ hay thanh toán bằng tài sản đã đem bảo đảm. Thông thường chủ nợ có bảo đảm có thể có thái độ đối với món nợ như sau: - Khước từ cầm giữ tài sản, nếu họ đang giữ tài sản và yêu cầu thẩm phán bán tài sản để thu lại nợ. - Cầm giữ luôn tài sản và yêu cầu định giá tài sản này để họ bù trừ số nợ của họ với giá trị tài sản đã định theo Điều 38 Luật phá sản doanh nghiệp, nếu giá trị tài sản thấp hơn họ sẽ được quyền tham gia Hội nghị chủ nợ còn lại. Nếu giá trị tài sản được định giá cao hơn số nợ thì họ sẽ trả lại số tiền chênh lệch. Quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp phải ghi rõ nội dung như quy định tại Điều 37 Luật phá sản doanh nghiệp và gửi cho các chủ nợ. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày có quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp các chủ nợ và doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản có quyền gửi đơn khiếu nại, Viện kiểm sát nhân dân cùng cấp có quyền kháng nghị quyết định này. Hết thời hạn đó nếu không có khiếu nại, kháng nghị thì tuyên bố phá sản có hiệu lực thi hành và đăng báo địa phương và báo hàng ngày của Trung ương 3 số liên tiếp. Bản sao quyết định tuyên bố phá sản phải gửi cho: - Phòng thi hành án dân sự thuộc Sở tư pháp - Các chủ nợ, doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. - Viện kiểm sát nhân dân, cơ quan tài chính lao động cùng cấp. - Cơ quan cấp giấy phép thành lập doanh nghiệp. Đối với phòng thi hành án dân sự, toà án phải gửi kèm theo các tài liệu cần thiết cho việc thi hành quyết định đó. 2. Khiếu nại, kháng nghị và giải quyết khiếu nại kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp: Trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, thẩm phán ra quyết định áp dụng các biện pháp khẩn cấp tạm thời để bảo toàn tài sản thế chấp hoặc cầm cố, tổ chức việc xác định giá trị của những tài sản đó. Điều 38 Luật phá sản doanh nghiệp không nói rõ hành vi bảo toàn tài sản như thế nào? đó không phải là hành vi thu hồi tài sản, vì việc thu hồi chỉ do Tổ thanh toán tài sản thực hiện trên những tài sản của doanh nghiệp nằm trong tay những con nợ của doanh nghiệp, những tài sản do doanh nghiệp gửi giữ, cho thuê hoặc những tài sản do chủ nợ của doanh nghiệp cất giữ không thông qua một hợp đồng có mục đích tài sản đó để đảm bảo nợ. Do đó vận dụng pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế Công văn 457/KHXX ngày 21/07/1994 của Toà án nhân dân tối cao đã quy định áp dụng chương VIII của pháp lệnh thì các biện pháp khẩn cấp, tạm thời, để bảo toàn tài sản đang cầm cố, thế chấp như sau: Kê biên tài sản của doanh nghiệp. Cấm chuyển dịch tài sản. Cho thu hoạch và bảo quản sản vật. Nếu là biện pháp cấm chuyển dịch tài sản mà việc mua bán phải đăng ký với cơ quan quản lý thì quyết định của Toà án phải được giao cho đương sự và gửi cho cơ quan hữu quan. Việc áp dụng các biện pháp bảo toàn này do thẩm phán phụ trách việc tuyên bố phá sản có quyền ra quyết định hoặc theo yêu cầu của doanh nghiệp, của chủ nợ hay Viện kiểm sát. Quyết định bảo toàn tài sản phải được thi hành ngay, các đương sự có quyền khiếu nại, Viện kiểm sát có quyền kiến nghị với Chánh án toà án tỉnh. Trong hạn 3 ngày, kể từ khi nhận được khiếu nại, kiến nghị, thì quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực thi hành. Trong hạn 5 ngày, kể từ ngày nhận được kháng nghị, khiếu nại, thẩm phán phải gửi hồ sơ tuyên bố phá sản lên Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao. Trong hạn 60 ngày, kể từ ngày nhận được hồ sơ phá sản doanh nghiệp, một tập thể gồm 3 thẩm phán do Chánh tòa phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao phải giải quyết xong khiếu nại, kháng nghị đối với quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. & Giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Khi giải quyết khiếu nại, kháng nghị Toà phúc thẩm Toà án nhân dân tối cao có quyền. - Bác khiếu nại, kháng nghị và giữ nguyên quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của Toà án nhân dân cấp tỉnh. - Sửa một phần quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. - Huỷ quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong trường hợp có sự vi phạm nghiêm trọng thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp và tiến hành việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản theo thủ tục chung. Theo quy định tại Khoản 2 Điều 40, thì quyết định của Toà án nhân dân tối cao là quyết định cuối cùng và do việc giải quyế tuyên bố phá sản doanh nghiệp không phải là vụ án, nên theo luật tổ chức Toà án nhân dân, các quyết định của toà án giải quyết khiếu nại, kháng nghị quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp có hiệu lực pháp luật, không được xem xét theo trình tự tái thẩm giám đốc thẩm. 3. Thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp: a. Thẩm quyền thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Theo quy định tại Khoản 1,2 Điều 42 của Luật phá sản doanh nghiệp, việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp thuộc thẩm quyền của phòng thi hành án dân sự thuộc Sở tư pháp nơi doanh nghiệp đặt trụ sở chính. Trưởng phòng thi hành án dân sự chỉ định chấp hành viên phụ trách thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp, ra quyết định thành lập tổ thanh toán tài sản và kiểm tra, giám sát công việc của tổ thanh toán tài sản. b.Nhiệm vụ quyền hạn của chấp hành viên: - Theo quy định tại Điều 43 của Luật phá sản doanh nghiệp, chấp hành viên phụ trách thi hành quyết định phá sản doanh nghiệp có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: 1. Ra quyết định thu hồi và bán đấu giá tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. 2. Thực hiện phương án phân chia tài sản theo quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của thẩm phán. 3. Ra quyết định phong toả các tài khoản doanh nghiệp phá sản có ở các ngân hàng, mở tài khoản mới ở ngân hàng để giữ các tài khoản tiền thu được từ việc thu hồi các khoản nợ cho vay của doanh nghiệp phá sản và từ việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp phá sản. Chấp hành viên phải chịu trách nhiệm trước phòng thi hành án trong quá trình thực hiện nhiệm vụ, quyền hạn của mình. c.Thành phần, nhiệm vụ, quyền hạn của tổ thanh tra tài sản: Theo quy định tại Khoản 3 Điều 42 Luật phá sản doanh nghiệp thành phần tổ thanh tra tài sản gồm có: 1. Chấp hành viên, cán bộ phòng thi hành án làm tổ trưởng. 2. Đại diện của cơ quan tài chính, ngân hàng cung cấp. 3. Đại diện chủ nợ, đại diện công đoàn hoặc đại diện người lao động chưa có tổ chức công đoàn. 4. Đại diện doanh nghiệp bị phá sản Thành viên tổ quản lý tài sản có thể được thi chỉ định tham gia tổ thanh lý tài sản. - Quy chế tổ chức hoạt động của tổ thanh tra tài sản do Chính phủ quy định. Theo quy định tại Điều 44 của Luật phá sản doanh nghiệp. Tổ thanh tra tài sản có nhiệm vụ, quyền hạn sau đây: 1. Nhận bàn giao tài sản và các giấy tờ tài liệu có liên quan tới quản lý tài sản. 2. Thu hồi và quản lý tất cả tài sản giấy tờ, sổ sách kế toán và con dấu của doanh nghiệp phá sản. Phát hiện yêu cầu chấp hành viên cho thu hồi tài sản doanh nghiệp hoặc giá trị tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp đã bán hoặc chuyển giao bất hợp pháp theo quy định tại Điều 45 Luật phá sản doanh nghiệp, cụ thể là nếu trong 6 tháng trước ngày thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà doanh nghiệp đã có những vi phạm sau đây: Tẩu tán tài sản của doanh nghiệp dưới mọi hình thức. Thanh toán các khoản nợ chưa đến hạn. Từ bỏ quyền đòi nợ đối với các khoản nợ. Chuyển các khoản nợ không có bảo đảm thành nợ có bảo đảm. Bán tài sản của doanh nghiệp thấp hơn thực giá. Việc thu hồi này do chấp hành viên đề nghị Toà án ra quyết định. Trước khi thu hồi lại tài sản hoặc phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Tổ thanh toán tài sản có trách nhiệm xuất trình quyết định toà án, giải thích rõ lý do thu hồi tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp cho đương sự biết. Những tranh chấp về thu hồi lại tài sản hay phần chênh lệch giá trị tài sản của doanh nghiệp do Toà án quyết định. 4.Theo quyết định của chấp hành viên, tổ thanh toán tài sản tổ chức việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp. Việc bán đấu giá các tài sản của doanh nghiệp phải có công chứng của Nhà nước chứng nhận. Nếu tài sản đem bán đấu giá là thiết bị đồng bộ thì phải đem bán đồng bộ, trừ khi không bán được đồng bộ thì mới bán lẻ. Việc tổ chức bán đấu giá tài sản và giải quyết quyền sử dụng đất đai của doanh nghiệp phải đúng pháp luật. 5. Gửi tất cả các tài khoản tiền thu hồi được của doanh nghiệp vào tài khoản mới mở của ngân hàng. 6. Thực hiện thanh toán theo quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp của thẩm phán. Theo quyết định tại Điều 47 Luật phá sản doanh nghiệp trong quá trình thi hành quyết định phá sản doanh nghiệp, đương sự có quyền khiếu nại lên trưởng phòng thi hành án thuộc Sở tư pháp. Trong thời hạn 7 ngày, kể từ ngày nhận đơn. Trưởng phòng thi hành án thuộc sở tư pháp phải xem xét, giải quyết và trả lời cho người khiếu nại. Nếu không đồng ý với quyết định của trưởng phòng thi hành án thuộc sở tư pháp thì có quyền khiếu nại lên Bộ tư pháp. Trong thời hạn 30 ngày, kể từ ngày nhận được khiếu nại, Cục trưởng Cục quản lý thi hành án dân sự Bộ tư pháp phải ra một trong các quyết định sau đây: Giữ nguyên quyết định của trưởng phòng thi hành án dân sự thuộc Sở tư pháp. Huỷ quyết định bị khiếu nại và giao cho trưởng phòng thi hành án thuộc Sở tư pháp giải quyết. Điều 48 của Luật phá sản doanh nghiệp quy định: Kết thúc việc thanh toán, trưởng phòng thi hành án ra quyết định chấm dứt việc thi hành quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Quyết định này phải được gửi đến cơ quan đăng ký kinh doanh để xoá bỏ tên doanh nghiệp trong sổ đăng ký kinh doanh. Chương III Thực trạng thi hành luật phá sản doanh nghiệp và những kiến nghị nhằm hoàn thiện luật phá sản doanh nghiệp việt nam. I.Thực trạng thi hành Luật phá sản doanh nghiệp từ 1994- 2001: Phá sản là một vấn đề phức tạp, liên quan đến nhiều mặt của đời sống xã hội, là một hiện tượng tất yếu của nền kinh tế thị trường. Vì vậy việc ban hành Luật phá sản là hết sức cần thiết. Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam ra đời đã góp phần hoàn thiện hệ thống pháp luật nói chung và hệ thống pháp luật kinh tế nói riêng, nó thực sự đóng vai trò là một công cụ pháp lý của Nhà nước trong lĩnh vực quản lý kinh doanh. Kể từ khi được ban hành và có hiệu lực đến nay, Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam đã góp phần tạo lập một môi trường kinh doanh thuận lợi cho các doanh nghiệp. Việc phổ biến, học tập và nghiên cứu Luật phá sản doanh nghiệp cũng được sự quan tâm hưởng ứng của mọi cấp, mọi ngành và các tầng lớp nhân dân, nhất là các ngành kinh doanh. Tuy vậy việc đưa Luật phá sản doanh nghiệp đi vào thực tiễn cuộc sống lại là việc còn gặp rất nhiều khó khăn. Theo số liệu thống kê hàng năm của Toà án nhân dân tối cao kể từ khi thi hành Luật phá sản doanh nghiệp chưa năm nào ngành Toà án thụ lý được 30 việc yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong số này thì quá một nửa, các cơ quan Toà án phải trả lại đơn, đình chỉ hoặc tạm đình chỉ theo quy định của pháp luật. Cụ thể như sau: - Sau tháng cuối năm 1994 các toà án mới thụ lý 5 đơn yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, cả 5 doanh nghiệp bị yêu cầu tuyên bố phá sản đều là doanh nghiệp tư nhân. - Năm 1995 tình hình có khả quan hơn, có nhiều đơn yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản doanh nghiệp. Theo báo cáo của các địa phương đã có 17 trên tổng số các tỉnh đã thụ lý án kinh tế và thụ lý 27 việc yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp trong đó có 8 doanh nghiệp tư nhân, 8 công ty trách nhiệm hữu hạn, 6 doanh nghiệp Nhà nước, 1 công ty cổ phần, 2 hợp tác xã và 1 doanh nghiệp thành lập theo Luật đầu tư nước ngoài tại Việt Nam. (Báo cáo tổng kết Toà án toàn quốc 1995 và phương hướng nhiệm vụ ngành Toà án năm 1996). Trong số đơn xin tuyên bố phá sản doanh nghiệp đã thụ lý kể cả của năm 1994 chuyển sang, các toà án đã giải quyết xong 21 vụ, đã hoà giải thành 10 vụ, đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp 6 vụ và ra quyết định tuyên bố phá sản doanh nghiệp 5 vụ. Tổng kết công tác năm 1995, Toà án nhân dân tối cao đã nhận định và rút kinh nghiệm công tác này như sau: “Trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Toà án các cấp đã xác định đây là loại việc mới nên đã nghiên cứu kỹ hồ sơ, thận trọng trong công tác điều tra, xác minh, thu thập chứng cứ, vừa làm vừa rút kinh nghiệm, bảo đảm việc xử lý được thoả đáng. Xu hướng chung là các Toà án luôn luôn chú trọng và đề cao công tác hoà giải, tạo mọi điều kiện để Hội nghị chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ bàn bạc thông qua được phương án tổ chức lại sản xuất kinh doanh để doanh nghiệp mắc nợ có biện pháp tài chính cần thiết trả nợ cho các chủ nợ, khắc phục được tình trạng mất khả năng thanh toán, giúp cho các doanh nghiệp mắc nợ phục hồi sản xuất kinh doanh vừa trả được nợ, vừa có điều kiện sản xuất kinh doanh” (Báo cáo tổng kết công tác Toà án toàn quốc năm 1995 và phương hướng nhiệm vụ ngành Toà án năm 1996). - Bước sang năm 1996 số vụ án kinh tế và việc yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp được đưa đến Toà án có giảm đi. Nếu năm 1995 các cơ quan Toà án thụ lý 27 việc yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp thì năm 1996 con số này chỉ còn 22, đã giải quyết xong 11 vụ việc. Trong số này có 4 quyết định của cấp sơ thẩm bị kháng cáo, kháng nghị. Các toà phúc thẩm đã thụ lý và giải quyết phúc thẩm 4 vụ và ra quyết định huỷ 3 vụ, cải sửa 1 vụ ( Báo cáo tổng kết các năm 1996, 1997, 1998 của Toà án nhân dân tối cao). - Năm 1997 số lượng vụ việc do Toà án các cấp thụ lý vẫn chưa nhiều, còn nhiều vướng mắc chưa kịp thao gỡ. Các Toà án địa phương khi thụ lý yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, có nhiều công văn đề nghị toà án nhân dân tối cao hướng dẫn giải quyết những trường hợp cụ thể bởi Luật phá sản doanh nghiệp có những quy định cứng nhắc, khó áp dụng trong thực tiễn. Ví dụ đại diện hợp pháp của doanh nghiệp, về thành phần tham gia Hội nghị chủ nợ…Tổng số yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp tổng số thụ lý trong năm là 22 vụ, các toà án đã giải quyết xong 15 vụ, trong đó ra quyết định phá sản 12 vụ và ra quyết định công bố nhận hoà giải thành 3 vụ. - Năm 1998 chỉ có 15/61 tỉnh thành phố có thụ lý đơn yêu cầu tuyên bố phá sản với tổng số 23 trường hợp và trong số này chỉ có 3 trường hợp được chấp nhận tuyên bố phá sản (2 doanh nghiệp Nhà nước, 1 doanh nghiệp tư nhân), ( Báo cáo tổng kết các năm 1996, 1997, 1998 của Toà án nhân dân tối cao). - Năm 1999 theo báo cáo của 16 tỉnh số vụ việc yêu cầu Toà án tuyên bố phá sản không nhiều. Các toà địa phương đã thụ lý 22 trường hợp nhưng chỉ có 7 trường hợp được tuyên bố phá sản. Tình hình thụ lý và giải quyết phá sản không phản ánh đúng thực tế. Nhiều doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản, chủ doanh nghiệp mắc nợ đưa đơn đến toà yêu cầu tuyên bố phá sản nhưng không đủ điều kiện để toà án mở thủ tục giải quyết. Chủ yếu là không đủ chứng cứ để toà án đánh giá đơn vị đó có phải mất khả năng thanh toán do làm ăn thua lỗ hay không? phí kiểm toán cao cũng là một khó khăn. Những tài liệu phục vụ cho kiểm toán cũng rất nan giải vì không ít các doanh nghiệp tư nhân không có hoặc không còn sổ sách kế toán. Trong khi kiểm toán là khâu quyết định nhất, khách quan nhất cho việc kết luận một doanh nghiệp có phải làm ăn thua lỗ hay không?… Phá sản doanh nghiệp chỉ được giải quyết ở 2 cấp toà án sơ thẩm và phúc thẩm không có cấp giám đốc thẩm nên việc khắc phục sai lầm đối với những quyết định đã có hiệu lực pháp luật không làm được….(Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 1999). - Trong năm 2000, các toà án địa phương đã thụ lý mới 8 vụ; số cũ còn lại là 1 vụ. Tổng số vụ án phải giải quyết là 9 vụ, đã giải quyết 8 vụ, đạt tỷ lệ 88,8% so với năm 1999 thì số vụ án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp thụ lý mới giảm 3 vụ.(Báo cáo tổng kết toàn ngành năm 2000) - Đến năm 2001 thì toàn ngành Toà án chỉ thụ lý 6 vụ yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp. So với năm 2000 thì số vụ án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp thụ lý giảm 2 vụ. Tuy các vụ án này không nhiều nhưng thủ tục để giải quyết các vụ án này còn nhiều vướng mắc. Nhiều doanh nghiệp đã lâm vào tình trạng phá sản, chủ doanh nghiệp đưa đơn đến toà án đánh giá doanh nghiệp đó có phải đã mất khả năng thanh toán do làm ăn thua lỗ hay không? Việc kiểm toán để xác định vấn đề này rất khó thực hiện hầu hết bởi các doanh nghiệp tư nhân không có còn sổ sách kế toán, mặt khác phí kiểm toán lại rất cao, các doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản không còn khả năng nộp khoản tiền lệ phí này nên không có tài liệu kiểm toán, vì vậy trên thực tế số doanh nghiệp trong tình trạng phá sản thì nhiều nhưng số vụ án mà các toà án địa phương thụ lý lại rất ít. Các vướng mắc này Toà án nhân dân tối cao đã báo cáo và đề nghị Quốc hội sớm sửa đổi, bổ sung một số điều của Luật phá sản doanh nghiệp để không chỉ tạo thuận lợi cho toà án giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp mà còn tạo điều kiện phát triển kinh tế thị trường hiện nay. (Báo cáo tổng kết công tác ngành Toà án năm 2001 và phương hướng nhiệm vụ công tác Toà án năm 2002) II. Những kiến nghị nhằm hoàn thiện Luật phá sản doanh nghiệp Việt Nam: Qua báo cáo tổng kết của ngành Toà án từ năm 1994- 2001 ta nhận thấy một số điều như sau: Cho đến nay số lượng loại hình doanh nghiệp được thành lập rất nhiều nhưng bên cạnh đó một số doanh nghiệp do hoạt động không có hiệu quả hoặc vì nhiều nguyên nhân khác nhau đã lâm vào tình trạng phá sản. Tuy nhiên thực tiễn cho thấy các toà án thụ lý đơn giải quyết yêu cầu không nhiều, thậm chí có toà án chưa thụ lý giải quyết vụ án nào, hoặc có nơi đã thụ lý đơn giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp nhưng sau đó bị tạm đình chỉ hoặc bị huỷ vì sự phá sản của doanh nghiệp mang tính hình sự, hoặc có vụ treo lơ lửng chưa giải quyết dứt điểm…Có nhiều nguyên nhân dẫn đến tình trạng nêu trên nhưng có thể thấy một trong những nguyên nhân cơ bản là do Luật phá sản doanh nghiệp vừa là luật nội dung, vừa là luật tố tụng, nhưng lại chưa quy định đầy đủ và chặt chẽ cho cả hai vấn đề này. Vì vậy cho đến nay trong việc giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp vẫn chưa còn tồn tại nhiều vấn đề cần được trao đổi và đề xuất những kiến nghị với các cơ quan có thẩm quyền, sửa đổi bổ sung Luật phá sản doanh nghiệp cho phù hợp với tình trạng hiện nay. 1.Về phạm vi điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp: Luật phá sản doanh nghiệp chỉ điều chỉnh 8 loại hình doanh nghiệp được quy định tại Điều 1 Nghị định 189/CP. Ngày 01/01/2000, khi Luật doanh nghiệp có hiệu lực thì loại hình công ty hợp doanh không được Luật phá sản doanh nghiệp điều chỉnh. Vì vậy Luật phá sản cần bổ sung loại hình này. Đối với Tổng công ty Nhà nước có đủ dấu hiệu bị phá sản thì cũng bị tuyên bố phá sản cần quy định cụ thể về trách nhiệm dân sự khi công tuy trong Tổng công ty bị tuyên bố phá sản và khi Tổng công ty bị tuyên bố phá sản, công ty có chịu ảnh hưởng không? Ngoài ra cần mở rộng phạm vi áp dụng Luật phá sản đến các loại hình doanh nghiệp khác, do Luật doanh nghiệp năm 1999 quy định. 2.Về đối tượng điều chỉnh của Luật phá sản doanh nghiệp: Việc quy định doanh nghiệp lâm vào tình trạng phá sản chỉ bao gồm những trường hợp quy định tại Điều 2 Luật phá sản doanh nghiệp và được cụ thể hoá tại Điều 3, Điều 15 Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ là có khiên cưỡng, nó gạt ra ngoài những trường hợp mất khả năng hành vi trong kinh doanh nhưng không thể chấm dứt được sự tồn tại “hữu danh vô thực” cần quy định lại theo hướng chấp nhận mọi lý do dẫn đến doanh nghiệp bị mất khả năng thanh toán nợ đến hạn sau khi đã áp dụng các biện pháp tài chính cần thiết đều thuộc trường hợp lâm vào tình trạng phá sản chứ không phải do hai nguyên nhân kinh doanh thua lỗ và vì lý do bất khả kháng như quy định hiện hành. Tuy nhiên, bên cạnh việc sửa đổi như vậy cũng cần quy định bổ sung về trách nhiệm vật chất của cá nhân những người điều hành doanh nghiệp bị phá sản đối với các chủ nợ nếu họ có lỗi trong việc phá sản doanh nghiệp. 3.Về xác định tư cách chủ nợ: Thứ nhất, chúng ta cần làm rõ những chủ nợ nào là chủ nợ có bảo đảm. Điều 5 Pháp lệnh hợp đồng kinh tế quy định 3 biện pháp bảo đảm thực hiện hợp đồng kinh tế là thế chấp tài sản, cầm cố và bảo lãnh. Điều 324 Bộ luật Dân sự đã quy định ngoài 3 biện pháp trên còn 4 biện pháp khác là đặt cọc, ký cược, ký quỹ, phạt vi phạm. Vậy thì có phải tất cả chủ nợ có biện pháp bảo đảm theo Điều 234 Bộ luật Dân sự đều là chủ nợ có bảo đảm không? Trong khi Điều 38 Luật phá sản doanh nghiệp chỉ quy định rằng: “ trong quá trình giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, thẩm phán ra quyết định bảo toàn tài sản, chấp hoặc cầm cố, tổ chức việc xác định giá trị của những tài sản đó”. Vậy còn 5 biện pháp bảo đảm còn lại thì sao? Chúng ta cũng lần lượt xem xét. Trước hết chúng ta cần nhấn mạnh là “chủ nợ có bảo đảm” theo Điều 3 Luật phá sản doanh nghiệp phải là chủ nợ có khoản nợ được bảo đảm bằng chính tài sản của doanh nghiệp mắc nợ. Do vậy chủ nợ được bảo đảm bằng biện pháp phạt vi phạm hoặc bảo lãnh không phải là chủ nợ có bảo đảm, vì trong biện pháp bảo lãnh, tài sản đem ra bảo đảm là tài sản của người thứ 3 (người bảo lãnh) chứ không phải là tài sản của doanh nghiệp mắc nợ; còn phạt vi phạm chỉ là biện pháp dự liệu con nợ sẽ phải nộp một số khoản tiền khi xảy ra vi phạm mà không có cơ sở bảo đảm bằng một tài sản chắc chắn của doanh nghiệp như các biện pháp bảo đảm khác. 4.Về quyền lợi của chủ nợ: Quyền lợi của chủ nợ được thực hiện như thế nào khi vì lý do khách quan chủ nợ không có tên trong danh sách chủ nợ. Theo quy định tại Điều 21,22 Luật phá sản doanh nghiệp thì trong thời hạn 60 ngày kể từ ngày đăng báo đầu tiên về quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, các chủ nợ phải gửi giấy đòi nợ doanh nghiệp đến toà án. Trong thời hạn 15 ngày kể từ ngày hết thời hạn gửi giấy đòi nợ, tổ quản lý tài sản phải lập xong danh sách các chủ nợ và số nợ, danh sách này được niêm yết công khai tại trụ sở toà án, trụ sở chính và các chi nhánh của doanh nghiệp trong thời hạn 10 ngày để các chủ nợ và doanh nghiệp mắc nợ thực hiện quyền khiếu nại về danh sách chủ nợ. Hết thời hạn đó tổ quản lý tài sản khoá sổ danh sách chủ nợ,những chủ nợ không có tên trong danh sách thì mất quyền tham gia Hội nghị chủ nợ. Vấn đề đặt ra là nếu vì lý do nào đó chủ nợ không có tên trong danh sách chủ nợ (do công tác ở nước ngoài trong một thời gian dài không hay biết doanh nghiệp mắc nợ yêu cầu tuyên bố phá sản nên không gửi giấy đòi nợ và cũng không có khiếu nại trong thời hạn luật định kể trên ) thì có bị mất quyền đòi nợ không, họ có chia giá trị tài sản của doanh nghiệp phá sản không và giải quyết quyền lợi cho họ như thế nào? Có quan điểm cho rằng: Điều 22 Luật phá sản doanh nghiệp chỉ quy định rằng hết thời hạn luận định thì tổ quản lý tài sản khoá sổ danh sách chủ nợ những chủ nợ không gửi giấy đòi nợ thì mất quyền tham gia Hội nghị chủ nợ chứ không quy định mất hưởng quyền lợi trong giá trị tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Bởi vì Hội nghị chủ nợ chỉ bàn về phương án phân chia tài sản chứ không bàn quyền được đòi nợ hay không. Tuy nhiên cũng có quan điểm cho rằng doanh nghiệp không có tên trong danh sách chủ nợ bị mất quyền tham gia Hội nghị chủ nợ thì mặc nhiên bị mất quyền phân chia tài sản của doanh nghiệp bị phá sản. Như vậy, Luật phá sản doanh nghiệp đã không đề cập những nguyên nhân khách quan đưa đến việc chủ nợ không có tên trong danh sách chủ nợ và như vậy, thì đó là một sơ hở làm ảnh hưởng quyền lợi của doanh nghiệp chủ nợ và vướng mắc của toà án khi thực hiện tuyên bố phá sản doanh nghiệp. 5. Về tạm đình chỉ, đình chỉ giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản hay không khi toà án phát hiện doanh nghiệp không lâm vào tình trạng phá sản mà cố tình làm sai lệch hồ sơ để được tuyên bố phá sản nhằm xoá nợ: Thực tế có trường hợp toà án đã ra quyết định yêu cầu tuyên bố phá sản, nhưng sau đó, tự toà án phát hiện doanh nghiệp chưa lâm vào tình trạng phá sản theo quy định của Luật phá sản doanh nghiệp và Nghị định 189/CP mà vẫn có khả năng thanh toán nợ (có nghĩa toà án đã thụ lý, nhưng xác định lại thông qua việc xác minh hồ sơ và thực tế) thì Toà án có thể ra quyết định đình chỉ được không? hoặc trường hợp chủ doanh nghiệp đã lợi dụng việc phá sản để chiếm đoạt tài sản của người khác; thực tế không hề có thua lỗ mà do doanh nghiệp đã tẩu tán tài sản, tạo sổ sách kế toán giả rồi xin phá sản nhưng sau này tòa án mới phát hiện ra thì dựa vào cơ sở pháp lý nào để đình chỉ? trong việc giải quyết vụ án dân sự và vụ án kinh tế có trường hợp sau khi thụ lý vẫn đình chỉ giải quyết vụ án (ví dụ như những quy định tại Điều 32 và Điều 39 pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế) nhưng trong Luật phá sản doanh nghiệp lại không quy định về trường hợp giải quyết những phát hiện mới sau khi đã thụ lý và đã ra quyết định mở thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản, như vậy toà án sẽ không biết dựa vào đâu để chấm dứt việc giải quyết phá sản, chẳng lẽ cứ tiếp tục giải quyết rồi sẽ hoà giải tại Hội nghị chủ nợ, sau đó tạm đình chỉ, rồi đợi thời gian để đình chỉ theo Điều 35 Luật phá sản doanh nghiệp, trong trường hợp đó nếu tuyên bố phá sản cũng không đúng. 6. Về thanh toán có bảo đảm: Theo quy định tại Điều 18 Luật phá sản doanh nghiệp thì không cấm doanh nghiệp mắc nợ thanh toán có bảo đảm. Tuy nhiên theo Điều 15 Luật phá sản doanh nghiệp thì khi quyết định thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Toà án đã “ấn định thời điểm ngừng thanh toán nợ”. Theo các Điều 16, 17 Luật phá sản doanh nghiệp thì thẩm phán không được cho thanh toán nợ có bảo đảm. Mặt khác theo Điều 23 Luật phá sản doanh nghiệp thì “kể từ thời điểm ngừng thanh toán nợ doanh nghiệp không phải trả lãi cho các khoản nợ” những quy định này gây khó khăn và thiệt hại cho chủ nợ có bảo đảm do tài sản để lâu có thể giảm giá trị thấp hơn số nợ, lại không được hưởng. Vì vậy, nên quy định cho thanh toán ngay nợ có bảo đảm. Như vậy thì vừa tránh để tài sản bị giảm bớt giá trị, vừa tránh cho toà án nhiệm vụ bảo toàn tài sản đó. 7. Về trường hợp người điều hành doanh nghiệp bị khởi tố về hình sự trong quá trình giải quyết phá sản: Trong khi tiến hành thủ tục giải quyết yêu cầu tuyên bố phá sản doanh nghiệp, Toà án phát hiện hành vi của người điều hành doanh nghiệp có dấu hiệu tội phạm hình sự và chuyển hồ sơ cho cơ quan tiến hành tố tụng khởi tố, điều tra, truy tố và xét xử. Doanh nghiệp là pháp nhân không phải chịu trách nhiệm hình sự nhưng phải chịu trách nhiệm về dân sự, về những thiệt hại do người điều hành gây ra trong phạm vi thực hiện nhiệm vụ do doanh nghiệp ủy quyền. Nếu phải chờ bản án hình sự đã có hiệu lực thi hành xác định được trách nhiệm dân sự mà doanh nghiệp phải chịu, thì thời gian chờ đợi của các chủ nợ là quá lâu. Ngược lại nếu gạt vụ án ra một bên để tiếp tục giải quyết phá sản thì vi phạm pháp luật và trường hợp tiến hành song song hai thủ tục tố tụng thì trách nhiệm dân sự đối với bị hại và trách nhiệm tài sản đối với các chủ nợ được tính toán như thế nào? Luật chưa quy định vấn đề này. Kết luận Phá sản doanh nghiệp đối với hoạt động kinh tế nói chung, đối với hoạt động của doanh nghiệp nói riêng là điều tất yếu của nền kinh tế thị trường. ở đâu có nền kinh tế thị trường thì ở đó có phá sản, bởi vì không có pháp luật và hoàn thiện pháp luật về phá sản sẽ không có cơ sở pháp lý để giải quyết một vấn đề kinh tế xã hội phức tạp, một vấn đề để lại nhiều hậu quả cho nền kinh tế cũng như cho xã hội đó là việc phá sản doanh nghiệp. Việt Nam đang xây dựng một nền kinh tế “ theo cơ chế thị trường có quản lý của Nhà nước bằng pháp luật, kế hoạch, chính sách và các công cụ khác” đó là nền kinh tế hàng hoá, có sự tham gia của nhiều thành phần kinh tế do Nhà nước quản lý theo định hướng Xã hội chủ nghĩa.Vì vậy ban hành Luật phá sản ở nước ta có ý nghĩa cực kỳ quan trọng. Bằng kết quả của mình khoá luận trình bày và kiến nghị các vấn đề sau: 1. Khoá luận khẳng định luật phá sản doanh nghiệp đối với lĩnh vực quản lý kinh tế trong nền kinh tế thị trường là một vấn đề quan trọng của nước ta hiện nay. 2. Khoá luận khái quát sự ra đời của Luật phá sản doanh nghiệp và pháp luật về phá sản doanh nghiệp. 3. Khoá luận nêu lên những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp. 4. Khoá luận nêu thực trạng thi hành Luật phá sản doanh nghiệp và một số khía cạnh pháp lý để nhằm kiến nghị và hoàn thiện Luật phá sản doanh nghiệp. Tóm lại : Những vấn đề pháp lý về phá sản doanh nghiệp là một đề tài lớn đòi hỏi tầm nhìn vĩ mô. Trong khoá luận này với trình độ còn hạn chế nên em không thể phân tích được những điểm thiếu sót của Luật phá sản doanh nghiệp, hay sự cần thiết của nó đối với hoạt động kinh tế ở Việt Nam. Khoá luận này em chỉ đề cập đến những vấn đề cơ bản với mong muốn khoá luận sẽ góp phần làm sáng tỏ một vấn đề pháp luật phá sản Việt Nam. Tài liệu tham khảo Hiến pháp 1992 – Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia – 1993. Văn kiện Đại Hội Đảng lần VI – Nhà xuất bản Sự thật 1987. Văn kiện Đại Hội Đảng lần VII – Nhà xuất bản Sự thật 1991. Luật phá sản doanh nghiệp 30/12/1993. Luật Công ty 21/12/1990 và luật sửa đổi bổ sung một số điều của luật Công ty 23/06/1994. Luật doanh nghiệp tư nhân 21/12/1990 và luật sửa đổi bổ sung một số điều của Luật doanh nghiệp tư nhân 23/06/1994 Pháp lệnh thủ tục giải quyết các vụ án kinh tế 16/03/1994. Pháp lệnh hợp đồng kinh tế 25/09/1987. Nghị định 189/CP ngày 23/12/1994 của Chính phủ về giải quyết thi hành Luật Phá sản doanh nghiệp. Nghị định 92/CP ngày 19/12/1995 của Chính phủ về giải quyết quyền lợi của người lao động ở doanh nghiệp bị tuyên bố phá sản. Công văn số 457/ KHXX ngày 21/07/1994 của Toà án Nhân dân Tối cao về việc áp dụng một số quy định của Luật phá sản Doanh nghiệp. “Phá sản doanh nghiệp một số vấn đề thực tiễn” Luật sư Nguyễn Tấn Hơn – Nhà xuất bản Chính trị Quốc Gia – 1995. “Phá sản và xử lý phá sản ở các nước và Việt Nam chủ biên PGS Hoàng Công Thi – Viện khoa học tài chính – Bộ Tài chính – 1993”. Giáo trình Luật kinh tế – Trường Đại học Luật. Tạp chí Toà án nhân dân. Tạp chí Nhà nước và Pháp luật. Báo cáo tổng kết ngành Toà án các năm 1994, 1995, 1996, 1997, 1998, 1999, 2000, 2001 của Toà án nhân dân tối cao. Luận án tốt nghiệp cao học luật – Nguyễn Việt Vương. Một số tài liệu tham khảo khác.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29853.doc
Tài liệu liên quan