Khóa luận Thực trạng và giải pháp phát triển nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch

MỞ ĐẦU 1. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Trong nền văn hóa dân tộc Việt Nam,sân khấu là loại hình nghệ thuật vô cùng đặc sắc.Đây được coi là loại hình nghệ thuật thứ 6 của nhân loại.Được hình thành và phát triển rất sớm.Trải qua bao trầm của lịch sử ngày nay nền nghệ thuật sân khấu Việt Nam đã đạt được những thành tựu vô cùng to lớn và trở thành những món ăn tinh thần không thể thiếu của người dân Việt Nam. Khi nói tới loại hình nghệ thuật sân khấu Việt Nam thì không thể không nhắc đến nghệ thuật sân khấu chèo. chèo là một bộ môn nghệ thuật truyền thống đặc sắc của dân tộc và có lịch sử hình thành và phát triển lâu đời.nghệ thuật sân khấu chèo ở Việt Nam ra đời trong những chiếc nôi chèo đầu tiên của vùng đồng bằng Bắc Bộ tiêu biểu: Chiếng chèo Nam (Nam Định - Thái Bình), chiếng chèo Đoài (Hà Tây), chiếng chèo Bắc (Bắc Ninh - Bắc Giang), chiếng chèo Đông (Hải Dương - Hưng Yên). Ngày nay loại hình nghệ thuật sân khấu này phát triển rộng rãi trong cả nước và trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu trong đời sống của nhân dân.Sân khấu chèo không chỉ trở nên quen thuộc với người dân Việt Nam mà còn gây tiếng vang tại nước ngoài.Hải Dương cũng là một trong những nơi có nghệ thuật hát Chèo từ lâu đời. Hiện nay nghệ thuật Sân khấu chèo ở Hải Dương thực sự có sức hấp dẫn và để laị nhiều ấn tượng cho người xem .Nhưng việc khai thác nghệ thuật chèo vào phát triển du lịch thì vẫn còn chưa được khai thác triệt để.Chính vì vậy để góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào phát triển du lịch của quê hương người viết dã lựa chọn đề tài “Thực trạng và giải pháp phát triển nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch” Việc khai thác nghệ thuạt chèo Hải Dương hiệu quả trong du lịch chính là một cách góp phần vào việc bảo tồn và phát triển loại hình nghệ thuật độc đáo này, đồng thời cũng là một cách giới thiệu với bạn bè gần xa về kiệt tác phi vật thể này của Hải Dương nói riêng và của Việt Nam nói chung, đóng góp vào ngân sách chung của ngành du lịch cả nước KẾT CẤU CỦA ĐỀ TÀI Ngoài phần mở đầu - kết luận - tài liệu tham khảo - mục lục, đề tài được chia làm 3 chương: Chương 1. Khái quát chung về nghệ thuật sân khấu chèo truyền thống. Chương 2.Tìm hiểu nghệ thuật chèo Hải Dương. Chương 3. Hiện trạng phát triển. Một số giải pháp nhằm bảo tồn và khai thác hiệu quả nghệ thuật chèo Hải Dương nhằm phát triển du lịch.

doc59 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2562 | Lượt tải: 5download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Thực trạng và giải pháp phát triển nghệ thuật chèo Hải Dương phục vụ phát triển du lịch, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ệu múa lời ca, dưới ánh sáng tập trung của hình thức sân khấu,Chèo đã làm cho nội dung nhân đạo chủ nghĩa của các truyện kia thể hiện rõ rệt trước mắt ta. Chèo có những vai chín và vai lệch. Vai chín là những nhân vật tích cực, thường là những người nghèo khổ hoặc ở vào một địa vị bị áp bức. Vai lệch tức là những nhân vật tiêu cực, thường là những kẻ giàu có đi áp bức người khác và bọn tay sai của chúng. Chèo quan niệm người nghèo khổ,người lương thiện là những người có phẩm chất tốt nhưng lại hay gặp chông gai ở một xã hội đầy bất công.Tuy vậy dù gian nan,họ vẫn giữ chí khí kiên quyết, lương tâm trong sạch, còn những tên độc ác bất nhân đều bị trừng trị. Lòng yêu thương con người, đề cao phẩm chất con người được thể hiện rõ trong Chèo.Tinh thần nhân đạo chủ nghĩa lại còn rõ rệt ở chỗ Chèo chú ý nêu rõ sự cao quý ở những con người mà giai cấp phong kiến coi là thấp hèn.Trong Chèo người phụ nữ được nâng lên địa vị cao quí mà ý thức hệ phong kiến không bao giờ công nhận.Người phụ nữ trong các vở Chèo chính là người phụ nữ lao động Việt Nam.Đề cao phụ nữ là một mặt quan trọng của tinh thần nhân đạo chủ nghĩa trong Chèo. Nếu như trên sân khấu bao giờ ít nhiều cũng có tính cách điệu, thì sân khấu chèo đã có nhiều tính chất cách điệu. Tác giả cũng như diễn viên lựa chọn trong hiện thực những cái gì bản chất nhất, tước bỏ đi những gì không tiêu biểu, và phóng đại, nhấn mạnh những gì tiêu biểu nhất. Chèo cũng như các thể loại khác có ý nghĩa đấu tranh giai cấp rõ rệt. Chèo đã dùng lợi khí trào phúng để đả kích bọn cường hào ác bá. Chèo sử dụng mọi khả năng khêu gợi tiếng cười để đấu tranh. Nhân dân có dịp ngàn ngón tay cùng trỏ, ngàn con mắt cùng nhìn, ngàn tiếng cười cùng vang lên khoái chí, để khinh miệt những cái chướng tai gai mắt của bọn thống trị mà chèo đưa lên sân khấu như tấm bia chịu nhiều mũi tên bắn vào. Chèo là một ngành nghệ thuật do quần chúng sáng tạo ra, cải tiến dần theo nhu cầu của quần chúng. Vì vậy chèo mang tính dân tộc và nhân dân sâu sắc. Vẻ đẹp của chèo là vẻ đẹp của âm thanh chau chuốt luột là mà người diễn trao cho người nghe, vẻ đẹp của những điệu múa dân tộc uyển chuyển của những chiếc quạt mà người nghệ sĩ biểu diễn. Chính vì vậy chèo là một di sản văn hóa phi vật thể và truyền khẩu của dân tộc Việt Nam. Góp phần làm phong phú kho tàng văn hóa nghệ thuật của dân tộc. Tiểu kết chương 1 Trong chương 1, đề tài đã đi sâu làm rõ nhằm đem lại một cái nhìn tổng quan về nghệ thuật Chèo của Việt Nam, từ lịch sử hình thành và phát triển đến những đặc trưng nghệ thuật cũng như những giá trị của chèo…, tất cả đều nhằm khẳng định rằng đây là một di sản văn hóa quí báu mà ông cha ta đã để lại cần phải được các thế hệ mai sau tiếp tục giữ gìn, bảo tồn và phát huy. Và khai thác nghệ thuật chèo một cách hiệu quả trong phát triển du lịch cũng là một biện pháp quan trọng góp phần bảo tồn và giới thiệu sâu rộng hơn nữa loại hình nghệ thuật đặc sắc này đến với công chúng trong và ngoài nước. Hải Dương tự hào là một trong chiếng chèo Đông vẫn đang hoạt động thường xuyên đều đặn, đóng góp vào việc lưu giữ vốn cổ của dân tộc. Đó là Nhà hát Chèo Hải Dương. Đoàn chèo Hải Dương có lịch sử hình thành lâu đời, còn lưu giữ được truyền thống nghề sâu sắc của một thời kỳ có tổ chức giáo phường hiện đang hoạt động chuyên nghiệp và mạnh mẽ. Vì thế, nghệ thuật chèo hải dương đủ điều kiện để đưa vào khai thác phục vụ phát triển du lịch, đóng góp vào ngân sách du lịch chung của toàn thành phố CHƯƠNG 2 : TÌM HIỂU NGHỆ THUẬT CHÈO HẢI DƯƠNG 2.1 Tổng quan về thành phố Hải Dương. 2.1.1 Điều kiện tự nhiên. 2.1.1.1 Vị trí địa lí. Hải Dương là một tỉnh nằm ở vùng đồng bằng sông Hồng, Việt Nam. Diện tích: 1.662 km² . Vĩ độ: 20°43' đến 21°14' độ vĩ Bắc, Kinh độ: 106°03' đến 106°38' độ kinh Đông Theo quy hoạch năm 2007, Hải Dương nằm trong Vùng thủ đô với vai trò là một trung tâm công nghiệp[1]. Thành phố Hải Dương trung tâm chính trị, kinh tế, văn hoá khoa học kỹ thuật của tỉnh nằm trên trục đường quốc lộ 5 cách Hải Phòng 45 km về phía đông, cách Hà Nội 57 km về phía tây và cách Thành phố Hạ Long 80 km. Phía bắc tỉnh có hơn 20 km quốc lộ 18 chạy qua nối sân bay quốc tế Nội Bài ra cảng Cái Lân tỉnh Quảng Ninh. Đường sắt Hà Nội - Hải Phòng qua Hải Dương là cầu nối giữa thủ đô và các tỉnh phía bắc ra các cảng biển. Là tỉnh nằm giữa vùng kinh tế trọng điểm Bắc Bộ. Hải Dương bao gồm 01 thành phố trực thuộc, 01 thị xã và 10 huyện: Thành phố Hải Dương ,Thị xã Chí Linh (8 phường và 12 xã), Huyện Bình Giang (1 Thị trấn và 17 xã), Huyện Cẩm Giàng (2 Thị trấn và 17 xã),Huyện Gia Lộc (1 Thị trấn và 22 xã), Huyện Kim Thành (1 Thị trấn và 20 xã), Huyện Kinh Môn (3 Thị trấn và 22 xã), Huyện Nam Sách (1 Thị trấn và 18 xã), Huyện Ninh Giang (1 Thị trấn và 27 xã), Huyện Thanh Hà (1 Thị trấn và 24 xã), Huyện Thanh Miện (1 Thị trấn và 18 xã), Huyện Tứ Kỳ (1 Thị trấn và 25 xã). 2.1.1.2 Địa hình. Được chia làm 2 vùng: vùng đồi núi và vùng đồng bằng. Vùng đồi núi nằm ở phía bắc tỉnh, chiếm 11% diện tích tự nhiên gồm 13 xã thuộc huyện Chí Linh và 18 xã thuộc huyện Kinh Môn; là vùng đồi núi thấp phù hợp với việc trồng cây ăn quả, cây lấy gỗ và cây công nghiệp ngắn ngày. Vùng đồng bằng còn lại chiếm 89% diện tích tự nhiên do phù sa sông Thái Bình bồi đắp, đất mầu mỡ thích hợp với nhiều loại cây trồng, sản xuất được nhiều vụ trong năm. Diện tích đất nông nghiệp chiếm 63,1% diện tích đất tự nhiên. Đất canh tác phần lớn là đất phù sa sông Thái Bình, tầng canh tác dầy, thành phần cơ giới thịt nhẹ đến thịt trung bình, độ pH từ 5 - 6,5; tưới tiêu chủ động , thuận lợi cho thâm canh tăng vụ, ngoài sản xuất lúa còn trồng rau mầu, cây công nghiệp ngắn ngày. Một số diện tích đất canh tác ở phía bắc tỉnh tầng đất mỏng, chua, nghèo dinh dưỡng, tưới tiêu tự chảy bằng hồ đập, thích hợp với cây lạc, đậu tương, ... 2.1.1.3 Khí hậu Hải Dương nằm trong vùng khí hậu nhiệt đới gió mùa, chia làm 4 mùa rõ rệt (xuân, hạ, thu, đông). Lượng mưa trung bình hàng năm 1.300 - 1.700 mm. Nhiệt độ trung bình 23,30C; số giờ nắng trong năm 1.524 giờ; độ ẩm tương đối trung bình 85 - 87%. Khí hậu thời tiết thuận lợi cho sản xuất nông nghiệp, bao gồm cây lương thực, thực phẩm và cây ăn quả đặc biệt là sản xuất cây rau mầu vụ đông.  2.1.1.4 tài nguyen nước Thủy văn: Các sông lớn chảy qua có: Sông Thái Bình đi qua giữa thành phố, ở phía nam có sông Sặt, chi lưu sông Thái Bình. Sông Kinh Thày ở phía đông phân định xã Ái Quốc (TP Hải Dương) và xã Lai Vu (Kim Thành). Ngoài ra, còn có các hồ điều hòa: Bạch Đằng và Bình Minh, là những hồ lớn của thành phố. 2.1.2 Điều kiện về dân cư - kinh tế - xã hội Dân số & lao động: Dân số hơn 1.703.492  người (theo điều tra dân số năm 2009). Trong đó: + Mật độ dân số trung bình: 1.044,26 người/km2. + Dân số thành thị: 324.930 người + Dân số nông thôn: 1.378.562 người + Nam: 833.459 người + Nữ: 870.033 người -       Giao thông & cơ sở hạ tầng:   Tỉnh Hải Dương có hệ thống cơ sở hạ tầng khá hoàn chỉnh, tạo điều kiện thuận lợi cho kinh tế - xã hội của tỉnh phát triển. + Hệ thống giao thông: gồm đường bộ, đường thuỷ, đường sắt; Phân bố hợp lý, giao lưu rất thuận lợi tới các tỉnh. - Đường bộ: có 4 tuyến đường quốc lộ qua tỉnh dài 99 km, đều là đường cấp I, cho 4 làn xe đi lại thuận tiện: - Đường sắt: Tuyến Hà Nội - Hải Phòng chạy song song với quốc lộ 5, đáp ứng vận chuyển hàng hoá, hành khách qua 7 ga trong tỉnh. Tuyến Kép - Bãi Cháy chạy qua huyện Chí Linh, là tuyến đường vận chuyển hàng lâm nông thổ sản ở các tỉnh miền núi phía Bắc ra nước ngoài qua cảng Cái Lân, cũng như hàng nhập khẩu và than cho các tỉnh - Đường thuỷ: với 400 km đường sông cho tầu, thuyền 500 tấn qua lại dễ dàng. Cảng Cống Câu công suất 300.000 tấn /năm và hệ thống bến bãi đáp ứng về vận tải hàng hoá bằng đường thuỷ một cách thuận lợi. Hệ thống giao thông trên bảo đảm cho việc giao lưu kinh tế từ Hải Dương đi cả nước và nước ngoài rất thuận lợi.  -       Kinh tế:  Năm 2008, Tổng sản phẩm trong tỉnh (GDP) tăng 10,5%; Giá trị sản xuất nông, lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 3,9%; Giá trị sản xuất công nghiệp, xây dựng tăng 13 %. Giá trị sản xuất các ngành dịch vụ tăng 13,5%.  Giá trị hàng hoá xuất khẩu ước đạt 420 triệu USD, tăng 73,6% so với cùng kỳ năm trước, trong đó, chủ yếu tăng do các doanh nghiệp có vốn đầu tư nước ngoài (tăng 85,7%). Tổng giá trị nhập khẩu ước đạt 440 triệu USD, tăng 47,9% so với cùng kỳ năm trước.  Đến nay Hải Dương đã quy hoạch 10 khu công nghiệp với tổng diện tích 2.719 ha. Với chính sách thông thoáng, ưu đãi các nhà đầu tư trong và ngoài nước, với lợi thế vị trí thuận lợi, Hải Dương đã thu hút nhiều nhà đầu tư vào khu công nghiệp. Đến hết tháng 10/2008 đã thu hút 350,2 triệu USD vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài, trong đó cấp giấy chứng nhận đầu tư mới cho 37 dự án ( tăng 9 dự án), tăng 39,2% so với cùng kỳ năm 2007. Ước tính vốn đầu tư thực hiện của các dự án năm 2008 đạt 300 triệu USD, tăng 27,6% so với năm 2007. 2.1.3 Tài nguyên du lịch. Hải Dương là tỉnh có nhiều danh lam thắng cảnh, với những hang động kỳ thú như núi Côn Sơn, núi Phượng Hoàng, núi An Phụ, núi Dương Nham, động Kính Chủ; những làng quê trù phú, những điểm du lịch sinh thái có tiềm năng và hấp dẫn như sông Hương (huyện Thanh Hà), đảo Cò (huyện Thanh Miện), rừng, hồ Bến Tắm (huyện Chí Linh)... Tính đến nay Hải Dương có tổng số 1.098 di tích lịch sử văn hoá có giá trị, trong đó có 142 di tích được xếp hạng quốc gia, 52 di tích xếp hạng cấp tỉnh, có nhiều lễ hội truyền thống và những làn điệu chèo xứ Đông nổi tiếng. Hải Dương còn là vùng đất địa linh nhân kiệt gắn liền với tên tuổi của nhiều vị anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá như Trần Hưng Đạo, Nguyễn Trãi, Chu Văn An, Mạc Đĩnh Chi, Khúc Thừa Dụ... Để khai thác có hiệu quả nguồn tài nguyên du lịch của tỉnh Hải Dương, Sở Thương mại và Du lịch (nay là Sở Công thương) đã đề xuất thực hiện đề tài Điều tra hiện trạng và đề xuất giải pháp nâng cao hiệu quả khai thác nguồn tài nguyên du lịch để phát triển du lịch bền vững ở Hải Dương và được UBND tỉnh phê duyệt trong Quyết định số 106/QĐ-UBND ngày 10/01/2007 Về việc phê duyệt Kế hoạch khoa học và công nghệ năm 2007. Đề tài thực hiện trong năm 2007, kết quả của đề tài đã được Hội đồng nghiệm thu đề tài cấp tỉnh đánh giá xếp loại khá. 2.1.3.1 Tài nguyên du lịch tự nhiên. Tài nguyên du lịch tự nhiên của Hải Dương phong phú, đa dạng và hấp dẫn, được hình thành bởi đặc điểm tổng hòa của các yếu tố địa chất- địa hình, khí hậu, thủy văn, thảm thực vật và thế giới động thực vật. Với sự phong phú về tài nguyên này, tỉnh Hải Dương có khả năng phát triển nhiều loại hình du lịch như: du lịch sinh thái, nghỉ dưỡng, vui chơi giải trí, tham quan danh lam thắng cảnh, du khảo đồng quê... Có thể kể tên một số tài nguyên du lịch tự nhiên tiêu biểu của tỉnh Hải Dương như: Khu du lịch sinh thái Đảo Cò Nằm giữa lòng hồ An Dương, thuộc địa bàn xã Chi Lăng Nam, huyện Thanh Miện, tỉnh Hải Dương. Nằm giữa một vùng hồ bao la sóng nước, đảo Cò nổi lên như một viên ngọc mà thiên nhiên đã ban tặng. Với diện tích 2.382m2, từ lâu đảo đã trở thành nơi trú ngụ của nhiều loại cò vạc khác nhau. Có chín loại cò khác nhau là cò lửa, cò ruồi, cò bợ, cò đen, cò nghênh, cò diệc, cò trắng, cò ngang, cò hương và ba loại vạc là vạc xám, vạc xanh, vạc đen có nguồn gốc từ Trung Quốc, Miến Điện, Ấn Độ, Nepal, Philippines.. Mùa xuân là thời điểm cò về đông nhất, có tới vài vạn con cò và hàng nghìn con vạc. Khi hoàng hôn buông xuống là lúc cò về, chúng bay thành từng đàn, mỗi đàn có số lượng từ dăm bảy chục tới hàng trăm con đậu trắng xóa cả các tán cây trên đảo. Sau khi lượn nhiều vòng che kín cả khoảng không gian mặt hồ, chúng lần lượt hạ cánh an toàn xuống những lùm cây xanh giữa biển nước mênh mông dưới ánh nắng chiều, tiếp đó là những nhịp sải cánh của những chú vạc chuẩn bị cho một buổi kiếm mồi vất cả trong đêm. Là một vùng hồ rộng mệnh mông, không bao giờ cạn nước nên Chi Lăng Nam còn có nhiều mòng két, le le, vịt trời, đặc biệt đã từng có cốc đen, bồ nông, cuốc và nhiều loài giẽ khác nhau. Trong số ấy, cốc và bồ nông là loài chim nước quí hiếm có tên trong sách Đỏ Việt Nam. Đến nơi đây vào lúc hoàng hôn hay sớm mai là lúc “giao ca” thú vị giữa cò và vạc trong cuộc mưu sinh hàng ngày, là khi cò về sớm mà vạc chưa đi kiếm ăn thì đảo cò thật là huyên náo. Chúng tranh cướp nhau để giành chỗ đậu. Vạc yếu thế nên bị dồn xuống dưới, còn cò phủ trắng trên các tán cây. Hình như cây cối trên đảo không còn đủ chỗ cho cả đàn cò khổng lồ bám nữa. Đến Đảo Cò vào những ngày đất trời lập đông, ấn tượng đầu tiên là cảm giác choáng ngợp trước một cảnh tượng thiên nhiên hy hữu. Hàng vạn chú cò, vạc đậu san sát trên các ngọn tre, cành cây, trông xa như những cành hoa điểm đầy bông trắng. Người dân Chi Lăng Nam vẫn truyền cho nhau nghe về truyền thuyết vùng đất này. Truyện kể rằng vào đầu thế kỷ 15, những trận đại hồng thuỷ đã làm dải đê lớn ven sông Hồng trải qua 3 lần vỡ đê liên tiếp. Đến lần vỡ đê thứ hai thì tạo thành hòn đảo nổi giữa hồ. Rồi "đất lành chim đậu", từng đàn cò, vạc, chim nước đủ loại từ khắp nơi đổ về đây cư trú. Dưới tiết trời heo may, được thả mình vào khung cảnh vẫn còn mang đậm vẻ đẹp hoang sơ của thiên nhiên thì thật là tuyệt. Đảo Cò thực sự sẽ mang đến cho du khách những khoảng khắc sống cùng thiên nhiên. Cũng chính vì vậy mà Đảo Cò Chi Lăng Nam đã trở thành điểm du lịch sinh thái "độc nhất vô nhị" của miền Bắc. Động Kính Chủ. . Động Kính Chủ hay còn gọi là động Dương Nhan, thuộc làng Dương Nham, Xã An Sinh, huyện Kinh Môn, tỉnh Hải Dương. Kính Chủ được xếp vào hàng Nam thiên đệ lục động (động thứ 6 của trời Nam). Từ đỉnh núi An Phụ nhìn về hướng bắc, dẫy núi Dương Nhan như hòn non bộ khổng lồ giữa mênh mông lúa của thung lũng Kinh Thầy. Phía bắc Dương Nhan, dòng sông lượn sát chân núi, tạo nên cảnh sơn thuỷ hữu tình và giao thông thuận tiện. Phía tây nam giáp đường lên huyện và một làng quê cổ kính có tên là Kính Chủ (Kinh Môn), quê hương của những người thợ đá xứ Đông. Dãy núi Dương Nhan và dòng sông Kinh Thầy là cảnh đẹp tự nhiên, thì làng Kính Chủ là một công trình nhân tạo làm cho phong cảnh ở đây hoàn thiện. Núi Dương Nhan còn có tên là Bồ Đà, Xuyến Châu, Thạch Môn. Thời kỳ kháng chiến chống Nguyên vua Trần Nhân Tông đã đóng quân trên núi, ngăn chặn mũi tiến công đường thuỷ của giặc. Sườn núi phía nam có một động lớn, gọi là động Kính Chủ hay động Dương Nhan, đã được xếp vào hàng Nam thiên đệ lục động ( động thứ 6 của trời Nam). Cửa động hướng nam. Động có độ cao 20 mét so với triền ruộng chân núi, ánh sáng tốt, thoáng mát về mùa hè, ấm về mùa đông, nơi cư trú thuận lợi của những con người tiền sử. Ngoài Kính Chủ, núi Dương Nhan còn có nhiều hang động kỳ thú như hang Vang, hang Luồn, hang Trâu, hang Tiên Sư... Ở đây còn thấy hình động vật được khắc trên vách đá và công cụ lao động của người xưa. Trong động Kính Chủ có chùa thờ Phật, thờ Minh Không thiền sư, Lý Thần Tông, Huyền Quang tôn giả và có nhiều tượng tạc bằng đá mô tả những sự kiện điển hình trong kinh Phật. Động Kính Chủ sớm được con người tôn tạo, bảo vệ và cùng với những cảnh quan của dãy Dương Nhan trở thành một thắng cảnh ở cửa ngõ miền Đông Bắc đất nước, liền kề miền châu thổ sông Hồng. Danh nhân nhiều thời đại đã đến đây. Nhiều vua, chúa, trí giả, sư sãi, quan lại cũng đến thăm động và đều cảm xúc trước cảnh kỳ vĩ và tươi đẹp của núi sông, để lại dòng suy nghĩ riêng tư, biểu hiện niềm ưu ái với đất nước và thời cuộc. Những cảm xúc đó đã được những người thợ đá ở đây ghi lại trên 40 tấm bia trên vách động . Động Kính Chủ luôn là một cảnh đẹp, một bảo tàng nhỏ lưu giữ các văn bia và các tác phẩm điêu khắc của thợ đá ở đây đã 7 thế kỷ qua. Đây là một di sản không phải hang động nào cũng có. Sau ngày đất nước được thống nhất, đặc biệt là những năm gần đây đời sống, dân trí được nâng lên, động Kính Chủ được tu tạo lại . Tình trạng khai thác đá bừa bãi ở đây đã được ngăn chặn để bảo tồn vĩnh viễn khu di tích lịch sử - văn hóa quốc gia này. Sân Gôlf Ngôi Sao Chí Linh. Nằm ở thị trấn Sao Đỏ, huyện Chí Linh, Hải Dương, 48km từ Hà Nội, trên đường tới vịnh Hạ Long. Nằm ngay vị trí trung tâm tam giác phát triển kinh tế du lịch phía Bắc, sân golf Chí Linh được đánh giá là một sân golf hàng đầu không chỉ tại Việt Nam mà cả vùng Đông Nam Á. Câu lạc bộ golf Ngôi Sao Chí Linh đã nhanh chóng trở thành một điểm sáng du lịch, trung tâm thể thao, vui chơi, nghỉ dưỡng, xúc tiến đầu tư... cao cấp của cả vùng kinh tế trọng điểm phía Bắc. Trải rộng trên diện tích 325 ha trong lòng một thung lũng tuyệt đẹp với một hồ nước tự nhiên nép mình bên những dải đồi xanh hùng vĩ bao quanh, sân golf Ngôi Sao Chí Linh được xây dựng 36 lỗ theo tiêu chuẩn quốc tế AAA. Những thảm cỏ xanh được chăm sóc, xén tỉa mỗi ngày, những con đường nhỏ uốn mình vòng quanh mép hồ, các rặng cây, các dốc thoải ven đồi, là điểm dừng chân với những quán nhỏ đơn sơ nép mình trong tán cây thơ mộng... Ẩn hiện trong khung cảnh thơ mộng ấy là 36 hố golf được bố trí khoa học với các bẫy cát kín đáo sẵn sàng "bẫy" ngay cả các nhà chơi golf chuyên nghiệp. Điểm cao nhất của sân golf Ngôi sao Chí Linh chính là nhà Câu lạc bộ. Tòa nhà tròn với thiết kế độc đáo, toàn bộ hệ thống cửa và tường bao được xây dựng bằng kính trong suốt cho phép du khách và khán giả có thể chiêm ngưỡng phần lớn diện tích sân với 28/36 hố golf. Sân golf được xây dựng với khẩu hiệu đặt ra: "Nơi tốt nhất để chơi golf". Phần lớn các công nghệ tiên tiến nhất, vật liệu xây dựng hàng đầu thế giới đã được sử dụng tại đây. Chẳng hạn: các loại cỏ Turf chuyên dụng - loại cỏ tốt nhất dùng cho sân golf - được nhập khẩu từ Úc để sử dụng tại đây; hệ thống tưới linh hoạt điều khiển bằng máy tính của hãng Rainbird được nhập khẩu từ Mỹ, các loại thiết bị bảo dưỡng sân golf hàng đầu thế giới của hãng Toro được nhập khẩu từ Mỹ... Sân golf này do IGCS - một công ty hàng đầu của Úc thiết kế và xây dựng theo tiêu chuẩn golf quốc tế chuyên nghiệp nhưng đồng thời vẫn tạo dựng, gìn giữ, và khai thác tối đa các vẻ đẹp tự nhiên của thiên nhiên. Đội ngũ điều hành sân golf có cả các nhà chơi golf chuyên nghiệp nước ngoài, đem theo kinh nghiệm quản lý và phát triển golf đến nắm giữ các vị trí điều hành chủ chốt. Nhờ thế, sân golf Ngôi sao Chí Linh cũng là một sân golf của Việt Nam được quản lý một cách chuẩn mực, tạo được sự hài lòng, sự đánh giá cao nhất từ những khách chơi golf hay khách tham quan... Bên cạnh đó sân golf Ngôi sao Chí Linh cũng đồng thời trở thành một điểm đến lý tưởng của du lịch golf, thu hút ngày càng nhiều khách du lịch từ các nước Đông Nam Á và thế giới đến đánh golf và tham quan. Câu lạc bộ golf Ngôi sao Chí Linh có khách sạn với 90 phòng, 300 biệt thự sinh thái, bể bơi, sân tennis, các công trình phụ trợ... 2.1.3.2 Tài nguyên du lịch nhân văn. Về tài nguyên du lịch nhân văn: hiện nay Hải Dương có nhiều di tích tiêu biểu, đặc trưng về văn hoá tâm linh, kiến trúc nghệ thuật, cảnh quan hấp dẫn du lịch văn hoá, sinh thái, nghỉ dưỡng, tham quan, nghiên cứu khoa học, giáo dục truyền thống tiêu biểu là các di tích gắn liền với các danh nhân tiêu biểu của đất nước, có giá trị giáo dục truyền thống cao: Chí Linh bát cổ, Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc; Đền Bia, Đền Xưa, Chùa Giám; Văn miếu Mao Điền; Đình Cúc Bồ; Đền Quát, Đền Long Động và nhiều di tích cách mạng như: Đình Đầu (Hợp Tiến- huyện Nam Sách), Đền Từ Hạ (huyện Thanh Hà); Đình Phù Tài (huyện Thanh Miện)...Bên cạnh đó là tài nguyên du lịch văn hoá phi vật thể gồm: lễ hội truyền thống, Văn nghệ diễn xướng dân gian, Ẩm thực; tài nguyên du lịch làng nghề, ...có thể kể đến một số tài nguyên nhân văn tiêu biểu như: Khu di tích Côn Sơn Kiếp Bạc. Côn Sơn, Kiếp Bạc là hai di tích lịch sử đặc biệt quan trọng của quốc gia; thời Trần, thuộc huyện Phượng Sơn, lộ Lạng Giang, thời Lê đổi thành huyện Phượng Nhỡn, thuộc thừa tuyên Bắc Giang, sau là trấn Kinh Bắc. Khu di tích Côn Sơn - Kiếp Bạc nay thuộc huyện Chí Linh, tỉnh Hải Dương; phía bắc giáp huyện Cẩm Lý (tỉnh Bắc Giang), phía nam giáp 2 xã Cộng Hoà và Văn An (huyện Chí Linh), phía đông giáp xã Bắc An và xã Hoàng Hoa Thám (huyện Chí Linh), phía tây giáp huyện Yên Dũng (tỉnh Bắc Giang). Sách Cao Biền di cảo và Chí Linh phong vật chí chép rằng: Côn Sơn, Kiếp Bạc mạch tự Huyền Đinh, thế ngăn Đông Bắc, bốn phương quy phục, núi sông kỳ hình, kỳ dạng, long bàn, hổ cứ, như muôn quân, nghìn tướng chầu về…ở đất này sẽ được hưởng phúc muôn đời…Khu di tích danh thắng Côn Sơn bao gồm cả núi Kỳ Lân và núi Ngũ Nhạc liền kề; Đền Kiếp Bạc tựa lưng vào núi Trán Rồng, trước mặt là sông Lục Đầu. Côn Sơn - Kiếp Bạc lại tiếp giáp với dãy núi Phượng Hoàng (địa phận 2 xã Cộng Hoà và Văn An) và núi Rùa (phía tây bắc), tạo thành một vùng đất quần tụ đủ tứ linh, ngũ nhạc, lục đầu giang . Đó là sự sắp đặt kỳ diệu của tạo hoá đối với khu vực di tích danh thắng Côn Sơn - Kiếp Bạc - Phượng Hoàng  với sông núi huyện Chí Linh  Đây là vùng đất lịch sử mãi còn âm vang những chiến công lẫy lừng qua nhiều thời đại, đặc biệt là trong ba lần quân dân thời Trần đánh thắng quân xâm lược Nguyên Mông thế kỷ XIII và trong cuộc kháng chiến 10 năm của nghĩa quân Lam Sơn chống quân Minh ở thế kỷ XV. Đây là cũng là vùng danh sơn huyền thoại, với những thắng cảnh tuyệt vời, những di tích cổ kính, gắn liền với thân thế, sự  nghiệp của Trần Hưng Đạo và Nguyễn Trãi, hai vị anh hùng dân tộc kiệt xuất đã làm rạng rỡ non sông đất  nước, cùng  với  nhiều danh nhân văn hoá của dân tộc: Trần Nguyên Đán, Pháp Loa, Huyền Quang…           Nếu như khu di tích lịch sử Kiếp Bạc có một di tích trung tâm, lớn nhất, linh thiêng nhất là ngôi đền cổ thờ Đức Thánh Trần; du khách về chủ yếu là để tưởng niệm nhớ ơn Đại Vương và để sinh hoạt tâm linh, thì ở quần thể di tích lịch sử - văn hoá - danh thắng Côn Sơn, cụm di tích thờ Phật (chùa Hun) và cụm di tích về danh nhân (đền thờ Nguyễn Trãi), đều có vị trí và tầm quan trọng đặc biệt; du khách tới đây dâng hương niệm Phật, tưởng nhớ Ức Trai và ngoạn cảnh, tiêu dao, nên có nhiều người là trí giả, văn nhân và đông đảo thày giáo, học trò. Xưa nay, người đời tìm đến Côn Sơn là cuộc tìm về với căn nhà vũ trụ, nơi hoà hợp tột cùng của âm dương, sơn thuỷ và trời đất. Để ở đó, con người được hưởng thụ khí trời trong mát, với hương rừng, gió núi và tiếng ca muôn thuở của suối chảy, thông reo; được đắm mình trong hồn thiêng sông núi, trong cổ tích ngàn năm còn rung động trái tim của muôn triệu con người.           Côn Sơn là mảnh đất lịch sử lâu đời. Hơn một ngàn năm trước, Định quốc công Nguyễn Bặc, thượng thuỷ tổ của dòng họ Nguyễn Trãi đã lập căn cứ ở đây để đánh sứ quân Phạm Phòng Át, giúp Đinh Tiên Hoàng thống nhất đất  nước vào năm 968. Trong các cuộc chiến tranh giành và giữ nền độc lập của Tổ quốc, quân dân trong vùng thường lấy rừng núi Côn Sơn làm căn cứ đánh giặc.           Cùng với Yên Tử, Quỳnh Lâm và Thanh Mai, Côn Sơn là chốn tổ của Thiền phái Trúc Lâm, một Thiền phái mang đậm bản sắc văn hoá Việt Nam.  Đệ nhất tổ - Điều Ngự Giác Hoàng Trần Nhân Tông, đệ nhị tổ - Pháp Loa tôn giả và đệ tam tổ - Huyền Quang tôn giả đều đã về đây hoằng dương thuyết pháp, phát triển giáo giới, xây dựng chùa Hun thành chốn tổ đình, một Thiền viện lớn từ thời đại nhà Trần.           Côn Sơn là mảnh đất có bề dầy văn hoá hiếm có. Ở đây, văn hoá Phật giáo, văn hoá Nho giáo và văn hoá Lão giáo cùng tồn tại và phát triển qua nhiều thế kỷ, nhưng tất cả đều thấm đẫm bản sắc văn hoá Việt, đều để lại dấu ấn qua mỗi công trình xây dựng, qua từng chi tiết kiến trúc, chạm khắc, qua các bia đá, tượng thờ, hoành phi, câu đối… Văn hoá Lý - Trần, văn hoá Lê - Nguyễn hiển hiện trước mắt mọi người và ở các tầng văn hoá dưới lòng đất khi khai quật khảo cổ học. Di sản văn hoá phi vật thể quý giá ở Côn Sơn chứa đựng trong sách vở, trong các truyền thuyết còn lưu, trong các nghi thức cúng tế, trong các hoạt động lễ hội vô cùng phong phú. Cũng hiếm ở đâu như ở Côn Sơn lại có nhiều trí thức, văn nhân, những nhà văn hoá đến thăm, cảm hứng và sáng tạo đến như ở Côn Sơn. Đây thực sự đã là nơi vân du, ẩn dật và tu tâm dưỡng tính của các bậc danh nhân, tiêu biểu cho tâm hồn, khí phách, tinh hoa văn hoá Việt Nam ở nhiều giai đoạn lịch sử khác nhau, cũng như của bao tao nhân mặc khách. Trần Nguyên Đán - quan Đại tư đồ phụ chính, nhà thơ, nhà lịch pháp lớn thời Hậu Trần đã về Côn Sơn dựng Thanh Hư Động để lui nghỉ những năm tháng cuối đời. Thời Lê sơ, Anh hùng dân tộc, danh nhân văn hoá thế giới Nguyễn Trãi đã nhiều lần, nhiều năm sống, gắn bó chan hòa cùng thiên nhiên, tạo vật ở Côn Sơn - "núi nhà"*3, tìm thấy nơi đây bạn tri âm tri kỷ và nguồn thi hứng dạt dào. Lê Thánh Tông, vị minh quân và là Tao Đàn nguyên súy (thời Lê sơ), Thánh thơ Cao Bá Quát (thời Nguyễn) v.v. đều đã đến đây tìm lại dấu vết Ức Trai, vãng cảnh, làm thơ, để lại những thi phẩm giá trị. Tháng 2-1965, Hồ Chủ tịch về thăm Côn Sơn. Người đã lên thăm Thạch Bàn, Thanh Hư động và đọc văn bia trước cửa chùa Hun, bằng sự trân trọng thiêng liêng và niềm giao cảm đặc biệt đối với cổ nhân. Người xưa từng đúc kết: "Núi chẳng cần cao có tiên ắt nổi tiếng. Nước chẳng cần sâu có rồng ắt thiêng". Mỗi sự vật, di tích ở Côn Sơn đều lấp lánh ánh sáng của Nguyễn Trãi - Sao Khuê; mỗi địa danh ở Côn Sơn đều in đậm dấu ấn thiêng liêng, áng thi văn, cổ thoại, truyền thuyết ly kỳ và những sự tích bất hủ của những danh nhân kim cổ. Những di tích và tên tuổi các danh nhân,  của Trúc Lâm Tam Tổ, đặc biệt là của Nguyễn Trãi, đã nâng tầm vóc Côn Sơn trở thành quốc tự, thành di tích đặc biệt quan trọng của quốc gia, thành "một cõi đi về" trong đời sống tâm hồn của muôn triệu người dân Việt, kể cả những người sống xa Tổ quốc  .           Cảnh sắc thiên nhiên và con người tạo dựng đã làm cho Côn Sơn thành một "Đại thắng tích"*4. Ở đây, có núi Kỳ Lân và Ngũ Nhạc, với rừng thông bát ngát, suối chảy rì rầm, nước hồ trong mát; có Bàn Cờ Tiên, Thạch Bàn, Giếng Ngọc; có chùa Hun, am Bạch Vân, đền Nguyễn Trãi, động Thanh Hư, cầu Thấu Ngọc, có Ngũ Nhạc linh từ… Cũng vì Côn Sơn cảnh vật tốt tươi, “sắc ngàn ráng đỏ, rừng gấm cuốn, cỏ lụa giăng”, chùa chiền cổ bích, am pháp thâm nghiêm, u tịch và tao nhã, nước biếc, non xanh, hữu tình và hoà hợp, thành miền thắng cảnh làm say đắm hồn người, là nơi con người có thể gửi gắm ước nguyện tâm linh, thoả chí hướng và rung động tâm hồn. Cho  nên, từ bao đời nay,  mùa trẩy hội, "trai thanh gái lịch đi lại đông như mắc cửi"*5; bao thi nhân, trí giả tìm về rồi ở đó, nghiền ngẫm và xúc cảm viết nên những trước tác có giá trị sâu sắc, những áng thơ văn tuyệt đẹp. Ở đây,  Huyền Quang viết kinh, thuyết pháp, làm thơ; Trần Nguyên Đán nghiên cứu nông lịch và viết "Băng Hồ ngọc hác tập", Nguyễn Phi Khanh viết “Thanh Hư Động ký” và Nguyễn Trãi viết "Côn Sơn ca" cùng nhiều bài thơ xứng là kiệt tác.           Những năm gần đây, nhân dân Hải Dương, được sự đồng lòng của đồng bảo cả nước, đã tu bổ hàng loạt di tích, đồng thời xây dựng mới nhiều công trình văn hóa lớn như đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ Trần Nguyên Đán, đường lên Ngũ Nhạc v.v. làm cho Côn Sơn càng giàu thêm giá trị văn hóa, cảnh sắc càng thêm tráng lệ, tôn nghiêm và ngoạn mục, hấp dẫn nhiều du khách bốn phương. Kiếp Bạc là một địa danh lừng lẫy bên Lục Đầu Giang, cách Côn Sơn chừng 5 cây số. Kiếp Bạc có thế "rồng vươn, hổ phục", có "tứ đức, tứ linh". Thế sông núi hiểm mà hài hoà, hùng vĩ khoáng đạt mà trang nhã. Tại đây, hội nước 4 dòng sông từ thượng nguồn dồn về, chảy vào sông Thái Bình và sông Kinh Thầy, mang phù sa màu mỡ tốt tươi về xuôi bồi đắp. Bốn dòng sông ấy, ngoài các tên quen thuộc, đều có thêm một tên Hán tự có chữ "đức" đứng sau: sông Đuống (Thiên Đức), sông Cầu tức sông Như Nguyệt (Nguyệt Đức), sông Thương (Minh Đức), Sông Lục Nam (Nhật Đức); dòng chính về xuôi thì có tên là sông Thái Bình. Vì người xưa coi Lục Đầu Giang là nơi hợp lưu của 4 dòng đức lớn trong vũ trụ*6 mang thái bình tức là mang yên ổn thịnh vượng về cho trăm họ, muôn dân. Kiếp Bạc có đường thuỷ, đường bộ rất thuận tiện. Từ Kiếp Bạc có thể thuận tới Thăng Long, lên ngược, về xuôi, ra biển đều dễ dàng, nên đây là vị trí chiến lược, "quyết chiến điểm" mà cả quân dân Đại Việt cũng như quân xâm lược phương Bắc đều cần chiếm giữ trong các cuộc chiến tranh. Vào thời nhà Trần ở thế kỷ XIII, Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn - vị anh hùng dân tộc, nhà quân sự kiệt xuất, vị tổng chỉ huy quân dân Đại Việt  trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Nguyên Mông đã chọn Vạn Kiếp để đặt đại bản doanh, xây dựng phủ đệ. Với tài thao lược của Quốc Công Tiết Chế, Kiếp Bạc - Lục Đầu Giang đã phát huy sức mạnh tổng lực của thế trận chiến tranh nhân dân. Dưới sự chỉ huy của Nhân Vũ Hưng Đạo Đại vương, quân và dân Đại Việt đã "trên dưới một lòng, cả nước giúp sức" lập nên những chiến côn vang dội: Hàm Tử, Chương Dương, Tây Kết, Vạn Kiếp và cuối cùng là trận Bạch Đằng lừng lẫy, đánh bại hoàn toàn đế quốc Nguyên Mông hùng mạnh nhất thế giới lúc bấy giờ, để non song toàn vẹn, dân tộc khải hoàn ca khúc thái bình. Từ sau cuộc đại thắng giặc Nguyên lần thứ ba, Trần Hưng Đạo đã về ở hẳn tại tư dinh Vạn Kiếp cho tới cuối đời. Tại đây, trước nguy cơ quân Nguyên xâm lược lần thứ hai, Đại Vương đã viết "Binh gia diệu lý yếu lược" để dạy tướng sỹ, và viết "Hịch tướng sỹ" để xác định trách nhiệm, nâng cao ý thức cảnh giác, tích cực học tập binh thư, luyện tập võ nghệ, sắn sàng diệt giặc cho họ; sau khi về nghỉ, Ngài lại viết "Vạn Kiếp tông bí truyền thư", đúc kết những kinh nghiệm, những bí quyết đánh giặc giữ nước của một đời cầm quân truyền lại cho hậu thế. Trước khi mất, được vua Trần Anh Tông về thăm bệnh và hỏi kế sách giữ nước, Đại Vương đã căn dặn: "Khoan thư sức dân làm kế sâu rễ bền gốc, đó là thượng sách để giữ nước".           Bởi Đại Vương là danh tướng bậc nhất "tài mưu lược, anh hùng, một lòng giữ gìn trung nghĩa … lập nên công nghiệp hiếm có. Tiếng vang đến giặc Bắc, chúng thường gọi là An Nam Hưng Đạo Vương mà không dám gọi tên”. Ngài đã được triều đình nhà Trần cho lập đền thờ ngay khi còn sống, gọi là Sinh Từ; Thượng hoàng Trần Thánh Tông tự soạn văn bia ngợi ca công đức Đại Vương.  Ngày 20 tháng Tám năm Canh Tý (1300), Đại Vương mất tại Kiếp Bạc. Triều đình đã tôn phong là Thái sư Thượng phụ*8 Thượng quốc công Nhân Vũ Hưng Đạo Đại Vương; nhân dân Đại Việt tôn là Đức Thánh Trần, xây đền Kiếp Bạc để tưởng nhớ công lao to lớn đối với non sông, đất nước. Ngày giỗ Đại Vương hàng năm trở thành ngày chính hội Đền Kiếp Bạc. Hội Đền kéo dài hàng tuần, thu hút hàng chục vạn con dân Đại Việt từ khắp mọi miền đất nước về kính bái, nguyện cầu. Đó là một trong số lễ hội lớn nhất của cả nước được gìn giữ hơn 7 thế kỷ nay, trở thành mỹ tục truyền thống, thể hiện sâu sắc đạo lý "uống nước nhớ nguồn" của dân tộc.           Đền Kiếp Bạc cùng với hai ngôi đền trên núi Bắc Đẩu và Nam Tào được ví như "một cõi thiên bồng giữa hạ giới". Tại vị trí trang trọng nhất của Đền Kiếp Bạc, tượng Đức Thánh Trần bằng đồng nặng hàng tấn ngự trên ngai sơn son thếp vàng đường bệ, uy nghi, bao thế kỷ vẫn toát ra hùng tâm tráng chí và hào khí Đông A lẫm liệt, khiến khách hành hương không ai không ngưỡng vọng thành kính. Được phối thờ tại Đền là gia quyến của Đại Vương, gồm 04 tượng thờ: Nguyên từ Quốc mẫu Thiên Thành công chúa (tức phu nhân của Trần Hưng Đạo), tướng quân Phạm Ngũ Lão (danh tướng đời Trần, và là con rể của Đại Vương), 2 người con gái của Trần Hưng Đạo là  Đệ nhất Khâm từ Hoàng thái hậu Quyên Thanh công chúa (phu nhân của vua Trần Nhân Tông), Đệ nhị Nữ đại hoàng Anh Nguyên quận chúa (phu nhân tướng quân Phạm Ngũ Lão) và 04 ngai cùng bài vị thờ vọng bốn con trai của Đại Vương.           Cổng đến Kiếp Bạc có câu đối nổi tiếng:                              Kiếp Bạc hữu sơn giai kiếm khí                              Lục Đầu vô thuỷ bất thu thanh Nghĩa là: Kiếp Bạc muôn ngọn núi đều có hùng khí của kiếm thiêng                Lục Đầu không con nước nào chẳng  vọng tiếng  thu*9           Có thể nói, mỗi cảnh sắc, hiện vật, dấu tích ở Kiếp Bạc đều gợi về bản hùng ca giữ nước của dân tộc ở triều đại nhà Trần, gợi nhớ về Đức Thánh Trần linh thiêng trong tâm thức dân tộc Việt - Hưng Đạo Đại Vương Trần Quốc Tuấn, người kết tinh rực rỡ hào khí Đông A, linh hồn của các cuộc kháng chiến chống Nguyên Mông xâm lược. Kiếp Bạc đã trở thành mảnh đất tâm linh, nơi tìm về dâng tấm lòng tri ân thành kính và lời cầu mong được phù giúp chiến thắng mọi trở lực, đạt được mọi điều sở nguyện trong đời của biết bao thế hệ người Việt, thuộc mọi tầng lớp và ở mọi miền đất nước. Trong nhiều thế kỷ qua, những giá trị lịch sử - văn hoá lớn lao của Côn Sơn - Kiếp Bạc, cùng với danh thơm, sự nghiệp của các bậc vĩ nhân đã toả rọi hào quang vào lịch sử và văn hoá dân tộc. Sự linh thiêng của Kiếp Bạc, Côn Sơn tồn tại vĩnh hằng cùng sông núi nước Nam. Những công trình như chùa Côn Sơn, đền Kiếp Bạc, Đền Nam Tào, Đền Bắc Đẩu, đền thờ Nguyễn Trãi, đền thờ quan Tư đồ Trần Nguyên Đán, Ngũ Nhạc linh từ.... trong quần thể Côn Sơn - Kiếp Bạc mãi mãi là những chốn thờ tự thiêng liêng, nơi đặt niềm tin nhân thế. Vẻ đẹp hùng vỹ mà nên thơ, tráng lệ mà trầm mặc thanh u của cảnh vật do thiên nhiên và con người tạo dựng tại Côn Sơn - Kiếp Bac đang tiếp tục được chăm sóc, tu bổ  cho ngày càng tốt tươi, hoành tráng, giàu tiềm năng, ngày càng hấp dẫn du khách thập phương về đây niệm Phật, tưởng nhớ các danh nhân, "nghỉ ngơi chơi ngắm"*10, nâng cao tri thức và bồi bổ tâm hồn… Văn miếu Mao Điền. Vào thời phong kiến, hệ thống cơ sở thờ tự Khổng Tử - ông tổ của đạo Nho và tôn vinh các Đại khoa Nho học được xây dựng ở nhiều địa phương, trong đó có Văn miếu Mao Điền thuộc trấn Hải Dương xưa (bao gồm Hải Dương, Hải Phòng, một phần huyện Đông Triều (Quảng Ninh), Mỹ Hào và Yên Mỹ (Hưng Yên) ngày nay. Văn Miếu Mao Điền nguyên là Văn miếu và trường thi Hương của trấn Hải Dương xưa do sáp nhập lại mà thành. Theo sử sách ghi lại, Văn miếu trấn Hải Dương được khởi dựng vào thời Lê Sơ (1428-1527), tại xã Vĩnh Lại, huyện Đường An, phủ Thượng Hồng (nay là xã Vĩnh Tuy, huyện Bình Giang, tỉnh Hải Dương) để thờ Khổng Tử. Công trình này gồm 5 gian bái đường và 3 gian chính tẩm đặt trên một gò đất cao. Cùng thời điểm này, do muốn đẩy mạnh việc phát triển Nho giáo, triều đình đã cho xây dựng thêm một số trường học, trường thi, trong đó có trường thi Hương tại xã Mao Điền, tổng Mao Điền, huyện Cẩm Giàng, phủ Thượng Hồng (nay là xã Cầm Điền, huyện Cẩm Giàng, tỉnh Hải Dương). Sang thời nhà Mạc (1527-1592), do Thăng Long – Hà Nội bất ổn về chính trị, triều đình đã tổ chức 4 khoa thi Hội tại trường thi ở xã Mao Điền, trong đó có khoa thi năm Ất Mùi – năm Đại Chính thứ 6 (1535), trấn Hải Dương có Nguyễn Bỉnh Khiêm, người nổi tiếng Thủ khoa cả ba kỳ thi: Hương - Hội - Đình, được triều đình phong tặng Trạng nguyên. Đến thời Tây Sơn (1778 -1802), để thuận tiện cho việc quản lý của bản trấn, triều đình đã chuyển Văn miếu từ xã Vĩnh Lại về sáp nhập với trường thi Hương ở xã Mao Điền, tạo nên một trung tâm văn hóa lớn. Công trình này có diện tích khoảng 3,6 ha, được quy hoạch cân đối và đẹp mắt, bao gồm nhiều hạng mục như: Bái đường, Hậu cung mỗi toà 7 gian, xây theo kiểu chữ Nhị; hai dãy nhà Đông vu, Tây vu; gác khuê văn; gác khánh; lầu chuông, lầu trống; đài Nghiên; tháp Bút; nghi môn; Thiên Quang tỉnh và Khải thánh thờ thân Phụ và thân Mẫu của Khổng Tử. Từ đó, việc tế lễ và học tập tại đây diễn ra rất đông vui, nhộn nhịp. Hàng năm, cứ vào ngày 17 và 18 (chính lễ là ngày 18) tháng hai và tháng tám âm lịch, trấn Hải Dương tổ chức lễ tế Khổng Tử. Các quan đầu phủ, đầu trấn cùng các cử nhân, tiến sỹ đều tụ họp về đây tham gia lễ tế trọng thể, nêu cao truyền thống "Hiếu học và tôn sư, trọng đạo" của người tỉnh Đông. Do trải qua hai cuộc chiến tranh chống Pháp và chống Mỹ, Văn miếu Mao Điền đã bị xuống cấp nghiêm trọng. Năm 1991, UBND xã Cẩm Điền đã vận động nhân dân tham gia tu bổ di tích. Năm 1992, Bộ Văn hóa, Thông tin cũ (nay là Bộ Văn hóa, Thể thao và Du lịch) đã ra Quyết định số 97/QĐ-VH xếp hạng Văn miếu Mao Điền là di tích lịch sử quốc gia. Quy mô công trình kiến trúc hiện nay ở Văn miếu Mao Điền là kết quả của lần trùng tu lớn nhất – tìm lại dáng vẻ xưa của Văn miếu, kéo dài khoảng 2 năm (từ năm 2002 – 2004), bao gồm nhiều hạng mục, điển hình như: Tam quan: Đây là nơi ra vào khu Văn miếu và có ba cổng: một cổng chính và hai cổng phụ. Cổng chính gồm hai tầng, tầng trên thu nhỏ ở phía trên nóc tầng dưới và có 3 cửa vòm, phía trên 3 cửa có lợp mái ngói hai tầng và có hai con rồng cách điệu… Tầng dưới, có 1 cửa vòm với kích thước to hơn hẳn 3 cửa tầng trên. Phía trước mặt cổng chính được trang trí hoa văn họa tiết rất đẹp. Hai cổng phụ có kích thước giống nhau và cũng được thiết kế theo kiểu vòm cuốn. Lầu chuông, lầu trống: Với kiến trúc truyền thống hai tầng tám mái được làm hoàn toàn bằng gỗ lim, lầu chuông và lầu trống nằm ngay đầu hồi của hai dãy nhà giải vũ và có hình dáng giống nhà Thủy đình (nhà này thường được thiết kế trên hồ để cho vua chúa, quan lại ngày xưa xem biểu diễn múa rối nước). Theo tục xưa, tiếng chuông, tiếng trống là tiếng tập hợp các học trò khi thầy giáo có việc cần hoặc để báo giờ giải lao, tan học cho học sinh. Hai dãy nhà giải vũ: Hai dãy nhà (mỗi dãy 5 gian) nằm ở hai phía đông, tây, đối diện nhau nên còn gọi là nhà Đông vu, Tây vu. Hai toà nhà lớn Bái đường và Hậu cung, mỗi tòa 7 gian, mái cong vút, chạm trổ hình rồng, phượng rất tinh xảo. Bái đường: trước kia, bái đường là nơi bái lễ của các bậc quan trường, học giả. Hiện nay, nơi đây có đặt bàn thờ bát nhang công đồng, chiếc lư hương bằng đá (trên bàn thờ công đồng) và khánh đá từ thời Tây Sơn. Ở bức tường hai bên có treo bảng danh sách 637 vị tiến sĩ quê ở trấn Hải Dương xưa. Hậu cung: Đây là nơi thờ chín vị: Khổng Tử ở chính giữa, lần lượt hai bên là 8 vị Đại khoa Nho học hàng đầu của Việt Nam thời phong kiến: danh nhân văn hoá thế giới - Anh hùng dân tộc Nguyễn Trãi, nhà giáo Chu Văn An, Lưỡng quốc Trạng nguyên Mạc Đĩnh Chi, Trạng trình Nguyễn Bỉnh Khiêm, Nhập nội hành khiển Phạm Sư Mạnh, Thần toán Vũ Hữu, Đại danh y thiền sư Tuệ Tĩnh, Nghi Ái quan - Tiến sĩ Nguyễn Thị Duệ, nữ tiến sĩ duy nhất của nước ta thời phong kiến. Biểu tượng tháp Bút, đài Nghiên được đắp nổi con rồng cao 5m. Thiên Quang tỉnh in bóng cây gạo già.Hình ảnh cây gạo hơn 200 tuổi nằm bên Thiên Quang tỉnh đánh dấu thời điểm Văn miếu được chuyển từ xã Vĩnh Lại về sáp nhập với trường thi Hương ở xã Mao Điền. Cây gạo này đã chứng kiến bao biến cố lịch sử lớn lao của vùng đất hiếu học này. Ngoài các hạng mục công trình, nơi đây còn được đầu tư trồng xen rất nhiều cây xanh, càng tôn thêm vẻ thanh tịnh của Văn miếu. Từ năm 2005 cho đến nay, cứ vào tháng 2 và tháng 8 âm lịch hàng năm, Ban Quản lý Văn miếu Mao Điền tổ chức lễ hội phục vụ nhân dân trong vùng và du khách, trong đó có lễ hội xuân được tổ chức vào tháng 2 (chính hội là ngày 18/2) có quy mô rất lớn với hai phần lễ và hội. Phần lễ bao gồm: tế khai hội; các làng khoa bảng tiêu biểu của tỉnh tế tôn vinh tiến sĩ của làng mình; các tỉnh bạn tế giao lưu; biểu diễn trống hội; Lễ chữ… Phần hội bao gồm: biểu diễn thư pháp, thi đấu cờ tướng, chọi gà, biểu diễn rối nước, chèo thuyền, hát quan họ… Lễ hội. Lễ hội truyền thống có một vị trí quan trọng trong đời sống văn hóa tinh thần của người dân. Các lễ hội cũng là một tiềm năng du lịch rất quan trọng, vì vậy cần chú ý đầu tư khôi phục và phát triển. Hầu hết các huyện, xã của Hải Dương đều có các ngày lễ hội riêng của mình. Hội Côn Sơn –Kiếp Bạc được tổ chức vào 20 tháng tám, ( Chí Linh ), Lễ hội chùa Muống được tổ chức ngày 24 – 27 tháng giêng , lễ hội đền Quát từ 14-15 tháng tám âm lịch.... Ẩm thực. Người Hải Dương không chỉ giỏi làm ra nhiều nông sản, đặc sản quý như gạo nếp cái hoa vàng (Kinh Môn, Cẩm Giàng), vài thiều (Thanh Hà), dưa hấu (Gia Lộc), nai dai, chuối mật (Chí Linh)… mà còn giỏi chế biến nhiều món ăn đặc sản nổi tiếng khắp trong, ngoài nước như bánh đậu xanh, bánh khảo, bánh cuốn (TP. Hải Dương), bánh gai (Ninh Giang), bánh đa Kẻ Sặt (Bình Giang), rượu Phú Lộc (Cầm Giàng), giò chả (Gia Lộc), chả, mắm rươi (Kim Thành), mắm cáy (Thanh Hà)…. Văn hoá ẩm thực của Hải Dương phong phú, đa dạng, dân dã mà tinh tế, hấp dẫn. Hương vị đặc biệt của các món ẩm thực địa phương đã làm cho người Hải Dương tự tin mời khách bốn phương và những người đã một lần thưởng thức, thì xa lâu còn nhớ.Khi nhắc đến Hải Dương không thể không nhắc đến những món ăn nổi tiếng, những đặc sản hấp dẫn của thành phố: bánh đậu xanh, bánh gai Ninh Giang, vải Thanh Hà...Đây là những món ăn, sản phẩm phục vụ khách du lịch khi đến với Hải Dương. Nghề và làng nghề thủ công. Hải Dương là mảnh đất đã tạo nên những làng nghề truyền thống với những sản phẩm tinh xảo đã từng nổi tiếng từ nhiều thế kỷ. Có thể kể đến một số làng nghề tiêu biểu như: nghề làm gốm ( Chu Đậu ), làng nghề vàng bạc ( Châu Khê ), làng nghề mỹ nghệ, làng nghề bánh đa ( Hội Yên ), nghề mây tre đan ( Đan Giáp), nghề mộc ( Bình Giang ), và còn nhiều làng nghề khác. Sản phẩm của các làng nghề truyền thống thể hiện sự sáng tạo, khéo léo, tài hoa của người xứ Đông, được khách hàng trong nước và quốc tế ưa chuộng. Như vậy có thể thấy, Hải Dương có tài nguyên nhân văn phong phú và có giá trị du lịch cao. Đây là mảnh đất địa linh nhân kiệt đã chứng kiến nhiều sự kiện lịch sử trọng đại của dân tộc và đồng thời cũng là nơi lưu giữ dấu vết của lịch sử qua các di chỉ khảo cổ. Hơn nữa, Hải Dương còn là vùng đất có nhiều lễ hội dân gian đặc sắc, là nơi tập trung của nhiều làng nghề thủ công truyền thống có sức thu hút khách du lịch. Tuy nhiên việc khai thác tiềm năng trên phục vụ du lịch còn rất hạn chế, các di tích lịch sử được khai thác phục vụ du lịch còn quá ít. Lí do chủ yếu là cơ sở hạ tầng kém, giao thông chưa thuận tiện, mặt khác các di tích đang bị xuống cấp nghiêm trọng, có nơi còn bị đổ nát. Tuy nhiên với sự đa dạng và phong phú của cả tài nguyên tự nhiên và tài nguyên nhân văn, đồng thời với tình hình kinh tế - xã hội, đời sống nhân dân ngày càng được cải thiện rõ nét đang từng bước đưa Hải Dương trở thành một trong nhưng tỉnh phát triển nhất của miền Bắc. Vấn đề đặt ra hiện nay là cần phải có sự quan tâm và đầu tư đúng hướng để du lịch của tỉnh ngày càng phát triển, xứng đáng với tài nguyên sẵn có của tỉnh. Khái quát về nghệ thuật chèo Hải Dương. Lich sử hình thành và phát triển của nghệ thuật chèo hải Dương. Nằm giữa đồng bằng Bắc Bộ, trên nền phù sa màu mỡ của châu thổ sông Hồng, Hải Dương mang đậm những giá trị truyền thống của một vùng văn minh lúa nước, đồng thời còn là "cái nôi" của nghệ thuật chèo, một loại hình nghệ thuật diễn xướng độc đáo, lâu đời của dân tộc. Cùng với chèo Hưng Yên, Hải Phòng, chèo Hải Dương đã góp phần định hình và tạo nên chiếng chèo Ðông, một vùng chèo nổi tiếng trong bốn chiếng chèo chung quanh kinh thành Thăng Long xưa: chiếng chèo Ðoài, chiếng chèo Bắc, chiếng chèo Nam. Nghệ thuật Chèo xuất hiện sớm hiện sớm nhất ở đất Hồng Châu xưa, nay là Hải Dương. Người nghệ sĩ dân gian đầu tiên được sử sách ghi nhận là người Hồng Châu. Đó là bà Phạm Thị Trân, bà được coi là tổ nghề hát chèo. Qua hơn nghìn năm phát triển, từ khi bà Tổ nghề chèo Phạm Thị Trân vâng mệnh Ðinh Tiên Hoàng đế sáng tạo, truyền dạy những làn điệu chèo cho nhân dân và quân lính, hình thành một vốn di sản quý báu của chiếng chèo Ðông, là cơ sở nền tảng để chèo Hải Dương hôm nay phát huy thế mạnh, tạo dựng một vị thế vững chắc trong nền nghệ thuật sân khấu dân tộc và trong tình cảm, tấm lòng yêu mến của công chúng. Trong cuộc sống hiện đại, chèo vẫn có một sức sống, một sự lan tỏa lặng lẽ mà không kém phần quyết liệt. Xưa nay, chèo gắn với văn hóa làng xã và do chính những người nông dân “chân lấm, tay bùn” tham gia sáng tạo và thưởng thức. Khi ra với phố thị, 'lên đời' trên sân khấu rạp hát, chèo tiếp tục là sự trở về với cội nguồn văn hóa dân gian, là tiếng nói và sự phản ánh sinh hoạt cũng như xã hội thông qua nghệ thuật của các tầng lớp bình dân số đông trong xã hội. Chèo gần gũi với đời sống, với ngôn ngữ và sinh hoạt của người lao động, phù hợp tâm lý cũng như khả năng cảm nhận, là lời ăn, tiếng nói, tâm tư, suy nghĩ của họ. Chính bởi vậy, chèo luôn luôn có một bộ phận công chúng đông đảo của riêng mình, sẵn sàng ngả nghiêng bên các vai diễn và các làn điệu 'í ơi'. Từ những chiếu chèo sân đình, nâng cao hơn là các gánh chèo gia đình, các phường chèo, rồi lớn nhất là đến các chiếng chèo (hay còn gọi một cách khác là vùng chèo) mang các đặc điểm đặc trưng của các làn điệu, hình thức diễn xướng dân ca vùng, miền. Chiếng chèo Ðông xưa và chèo Hải Dương là đất chèo gốc, 'cái nôi' của các làn điệu chèo cổ, cho đến hôm nay vẫn còn đó nhiều chiếu chèo, phường chèo làng, xã truyền thống, đại diện cho một vùng phong cách. Xưa có các nghệ sĩ được dân gian suy tôn thành các “tổ chèo”, “trùm chèo” như: Phạm Thị Trân, Ðào Văn Só, Sái Ất, Ðào Thị Huệ. Chiếng chèo Đông xưa gồm 3 tỉnh: Hưng Yên, Kiến An, Hải Dương. Đoàn Chèo Hải Dương được thành lập năm 1960. Để mở rộng quy mô hoạt động nghệ thuật, ngày 6 tháng 02 năm 2007, Ủy ban nhân dân tỉnh Hải Dương đã phê duyệt Đề án nâng cấp Đoàn chèo Hải Dương thành Nhà hát chèo Hải Dương. Đây là một đơn vị nghệ thuật thuộc chiếng Chèo xứ Đông. Nhiệm vụ, quyền hạn của nhà hát chèo Hải Dương. Xây dựng, dàn dựng các chương trình của loại hình nghệ thuật sân khấu chèo; tổ chức biểu diễn loại hình nghệ thuật chèo và các loại hình nghệ thuật sân khấu diễn xướng dân gian truyền thống khác phục vụ khán giả và tham gia các hội diễn, liên hoan trong tỉnh, trong nước, ngoài nước. Tổ chức nghiên cứu khoa học trong việc khôi phục, bảo tồn, phát triển, truyền bá nghệ thuật chèo truyền thống và các loại hình nghệ thuật sân khấu, diễn xướng dân gian khác; thử nghiệm những sáng tác mới. Phối hợp đào tạo, bồi dưỡng nâng cao trình độ nghiệp vụ cho diễn viên và các thành viên khác của nhà hát; thu hút, bồi dưỡng, truyền nghề cho các tài năng trẻ có triển vọng. Hướng dẫn việc nâng cao nhu cầu thưởng thức nghệ thuật chèo của xã hội, việc bảo tồn nghệ thuật chèo trong phong trào văn nghệ quần chúng trên địa bàn tỉnh. Tổ chức giao lưu, hợp tác trong và ngoài nước về chuyên môn, nghiệp vụ để không ngừng nâng cao trình độ và đa dạng hình thức hoạt động. Tổ chức một số hoạt động dịch vụ trong lĩnh vực nghệ thuật phù hợp với chức năng, nhiệm vụ của Nhà hát theo quy định của pháp luật và của tỉnh. Quản lý về tổ chức, biên chế, cán bộ, viên chức và người lao động; về tài sản, tài chính của nhà hát theo quy định của Nhà nước và của tỉnh. Thực hiện một số nhiệm vụ khác do Sở Văn hoá - Thông tin hoặc Uỷ ban nhân dân tỉnh giao Nhà hát chèo Hải Dương ngày nay đã phát huy được lợi thế của một vùng nôi chèo truyền thống xứ Ðông và không ngừng phát triển để trở thành một đơn vị nghệ thuật sân khấu chèo khá mạnh trong làng sân khấu chuyên nghiệp. Chấp nhận dấn thân, chủ động mang nghệ thuật chèo đến với công chúng, kể cả các vùng sâu, vùng xa, bên cạnh việc dàn dựng các vở mới có nhiều tìm tòi đổi mới về cả nội dung và hình thức biểu diễn để thu hút khán giả đến với sân khấu chèo, các nghệ sĩ nhà hát còn không ngừng tìm hiểu, khai thác và phát huy vốn chèo cổ truyền thống với tất cả sự say mê, tâm huyết. Cũng từ đó, các nghệ sĩ, diễn viên Nhà hát chèo Hải Dương đã trưởng thành nhanh chóng, đoạt nhiều thành tích cao tại các kỳ hội thi, hội diễn sân khấu chuyên nghiệp khu vực và toàn quốc. 2.2.2 Đặc trưng nghệ thuật chèo Hải Dương. Cũng giống với nghệ thuật chèo truyền thống chèo Hải Dương mang những nét nghệ thuật cuả chèo truyền thống. Về nội dung thì nội dung chủ yếu của các vở chèo mang tư tưởng lành mạnh, trong sáng bám sát vào nhiệm vụ chính trị của địa phương trong thời chiến cũng như thời bình. Đất nước bước vào thời kì đổi mới, nhà hát đã sáng tạo, tạo dựng được nhiều vở diễn, tiết mục, phản ánh không khí nóng bỏng những thay đổi của cuộc sống. Bên cạnh đó nhà hát cũng khai thác những đề tài lịch sử, chuyện dân gian, diễn những vở chèo có ý nghĩa giáo dục truyền thống nhân ái, yêu nước, nét đẹp văn hóa của người Việt cũng như người xứ Đông. Các vở chèo vẫn giữ phong cách chèo truyền thống vì vậy mà được người dân trong và ngoài tỉnh, người nước ngoài đánh giá cao về nghệ thuật. Nghệ thuật chèo hiện nay, về cơ bản vẫn là chèo truyền thống, nhưng tiết tấu nhanh hơn một chút. Chương trình biểu diễn đa dạng hơn, có những vở chèo kinh điển, có những vở về đề tài lịch sử, có vở diễn dã sử và có chương trình tạp kỹ, để đáp ứng nhu cầu hưởng thụ nghệ thuật của khán giả hiện nay. Khi nói đến nghệ thuật chèo là nói đến nghệ thuật diễn xuất, nghệ thuật cơ bản trong các vai diễn là múa. Cũng giống như chèo truyền thống thì các nghệ sĩ chèo ở Hải Dương một mặt vẫn giữ và phát huy những điệu múa truyền thống của dân tộc nhưng bên cạnh đó thì cũng cách điệu chúng tạo nên những nét mới và phong phú hơn. Vẫn là những chiếc quạt, cây bút, với những bước đi uyển chuyển linh hoạt. Trước đây khi mới thành lập đoàn chèo, chủ yếu biểu diễn một cách nhỏ lẻ CHƯƠNG 3: HIỆN TRẠNG PHÁT TRIỂN, MỘT SỐ GIẢI PHÁP NHẰM BẢO TỒN VÀ KHAI THÁC HIỆU QUẢ NGHỆ THUẬT CHÈO HẢI DƯƠNG NHẰM PHÁT TRIỂN DU LỊCH 3.1 Hiện trạng phát triển. 3.1.1. Biểu diễn chèo trong các lễ hội làng, tiệc mừng Đoàn chèo Hải Dương trước đây và ngay cả bây giờ đều đi biểu diễn trong các tiệc mừng cưới xin, hoặc lễ chúc thọ, mừng nhà mới hay phục vụ những buổi có văn nhân sĩ tử tới nhà yêu cầu nghe hát, nghe nhạc, theo lời mời của hàng tỉnh, hàng huyện hay hàng tổng, hàng xã khác. Chèo còn được biểu diễn ở các lễ hội, phục vụ cúng tế thần linh, Thành hoàng làng nào đó ở các đình làng, được cả vùng tôn sùng trong các ngôi đền lớn với nhiều khách thập phương cùng đến lễ hội. Mặt khác, đoàn chèo không những thể hiện những điệu hát ca ngợi cuộc sống tươi đẹp mà bên cạnh đó còn thành thạo các điệu hát ca tụng những công lao của các vị thần, Đức Ông, đã có công giúp nước, giúp dân. Ở Hải Dương hiện nay cứ vào ngày 18/2 âm lịch hàng năm đều tổ chức lễ hội tổ nghề hát chèo để tưởng nhớ ngày sinh và ngày mất của vị Tổ nghề. Vào ngày hội, các nghệ sĩ ở nhiều nơi đều về dự giao lưu và hát thờ đêm trước diễn ra hội. Ngoài ra, khi có lời mời, đoàn chèo Hải Dương hiện nay đều sẵn sàng đi hát phục vụ, chẳng hạn như tham gia hát thờ tại Đền thờ Chu Văn An, lễ hội đền Long Động,… 3.1.2 Biểu diễn tại nhà hát chèo Hiện nay tại nhà hát chèo thường xuyên tổ chức những buổi biểu diễn nhằm phục vụ nhu cầu của nhân dân.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • dockhoa_luan_tot_nghiep_8241.doc
Tài liệu liên quan