Khóa luận Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam

Cũng giống như các thể loại trữ tình của văn học dân gian, thời gian trong đồng dao gắn liền với thời gian diễn xướng tác phẩm. Thời gian ấy được khảo sát trong tính nguyên hợp của nó với môi trường diễn xướng. Nhưng so với các thể loại văn vần của văn học dân gian (như : ca dao, dân ca, vè, câu đố, ), thời gian nghệ thuật trong đồng dao, vì gắn với nhu cầu nhận thức thế giới khách quan của trẻ, nên thường thể hiện tiến trình vận động của thời gian tự nhiên (như : năm, tháng, mùa, thời, ). Về mặt này, đồng dao tỏ ra gần gũi với tục ngữ, bởi ở đó, chúng ta có thể nhận thấy nhận thức, trí tuệ, kinh nghiệm, của dân gian về những khái niệm thời gian

pdf80 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 985 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
êu (Cạc cạc cạc), mô phỏng tiếng máy xay lúa (Ù ì cút kít), mô phỏng tiếng ve kêu (Ve ve ve), mô phỏng tiếng trống đánh (Tùng, tùng, tùng), mô phỏng tiếng gà gáy (Cục tác cục te), Tất cả những sự mô phỏng này đều mang lại tác dụng rất lớn, nó tạo ra sức vang thanh âm cho các bài đồng dao, giúp cho việc kết hợp các bài đồng dao với nhạc điệu, động tác diễn ra dễ dàng. Đồng thời, nó còn có tác dụng tái hiện tiếng kêu của các loài vật, các vật dụng, giúp cho trẻ nhận thức rõ ràng về tiếng kêu của từng loài, từng món đồ vật. Mặt khác, sự mô phỏng này còn giúp cho các bài đồng dao trở nên sinh động, giúp cho trẻ dễ nhớ, dễ thuộc, Bên cạnh sử dụng các từ mô phỏng đồng dao còn sử dụng rất nhiều từ láy mang giá trị gợi hình ảnh, gợi âm thanh rất đậm nét : - Đó có thể là cách láy toàn thể : “Thả đỉa ba ba Chớ bắt đàn bà” - “Sắc sắc nhụt nhụt Ta ở nước lụt” - “ Se sẻ nó đẻ mái tranh Tao lấy mảnh sành” - “Sên sến sền sên Mày lên công chúa” Láy lại tên gọi của sự vật : “Ba ba”, “Se sẻ”, “Sên sến sền sên”; của một cấu trúc âm thanh : “Sắc sắc”, “nhụt nhụt”,để tạo nên phần nhạc điệu cho bài đồng dao, tạo nên sức ngân âm điệu cho bài ca. - Đó có thể là cách láy bộ phận : láy ở phần vần, hoặc phần phụ âm đầu : “Bà già dung dẻ đi chơi Trẻ em lọm khọm lo người đấm lưng” Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 50 Hai từ “lọm khọm” được láy lại với nhau ở phần vần “om”, có tác dụng gợi lên hình ảnh của một cụ già, lưng đã còng, đi đứng rất khó khăn,Giúp cho người đọc dễ dàng mường tượng đến hình ảnh của những cụ già, chân yếu, tay run, sức đã cạn dần, Chỉ với hai từ láy được sử dụng khéo léo đã mang đến cho bài đồng dao giá trị gợi hình rất cao. Nó giúp người đọc hình dung ra hình ảnh của đối tượng được nói đến một cách dễ dàng, cụ thể. Đồng thời, nó còn tạo ra được sự gắn kết cho ngôn từ đồng dao trong bài. Hai từ “dung dẻ”, cũng được láy lại như thế nhưng tuân theo một phương thức khác, đó là : Láy lại ở phần phụ âm đầu : “d”, nó mô tả được sự tinh nghịch, lém lỉnh và năng động của trẻ nhỏ. Các trẻ thường dung dẻ chơi đùa suốt ngày. Chỉ với hai từ “dung dẻ” ngắn ngủi, tác giả dân gian đã giúp cho người đọc hình dung ra tác phong đi đứng, chạy nhảy chơi đùa của trẻ rất cụ thể. Các bài đồng dao đều khá ngắn ngủi, nhưng việc sử dụng từ láy khéo và tinh trong những câu ca ngắn ngủi ấy đã đem lại giá trị gợi hình ảnh, gợi âm thanh rất to lớn cho toàn bài. Tác giả dân gian đã rất khéo léo trong việc tận dụng ưu thế của từ láy trong khi sử dụng để tạo ra những bài đồng dao vừa sâu sắc, vừa giàu âm thanh và nhạc điệu. Nói tóm lại, ngôn ngữ đồng dao rất giản dị và gần gũi, nó rất gần với ngôn ngữ sinh hoạt, chính sự giản dị ấy đã tạo nên tính chất sinh động cho ngôn ngữ đồng dao. Qua việc chuyển tải nội dung với lời thơ cô đúc, ngôn ngữ ấy đã đáp ứng được nhu cầu sử dụng của trẻ, phù hợp với tư duy non nớt của các em. Đồng thời, với tính chất sinh động ngôn ngữ đồng dao giúp trẻ dễ lĩnh hội, dễ nhớ, dễ thuộc. Và chính nhờ thế mà những bài đồng dao dù ra đời khá lâu nhưng đến nay vẫn được lưu truyền và trong tương lai ắt hẳn sẽ được lưu truyền mãi. Do đó, tuy đồng dao sáng tác để dành cho trẻ nhỏ là chủ yếu nhưng người lớn cũng rất thích nghe đồng dao những lúc rảnh rỗi để tìm lại sự thanh thản, ngây ngô của tuổi ấu thơ đã đi qua. Với ngôn ngữ giản dị, cô đúc, đồng dao đã chuyển tải được những nội dung hết sức phong phú. Trong đồng dao hiện lên cả một thế giới vui tươi, sống động và gần gũi. Đến với đồng dao, chúng ta có cảm giác như mọi sự vật từ cỏ cây, chim chóc, thú rừng, cả đến những vì tinh tú, những đấng siêu nhiên đều là bạn bè, người thân của nhau. Tất cả đều rất gần gũi và thân quen không có sự ngăn cách. Với ngôn ngữ tươi vui, trong sáng, đồng dao đã tạo nên những nét rất riêng mà thể loại khác không thể có được. Bên cạnh những giá trị ấy, ngôn ngữ đồng dao còn có giá trị góp phần thúc đẩy sự phát triển vốn từ, nâng cao năng lực phát âm tròn vành, rõ chữ của trẻ nhỏ, làm cho ngôn ngữ của các em ngày càng phong phú đa dạng, phát âm ngày càng chuẩn xác (Cùm nụm cùm nịu; chi chi chành chành; nu na nu nống; sắc sắc soi soi, con mẻo con meo,). Trẻ dần phức tạp hoá ngôn ngữ bản thân để đáp ứng được những nhu cầu giao tiếp cao hơn về sau. Ngôn ngữ phát triển kéo theo tư duy phát triển. Ở mỗi lứa tuổi tư duy của trẻ sẽ có những sự khác biệt lớn lao. Dần dần, tư duy non nớt ấy sẽ phải nhường chỗ cho sự quan sát sắc sảo và tư duy trừu tượng. Có như Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 51 thế mới đáp ứng được sự phát triển không ngừng của thế giới và trẻ sẽ đủ bản lĩnh để bước vào đời. Tuy nhiên, dù tư duy, ngôn ngữ của trẻ có phát triển đến đâu thì thế giới đồng dao cũng sẽ vĩnh viễn không bao giờ mất đi bởi những giá trị mà nó đem lại cho con người. III. VÀI NÉT VỀ THỂ THƠ : 1. THỂ THƠ LỤC BÁT : - Cặp 6 tiếng + cặp 8 tiếng là đơn vị tế bào, một chỉnh thể tối thiểu của thể thơ lục bát [Nguyễn Xuân Kính, 1992 : 116]. Đối với các bài đồng dao của trẻ nhỏ ta thấy thể thơ lục bát là khá phù hợp với nhu cầu trình bày những nội dung hết sức đa dạng, phong phú ứng với những hiểu biết rất ngây thơ, ngộ nghĩnh của các em. Trẻ thơ nhìn thế giới phức tạp với cặp mắt rất ngây thơ. Trẻ nhỏ dùng trí tưởng tượng phong phú, ngô nghê để nhìn mọi vật / việc. Tất cả những sự nhìn nhận, lí giải ngây thơ của các em về thế giới xung quanh đã được tác giả đồng dao chọn thể thơ lục bát dễ nhớ, dễ thuộc để gởi gắm. Không những thế, đồng dao còn đáp ứng những nhu cầu của người lớn. Trong kho tàng đồng dao có không ít những bài hát ru. Đó là những hồi ức của các chị. Nó là một phần tiểu sử của thế hệ đã qua đang sống những phút giây kì diệu một đi không trở lại của mỗi con người. Và theo chúng tôi khảo sát gần 300 bài đồng dao thì thể thơ lục bát chiếm khá nhiều. Lục bát trong đồng dao đa số được thể hiện ở những bài hát ru. Cụ thể là, chúng tôi đã tiến hành khảo sát trên 279 bài đồng dao tiêu biểu và đi đến kết quả là thể thơ lục bát chiếm 98/279 bài, chiếm tỷ lệ 35,13%. Trong khi đó thì lục bát trong hát ru đã chiếm 38/98 bài, chiếm tỷ lệ 39,8%. Thể thơ lục bát được sử dụng trong đồng dao vô cùng đa dạng. Cách gieo vần rất linh hoạt, khi thì gieo vần ở tiếng thứ 6 (tiếng thứ 6 của câu lục với tiếng thứ 6 của câu bát) : - “Ngồi buồn đếm vẩy tê tê Ba nghìn cái vảy không mê vẩy nào Vua trên cho lính xông vào Ba nghìn cái vẩy lính cào cho vua”. - “Bao giờ cho đến tháng ba Ếch cắn cổ rắn tha ra ngoài đồng”. - “Nắm xôi nuốt trẻ lên mười Chân giò, chai rượu nuốt người lao đao”. - “Lúa mạ nhảy lên ăn bò Cỏ năn, cỏ lác rình mò bắt trâu Gà con đuổi bắt diều hâu Chim ri đánh đuổi vỡ đầu bồ nông”. Nhịp điệu đều đặn, nhịp nhàng của cách gieo vần này làm cho bài đồng dao có giai điệu như một bài hát, rất dễ đi vào lòng người, khiến cho trẻ thơ và cả người lớn dễ đọc, dễ nhớ. Mặt khác, giai điệu này còn tạo điều kiện thuận lợi cho việc đọc / hát các bài đồng dao ở mọi nơi khi người diễn xướng muốn trò chuyện, trao đổi tình cảm với một đối tượng nào đó, hoặc để phục vụ cho việc chơi đùa tinh nghịch của trẻ nhỏ. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 52 Bên cạnh đó là cách gieo vần ở tiếng thứ 6 câu lục với tiếng thứ 4 của câu bát. Cách gieo vần này cũng tương đối phổ biến. Ví dụ như : “Tuổi tí là con chuột nhà Bắt đặng con gà chui tuốt vào hang”. Tuổi mèo là con mèo ngao Hay quẫy hay cào ăn vụng thành tinh”. Với cách ngắt nhịp 2/2/2, thể thơ lục bát đã tạo ra được những tác dụng rất lớn trong việc thể hiện nội dung đồng dao : Nó tạo cho bài ca đồng dao nhịp điệu khỏe khoắn, dứt khoát, giúp cho trẻ nhỏ dễ nhớ, dễ thuộc. Mặt khác, nhịp thơ này còn giúp cho các bài đồng dao dễ dàng kết hợp với các động tác trong rất nhiều trò chơi của trẻ nhỏ : “Con lợn / thì kêu / meo meo Con mèo / ủn ỉn / mà theo / vô chuồng.” (2/2/2 2/2/2/2) “Cái bống / còn ở / trong hang Cái rau tập tàng / còn ở nương dâu.” (2/2/2 4/4) Mặt khác, nó còn đóng vai trò chuyển tải những sắc thái tình cảm đa dạng, dịu dàng trong những lời hát ru. Nó là cơ sở để những người chị bộc lộ những tình cảm tha thiết với đứa em nhỏ của mình : “Ru em em hãy nín đi Kẻo mà mẹ đánh nữa thì em đau Em đau chị cũng buồn rầu Bé mồm bé miệng kêu đâu bây giờ.” Nhìn chung, thể thơ lục bát với nhịp điệu nhẹ nhàng, sự cân đối trong cấu trúc, cách ngắt nhịp dứt khoát, giọng điệu lục bát uyển chuyển, nhịp nhàng đã góp phần tích cực vào việc chuyển tải những nội dung cực kì phong phú, ngộ nghĩnh của trẻ nhỏ. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 53 2. THỂ VÃN : - Thể vãn : “là thể thơ ngắn, mỗi câu dưới 5 chữ. Loại thơ này tương đối đơn giản về tiết tấu, nhịp điệu, thường dùng trong đồng dao, ca dao nghi lễ.” [Trần Hoàng, 1995 : 6]. Như chúng ta đã biết, mục tiêu hướng tới của đồng dao là trẻ em với tất cả sự năng động, hồn nhiên, chất phác. Do đó, đại bộ phận các bài đồng dao đều được viết theo những thể thơ ngắn, dễ nhớ, dễ thuộc xưa quen gọi là thể vãn, gồm vãn 2, 3, 4, 5 và phổ biến nhất là vãn 4. Theo thống kê của chúng tôi trên 279 bài đồng dao đã có đến 101 bài viết theo thể vãn, chiếm tỷ lệ 36,2%. Trong đó, 94 bài viết theo thể vãn 4, chiếm tỷ lệ 33,69%; vãn 3 : 8 bài, tỷ lệ : 2,87%; vãn 2 : 1 bài, tỷ lệ : 0,36%; vãn 5 : 1 bài, tỷ lệ : 0,36%. 2.1/ Các thể vãn 2, vãn 3, vãn 5 : Tần số xuất hiện của các thể vãn này không nhiều lắm : Trong 279 bài đồng dao mà chúng tôi khảo sát, thể vãn 2 chỉ có một bài, chiếm tỷ lệ : 0,36%, thể vãn 3 có tám bài, chiếm tỷ lệ : 2,87%, thể vãn 5 cũng chỉ có một bài, chiếm tỷ lệ : 0,36%. 2.1.1/ Thể vãn 2 : “Rảigianh Trồng chanh Vun chanh Xới chanh Bẻ cành ...” Về vần : Chủ yếu là cách gieo vần chân, chẳng hạn trong bài đồng dao trên : vần “anh”. Về kết cấu : kết cấu theo chuỗi sự vật, sự việc, có hoặc không có liên kết chủ đề (phần nhiều là có liên kết chủ đề); chẳng hạn, bài “Trồng chanh” liên kết theo chủ đề : Đây là những công việc của quá trình trồng chanh. Về nhịp : Bài đồng dao được viết theo thể vãn 2, hai từ trong một câu. Cách ngắt nhịp, ngừng nghỉ của thể vãn này cũng tuân theo số từ dùng đó : Nhịp trong vãn 2 chủ yếu là nhịp 2, nhịp ngắt vào vị trí của vần : Rải gianh / trồng chanh / vun chanh / xới chanh / bẻ cành / hái ngọn / chọn đôi. Một dạng nhịp điệu rất dứt khoát, gãy gọn. Rất có thể khi diễn xướng, ngắt nhịp không phải lúc nào cũng ngắt dòng. Như vậy, vãn 2 gắn với cách ngắt nhịp 2/2,Và cách ngắt nhịp này phải chăng có xu hướng vận động theo hướng đưa câu đồng dao vào hệ thống của những dòng thơ có số từ ngữ là số chẵn (vừa với sự phân bổ nhịp 2). Và xu hướng đó, không ngoại trừ mục đích phục vụ cho trò chơi kèm theo. Đồng dao đã có hiện tượng đưa vãn 2 thành vãn 4 : Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 54 “Rải gianh, trồng chanh Vun chanh, bẻ cành Hái ngọn, chọn đôi.” Bên cạnh đó, theo thống kê của chúng tôi thì thể vãn 2, thường chỉ “phù hợp với những trẻ nhỏ từ 3 đến 4 tuổi – lứa tuổi này chưa phù hợp lắm với những hình thức trò chơi vận động (với những động tác, luật chơi theo qui định). Các em chủ yếu là chơi một cách tự phát, tự do theo bản năng - còn đối với các trẻ lớn hơn thì thường không thích những bài đồng dao nhịp ngắn như thế”. Theo chúng tôi, đó là lí đo đồng dao lại ít sử dụng thể vãn 2. 2.1.2/ Thể vãn 3 : “Nhắc lò cò Lên trên o Xin miếng nác Về dưới bác Xin miếng xôi Lên trên trời Rụng cái độp.” Về vần : Chủ yếu là cách gieo vần chân, chẳng hạn trong bài trên : vần “o”, vần “ác”, vần “ôi – ơi”. Về kết cấu : Kết cấu theo chuỗi sự vật, sự việc, thường có liên kết chủ đề; chẳng hạn như trong bài đồng dao trên : Tập trung nói về cuộc dạo chơi của một đứa trẻ. Về nhịp : Bài đồng dao được viết theo thể vãn 3 (3 tiếng trong một câu). Khi diễn xướng, dù là nhịp 1/2 hay 2/1, thì trẻ đều có xu hướng nhấn nhịp theo lối 1/1/1 để phục vụ cho việc kết hợp giữa lời ca và động tác trong các bài đồng dao. Đồng thời, nó còn tạo ra sự nhịp nhàng, uyển chuyển cho lời hát đồng dao. 2.1.3/ Thể vãn 5 : “Khi khóc dai ngồi dỗ Khi ngứa ngáy ngồi xoa Trông tháng trọn ngày qua Trông từng li từng tí Khi bữa ăn đương dở Con tiểu giải lên mình Ai nấy cũng đều kinh Cha mẹ ngồi chịu vậy” Về vần : Chủ yếu là cách gieo vần chân, theo từng cặp dòng : vần “oa – a”, vần “inh”. Về kết cấu : Kết cấu theo chuỗi sự vật, việc thường có chủ đề; chẳng hạn như trong bài đồng dao trên, xoay quanh chủ đề : Nỗi cơ cực của những bậc làm cha mẹ. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 55 Về nhịp : Bài đồng dao được viết theo thể vãn 5, với nhịp điệu gần như thống nhất trong toàn bài là nhịp 3/2 : Khi khóc dai / ngồi dỗ, Khi ngứa ngáy / ngồi xoa, Trông tháng trọn / ngày qua,Vãn 5 thật ra rất phổ biến trong ca dao dân ca (đặc biệt gần gũi với hát ví, hát dặm vùng Nghệ Tĩnh). Cách ngắt nhịp 3/2 rồi 2/3 vừa linh hoạt - nhịp nhàng, vừa uyển chuyển phù hợp với những cung bậc cảm xúc của nhân vật trữ tình. Chất trữ tình đậm đà của cách ngắt nhịp này dường như không mấy phù hợp với đối tượng trẻ em khi cùng nhau diễn xướng một trò chơi nào đó. Phải chăng vì thế mà vãn 5 xuất hiện khá ít ở đồng dao. 2.2. Thể vãn 4 : Đây là thể thơ thông dụng nhất trong các bài đồng dao : Trong 279 bài đồng dao chúng tôi chọn khảo sát đã có đến 94 bài viết theo thể vãn 4, chiếm tỷ lệ : 33,69 %. Sở dĩ trong đồng dao thể vãn 4 phổ biến là do : Thứ nhất, liên kết cấu trúc văn bản đồng dao theo kiểu xâu chuỗi. Sự nối kết liên hoàn bởi lối gieo vần, hiệp vần chặt chẽ của thể vãn 4 có thể kéo dài dung lượng bài đồng dao mà trẻ con vẫn nhớ, vẫn thuộc. Thứ hai, nó phù hợp với cách ngắt nhịp chẵn 2/2. Bài đồng dao sẽ dễ thích ứng với những động tác, trò chơi đơn giản. Luật chơi nhờ vậy sẽ dễ nhớ, dễ phổ biến cho những trẻ mới tham gia cùng chơi. Thứ ba, nó phù hợp với giai điệu nhịp nhàng của bài đồng dao. Trong khi chơi nhiều em có thể hòa giọng hát chung cùng một lúc mà vẫn đảm bảo sự đều đặn của giai điệu. Theo chúng tôi, đó là ba lí do để vãn 4 phổ biến nhiều nhất trong đồng dao. Về vần : Gồm vần chân kết hợp với vần lưng, nếu chọn một dòng bất kì để xét thì tiếng thứ hai của dòng này vần với tiếng cuối của dòng liền trước, tiếng cuối của dòng này vần với tiếng thứ hai của dòng liền sau nó. Vần thường được gieo theo cách đổi bằng trắc một cách đều đặn và liên tục như vậy cho đến hết bài. Nó có mô hình như sau : Sên sến sền Mày tao xem. Bên cạnh đó, thể vãn 4 còn có một cách gieo vần khác, đó là : gieo vần chân, không gieo vần lưng. Nó có mô hình sau : Sắc sắc nhụt sên MÀY CÔNG LÊN CHÚA múa nhụt TA Ở NƯỚC LỤT Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 56 Về nhịp : thường được ngắt vào nhịp của vần, khiến cho dòng thơ có nhịp đôi. Kết hợp vần và nhịp khi hát sẽ tạo thành các nhịp đôi đều đặn cho toàn bài. Về kết cấu : kết cấu chuỗi sự vật, sự việc, có hoặc không có liên kết chủ đề (thường có liên kết chủ đề nhiều hơn); chẳng hạn : bài “Ông tiển ông tiên”, “Nghé ạnghé ơ”, “Con chim hay hát”, Khảo sát một số bài cụ thể : (Các vần bằng in nghiêng - tô đậm, các vần trắc in nghiêng - gạch chân - tô đậm, nhịp ngắt dùng dấu suyệt : /). Cách gieo vần chân kết hợp với vần lưng : có 54/94 bài, tỷ lệ: 57,45 %. “Con mẻo / con meo / Con mèo / đuổi chuột / Cầm đuốc / soi đường / Cầm gương / soi mặt / Mèo bắt / cái đuôi / Chuột chui / hang tối / Mèo đói / kêu la / Meo meo / meo meo/ ” Cách gieo vần chân : có 29/94 bài, tỷ lệ :30,85 %. “Sắc sắc / soi soi / Đầu đội / mâm xôi / Tay cầm / chén mắm / Vừa đi / vừa nhắm / Hết cả / mâm xôi /” Có những bài có cả hai cách gieo vần trên : có 11/94 bài, tỷ lệ : 11,7 %. “Ông tiển / ông tiên / Ông có / đồng tiền / Ông giắt / mái tai / Ông cài / lưng khố / Ông ra ngoài phố / Ông mua / miếng trầu” 3. THỂ HỖN HỢP : Trong tổng số 279 bài mà chúng tôi chọn khảo sát, thì thể hỗn hợp chiếm số lượng khá lớn : 66 bài, chiếm tỷ lệ : 23,65 %. Sở dĩ trong đồng dao thể hỗn hợp xuất hiện nhiều là do : Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 57 Thứ nhất, nó tổng hợp và thâu tóm được những ưu điểm của các thể thơ khác. Thứ hai, trải qua quá trình diễn xướng chính đối tượng trẻ nhỏ - thông qua nhận thức, trò chơi,sẽ chắt lọc những gì ưu việt nhất, phù hợp nhất của các thể vãn nhằm lưu truyền và đồng sáng tạo làm phong phú thêm cho thể hỗn hợp. Thứ ba, thể hỗn hợp tạo nên sự đa dạng, phong phú về vần, về nhịp,tỏ rõ sự thích hợp với những trò chơi sinh động của trẻ. Theo chúng tôi, đó là những lí do để thể hỗn hợp có được sự phổ biến trong đồng dao. Các bài đồng dao được viết theo thể hỗn hợp, những câu vãn 4 chiếm một số lượng rất lớn : 53 trên tổng số 66 bài, tỷ lệ : 80,3 %. Do sự phổ biến của thể vãn 4 như thế nên chúng tôi xin chọn nó làm ranh giới để phân chia thể hỗn hợp trong đồng dao : 1/ Hỗn hợp có chứa vãn 4 : 53 bài. 2/ Hỗn hợp không chứa vãn 4 : 13 bài. 3.1/ Hỗn hợp có chứa vãn 4 : Chúng tôi lại chia hỗn hợp này ra 3 dạng nhỏ để thuận lợi cho việc khảo sát : * Vãn 4 với những câu thơ dưới 4 chữ. * Vãn 4 với những câu thơ trên 4 chữ. * Vãn 4 với những câu thơ trên và dưới 4 chữ. Dạng 1: Vãn 4 với những câu thơ dưới 4 chữ : chiếm 13 trên tổng số 53 bài, chiếm tỷ lệ : 24,53 %. Dạng hỗn hợp này khá phong phú : Vãn 4, 2 : “Ve ve Ve ở trên cây Ve trầy hai cánh Đùng đùng sóng dậy Ve chạy lên cây.” Vãn 4, 3 : “Con chim hay hát Nó hát cành đa Chị mua gì ? Con diệc trời. Vừa mua vừa dạo Đầy thúng mang về Ăn một bữa no nê Đi đồng đội nắng.” Thể hỗn hợp vốn dĩ nhịp điệu của nó đã rất phong phú, đa dạng, lên xuống uyển chuyển. Ở thể hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ dưới 4 chữ thì sự đa dạng ấy lại càng được bộc lộ rõ nét. Đó là sự kết hợp giữa : vãn 4 với vãn 2, vãn 4 với vãn 3. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 58 Trong từng sự kết hợp, ta thấy chúng đều tạo ra được những hiệu quả rất cao. Ở sự kết hợp giữa vãn 2 với vãn 4, sự gãy gọn, dứt khoát của vãn 2 như một lời chào mời, giới thiệu thu hút người đọc hướng vào theo dõi phần nội dung sẽ được trình bày bên trong. Thể vãn 4 với sự nhịp nhàng, uyển chuyển, lên xuống, trầm bổng rất phù hợp để bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của người viết, đồng thời giúp cho người nghe dễ lĩnh hội. Ở sự kết hợp giữa vãn 4 - vãn 3 với nhịp 1/1/1 đã tạo cho lời thơ một nhịp điệu rất rõ ràng, ngắt nghỉ dứt khoát, lời ca cất lên như một mệnh lệnh, rành rọt, tạo sức thuyết phục cao. Với nhịp 2/2, có thể ngắt nghỉ giữa dòng của thể vãn 4, các em có thể ngân dài hoặc đọc nhanh tùy vào ngữ cảnh. Mặt khác, thể hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ dưới 4 chữ không chỉ tạo ra sự phong phú cho lời ca về mặt hình thức, mà còn tạo ra được sự da dạng về mặt nội dung, với cách ngắt nghỉ, lên xuống hợp lí, nhịp nhàng của hình thức sẽ tạo ra những giá trị độc đáo cho nội dung. Dạng 2: Vãn 4 với những câu thơ trên 4 chữ : chiếm 35 trên tổng số 53 bài đồng dao viết theo thể hỗn hợp, tỷ lệ : 66,03%. Dạng hỗn hợp này rất đa dạng : 3.1.1/ Hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ 5 chữ (vãn 5) : có 6 bài trên tổng số 35 bài, chiếm tỷ lệ : 17,14 %. “Mồng một lưỡi trai Mồng hai lá lúa Mồng ba câu liêm Mồng bốn lưỡi liềm Mười bảy sảy giường chiếu Mười tám giám trấu” Hỗn hợp này còn tồn tại dưới rất nhiều dạng khác, chẳng hạn như : Câu vãn 5 nằm ở đầu, nằm ở cuối hoặc ở lưng chừng bài thơ,Tất cả đã tạo cho các bài đồng dao những nhịp điệu rất độc đáo, ngắt nghỉ đột ngột, gián đoạn bất ngờ, tạo cho đồng dao những giọng điệu nhịp nhàng, uyển chuyển, mang lại cho người đọc những suy ngẫm nằm bên ngoài câu chữ. 3.1.2/ Hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ 6 chữ : có 12 bài trong tổng số 35 bài, chiếm tỷ lệ : 34,3 %. “Rạng ngày mới sáng Lên quán mua đồ Tàu ô cá chép Biết mình là con gái khôn.” Sự kết hợp giữa vãn 4 và vãn 6 luôn tạo ra cho bài đồng dao sự hòa nhịp, đồng điệu bởi cả hai đều có nhịp 2 (Vẻ vè / vè ve, Con chim / mần tổ / dưới nước,), nhưng không gây sự nhàm chán và đơn điệu chính là nhờ ở sự linh hoạt của nhịp điệu trong từng thể thơ ấy. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 59 3.1.3/ Hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ 5 chữ và 6 chữ : có 2 bài trên tổng số 35 bài, chiếm tỷ lệ : 5,7 %. Ví dụ : “Xu xoa / xu xuýt Con nít / ở mô / thì ra Con cha / ở mô / thì về Đốt lửa / ba bề / bốn bên Ai leo núi / thì lên Ai đi thuyền / thì xuống . Ai hay nằm / thì nhịn đói.” Chính những thay đổi linh hoạt ở nhịp thơ (vãn 2 : nhịp 2/2, vãn 5 : nhịp 3/2, vãn 6 : nhịp 2/2/2, 3/3) đã tạo cho bài đồng dao những nhịp điệu thật tinh tế, uyển chuyển, tạo cho lời ca sự bay bổng, hòa điệu cùng động tác trong các trò chơi. 3.1.4/ Hỗn hợp vãn 4 với những câu thơ lục bát : có 2 bài trên tổng số 35 bài, chiếm tỷ lệ : 5,7 %. Ví dụ : “Nghe vè nói ngược Ngựa đua xuống nước Tàu chạy trên bờ Ngó lên đám bí ngô tàn Trâu bàng, ngựa giẫm mời làng đến xem Mặt em tròn tựa chữ điền Mê nơi sang cả, vàng đem đổi chì.” Nhịp điệu dứt khoát của thể vãn 4, kết hợp với nhịp uyển chuyển của những câu lục bát đã tạo cho lời đồng dao có sức ngân thanh âm, bay bổng như những lời ca ngọt ngào, vút lên ước mơ đẹp đẽ của trẻ. Dạng 3 : Vãn 4 với những câu thơ trên và dưới 4 chữ : có 5 trên tổng số 53 bài, chiếm tỷ lệ : 9,43 %. Bao gồm nhiều dạng khác nhau : - Vãn 4,3,5 : Ví dụ : “Đầu trọc lông lốc Là cái bình vôi Cái miệng loe môi Chị mua gì? Tôi mua cái bình vôi Chị mua gì? Cái thìa ốc loe môi.” - Vãn 4,2,7,8,9 : Ví dụ : “Nghé ơnghé à Mày đi theo ta Đừng theo kẻ trộm Nó cắt mất rốn Biết lấy cái chi mà đuổi ruồi Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 60 Biết lấy cái chi mà đập bọ Gà mất mẹ thì biết khi nào cho khôn Rổ mất trôn biết khi nào mà đựng Nghé ơ” 3.2/ Hỗn hợp không chứa vãn 4 : Có 13 bài trên tổng số 66 bài viết theo thể hỗn hợp, chiếm tỷ lệ : 24,24 %. Gồm nhiều dạng rất phong phú : - Bài đồng dao với những câu thơ 6,7,8 chữ : Ví dụ : “Nắng lên đi hỡi nắng vàng Nắng cho dân bản phơi thóc nỏ Nắng cho dân bản uống rượu la đà” - Bài đồng dao với những câu thơ 3,6,8 chữ : Ví dụ : “Nhẩy, nhẩy, nhẩy Lên, lên, lên Ai giấu ống chỉ bắt đền cây đa Ai giấu thì phải đưa ra Ở dưới gốc rạ hay là bờ ao Trao tráo đứng đó mà rao” Nhìn chung, những bài đồng dao được viết theo thể hỗn hợp không có vãn 4 thường là những bài thơ ngắn, dao động từ 6 đến 8 câu. Tuy nhiên, nhịp điệu của những bài đồng dao này lại vô cùng linh hoạt tạo nên nét độc đáo, sáng tạo và đầy thú vị. Ngoài ra, trong đồng dao còn có rất nhiều thể thơ khác như : thể thơ 6 chữ, chiếm 2,15 %; thể thơ 8 chữ, chiếm 0,72 %; thể thơ 7 chữ, chiếm 1,07 %, Nói tóm lại, các thể thơ trong đồng dao cực kì phong phú và đa dạng : Lục bát, thể vãn, thể hỗn hợp, các thể thơ 6,7,8 chữ,Không những thế, mà trong mỗi thể loại lớn ta lại thấy bên trong nó có những biến đổi cực kì phức tạp : Từ nhịp điệu, cách gieo vần, đến kết cấu,Sự phong phú ấy đã tạo cho đồng dao những giá trị hết sức to lớn. Nó góp phần thể hiện nội dung, chuyển tải tình cảm cực kì hiệu quả. IV. THỜI GIAN VÀ KHÔNG GIAN NGHỆ THUẬT : “Thời gian và không gian là những mặt của hiện thực khách quan, được phản ánh vào trong tác phẩm tạo thành thế giới nghệ thuật của tác phẩm.” [Nguyễn Xuân Kính, 1992 : 163]. Thời gian nghệ thuật, không gian nghệ thuật một mặt thuộc phương diện đề tài, mặt khác thể hiện nguyên tắc cơ bản của việc tổ chức tác phẩm của từng tác giả, từng thể loại, từng hệ thống nghệ thuật. Mối quan hệ giữa thời gian, không gian và việc tổ chức thời gian, không gian trong tác phẩm là nội dung của vấn đề thời gian, không gian nghệ thuật [Nguyễn Xuân Kính, 1992 : 163]. Khác với thời gian của hiện thực khách quan, có khi thời gian nghệ thuật mang tính chủ quan của con người “Trăm năm là ngắn, một ngày dài ghê” [Nguyễn Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 61 Xuân Kính, 1992 : 163]. Thời gian có thể thong thả mà cũng có thể trôi nhanh như bóng con ngựa phi qua cửa. Một khoảnh khắc có thể dừng lại, nhưng một thời đại có thể vụt qua. Tuy nhiên, tác phẩm văn học cũng sử dụng cả thời gian khách quan, có khi tuân thủ triệt để nguyên tắc thống nhất giữa thời gian được phản ánh và thời gian của con người xem như : kịch cổ điển Pháp [Nguyễn Xuân Kính, 1992 : 163-164]. 1. Thời gian nghệ thuật : Thời gian nghệ thuật trong đồng dao là thời gian hiện tại, thời gian diễn xướng. Cũng giống như các thể loại trữ tình của văn học dân gian, thời gian trong đồng dao gắn liền với thời gian diễn xướng tác phẩm. Thời gian ấy được khảo sát trong tính nguyên hợp của nó với môi trường diễn xướng. Nhưng so với các thể loại văn vần của văn học dân gian (như : ca dao, dân ca, vè, câu đố,), thời gian nghệ thuật trong đồng dao, vì gắn với nhu cầu nhận thức thế giới khách quan của trẻ, nên thường thể hiện tiến trình vận động của thời gian tự nhiên (như : năm, tháng, mùa, thời,). Về mặt này, đồng dao tỏ ra gần gũi với tục ngữ, bởi ở đó, chúng ta có thể nhận thấy nhận thức, trí tuệ, kinh nghiệm,của dân gian về những khái niệm thời gian. Thật vậy, nếu như trong cổ tích, trong thần thoại hay truyền thuyết, thời gian thường là thời gian quá khứ, thường kể về những việc đã qua có thực hoặc không có thực, thì thời gian trong đồng dao chính là thời gian hiện tại gắn chặt vời từng thời điểm diễn xướng cụ thể. Ngay cả trong những bài đồng dao có xuất hiện những từ ngữ chỉ thời gian cụ thể thì tính chất này cũng không thay đổi : “Tháng giêng là tháng mưa xuân Tháng hai mưa bụi dần dần mưa ra Tháng ba mưa nụ mưa hoa Tháng tư hư đất biết là đâu hơn” Hay : “Sớm mai tôi lên núi Bắt được con công Đem về cho ông” 1.1. Trong đồng dao hầu hết các bài đều không có từ chỉ thời gian : có 172/279 bài, chiếm tỷ lệ : 61,65 %. Trong những trường hợp này, trẻ hát đồng dao vào lúc nào (buổi sáng, trưa, chiều, tối,), thì đó chính là thời gian của bài (lời) đồng dao ấy : Chẳng hạn : “Con cò đi đâu mắc giò mà chết Con quạ ở nhà mua nếp làm chay” Hay : Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 62 “Con gà cục tác cục te Hay đỗ đầu hè, hay chạy rông rông” Hoặc : “Cắc cắc, tùng tùng Tùng tùng, cắc cắc Kẻ gian làng bắt Kẻ ngay làng tha” Và : “Ếch ở dưới ao Vừa ngớt mưa rào Nhảy ra bì bõm” Chúng tôi nhận thấy ở tất cả các bài đồng dao nói trên đều không xuất hiện các từ chỉ thời gian cụ thể. Thời gian của những bài đồng dao ấy chính là thời gian hiện tại, thời gian mà trẻ hát hay đọc những bài đồng dao ấy, không bị gò bó bởi thời gian cố định nào cả. Hay nói cách khác, thời gian trong đồng dao là thời gian diễn xướng, khoảng thời gian trực tiếp diễn ra các cuộc hát hò, cuộc vui đùa của trẻ nhỏ. Thời gian đó phần nhiều là vào ban ngày, vào những lúc trẻ đi chăn trâu, cắt cỏ. Và chính những lúc ngồi trên lưng trâu, cầm liềm cắt cỏ trẻ đã hát những bài đồng dao này. Hoặc những khi trẻ cùng tụm nhau lại tổ chức một trò chơi, để cùng vui chơi, cùng ca hát thì những bài đồng dao trong trẻo cũng được cất lên một cách rất tự nhiên. Và những khoảng thời gian diễn xướng này, cũng chính là thời gian của các bài đồng dao nói trên. 1.2. Những bài đồng dao có từ chỉ thời gian cụ thể : có 34/279 bài, chiếm tỷ lệ : 12,19 %. “Ban đêm oi bức mặt trời Ban ngày mát mẻ trăng cười trên cao Ban đêm nắng đỏ hồng hào Ban ngày nhấp nháy ông sao trên trời.” Trong bài đồng dao này, các từ chỉ thời gian “Ban đêm”, “Ban ngày” được xuất hiện rất cụ thể. Những khoảng thời gian ấy thường gắn liền với những hiện tượng kèm theo một cách thật rõ ràng, nhưng lại có phần nghịch lí do bị hoán đổi trật tự, không tuân theo quy luật tự nhiên : Ban đêm oi bức mặt trời, nắng đỏ hồng hào,Ban ngày mát mẻ vì có trăng, có sao nhấp nháy,Thực ra khi sắp xếp các khái niệm thời gian này bên cạnh nhau rõ ràng tác giả dân gian đã có dụng ý nghệ thuật khá rõ nét. Đó là sự hoán chuyển các thuật ngữ chỉ thời gian kèm theo những đặc trưng biểu hiện phù hợp với khoảng thời gian đó cũng được hoán đổi. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 63 Hay : “Chiều chiều con quạ lợp nhà Con cu chẻ lạt con gà đưa tranh.” Hoặc : “Chiều chiều quạ nói với diều Vườn cau kia rậm thiệt nhiều gà con.” Và : “Chiều chiều ông Lữ đi câu Bà Lữ đi xúc, con dâu đi mò” Thời điểm buổi chiều thường xuất hiện khá nhiều trong đồng dao : “Chiều chiều”. Công thức thời gian này cũng xuất hiện không ít trong ca dao. Đây là một công thức truyền thống của ca dao trữ tình. Nhưng nếu trong ca dao “chiều chiều” gắn liền với sự thể hiện tâm trạng của nhân vật trữ tình, thì trong đồng dao thời gian ấy gắn với các hoạt động đa dạng của cả con người và các loài vật : Chiều chiều – quạ lợp nhà – quạ nói với diều – ông Lữ đi câu, 1.3. Thời gian gắn với những hiện tượng tự nhiên : có 73/279 bài, chiếm tỷ lệ : 26,17 %. Điểm khác biệt lớn nhất và đáng lưu ý nhất về thời gian trong đồng dao so với các thể loại văn học dân gian khác chính là : Thời gian trong đồng dao thường là thời gian hiện thực gắn chặt với những hiện tượng tự nhiên trong từng thời điểm ấy. Đó chính là kết quả của cả một quá trình lao động, đúc kết kinh nghiệm quý báu của người xưa. Nếu trong ca dao dân ca có thời gian tâm lí thì trong đồng dao có “thời gian kinh nghiệm” và có xu hướng gần với những phạm trù chỉ thời gian được nêu trong tục ngữ. Đó chính là những sản phẩm kinh nghiệm có được từ sự quan sát, đúc kết và kiểm nghiệm từ hiện thực khách quan. Nó là một trong những giá trị tinh thần quý báu mà ông cha đã để lại cho chúng ta. “Tháng giêng là gió hây hây Tháng hai gió mát trăng bay vào đền Tháng ba gió đưa nước lên Tháng tư gió đánh cho mềm ngọn cây” “Tháng giêng là nắng hơi hơi Tháng hai là nắng giữa trời nắng ra Thứ nhất là nắng tháng ba Tháng tư có nắng nhưng mà nắng non” Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 64 Và : “Tháng bảy ông thị đỏ da Ông mít chớm chớm, ông đa rụng rời” Như chúng ta đã thấy, ở mỗi bài đồng dao hướng đến những khái niệm thời gian cụ thể nêu trên đều cung cấp cho trẻ nhỏ những kiến thức cần thiết và bổ ích về các hiện tượng tự nhiên trong từng thời điểm cụ thể. Nó sẽ là vốn kinh nghiệm quý báu làm hành trang cho các em mai sau. Nhìn chung, về thời gian trong đồng dao, nét đặc trưng cơ bản nhất chính là “thời gian kinh nghiệm”. Chính dạng thời gian này đã tạo ra được đặc trưng riêng cho thời gian đồng dao. Và đây chính là đặc sắc nghệ thuật của đồng dao. 2. Không gian nghệ thuật : Khác với ca dao dân ca trữ tình không gian nghệ thuật thường là nơi nhân vật trữ tình đang đứng hoặc hình dung, suy tưởng; không gian nghệ thuật trong đồng dao thường mang tính chất tượng trưng, phiếm chỉ. 2.1/ Không gian siêu nhiên : Nếu trong ca dao dân ca có không gian tâm lí : là nơi để nhân vật trữ tình bộc lộ những suy nghĩ, tình cảm của mình, là nơi chứng nhân cho những mối tình đẹp nhất thế gian, thì trong đồng dao có không gian siêu nhiên, không gian của đất trời, vũ trụ, có 11/279 bài, chiếm tỷ lệ : 3,94 %. “Tôi ở trên trời Tôi rơi xuống đất Tưởng rằng tôi mất Chẳng hóa tôi không” Hay : “Trên trời có chín ông vua Ông nhất cầm cờ Là ông méo miệng Ông hai cầm liễn Là ông gẫy tay” Và : “Trên trời có Đông có Tây Có Nam có Bắc, có cây ngô đồng Trên trời có cả cầu vồng” Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 65 Không gian “trên trời” thường được xuất hiện trong đồng dao. Dưới lăng kính trẻ thơ, trời là một nơi rất gần gũi và thân quen, nhưng cũng cao vời đầy bí ẩn khơi gợi sự khát khao khám phá, nắm bắt của trẻ. Công thức : Công thức không gian này thường xuất hiện trong đồng dao. Đi kèm theo công thức đó là sự trình bày những “hiểu biết” của trẻ về cõi không gian xa xăm, khó nắm bắt “trên trời”. Một mặt, nó thể hiện sự phong phú trong tâm hồn trẻ, mặt khác nó cho ta thấy trí tưởng tượng phong phú của các em. Đó không chỉ là ước mơ mà còn là cả một khát vọng lớn lao của trẻ ngay từ khi còn nhỏ. Nó là đôi cánh chắp thêm cho các em trên con đường bay đến ước mơ mai sau. 2.2/ Không gian phiếm chỉ : Cũng giống như thời gian, không gian trong đồng dao cũng chính là không gian hiện thực – không gian diễn xướng. Đó là những không gian gắn liền với hoạt động vui chơi của trẻ, là nơi hàng ngày các em vui chơi, lao động : ngoài cánh đồng, trong vườn nhà, .Đó là tất cả những nơi các em có thể tổ chức trò chơi để cùng nhau ca hát, cùng nhau nhảy múa. Những không gian này thường không cụ thể, có 268/279, chiếm tỷ lệ : 96,06%. “Vào vườn xem vượn hái hoa Xem voi đi guốc, xem gà nhuộm răng Xuống sông xem cá đấu roi Xem tôi quần thảo, xem trai trở mình” Hay : “Lên rừng đánh mẻ cá trôi Xuống sông đốn gỗ mà lôi về nhà” Hoặc : “Con cò đọc sách trên cây Thấy đèn kếu kéo cả bầy sang thăm” Và : “Ếch ở dưới ao Vừa ngớt mưa rào Nhảy ra bì bõm” Trên trời có + sự vật , hiện tượng Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 66 Hay : “Con gà cục tác cục te Hay đỗ đầu hè Hay chạy rông rông” Nhìn chung : - Không gian trong đồng dao thường là không gian phiếm chỉ, mang tính chất tượng trưng, không cụ thể là nơi nào cả, nhưng đa phần gắn với không gian sống của trẻ. - Không gian trong đồng dao chính là không gian hiện tại – không gian diễn xướng. - Đặc biệt không gian trong đồng dao còn là không gian siêu nhiên, thể hiện ước mơ lớn lao của trẻ trong việc khám phá vũ trụ bao la. V. MỘT SỐ BIỂU TƯỢNG TRONG ĐỒNG DAO : Biểu tượng là những hình ảnh cảm tính về hiện thực khách quan, thể hiện quan niệm thẩm mĩ, tư tưởng của từng nhóm tác giả (có khi của từng tác giả), từng thời đại, từng dân tộc và từng khu vực cư trú [Nguyễn Xuân Kính, 1992 : 185]. Hệ thống các hình ảnh biểu tượng trong đồng dao khá phong phú. Các tác giả đồng dao đã gởi gắm rất nhiều tình cảm của mình vào những hình ảnh quen thuộc, thân thiết với đời sống con người Việt Nam : con bống, con trâu – con nghé, trăng sao,Những biểu tượng này không chỉ là sự gởi gắm, kí thác hình ảnh của người nông dân lao động vào đó. Mà còn là sự thể hiện cả một ước mơ, một hoài bão, một khát vọng của con người lúc bấy giờ. Đồng dao sử dụng khá nhiều những công thức biểu tượng. Ở đây, chúng tôi xin phép mượn một số biểu tượng quen thuộc của ca dao để khảo sát tần số xuất hiện tương đối cao của chúng trong đồng dao. Trong dung lượng giới hạn của một luận văn tốt nghiệp, chúng tôi xin phép chỉ điểm qua một vài biểu tượng nổi bật mà thôi. 1. Biểu tượng con bống : có 24/279 bài, chiếm tỷ lệ : 8,6 %. Đối với người nông dân Việt Nam con bống có vẻ hiền lành, xinh xắn, cho nên mỗi khi nói đến nó họ thường gọi với giọng rất nâng niu, trân trọng, họ gọi nó là “cái” : “Cái bống đi chợ cầu canh, mua giấy mua bút cho anh vào trường”, Trong ca dao xưa hình ảnh cái bống đã xuất hiện không phải ít. Nó thường là hình ảnh của những người phụ nữ, những cô gái đẹp,Và đến với đồng dao, hình ảnh ấy vẫn xinh đẹp, đáng yêu như thế. Bống trong đồng dao thường là hình ảnh của những đứa bé gái hiền lành, chăm chỉ và ngoan ngoãn : “Cái bống là cái bống bang Khéo sảy, khéo sàng giúp mẹ nấu cơm Mẹ bống đi chợ đường trơn Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 67 Bống ra giúp mẹ chạy cơn mưa dầm.” - “Cái bống đi chợ đường xa Bống gặp bà già gánh nặng còng lưng Bà già ngồi khóc rưng rưng Bống xin gánh hộ đỡ lưng bà còng.” - “Cái bống là cái bống bang.” Hình ảnh con bống trong đồng dao thật đẹp đẽ. Nó không chỉ là những đứa bé gái hiền lành, chăm chỉ, mà đó còn là những đứa trẻ giàu lòng nhân ái, biết thương yêu, kính trọng, giúp đỡ người già : “Bống gặp bà già gánh nặng còng lưng”, “Bống xin gánh hộ đỡ lưng bà còng”. Còn là những đứa trẻ luôn biết yêu lao động và ý thức được trách nhiệm của mình đối với gia đình : “Khéo sảy khéo sàng giúp mẹ nấu cơm”, “Bống đi giúp mẹ chạy cơn mưa dầm”. Hình ảnh con bống không chỉ “xinh xẻo” trong ca dao, mà đến với đồng dao hình ảnh ấy cũng vô cùng đẹp đẽ. Con bống luôn xuất hiện trong đồng dao với vẻ trong sáng, ngây thơ của những đứa bé gái hiền lành, siêng năng, giàu lòng nhân ái, sớm ý thức được trách nhiệm của bản thân đối với gia đình. Và cao hơn hết, những đứa trẻ ấy còn sớm có được tình yêu lao động. Đây là một phẩm chất đẹp đẽ và cần thiết đối với mỗi con người chúng ta. Có thể thấy rằng, trong đồng dao các tác giả dân gian đã mượn đời sống của con bống để nói lên đời sống của mình. Đặc biệt, đó thường là đời sống tình cảm tốt đẹp của những đứa trẻ nói chung, của những đứa bé gái nói riêng. 2. Biểu tượng con nghé, con trâu : có 18/279 bài, chiếm tỷ lệ : 6,45%. Khác với trẻ em thành thị, trẻ em nông thôn ngay từ nhỏ đã sớm làm quen với công việc, đặc biệt là những công việc đồng áng như : chăn trâu, cắt cỏ, mò cua, bắt ốc, xay lúa, giã gạo,Và chính từ những công việc hàng ngày diễn ra trên những cánh đồng xanh bát ngát ấy đã khiến cho hình ảnh con trâu, chú nghé đi vào đồng dao một cách thật tự nhiên và đẹp đẽ. Chúng đã trở thành những biểu tượng quen thuộc trong đồng dao. - “Con nghé nhà ta Chúa mới thả ra Ăn đâu ăn đấy” - “Nghé ơi ta bảo nghé này Nghé ăn cho béo, nghé cày cho sâu Ở đời khôn khéo chi đâu Chẳng qua cũng chỉ hơn nhau chữ cần” - “Nghé ọ nghé ơi Nghé ăn rơm tươi Nghé ăn cỏ tốt” - “Nghé ơ. Nghé bầu nghé bạn Nghé cày ruộng cạn Mẹ cày ruộng sâu” - “Nghé ơi nghé à Mày đi theo ta” Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 68 Hay những bài về con trâu : - “Ở với nhà giàu Cực đà hết sức Hai mươi nó gặt” - “Hư hư chựng chựng Chựng vững cho lâu Một con trâu nằm Một trăm bánh giầy” Hình ảnh con trâu, chú nghé hiện lên thật tự nhiên. Đó chính là hình ảnh được các tác giả đồng dao mượn để gởi gắm những suy nghĩ của mình về thân phận, về cuộc đời của họ. Nó nói lên nỗi cơ cực của những người nông dân thấp cổ bé họng. Đó không chỉ là những con trâu, chú nghé thông thường mà đó chính là hình ảnh người nông dân hiền lành, chất phác, chăm chỉ lao động, vất vả một nắng hai sương ngoài ruộng đồng. Cách vay mượn gởi gắm này rất tự nhiên, không gượng gạo. Trên cánh đồng làng bát ngát, người và trâu đã cùng nhau lao động biết bao ngày. Hai đối tượng này gắn bó với nhau, làm bạn đồng hành cùng nhau để cùng cày cấy, cùng làm lụng. Và do đó, tác giả đồng dao đã mượn hình ảnh của chú trâu cần cù ấy để gởi gắm những tâm sự, những chiêm nghiệm về thân phận, về cuộc đời của họ, dùng hình ảnh ấy để nói đến chính họ. Trong đồng dao hình ảnh con trâu, chú nghé hiện lên rất đường hoàng, nó có mặt trong rất nhiều bài đồng dao. Nó là hình ảnh quen thuộc với trẻ nhỏ vùng nông thôn; bên cạnh đó nó còn là người bạn trung thành của nhà nông. Và họ đã mượn hình ảnh con trâu, chú nghé để cất lên tiếng nói tận đáy lòng mình một cách rất tự nhiên. 3. Biểu tượng trăng, sao : có 27/279 bài, chiếm tỷ lệ : 9,68 %. Đây là biểu tượng xuất hiện nhiều nhất trong ba loại biểu tượng mà chúng tôi khảo sát được. Trăng, sao là những hình ảnh của thế giới siêu nhiên, mỗi ngày ta đều có thể nhìn thấy chúng trên bầu trời, nhưng lại khó có thể nắm bắt chúng. Đặc biệt, là ở những thời điểm mà đồng dao ra đời, khoa học kĩ thuật chưa phát triển thì khoảng cách ấy lại càng xa hơn. Nhưng trong đồng dao, hình ảnh ấy lại rất quen thuộc, gần gũi. Các vì tinh tú như những người bạn, người thân trong gia đình của trẻ nhỏ. Trăng sao đã trở thành những biểu tượng nghệ thuật trong đồng dao. Các tác giả đồng dao đã mượn những hình ảnh ấy để gởi gắm những ước mơ, khát vọng to lớn của con người lúc bấy giờ. Không chỉ có thế, đó còn là sự thể hiện ước mơ về một cuộc sống tốt đẹp, đại đồng, “vạn vật cùng giao hòa” trên trái đất này. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 69 “Ông sảo ông sao Ông vào cửa sổ” - “Ông sảo ông sao Xuống chơi với tôi Có bầu có bạn” - “Ông trăng ông xuống Chơi với cậu tôi” - “Ông trẳng ông trăng Xuống chơi ông đất Ông đất cho mõ” Nhìn chung, thế giới biểu tượng trong đồng dao khá đa dạng : Đó là những hình ảnh rất quen thuộc, gắn bó với cuộc sống mỗi chúng ta. Nhưng khi vào đồng dao qua lăng kính và trí tưởng tượng phong phú của trẻ thơ những cái quen thuộc ấy đã trở nên đẹp đẽ vô cùng. Nó tạo cho ta cảm giác vừa quen và vừa lạ. Nó không chỉ khoác trên mình tấm áo mộc mạc hàng ngày, mà như có thêm một lớp áo mới tươi tắn hơn, rực rỡ hơn. Tựu trung lại, thế giới biểu tượng trong đồng dao thường là những hình ảnh của đồng nội thân quen, đó là những con bống trong ao nhà, là những con trâu, con nghé ngoài đồng ruộng thân thương. Đặc biệt, trong thế giới biểu tượng ấy còn có cả những vì tinh tú nữa. Đi vào đồng dao, chúng là hình ảnh của những đứa trẻ ngoan ngoãn, chăm chỉ, sớm biết yêu lao động; là hình ảnh của những người nông dân thấp cổ bé họng, cần cù, chăm chỉ, một nắng hai sương với ruộng đồng. Đó còn là hình ảnh của những ước mơ, những khát vọng lớn lao, đẹp đẽ,Thế giới biểu tượng ấy sẽ góp phần làm phong phú thêm cho đồng dao Việt Nam, và làm cho kho tàng đồng dao ngày càng đẹp đẽ, trong sáng và phổ biến hơn. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 70 C. PHẦN KẾT LUẬN : Sức cuốn hút mạnh mẽ của những lời ca trong sáng, mộc mạc, giản dị, cùng với sự say mê và khát vọng khám phá thế giới đồng dao tràn đầy vẻ ngây thơ, hồn nhiên và trong trẻo đã thôi thúc chúng tôi đến với đề tài : “Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam”. Đến với đề tài nghiên cứu còn khá mới mẻ, chúng tôi cũng có được những thuận lợi và khó khăn nhất định. Thuận lợi là có được những công trình sưu tầm đồng dao khá công phu của các học giả đi trước như : Nguyễn Nghĩa Dân, Trần Gia Linh, là nguồn tư liệu vô cùng quý báu để chúng tôi tiến hành khảo sát, phân loại, tìm hiểu đặc sắc nội dung và nghệ thuật đồng dao. Khó khăn, đồng dao là một thể loại văn học dân gian ra đời từ rất sớm, nhưng cho đến nay, chúng tôi chưa được tiếp cận với một công trình nào nghiên cứu đồng dao một cách chuyên sâu và hoàn chỉnh. Do đó, chúng tôi chưa có được những định hướng bước đầu cần thiết cho quá trình nghiên cứu, tìm hiểu, đào sâu thế giới đồng dao, mà phải tự mò mẫm để tìm được con đường ngắn nhất có thể khám phá một cách hiệu quả nhất những đặc sắc nội dung và nghệ thuật đồng dao. Bắt tay vào quá trình nghiên cứu một công trình khoa học, với trình độ và năng lực hạn hẹp; kiến thức và sự am tường lịch sử, xã hội khiêm tốn, chúng tôi không dám khẳng định mình sẽ cống hiến một công trình nghiên cứu hoàn hảo. Song, bằng nhiệt huyết và sự cần cù ham học hỏi, ham khám phá, từ những tiền đề nhất định, chúng tôi xin đem đến một vài đóng góp khiêm tốn trong hành trình khám phá vẻ đẹp ngọt ngào, giản dị mang tính chất truyền thống của đồng dao Việt Nam. Qua quá trình khảo sát, khóa luận đã góp phần khẳng định giá trị không thể phủ nhận về nội dung và hình thức nghệ thuật của đồng dao Việt Nam, khẳng định vai trò to lớn của đồng dao trong đời sống văn hóa tinh thần con người Việt Nam. Với khả năng hạn chế, qua khóa luận chúng tôi cố gắng thực hiện được những nhiệm vụ sau : Thứ nhất, tiếp tục làm sáng tỏ khái niệm đồng dao (đến nay còn chưa thống nhất). Đây là cơ sở lí luận và là nền tảng quan trọng để chúng tôi tiến hành chọn lọc, phân loại, đánh giá đối tượng một cách chính xác và khoa học. Mặt khác, việc xác định được khái niệm đồng dao là tiêu chí quan trọng để chúng tôi so sánh đối chiếu đồng dao với các thể loại văn học dân gian khác, từ đó tìm ra điểm tương đồng và dị biệt giữa chúng. Từ cơ sở này, chúng tôi khẳng định vai trò to lớn và vị trí đáng kể của đồng dao trong dòng văn học dân gian nước nhà. Thứ hai, từ những sản phẩm mà quá trình chọn lọc, phân loại thu nhận được, chúng tôi tiến hành thống kê, khảo sát tần số xuất hiện, mức độ biểu hiện của những bài đồng dao ấy trong thế giới đồng dao. Thứ ba, bên cạnh sự thống kê, khảo sát thế giới đồng dao theo từng tiểu loại của sự phân loại bước đầu, chúng tôi mạnh dạn đi sâu vào giải mã chúng để thấy Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 71 được một số nét đặc sắc về cả nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam. Qua đó, giúp cho người đọc có được cái nhìn toàn diện, sâu sắc về đối tượng. Thứ tư, từ những đặc sắc nội dung nghệ thuật của đồng dao Việt Nam thu nhận được, chúng tôi tiếp tục khẳng định những giá trị độc đáo và vai trò to lớn của tiểu loại này trong hệ thống thể loại của nền văn học dân gian nước nhà. Qua quá trình tìm tòi, nghiên cứu, chúng tôi nhận thấy thế giới đồng dao Việt Nam nổi bật lên những điểm đáng chú ý sau : Về khái niệm : Người viết đưa ra một khái niệm mới mà chúng tôi cho rằng có thể phần nào khái quát những đặc trưng cơ bản của đồng dao : Đồng dao là những sáng tác dân gian dành cho trẻ em, được các em diễn xướng và lưu truyền, đối tượng hướng tới là trẻ em. Đồng dao là một khái niệm tập hợp, bao gồm những tác phẩm thuộc các thể loại khác nhau như : hát ru, vè, câu đốnhưng được sáng tác dành cho trẻ em, phục vụ cho nhu cầu vui chơi, giải trí và ca hát của trẻ, thì đều được gọi là đồng dao. Cả lời và nhạc, nội dung và hình thức của đồng dao đều mang tính chất hồn nhiên, chất phác phù hợp với tâm sinh lý tuổi nhỏ. Về nội dung : Đồng dao là một thế giới muôn màu sắc, muôn thanh âm. Những bài đồng dao đã “ngân lên” trong lòng mỗi con người Việt Nam thật nhiều giai điệu dịu dàng, êm ái từ thuở ấu thơ, và cho đến khi trưởng thành ta vẫn tìm về nó như tìm lại lời ru ngọt ngào của mẹ từ thuở còn nằm nôi. Chính vì lẽ đó mà thế giới nội dung trong đồng dao vô cùng phong phú và đa dạng. Đó là một cây đàn ngân lên muôn điệu yêu thương. Nó phản ánh hiện thực đời sống một cách chân thực và sinh động qua lăng kính trẻ thơ. Đồng thời, nó còn chứa đựng trong đó những ước mơ, khát vọng, hoài bão lớn lao của ông cha ta từ ngàn xưa. Thông qua những nội dung biểu hiện ấy, chúng ta phần nào nhận ra được những quan điểm thẩm mĩ, nhân sinh và thế giới quan của người bình dân lúc bấy giờ. Về hình thức nghệ thuật : Thế giới nghệ thuật trong đồng dao vô cùng phong phú và đặc sắc. Mặc dù mục tiêu hướng tới của đồng dao là trẻ nhỏ, nhưng không phải vì lẽ đó mà nghệ thuật đồng dao kém phần hấp dẫn; ngược lại, nó vô cùng đa dạng, sống động và đặc sắc. Đó không chỉ là kết cấu lặp lại hết sức phức tạp và lí thú, mà đó còn là thế giới ngôn ngữ hàm súc, sống động, gợi hình gợi cảm, sử dụng nhiều phép so sánh, nhân hóa; là những thể vãn ngắn gọn, nhịp nhàng; là những không - thời gian tràn đầy hoa thơm cỏ lạ của đất trời Việt Nam; là thế giới biểu tượng vừa quen vừa lạ, vừa giản dị vừa bay bổng đã vẽ lại chân dung và chuyển tải ước mơ của con người bấy giờ. Thế giới ấy đã góp phần tạo nên những giá trị đặc sắc cho đồng dao, tạo cho đồng dao một “phong vị” rất riêng. Đồng thời, nó còn thể hiện tài năng nghệ thuật, quan niệm thẩm mĩ của các tác giả dân gian. Bên cạnh những nhận định và đóng góp bước đầu khi nghiên cứu thế giới nội dung, nghệ thuật trong đồng dao, chúng tôi còn nhận thấy nhiều vấn đề lí thú có liên Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trang 72 quan đến đề tài. Điển hình như sự tương đồng về hình thức biểu đạt giữa đồng dao và sách “Tam thiên tự”, sự gần gũi giữa đồng dao và thơ thiếu nhi, Chúng tôi rất mong muốn có thể trở lại đề tài này trong những công trình nghiên cứu chuyên sâu hơn dưới sự định hướng, hỗ trợ của các học giả đi trước và sự dẫn dắt nhiệt tình của quý thầy cô. Dẫu rằng trong những bước chân chập chững đầu tiên này không thể tránh khỏi sự vấp váp, vụng về. Nhưng chúng tôi tin rằng, dù thiếu sót hay hoàn chỉnh thì những kiến giải của công trình nghiên cứu này cũng trở thành kinh nghiệm quý báu trong hành trình tìm vẻ đẹp của thơ ca dân gian. Chúng tôi gởi sự tri ân sâu sắc đến tình đất, tình người hồn hậu đã cho chúng tôi kho tài nguyên tinh thần vô giá, vĩnh hằng. Với niềm trân trọng, tin yêu xin được góp một phần công sức nhỏ bé của mình vào quá trình tìm kiếm, gìn giữ và mài sáng những hạt ngọc óng ánh trong kho tàng văn học dân gian nước nhà. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí PHẦN PHỤ LỤC : “HÌNH ẢNH NHỮNG TRÒ CHƠI ĐỒNG DAO” Trò chơi đồng dao : “Đánh khăng, đánh đáo”. Trò “Chuyền thẻ”. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trò “Rồng rắn lên mây”. Trò “Đánh đu”. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí Trò “Bập bênh”. Trò “Kéo co”. Tìm hiểu nội dung và nghệ thuật của đồng dao Việt Nam Trần Thị Quí

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1275.pdf
Tài liệu liên quan