Khóa luận Tìm hiểu về nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn(1841 – 1883)

MỤC LỤC Trang MỞ ĐẦU 0 I. Mục đích, ý nghĩa, lý do chọn đề tài 1 II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề 2 III. Giới hạn nghiên cứu vấn đề 3 IV. Phương pháp nghiên cứu 3 V. Đóng góp của đề tài 4 VI.Bố cục của đề tài 5 CHƯƠNG I: BỐI CẢNH LỊCH SỬ THẾ GIỚI VÀ VIỆT NAM NỬA SAU XIX 7 I.Bối cảnh thế giới 7 1. Tình hình chung. 7 2. Nước Pháp và công cuộc chuẩn bị xâm chiếm Việt Nam. 8 II. Bối cảnh trong nước: 13 1.Vài nét về tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược: 13 2.Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp của triều đình phong kiến Huế và nhân dân Việt Nam( 1/9/1858 đến 24/6/1867): 16 CHƯƠNG II: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TRẦN THÚC NHẪN 23 I. Vài nét về tiểu sử, gia thế Trần Thúc Nhẫn: 23 II. Trần Thúc Nhẫn với sự nghiệp chống thực dân Pháp xâm lược (1867-1883): 24 Chương III. ĐÁNH GIÁ NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRẦN THÚC NHẪN 31 I. Những đóng góp: 31 II. Những hạn chế: 36 KẾT LUẬN. 38 TÀI LIỆU THAM KHẢO 39 PHỤ LỤC 40 MỞ ĐẦU I. Mục đích, ý nghĩa, lý do chọn đề tài Trần Thúc Nhẫn hay còn được gọi là Trần Thúc Bình (1841- 1883), là một trong những nhân vật quan trọng, trong khúc quanh của lịch sử nước nhà, nữa cuối thế kỷ XIX. Khi mà ở giai đoạn này nhiều vấn đề phức tạp của lịch sử nhân loại và dân tộc đã liên tiếp xảy ra, nó giống như một “ma trận”mà không nước nào có thể cưỡng lại và thoát ra được cụ thể: Về thế giới đó là sự phát triển ngày càng lớn mạnh và hoàn thiện của chủ nghĩa tư bản, theo sau đó là quá trình bành trướng và xâm lược thuộc địa. Còn ở trong nước đó là những mưu đồ và công cuộc xâm lược một cách trắng trợn của bọn thực dân Pháp và phong trào kháng chiến chống pháp của nhân dân ta, sự phân hóa về mặt nội bộ triều đình Huế với những cuộc đấu tranh về mặt tư tưởng, chính trị, nên hòa hay nên chiến? chiến thì như thế nào? Còn hoà thì như thế nào mà giữ được độc lập? .Thực tế đó đòi hỏi cần phải có một sự nhận thức một cách đúng đắn và khoa học. Là một nhân vật được sinh ra và ra làm quan trong một giai đoạn lịch sử đầy biến động và phức tạp với những “khúc xạ” khác nhau. Do đó cuộc đời và sự nghiệp của Trần thúc Nhẫn cần được phải xem xét, đánh giá một khách quan và khoa học, giống như giới nghiên cứu đã từng làm đối với các nhân vật trước, sau hoặc cùng thời với ông như: Phan Thanh Giản,Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn Tường , để rồi từ đó mới có thể giải quyết được những vướng mắc trong nhận thức và cách đánh giá của hậu thế mỗi khi nhìn nhận về sự nghiệp và cuộc đời của ông. Như vậy với ý nghĩa đó, thiết nghĩ theo tôi việc nghiên cứu toàn diện về nhân vật TrầnThúc Nhẫn trong giai đoạn này là một việc làm hết sức cần thiết. Là một sinh viên khoa lịch sử, tôi không thể không quan tâm đến các nhân vật lịch sử, nhất là đối với những con người từng có công trạng lớn như Trần Thúc Nhẫn. Chính vì vậy tôi mà đã quyết định chọn đề tài “tìm hiểu về nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn(1841 – 1883)” để làm bài niên luận cuối khóa cho năm học của mình, tôi nghĩ rằng qua nghiên cứu đề tài này nó sẽ giúp ích rất nhiều cho tôi trong công tác nghiên cứu khoa học và thực tiễn và hơn nữa nó sẽ đóng góp trong việc giải quyết một phần nhỏ những vấn đề còn khúc mắc đối với một nhân vật lịch sử còn nhiều điều “ẩn chứa”này. II. Lịch sử nghiên cứu vấn đề Nói về lịch sử nghiên cứu vấn đề, thực chất ở đây đó chính là quá trình nhận thức về vấn đề được nghiên cứu, cụ thể hơn đó chính là nhân vật lịch sử Trần Thức Nhẫn. Tại đây nó luôn được thể hiện ở rất nhiều những góc độ khác nhau, những cái nhìn khác nhau Đó hoặc là các “nghệ sĩ dân gian” những con người đương thời, các sử gia phong kiến, tư sản, các học giả nước ngoài , các nhà sử học Mácxít, thông qua việc dựa trên những địa vị, mỗi thời kì, cũng như những khác biệt về chế độ chính trị, mà cách nhận thức về nhân vật lịch sử có những quan điểm, lập trường khác nhau, đúng hay là sai, khoa học hay là phản khoa học. Do là người được sinh ra, lớn lên và ra làm quan trong thời buổi loạn lạc cho nên hiện nay những nguồn sử liệu viết về ông buổi đương thời cũng như hiện nay là hết sức hạn hẹp, nếu có chăng đi nữa thì đó cũng chỉ là những bước phác thảo, sơ lược về tên tuổi và cuộc đời của ông ví như đó là các cuốn sách như Đại Nam Thục Lục, Đại Nam liệt truyện, Việt Nam danh nhân từ điển, Huế 1885 – Thái Vũ, Bản sơ yếu lí lịch về di tích lăng mộ về Trần Thúc Nhẫn ở Huế, hay là các cuốn sách giáo khoa như “ Lịch sử Việt Nam tập II” của giáo sư Đinh Xuân làm chủ biên, “Trần Văn Giàu tổng tập .” vv hoặc kế đó gần hơn nữa ngay chính trong gia phả của dòng họ ông ở thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế thì những “kỉ niệm” viết về ông cũng thật sự không nhiều thậm chí đôi khi chỉ còn là những “sự tích”, còn đọng lại qua các lời kể của những thế hệ sau ông. Như vậy qua đó để cho chúng ta thấy rằng khi nghiên cứu về nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn tôi dường như không có nhiều nguồn tư liệu để “phục chế” lại một cách toàn diện nhất, cũng như là những mặt đối chiếu, so sánh giữa các nguồn tư liệu một cách tốt nhất. Mà chỉ có thể phản ánh, xác minh với một cố gắng cao nhất có thể. III. Giới hạn nghiên cứu vấn đề Như ở phần trước đã nêu cho thấy việc nghiên cứu về Trần Thúc Nhẫn tuy rằng không phải là nhiều. Nhưng những đóng góp của ông trong sự nghiệp quan trường và đấu tranh giữ gìn đất nước thì ít nhiều cũng đã được ghi nhận qua các bài viết, sách, sổ tay, hồ sơ và quan trọng hơn nữa là với qui mô của một bài niên luận đã không cho phép tôi có tham vọng gì lớn, mà chỉ có thể nghiên cứu một phần nào đó về cuộc đời và sự nghiệp của ông bằng việc trên cơ sở những khung thời gian, và nguồn tư liệu hiện có trong tay. IV. Phương pháp nghiên cứu Vốn được xem là một điều “bất di bất dịch” mà khoa Mác xít đã chỉ rõ : “Trong mọi vấn đề thuộc khoa học xã hội, phương pháp chắc chắn và cần thiết để thể hiện có được một thói quen và đề cập vấn đề một cách đúng đắn mà không bị xa đắm vào nhiều những chi tiết và thật nhiều ý kiến đối lập nhau, thì điều quan trọng thứ nhất của khoa học là không nên quên sự liên hệ lịch sử căn bản, là nhận xét vấn đề theo quan điểm sau đây : Một hiện tượng nào đó đã xuất hiện trong lịch sử như thế nào ? Các giai đoạn phát triển của nó là gì? Mà đứng trên quan điểm của sự phát triển của nó, để xem hiện tượng đó đã trở nên như thế nào?” Qua đó cho chúng ta thấy rằng, như vậy muốn nghiên cứu hay đánh giá một nhân vật lịch sử thì việc đầu tiên là phải xem xét bối cảnh lịch sử và trực tiếp xem xét bản thân sự kiện lịch sử hay nhân vật lịch sử đó, để qua đó mà có thể tránh được những khuynh hướng tách rời điều kiện lịch sử cụ thể với những điều kiện đặt ra một cách quá đáng. Hay dùng tiêu chí hiện nay để làm chuẩn mực khi nhìn về quá khứ. Vì như thế nó sẽ làm mất đi tính trung thực, khách quan của lịch sử. Do đó tại niên luận này ngoài những phương pháp chính của sử học MácXít như: phương pháp lịch sử, phương pháp logic , thì bên cạnh đó trong quá trình nghiên cứu vấn đề này người viết bài còn sử dụng cả những phương pháp như: phân tích tổng hợp, so sánh, đối chiếu sử liệu bởi lẽ với một điều đơn giản rằng: đây là một giai đoạn đầy uẩn khúc trong suốt quá trình phát triển của lịch sử nước nhà, cũng do vậy mà việc đánh giá một nhân vật lịch sử với tư cách là sản phẩm của thời đại, là một vấn đề không hề đơn giản. Do đó cần phải luôn đặt nó trong những mối liên hệ vào những hoàn cảnh lịch sử nhất định, để rồi mới có thể thấy được những công việc đã làm được hoặc chưa làm được của ông so với những nhu cầu của đất nước đặt ra, và qua đó cũng tìm ra được những kết luận, đánh giá về ông một các khách quan nhất. V. Đóng góp của đề tài Mặc dù rất khó khăn trong việc tìm kiếm nguồn tư liệu, và có nhiều điều còn bỡ ngỡ trong việc bước đầu làm quen với công tác nghiên cứu, cũng như là khả năng tư duy còn hạn chế, hơn thế nó còn là một đề tài tương đối rộng qua sự xâu chuỗi của một quá trình lịch sử từ trước khi thực dân pháp xâm lược 1858 cho đến sự kiện thất thủ Thuận An 1883 và một phần nhỏ trong giai đoạn sau đó, cũng như những dư âm còn đọng lại trong nhân gian cho đến nay đã làm cho mỗi chúng ta cần phải có sự cân nhắc khi chọn và nghiên cứu đề tài này. Song với sự say mê, niềm tâm huyết bước đầu của một nhà nghiên cứu, cộng với sự giúp đỡ của các thầy cô giáo, các anh chị sinh viên trước và cùng khóa dường như đã tiếp thêm cho tôi một động lực, một sức mạnh giúp tôi nhanh chóng hoàn thành đề tài này. Qua đề tài này mặc dù tuy không đủ, toàn diện trong khi nghiên cứu, song tôi cũng hi vọng mình có thể cung cấp những thông tin cần thiết, có thể nhất về bối cảnh lịch sử, cuộc đời và sự nghiệp của ông, cũng như là những lời nhận xét của riêng cá nhân mình, cho những ai vốn quan tâm đến các nhân vật trong lịch sử nước nhà. Xa hơn nữa là có thể đóng góp một phần nào đấy vào sự nghiệp của nền sử học nước nhà khi nghiên cứu về các nhân vật lịch sử, bằng việc trên cơ sở dựa vào những nguồn tư liệu, sự lập luận, cách đánh giá của chính bản thân cá nhân tôi. VI.Bố cục của đề tài Do yêu cầu của bài viết cũng như là tham vọng không quá lớn của tác giả, nên tại niên luận này của tôi về cơ bản được chia làm 3 chương chính, ngoài lời mở đầu, kết luận và phục lục. Cụ thể nội dung niên luận sẽ được giải quyết ở những vấn đề sau. Chương I. Bối cảnh lịch sử lịch sử Thế Giới và Việt Nam nữa cuối thế kỷ XIX. I. Bối cảnh thế giới 1. Tình hình chung. 2. Nước Pháp và công cuộc chuẩn bị xâm chiếm Việt Nam. II. Bối cảnh trong nước 1. Vài nét về tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược. 2. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp của triều đình phong kiến Nguyễn và nhân dân Việt Nam( 1-9-1858 đến 24/61867). a. Công cuộc kháng chiến của triều đình phong kiến. b. Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp của nhân dân ta. Chương II. Cuộc đời và sự nghiệp của Trần Thúc Nhẫn I. Vài nét về tiểu sử,gia thế Trần Thúc Nhẫn. II.Trần Thúc Nhẫn với sự nghiệp chống thực dân Pháp xâm lược (1867-1883). Chương III. Đánh giá về nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn I. Những đóng góp. II. Những hạn chế.

doc48 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2243 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Tìm hiểu về nhân vật lịch sử Trần Thúc Nhẫn(1841 – 1883), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
à thương nhân Pháp đã hợp tác một cách chặt chẽ với nhau: giáo sĩ mở đường đi trước, thương nhân theo sau rồi cùng nhau đẩy mạnh hoạt động. Dưới triều Nguyễn, đặc biệt là dưới triều Minh Mạng đến Tự Đức, những hoạt động của các giáo sĩ đã ngày càng lộ rõ sự nguy hiểm đối với việc bảo toàn chủ quyền quốc gia, bảo toàn nền văn hoá dân tộc…Khi mà họ đã lợi dụng danh nghĩa truyền đạo để đi sâu vào các địa phương điều tra, dò xét tình hình các mặt rồi báo cáo về nước, mặt khác họ còn lợi dụng các thế lực tôn giáo để mua chuộc, dụ dỗ dân chúng Việt Nam, gây mâu thuẫn giữa đồng bào lương và giáo, xúi bẩy giáo dân chống lại triều đình “ đào hào, đắp luỹ” để ngày đêm giảng đạo, tham gia các cuộc nổi dậy của quần chúng trong số đó tiêu biểu là ở cuộc khởi nghĩa của Lê Văn Khôi bùng nổ tại Nam Kỳ (7/1833) đã có sự tham gia của các giáo sĩ Pháp như Marchand… Tất cả những hành động ấy đã làm cho triều đình vô cùng công phẫn, các đạo dụ cấm đạo, giết đạo đã liên tiếp được tung ra, và ngày càng trở nên nặng nề, thô bạo nhất là dưới thời Tự Đức ( 1847-1883). Tóm lại, sau khoảng một thời gian dài tìm kiếm(ít nhất là từ thời Louis XVI đến vua Louis Napoleon), lật lại quá khứ và xúc tiến những âm mưu từ những bậc giáo sĩ, thương nhân cho đến các chính giới Pháp. Cuối cùng thực dân Pháp cũng đã có được sự ổn định về mặt chính trị cũng như tìm được “duyên cớ” trước những hành động được xem là : “nóng vội, thiếu cân nhắc, nông nổi” của triều đình Huế - trực tiếp là triều Tự Đức qua việc sát hại những thương nhân, giáo sĩ. Bằng việc phê chuẩn một kế hoạch can thiệp quân sự trực tiếp vào 7/1857. Cuối cùng sau khi đánh xong Quảng Châu- Trung Quốc 5/1/1858 và sau khi cùng với Anh làm áp lực buộc Trung Quốc phải ký hiệp ước Thiên Tân (27/6/1858), quân đội viễn chinh Pháp đã hợp lực cùng với quân Tây Ban Nha kéo thẳng xuống vùng biển phía Nam. Đến sáng sớm ngày 1/8/1858, thì đã dàn trận trước cửa biển Đà Nẵng, mở đầu cho một cuộc chiến tranh xâm lược nước ta, mà bọn thực dân Pháp đã từng “ôm ấp” bấy lâu.. Đồng thời cũng là mốc chấm dứt sự kết thúc, mở ra một chương mới cho lịch sử nước ta - Nước Việt Nam thời cận đại. II. Bối cảnh trong nước: 1.Vài nét về tình hình Việt Nam trước khi thực dân Pháp xâm lược: Là một “ngoại lệ duy nhất” trong số các triều đại của lịch sử nước ta được xác lập dựa vào sự hậu thuẫn của các thế lực bên ngoài. Triều Nguyễn (1802-1945), mặc dù trong buổi đầu đã có nhiều cố gắng trong việc xây dựng lại vương triều, trị an đất nước, cũng như là thái độ tương đối “ điềm tĩnh”, “ khôn khéo” trước các thế lực phương Tây- Những con người đã từng giúp đỡ mình trong cuộc chiến tranh đoạt lại vương quyền(nhất là dưới thời vua Gia Long và Minh Mạng). Song đây cũng chỉ là những giải pháp mang tính “sách lược” trong buổi đầu củng cố lại vương quyền. Còn trên thực tế, thì sự thiết lập của vương quyền triều Nguyễn ( 1/6/1802) có thể khẳng định rằng: “ Đây chỉ là sự thắng thế của một tập đoàn phong kiến tối phản động nhất trong nước có tư bản nước ngoài ủng hộ, đối với triều đại Tây Sơn tương đối tiến bộ hơn về nhiều mặt”[3; 11-12].Cũng do đó mà càng về sau, triều Nguyễn ngày càng đi sâu vào con đường phản động bằng việc vừa ra sức phục hồi, củng cố quan hệ sản xuất cũ, vừa cố tình bóp nghẹt lực lượng sản xuất mới trên cơ sở mọi chính sách về chính trị, kinh tế, văn hoá, tư tưởng đều phải được đặt trên sự bảo vệ một cách cao nhất những đặc quyền của tầng lớp thống trị biểu hiện: Vua được xem là “con trời”,“thay trời hành đạo”, tập trung trong tay mọi quyền hành, quyền hành nhà vua được coi là thần khí “thiêng liêng” vô hạn. Nhà vua thực sự là một đại địa chủ lớn nhất nước, có toàn quyền phung phí mọi tài sản quốc gia, trên xương máu của nhân dân. Còn quan lại triều đình và ở các địa phương thì hầu hết là bọn hủ bại, về chính trị thì bảo thủ cầu an, về kinh tế thì tham lam, cuồng bạo, còn về tư tưởng thì luôn tự cao, tự đại với những mớ học thuyết Khổng Mạnh, lỗi thời, luôn xem trật tự phong kiến là “bất di bất địch” cao hơn hết mọi thời đại. Ngược lại trong khi lúc đó thì đời sống của nhân dân vô cùng cơ cực, thêm vào đó lại còn bị sự o ép, bóc lột bằng sưu thuế, tạp dịch của nhà nước và bọn cường hào, địa chủ … thể hiện: Với nông nghiệp: Nền kinh tế tư hữu của nông dân bị xâm phạm nghiêm trọng, ruộng đất thì phần nhiều đều tập trung trong tay bọn địa chủ, còn người nông dân nếu có chăng đi nữa thì cũng chỉ toàn là những chỗ “xương xẩu”. Do đó, mà hiên tượng người nông dân đi lưu tán, tha phương cầu thực được xem là một nét rất phổ bíến dưới triều Nguyễn. Cụ thể “ tính từ năm 1802 đến năm1806 đã có 370 thôn thuộc mấy trấn lớn ngoài bắc đi xiêu tán đi nơi khác, đến năm1826 lại có 108 xã thôn thuộc 13 huyện của trấn Hải dương xiêu tán” [3;12]. Về công thương nghiệp : thì nhà Nguyễn đã thực thi những chính sách vô cùng phản động. Trước hết về công nghiệp thì mọi ngành kinh doanh lớn đều nằm trong tay nhà nước, giữ độc quyền hoặc đánh thuế rất nặng vào các ngành kinh doanh mỏ do tư nhân Hoa kiều hay người Việt đứng ra khai thác, bắt những người thợ thủ công giỏi từ các địa phương khác về cung làm việc nhằm xây dựng các công trình phục vụ cho việc ăn chơi, xa xỉ của bọn vua quan .. dưới hình những hình cưỡng ép, hoặc là dưới những mức thù lao rất thấp. Còn với thương nghiệp thì nhà Nguyễn đã cho thi hành chính sách “trọng nông ức thương” biểu hiện: về nội thương thì nắm độc quyền buôn bán các loại nguyên liệu công nghiệp như ( đồng, chì, kẽm..>) vì sợ nhân dân chế vũ khí chống lại, đánh thuế nặng vào các mặt hàng quan trọng ảnh hưởng đến đời sống nhân dân như: lúa gạo, muối, cấm việc trao đổi, họp chợ giữa các vùng trong cả nước, gây cản trở cho sự hình thành một thị trường dân tộc thống nhất. Ngoại thương thì nắm độc quyền, thực hiện chính sách bế quan toả cảng, cho mở cửa “nhỏ giọt” các cửa biển trong quan hệ với các nước, nhất là với phương Tây. Đối nội: thì nhà Nguyễn đã ra sức đàn áp, khủng bố các phong trào quần chúng trong biển máu, cho ban bố bộ luật Gia Long (1815) với những chế phạt vô cùng khắc nghiệt, gắn liền với đó là việc lợi dụng các sách, vở như văn học… để tuyên truyền cho những chính sách thống trị của mình.Như Minh Mạng cho ra “10 điều huấn dụ”, Tự Đức “diễm âm thập điều diễn ca” để truyền bá rộng rãi học thuyết Nho giáo trên cơ sở đó củng cố ý thức hệ phong kiến đang ngày càng rạn nứt. Đối ngoại: ra sức đẩy mạnh thủ đoạn xâm lược đối với các nước láng giềng như : Cao Miên, Lào làm cho quân lực bị tổn thất, tài chính quốc gia và tài lực nhân dân bị khánh kiệt. Còn đối với các nước phương Tây thì phong kiến nhà Nguyễn thi hành chính sách ngày càng thêm gắt gao( chính sách bế quan toả cảng, cấm đạo, giết đạo…), bằng việc ban hành liên tiếp các đạo dụ cấm đạo theo mức độ tăng dần từ Minh Mạng đến Tự Đức với những hình thức vô cùng dã man như: thích chữ vào mặt, phanh thây, buộc đá vào cổ rồi ném xuống biển cho cá ăn…khi cho rằng: “ Đạo của người Tây đã làm mê hoặc lòng người, lâu nay Tàu Tây đến buôn bán đã đưa các giáo sĩ Giatô vào nước ta, chính họ đã làm tà vạy nhân tâm, phá hoại mỹ tục thiệt là một mối hại lớn cho nước nhà. Bởi vậy trẫm phải lo trừ tuyệt những sự tình lệ đó hầu gìn giữ dân ta không lầm lạc chính đạo”[5;8]. Như vậy, rõ ràng với bản chất và những chính sách vừa nêu trên, nước Việt Nam gần như đã suy yếu về mọi mặt và trở thành miếng mồi ngon đối với sự bành trướng thuộc địa đang ngày một mãnh liệt trước các thế lực của thực dân Âu Mỹ. Nhất là với tư bản Pháp vốn từ lâu đã có cơ sở bên trong nước ta, qua việc nhờ những hoạt động ngấm ngầm và liên tục của bọn gián điệp đội lốt con buôn và giáo sĩ. Còn về phía triều đình Huế do khoác lên cho mình tấm áo choàng của học thuyết Khổng Mạnh vốn đã trở nên quá lỗi thời so với sự tiến bộ của thời đại, nên vô cùng bảo thủ, cố chấp với việc các vua nhà Nguyễn tưởng làm như vậy là có thể tránh được nạn lớn, mà không thấy được muốn bảo vệ độc lập dân tộc, muốn giữ gìn đất nước trong điều kiện quốc gia và quốc tế vốn đang rất phức tạp lúc bấy giờ, biện pháp thích hợp nhất là mở rộng các cửa biển để giao thương qua đó dần từng bước duy tân xứ sở, đẩy mạnh phát triển nông công, thương nghiệp trong nước trên cơ sở đó nhanh chóng bồi dưỡng sức dân, sức nước để có thể đối phó kịp thời và hiệu quả với những âm mưu xâm lược ngày càng đẩy mạnh của tư bản nước ngoài- trực tiếp đó là Pháp.Trái lại càng đóng cửa, càng cấm đạo, giết đạo bao nhiêu lại càng tạo thêm nhiều duyên cớ cho nước Pháp nổ súng tấn công xâm lược sớm hơn mà thôi, và thực tế đã diễn ra đúng như vậy. Ngày 1/9/1858, liên quân Pháp– Tây Ban Nha đã chính thức nổ súng xâm lược nước ta mở đầu cho gót đô hộ suốt gần một trăm năm của đế quốc thực dân Pháp tại Việt Nam (1858-1945) tính từ khi Pháp bắt đầu đặt dấu chân xâm lược chính thức lên nước ta. 2.Cuộc kháng chiến chống xâm lược Pháp của triều đình phong kiến Huế và nhân dân Việt Nam( 1/9/1858 đến 24/6/1867): a.Công cuộc kháng chiến của triều đình phong kiến. Sau khoảng hơn 3 thế kỷ ấp ủ và nuôi niềm hy vọng, cuối cùng nước Pháp cũng đã đạt được “toại nguyện” bằng một cuộc chiến tranh hoàn toàn phi nghĩa trên cơ sở “ rêu rao” những châm ngôn vô cùng lý tưởng “cứu mộ chúa”, “ khai hoá văn minh” cho các dân tộc ở Á Đông. Bằng việc không chần chừ từ ngay sau khi vừa đánh xong Trung Quốc (5/1/2858) và sau khi cùng với Anh gây áp lực buộc phong kiến Trung Hoa phải ký điều ước Thiên Tân (27/6/1858). Quân Pháp đã hợp lực cùng với quân Tây Ban Nha kéo thẳng xuống vùng biển phía Nam. Đến chiều ngày 31/8/1858, thì dàn trận tại cửa biển Đà Nẵng, sang mờ sáng hôm sau (1/9/1858) không cần đợi trả lời tối hậu thư của ta, chúng đã ra lệnh cho tàu chiến bắn đại bác lên các đồn Điền Hải, An Hải, đổ bộ lên bán đảo Sơn Trà, rồi tiến sâu vào nội địa đánh tan phòng tuyến của quân triều đình ở xã Mỹ Thị Lan, sang xâm chiếm xã Cẩm Lệ. Trước thế địch ào ạt, phối hợp cùng nhân dân hai tỉnh Quảng Nam- Đà Nẵng triều đình Tự Đức đã cử Nguyễn Tri Phương làm tổng chỉ huy mặt trận này để lo việc chống giặc. Về phần mình sau khi nhậm chức tổng lãnh binh và đặt chân đến mảnh đất Đà Nẵng, Nguyễn Tri Phương đã huy động nhân dân trong vùng cho đắp một thành luỹ dài chạy từ Hải châu đến tận Phúc Ninh, Thanh Giãn nhằm không cho quân địch tiến sâu vào nội địa. Còn đối với nhân dân trong vùng thì ông ra lệnh cho thực hiện kế “vườn không nhà trống”, tản cư vào bên trong để khỏi bị bắt đi lính, nộp lương thực hay cung cấp thông tin . Kết quả là chiến thuật này đã phát huy tác dụng khi mà nhiều lần quân Pháp định đi sâu vào nội địa, đều bị quân triều đình đánh bật ra và làm thiệt hại khá nặng, đến nỗi một sĩ quan viễn chinh Pháp tham gia mặt trận này đã phải thốt lên rằng: “ cánh đồng mọc lên nhiều công sự các loại, những người Việt đã đạt được tiến bộ lớn trong nghệ thuật chiến tranh. Hôm nay chúng tôi chiếm đóng mảnh đất mà chúng tôi đã chinh phục trong trận đánh mới nhất, nhưng chúng tôi chỉ đuổi quân địch được vài trăm thước vì họ đã ẩn mình trong một phòng tuyến mới trước mặt chúng tôi, mà họ đã củng cố mau chóng một cách kinh khủng”[9;58] cùng bởi thế mà sau năm xâm chiếm chúng vẫn chỉ dậm chân tại chỗ, kế hoạch đánh nhanh thắng nhanh và dự định giáng cho Huế một đòn quyết định coi như đã bị thất bại.Ngược lại trong lúc đó thì những khó khăn của chúng tại đây lại mỗi ngày một tăng thêm do không hợp thời tiết, ốm đau, dịch bệnh, thiếu thuốc men, đạn dược và lương thực tiếp tế… Tất cả những điều đó đòi hỏi giới quân sự Pháp cần phải có sự toan tính, thay đổi kế hoạch và tướng giặc là Genouilly cuối cùng đã phải quyết định chỉ để lại một lực lượng nhỏ tại Đà Nẵng nhằm cầm chân quân triều đình . Còn đại quân kéo vào đánh Gia Định (2/1859) vì cho rằng:“ Sài Gòn có triển vọng trở thành một trung tâm của nền thương mại rộng lớn, là xứ giàu sản vật, lại cách xa kinh đô Huế, nên có thể chiếm được một cách nhanh chóng nhất, cũng như hạn chế được một cách tối đa nhất về mặt thời gian tiếp viện của triều đình Huế”. Quả vậy, giống như đã nhận định ngay sau khi cho chuyển quân vào Nam thì ngày 17/2/1859 chúng đã nhanh chóng chiếm được Gia Định, Tuy nhiên cũng ngay sau khi chiếm được nơi đây, một mặt do không đủ lực lượng để giữ thành, mặt khác sợ những đòn tập kích của quân dân ta nên ngày 8/3/1859 chúng đã phải cho phá thành rút quân xuống đóng dưới tàu, đậu giữa sông nhằm tránh sự mất mát to lớn về mặt con người trước phía ta. Tiếp đó lại chỉ để lại một số ít quân ở Gia Định, còn đại quân một lần nữa lại kéo ra Đà Nẵng để vừa tiếp viện cho số quân Pháp đang đóng tại đây, có nguy cơ bị quân ta tiêu diệt, vừa là để củng cố tinh thần, rồi sau đó tiếp tục mở một đòn thọc sâu vào nội địa, vượt đèo Hải Vân tiến vào kinh đô Huế để ép triều đình Nguyễn phải ký hiệp ước đầu hàng Pháp như ý định ban đầu. Song ý định đó của Gunouilly rồi Page tiếp tục lại không thành vì sự kháng cự mãnh liệt của quân dân ta ở đây. Tình hình đó làm cho quân Pháp ở Việt Nam vô cùng khốn đốn, hơn thế nữa xét về phần nước Pháp, thì từ khoảng 4/1859 do bị vướng vào cuộc chiến tranh với Áo trên đất Ý và mối mâu thuẫn với Anh – Pháp lúc này đang hết sức căng thẳng, nên Pháp cũng không thể dồn toàn bộ lực lượng cho một chiến trường xa như Việt Nam được. Vì vậy, trong hoàn cảnh đó một chủ trương nghị hoà với triều đình Huế được xem là một giải pháp tối ưu, là sự sống còn đối với tương lai xa của nước Pháp tại mảnh đất Việt Nam. Công việc đó lại được tiếp tục bởi Genouilly rồi Page nhưng cũng không thành vì thái độ do dự, không dứt khoát, đánh không dám đánh, mà hoà cũng không ra hoà của triều đình Huế. Ngược lại về phía triều đình Huế, sau khi đã mất thành Gia Định, vua Tự Đức một lần nữa lại cử Nguyễn Tri Phương vào thay Tôn Thất Hiệp, ở đây ông cũng không chủ hoà với địch mà chủ trương công thủ, huy động quân dân vào việc xây dựng đồn Chí Hoà. Trong khi phía Pháp, cuối cùng ngay khi đã liên minh cùng với các nước Tư bản Âu- Mỹ dùng lực lượng vũ trang ép phong kiến Trung Quốc phải ký điều ước Bắc Kinh (25/10/1860) với việc giành nhiều quyền ưu đãi cho nước Pháp, thì người Pháp đã có thể rãnh tay nơi chiến trường trung Hoa, mà tập trung vào chiến trường Việt Nam cụ thể lúc này vua Pháp là Napoleon III đã cử đô đốc Charner với một quyền hành vô cùng rộng lớn, thống lĩnh toàn bộ quân đội Pháp ở Viễn đông, có quyền tuyên chiến hay đình chiến, ký hoà ước cũng như là thực hành kế hoạch để sớm mau chóng hoàn thành việc xâm chiếm Việt Nam. Với quyền hành, trách nhiệm và quyết tâm như vậy, ngay khi đến Nam Kỳ, từ 24/2/1861 đến 3/1862 Charner đã cho mở nhiều cuộc tấn công và sớm nhanh chóng giành được thắng lợi cụ thể là 28/2/1861 quân Pháp đã chiếm được đồn Thuận Kiều, Định Tường (12/4/1861), Biên Hoà (16/12/1961), Vĩnh Long (23/3/1862). Trong lúc đó giai cấp phong kiến cầm quyền có trách nhiệm bảo vệ nền độc lập dân tộc lại tỏ ra hèn nhát, bất lực phân hoá nội bộ ( chủ hoà, chủ chiến ) với những quan điểm, ý kiến đối ngược nhau mà không đưa ra được một giải pháp tốt nhất cho việc đẩy lùi những hành động xâm lược của thực dân Pháp. Hơn thế nữa vì lợi ích giai cấp hẹp hòi, muốn giữ yên vương quyền, cũng như thái độ thờ ơ, thiếu dứt khoát, phản bội nhân dân, phản bội Tổ quốc, nên mục đích chính lúc này của triều đình Huế chỉ là để đối phó với các cuộc nổi dậy của nhân dân ở Bắc Kỳ, Trung Kỳ và Nam Kỳ chứ không phải là bọn thực dân cướp nước. Phần thì nghĩ mình sau khi ký hiệp ước, bằng con đường thương thuyết sẽ lấy lại được những gì đã mất, hệ quả là đã đưa đến một hàng ước đầu tiên và nhục nhã nhất kể từ khi chống thực dân Pháp cho đến giờ - hàng ước 5/6/1862 với việc cắt ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ,đảo Côn Lôn, cùng nhiều nhượng bộ khác cho Pháp. Tuy nhiên không dừng lại ở đó, lợi dụng thái độ không dứt khoát của triều đình Tự Đức. Tiếp đó, chỉ trong vòng bảy ngày từ 18/6-24/6/1867 với tham vọng chiếm toàn bộ Nam Kỳ, khống chế con đường huyết mạch từ hạ nguồn đến thượng nguồn sông Mêkông- miền Nam Trung Quốc, kiềm chế ảnh hưởng và sự mở rộng thuộc địa của thực dân Anh lúc này cũng đang tăng cường hoạt động. Pháp đã cho chiếm nốt ba tỉnh miền Tây mà không hề tốn một viên đạn nào. Như vây, sau hơn chín năm kháng chiến 1/9/1858-/24/6/1867 vì quyền lợi nhỏ nhen của mình. Giai cấp phong kiến thống trị nhà Nguyễn đã từng bước đi dần từ chủ trương kháng Pháp đến hòa nghị, rồi đầu hàng. Cũng chính tư tưởng “ đớn hèn chủ nghĩa” đó đã mở đầu cho một bước trượt dài về sau trong sự nghiệp kháng chiến chống Pháp của triều đình Huế. b. Cuộc kháng chiến chống Pháp của nhân dân ta: Đối lập với thái độ ngày càng bạc nhược của triều đình Tự Đức. Nhân dân ta ngay từ khi thực dân Pháp mới xâm lược đã “vội vàng” tạm gác bỏ mọi mâu thuẫn giai cấp ra phía sau, đưa mâu thuẫn giai cấp dân tộc lên hàng đầu, để giải quyết nhiệm vụ bảo vệ tổ quốc, bảo vệ độc lập của dân tộc cụ thể: Ngay từ những ngày đầu Pháp tấn công Đà Nẵng, nhân dân Đà Nẵng- Quảng Nam dưới sự tổ chức của triều đình Huế đã tích cực thực hiện những chủ trương của triều đình như: kế hoạch vườn không nhà trống, tham gia vào việc đắp đường cái bên sông Vĩnh Điện để đảm bảo cho công tác chuyên chở lương thực, tiếp ứng cho mặt trận Đà Nẵng…Hơn thế nữa họ còn năng nổ trong việc đóng góp những sáng kiến của mình trước những đòn tấn công của quân xâm lược Pháp như vào “tháng 9 và 10 /1858 quân dân tỉnh Quảng Nam đã dùng sọt tre, thúng gỗ chứa đất đá lấp dòng sông Vĩnh Diện để ngăn chặn đường tiến của quân giặc. Dòng sông này bị lấp thế nước sẽ dồn về cửa Đại Chiêm, do đó miền hạ lưu bị cạn, thuyền giặc không thể vào được, quân dân ta chỉ còn lo tập trung phòng ngự ở mặt đường bộ”[9;60] chính nhờ những đóng góp to lớn đó, cũng như được sự tổ chức chặt chẽ, những tư tưởng chiến lược, chiến thuật dụng binh ban đầu của triều đình Huế qua sự lãnh đạo trực tiếp của Nguyễn Tri Phương đã làm nên thắng lợi vang dội tại mặt trận Đà Nẵng, buộc Pháp phải có sự điều chỉnh chiến lược bằng việc đưa quân vào Gia Định(2/1859). Giống như là một truyền thống của dân tộc từ ngàn xưa để lại. Kế đó nối tiếp và phát huy những thành quả của nhân dân Quảng Nam - Đà Nẵng. Với nhân dân Nam Kỳ kể từ khi Pháp công thành Gia Định cũng đã kề vai sát cánh cùng với quan quân triều đình đứng lên xây thành đắp luỹ, sáng tạo và sử dụng những hình thức tác chiến lâu đời của dân tộc như: du kích, tập kích, phục kích…làm cho quân Pháp vô cùng hoang mang dao động, không dám lên bờ đóng quân, mà phải lui xuống đóng trên tàu, nằm giữa dòng sông để tránh những đợt tấn công của quân dân Nam Kỳ như trong trận đánh giữ thành Gia Định của pháp (1859). Họ cũng đã biết tập hợp nhau lại, trong những đoàn thể như ở nghĩa quân Trương Định để chống lại Pháp một cách có hiệu quả. Thậm chí ngay cả khi triều đình đã đớn hèn “bỏ rơi, bán đứng” họ. Họ vẫn “lầm lũi” hăng hái tham gia chiến đấu một cách anh dũng, mặc dù trước và sau đó còn là bao nhiêu bộn bề đang chờ họ như: vợ con, mẹ già…Hay chưa từng một lần cầm súng, ngó trận mạc, giống như nhà thơ mù Nguyễn Đình Chiểu đã từng viết: “ cui cút làm ăn Lo toan nghèo khó Chưa quen cung ngựa sao tới trường nhung Việc cuốc việc cày, việc búa, việc cấy tay vốn quen làm Tập khiêng tập súng, tập mác, tập cờ, mắt chưa hề ngó”[6]. Hoặc là theo một dòng nhật ký từ một tên sĩ quan người Pháp từng tham gia chiến trường lúc bấy giờ cũng đã phải thừa nhận: “chúng ta không biết rằng Việt Nam là một dân tộc kiên cường, gắn bó với lịch sử riêng của mình, với những thể chế riêng của mình và thiết tha với nền độc lập dân tộc của mình. Chúng ta chưa biết rằng Việt Nam chưa bao giờ khuất phục trước kẻ xâm lược. Chúng ta rất đổi khủng khiếp, chúng ta phải đương đầu với một dân tộc thống nhất, ý thức dân tộc của họ không bao giờ suy yếu ”[11;51]. Tóm lại qua đó cho chúng ta thấy rằng đứng trước những lầm than của cuộc sống, cùng với sự đồi trụy của triều đình Tự Đức, trước vận mệnh ngày càng “ bi đát” của đất nước. Nhưng dân tộc ta suốt từ Bắc chí Nam, ngau từ khi thực dân Pháp mới bắt đầu xâm lược đã đứng lên dẹp bỏ mọi mâu thuẫn, lợi ích cá nhân để cùng đồng tâm sát cánh hoặc một mình lầm lũi truớc sự bỏ rơi của triều đình phong kiến để làm tròn “ bổn phận” của mình truớc đất nước, trước sự nghiệp mà ông cha đã để lại. CHƯƠNG II: CUỘC ĐỜI VÀ SỰ NGHIỆP CỦA TRẦN THÚC NHẪN I. Vài nét về tiểu sử, gia thế Trần Thúc Nhẫn: Trần Thúc Nhẫn tên thật là Trần Thúc Bình, sinh năm (1841-1883) tại làng Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, Thừa thiên Huế. Ông sinh truởng trong một gia đình dòng họ khoa bảng. Được biết nguồn gốc, nơi khởi thuỷ của ông được xuất phát từ một vị “ tiên tổ từ miền Bắc theo Thái Tổ gia dụ Hoàng đế( chúa Nguyễn Hoàng- ĐVN) vào Thuận Hoá mộ dân khẩn ruộng rồi nhân ở đó, nay thuộc về Quảng Điền- Thừa Thiên Huế”[2;268). Tổ bốn đời là Nghị đã từng ra làm quan thời Lê. Ông nội ngài (tổ 3 đời) là Trần công Giáng trong một lần chạy loạn nhà Tây Sơn được tin thái tổ cao hoàng đế (Nguyễn Ánh) đóng quân ở Gia Định đã mang con em mình đến theo, cũng tại đây do nhiều lần lập được công trạng, nên Giáng được phong chức tham luận, rồi chức trị hầu. Còn cha thân sinh của ông là Trần Công Đán đã từng đỗ sinh đồ- thời Gia Long, và vì là một nguời có tài về văn học nên cũng được bổ làm hành tẩu nội các, sau đó bị bệnh nên đã xin cáo quan về quê dạy con và dạy học trò, trong đó đã có nhiều người thành đạt nên được suy tặng “ thị tộc học sĩ”[2;268-269]. Trần Thúc Nhẫn có 2 người anh là Trần Bá Soạn đỗ phó bảng năm Thiệu Trị thứ 4 (1844) và làm quan đến chức tuần vũ Hà Tĩnh, còn người anh thứ 2 là Trần Trọng Nhượng đổ Hương tiến (cử nhân) năm Thiệu Trị thứ 6 (1846), được bổ làm quan từ thời Tự Đức năm thứ13 (1860), và mãi cho đến đời Thành Thái thì mới cáo lão về quê, đã từng làm đến chức thượng thư sung kinh diên giảng quan. Trần Thúc Nhẫn tự là Hy Nhân, đỗ hương tiến (cử nhân) năm Đinh Mão (1867) Tự Đức năm thứ 20, lúc này ông mới 27 tuổi, trong thời gian ngắn này trước khi được triệu dụng ra làm quan, ông có mở lớp và dạy học tại trường làng. Trong số đó những người theo học ông có cụ Nguyễn Văn Mại, sau này từng làm tới chức thượng thư. Tiếp đó, ông ra làm quan chưa được tới 8 năm đã thăng tới chức Tam phẩm, cũng tại đây mặc dù cùng làm quan với hai người anh đồng triều và tuy cũng đã có gia đình nhưng anh, em ăn ở với nhau rất hoà thuận, có hiếu với cha mẹ. Được tương truyền có tiếng là “Hà đồng tam phụng”[10;3]. Với đó ông còn được biết là một người có tính tình cương trực, nhẫn nại, lanh lợi, hoạt bát, từng được vua Tự Đức rất mến chuộng cho nên mới được nhà vua ngự phê cho cái tên là Trần Thúc Nhẫn, cụ thể: Năm 1883, sau khi vua Tự Đức băng hà, trong triều đình các quan Tôn Thất Thuyết, Nguyễn Văn tường nắm toàn quyền nhiếp chính đã thay đổi di chiếu và bày ra cảnh phế lập theo ý mình. Trong đó Nguyễn Văn Tường đã giao cho ông thảo ý chỉ nhưng ông đã từ chối, với việc viện lý do đó là công việc của nội các, nên không dám tuân lệnh, truớc việc làm đó của ông đã khiến cho Nguyễn Văn Tường đành chịu nhưng trong lòng rất giận. Cũng năm 1883, nghĩa là truớc khi vua Tự Đức băng hà và sang thời vua Hiệp Hoà ông lại được điều đi làm một chức vụ nhỏ trấn giữ sát bên đài Trấn Hải, gần cửa biển Thuận An, còn lúc quân Pháp đã tấn công vào Thuận An thì ông lại đựoc vua Hiệp Hoà sắc phong là Thương bạc đại thần và cử cùng đi với Phạm Như Xương xuống thuyền đi thương thuyết với Pháp.Chức quan cao nhất mà ông từng làm đến là Tham tri bộ lễ. II. Trần Thúc Nhẫn với sự nghiệp chống thực dân Pháp xâm lược (1867-1883): Được sinh ra, lớn lên và ra làm quan trong bối cảnh vận mệnh đất nước đang bị “lăm le”, xâm lược và mất dần chủ quyền trước sự ngày càng bạc nhược, bán đứng nhân dân, bán đứng tổ quốc, bằng sự khiếp hải, hoang mang không dám cương quyết chống lại xâm lược Pháp của triều đình Tự Đức. Bọn chủ hoà thì chủ trương “thủ để hoà”, chỉ đào hào đắp luỹ để cố thủ và huy vọng “trì cửu” cho quân Pháp mệt mỏi mà rút lui, thậm chí chúng còn nghỉ rằng “Họ ở xa nên không thôn tín nước ta”. Nhưng rồi đại đồn thất thủ, đã làm cho vua quan nhà Nguyễn hoảng sợ đi từ chủ trương “thủ để hoà” dần chuyển sang “hoà vô điều kiện” dần dần khuất phục nhượng bộ cho Pháp, trong đó hai hàng ước 1862, 1867 là một minh chứng xác thực cho điều đó. Trong khi đó nhân dân ta ngay từ những ngày đầu thực dân Pháp xâm lược đã kháng chiến rất anh dũng, và đã làm cho địch phải nhiều phen khốn đốn, đến nỗi chính một tên đô đốc Pháp lúc đó cũng phải thừa nhận rằng: “Hắn đã đụng phải một cuộc kháng cự mạnh mẽ và đáng sợ hơn một cuộc chiến tranh đường hoàng so với quân chính quy của nhà vua”[1;205]. Là một trong những “ công dân” của nước Việt Nam. Đặc biệt là kể từ khi bước chân ra chốn quan trường trước “thảm cảnh” tang thương của đất nước, của nhân dân . Trần Thúc Nhẫn ban đầu tuy mới chỉ là một vị “ tiểu quan” song ông cũng đã có những đóng góp gián tiếp nhất định vào sự nghiệp kháng Pháp. Cụ thể ở đây công việc của ông không phải là trực tiếp cầm quân ra đánh giặc, mà làm nhiệm vụ “an dân, kẻ chăn dắt dân” đôn đốc nhân dân tăng gia sẳn xuất, đào mương đắp đê ổn định đời sống nhân dân… Qua đó vừa bồi duỡng sức dân, vừa tăng thêm đóng góp, tiềm lực cho nhà nước, trong cuộc chiến đấu lâu dài với thực dân Pháp. Hơn thế nữa, ông còn tỏ ra hết sức thanh liêm trong công việc của mình, chính vì lẽ đó, mà chỉ có sau 8 năm làm quan ông đã được thăng đến chức Tam phẩm, Tham tri bộ lễ. Cũng từ đây chắc do cuộc chiến đấu của triều đình Tự Đức trước thế lực xâm lược ngày càng trở nên rối ren, phức tạp. Mặt khác do lúc này ông lại làm một công việc mà ít ai để ý đến (tham tri bộ lễ), do không có tầm quan trọng trong sự nghiệp “quốc gia đại sự”- chính trị của triều đình, nên trong khoảng thời gian này tên tuổi và sự nghiệp của ông cũng ít được các bộ chính sử nhà Nguyễn nói đến, nhất là sự nghiệp chống pháp của ông, điều đó kéo dài mãi cho đến năm 1882-1883, mới được tái hiện trở lại. Cũng xét từ phía triều đình Tự Đức lúc này nối tiếp “sự trượt dài từ những giai đoạn trước” cũng như tiếc thay vì tầm nhìn chiến lược còn hạn chế, trang bị quân sự còn quá lạc hậu và cùng một thái độ luôn “ảo tưởng vào sự thương thuyết hòa bình, lòng vị tha” của người Pháp. Lại càng khiến cho triều đình huế đi đến sự “mờ nhạt” Đầu hàng vô điều kiện trước những lần xâm chiếm của bọn thực dân pháp và hàng ước 1874, tiếp tục lại là một điển hình cho điều đó. Với việc chính thức thừa nhận chủ quyền của nước pháp trên 6 tỉnh Nam kỳ cùng nhiều đặc quyền, đặc lợi về kinh tế và chính trị cho nước pháp như: cho mở một số cửa biển để cho người pháp và người ngoại quốc vào buôn bán, người Việt hay người nước ngoài muốn đi lại trong nội địa Việt Nam điều phải có sự đồng ý về mặt thông hành của người pháp. Đặc biệt kể từ sau thắng lợi 1874, khi mà đã bước đầu có được một phần nhất định về mặt quyền lợi của mình ở Bắc Kì, song song với đó là sự “hòa nhịp”sang giai đoạn đế quốc chủ nghĩa trong xu thế chung của các nước tư bản thế giới, cùng sự cạnh tranh ngày một khốc liệt về mặt thuộc địa, thị trường trong các nước tư bản dường như đã là một “ngọn lửa” “chiếc roi đánh ngựa” đã đẩy mạnh hơn nữa “hung hãn” của nước Pháp trong việc sớm hoàn thành công cuộc bình định tại vùng đất Việt Nam. Đúng như “tiên đoán” ngày 30-7-1883 (quý mùi) bọn trùm thực dân hiếu chiến Pháp bao gồm Tổng ủy viên Harmand, thiếu tướng Bouet và thiếu tướng Courbet đã hội nhau lại ở Hải phòng nhằm bàn bạc về việc tiến binh, thực chất của kế hoạch này là tiến công vào Huế để gây sức ép buộc triều đình Huế phải kí hiệp ước chấp nhận nền “bảo hộ” của nước Pháp tại Việt Nam, mười hai ngày sau thì kế hoạch đó được chính phủ pháp phê chuẩn.Trước đó, ngay sau khi Rivie chết thống đốc Nam Kì lúc này là Thomson cũng đã điện cho bộ ngoại giao Pháp nói rằng: “Nếu vua Tự Đức chưa nghe tiếng súng đại bác thì không chịu kí hiệp ước để nhượng bộ thêm cho nên phải phải đánh vào tận kinh đô Huế, mà muốn thế thì chỉ cần thu mấy đồn đài ở Thuận An là đủ”[10;66]. Thực hiện kế hoạch, ngày 15-8-1883 Pháp đã cho tập trung quân ngoài khơi cửa biển Đà Nẵng một số đơn vị hải quân từ Bắc Kì vào và Nam Kì ra để phối hợp hành động.Trong đó cánh quân từ phía Bắc Kì vào lực lượng gồm có: 6 tàu chiến với hai thiết giáp hạm, hai pháo hạm do đô đốc Courbet chỉ huy. Còn cánh quân từ phía Nam Kỳ ra gồm có: 1chiến hạm, một pháo hạm có chở theo 600 lính Âu-Mỹ, 100 lính và phụ tá người việt dưới sự chỉ huy của 4 viên đại tá trong số đó có đại tá Kheinart trợ lý của thống đốc nam kỳ ThomSoSom, toàn bộ lực lượng này đều được đặt dưới quyền chỉ đạo chung của tổng ủy viên Harmand. Tiếp đó ngày 16-8-1883, Harmand và Courber lại kéo 8 chiếc tàu chiến và khoảng 1000 quân ra đậu ngoài khơi ngoài cửa biển Thuận An, đến ngày hôm sau (17-8-1883) từ thiết hạm LeBuyard Harmad đã gửi tối hậu thư cho triều đình Huế với điều kiện phải nộp cho pháp tất cả căn cứ quân sự Thuận An trong vòng 24giờ. Ngày 18-8-1883, sau khi chờ đợi không thấy sự phúc đáp của triều đình huế, cũng như việc ấn định thời gian trong chiến thư đã hết các tàu, đại bác Pháp bắt đầu tấn công thuận An từ khoảng 16h30 đến 20h tối. (lúc này ở cụm phòng thủ trấn hải có các quan trấn giữ như Lê Sỹ,Lâm Chuẩn, Nguyễn Trung, Lâm Hoằng…) Trước tình hình đó, Trần Thúc nhẫn đã được hiệp hòa sắc phong cho là Thương Bạc Thần, đồng thời cũng giao cho trọng trách cùng với Phạm Như Xương đi thương thuyết với pháp. Nhận lệch 19-8 tức chỉ sau một ngày sau khi quân pháp tấn công thuận An, Ông đã phụng chỉ xuống thuyền đi thương thuyết với đặc phái viên pháp. Tuy nhiên, do thời tiết xấu hơn nữa một phần do chiến sự quá ác liệt nên dù đã suốt 3 ngày 3 đêm thuyền của ông cũng không thể nào cặp được tàu pháp, đành phải quay trở lại và cuộc thương thuyết coi như đã không thành. Ngày 20-8, phía pháp lại bắt đầu mở một đợt tấn công mới bằng cách dùng chiến thuật “tiến pháo hậu xung”, chia quân xuống các thuyền nhỏ chở vào đổ bộ và đánh bọc hậu 2 bên hông thành trấn hải.Trong bối cảnh “ngàn cân treo sợi tóc” như vậy Trần Thúc Nhẫn đã không thể ngồi yên nhìn quê hương xứ sở, kinh đô của nước mình phút chốc bổng rơi vào tay giặc Pháp. Do vậy cùng lúc ngay sau khi quân Pháp mở cuộc tấn công đợt 2 (20-8-1883) từ Đài Trấn Hải và các đồng phụ cận Trần Thúc Nhẫn đã chỉ huy các nghĩa sĩ chân đất, cùng dân biểu phú vang quyết tâm bám giữ bờ cõi của Tổ Quốc, tuy nhiên giữa lúc đó quân Pháp lại bắn thốc lên cho bơi thuyền vào, rồi đổ bộ vào thành Trấn hải.Tại đâyTrần Thúc Nhẫn lại cùng với những người dân chân đất, áo rách, mình trần vật lộn với quân giặc trong lửa đạn và đã bắn trúng pháo thuyền xung kích là Vipe của địch. Giặc lại đổ quân lên cầu chiều thương cục bắn thốc vào đài Trấn hải, bắn cháy ngư lầu, ông lại tiếp tục chỉ huy anh em cầm đại đao xông thẳng vào đám giặc và lấy những khẩu súng khoa sơn hạ nòng bắn ngay vào đám giặc. Cũng chính tại nơi đây suốt 3 ngày 3 đêm tham tri bộ Trần Thúc Nhẫn đã cùng với anh em “cơm không kịp ăn, mũ không kịp đội, áo quần thì rách tả tơi”, nhiều người còn phải đóng khố trong khi chiến đấu, riêng với người ông thì lem luốc khói thuốc súng và đất cát. Do vậy chính trong những ngày khói lửa đó hình ảnh của ông đã để lại ấn tượng rất sâu sắc trong tâm khảm của những người đương thời, rồi lưu truyền trong con cháu ở thuận An mãi mãi cho đến hôm nay họ xem ông đứng trước sức tấn công của quân thù như “Người anh hùng Nguyễn Huệ thời tây sơn, như Hoàng Diệu và như bao người con ưu tú khác của dân tộc, của quê hương đã sả thân vì nền độc lập tự do của tổ quốc trong những ngày đầu chống quân xâm lược pháp”[13]. Tuy nhiên do vì quá thua xa về vũ khí, cũng như trước hỏa lực của quân địch quá mạnh nên đồn trấn hải và các đồn xung quanh khác ở cửa biển thuận an cuối cùng đều lọt vào trong tay kẻ thù. Đứng trước sự mất mát to lớn đó thì thị lang bộ lễ trần Thúc Nhẫn đã nhảy xuống phá để tự vẫn để cùng chia sẽ với các vị tướng như: Lâm Hoàng, Lê Chuẩn, Lê sĩ …đã hi sinh trước đó, vì “ông nghĩ rằng mình đã không làm tròn trách nhiệm đối với non sông”[11]. Vì vậy cảm phục trước khí phách chiến đấu anh dũng, ngoan cường, lòng quả cảm, quyết tâm giữ gìn thành trấn hải triều đình Huế đã có câu đối bằng chữ hán điếu tặng ông - vị liệt sĩ tuẫn tiết vì nghĩa lớn như sau: “Như hà mạc như chi hà, ngọc thạch can qua chi bội Hữu hạnh diệc, hữu bất hạnh ba đào ninh bậc cô châu”[14]. Dịch là: “Thời thế làm sao, ngọc cũng đã tan khói lửa May rủi thôi đành vậy, thuyền nan phổ mặc ba đào”. Mặt khác đứng về phía nhân dân cảm thương và kính trọng đối với tất cả những người bị trận vong và nạn vong trong cuộc chiến ấy (trong đó có Trần Thúc Nhẫn). Nhân dân Thuận An đã cho xây dựng một ngôi miếu thường được gọi là miếu âm linh để thờ phụng và ghi nhớ các tướng lĩnh, binh lính và nhân dân đã hi sinh trong trận đánh lịch sử năm 1883 ấy. Hiện nay trong miếu này vẫn còn thờ đôi câu đối mà triều đình huế đã tặng ông sau khi ông mất. Cho nên cũng vì lẽ đó mà về sau mỗi khi đến ngày 18,19,20/07 nhân dân thuận An lại tổ chức cúng lễ để tưởng nhớ những hương hồn, vong linh đã ra đi cho vinh quang của tổ quốc ( dù cho mãi đến năm 1945 nó mới được trở thành hiện thực). Còn đứng về phía triều đình Huế, sau khi ông cùng các tướng lĩnh trấn giữa các thành ở Thuận An mất, thì nhà Nguyễn đã không tiếp tục đứng lên tổ chức nhân dân chiến đấu, trái lại còn cử Nguyễn Trọng Hợp và Trần Đình Túc ra đi thương thuyết với Pháp. Hệ quả một hàng ước một lần nữa lại tiếp tục được ký kết vào ngày 25/8/1883 ,với những điều khoản vô cùng nặng nề trong đó có việc chính thức thừa nhận sự bảo hộ của Pháp, mọi công việc chính trị, kinh tế, ngoại giao của Việt Nam đều phải do Pháp nắm. Kế đó không dừng lại ở đấy triều đình Huế lại tiếp tục lấn sâu vào con đường “tội lỗi”không thể cứu vãn được qua việc tiếp tục ký các hàng ước vào các năm 1884,1885 để rồi cuối cùng là sự ra đi, bôn ba của Hàm Nghi- mở đầu cho một chương đen tối cho toàn bộ lịch sử dân tộc dưới gót thống trị của thực dân Pháp suốt 60 năm nếu tính từ (1885-1945), và 84 năm nếu tính từ (1858-1945). Tóm lại, dù đã cả thế kỷ nay song tên tuổi, cũng như sự nghiệp chống pháp và trận đánh quý mùi năm 1883 của Trần Thúc Nhẫn vẫn mãi mãi được ghi vào lịch sử của dân tộc Việt Nam nói chung và nhân dân Thừa Thiên nói riêng. Chương III. ĐÁNH GIÁ NHÂN VẬT LỊCH SỬ TRẦN THÚC NHẪN I. Những đóng góp: a. Một con người giàu lòng yêu thương dân, sống có tình có nghĩa. Qua nghiên cứu, tìm hiểu con người và sự nghiệp của nhân vật Trần Thúc Nhẫn lòng tôi vừa tràn dâng niềm trân trọng đối với một con người giàu lòng yêu nước, thương dân, tính tình cương trực, khảng khái ….vừa không khỏi băn khoăn về sự kết thúc mang tính “bi kịch” của một nhân vật lịch sử vốn đã sống và mất cách ngày nay với chúng ta cả hơn một thế kỷ (1841-1883 đến 2010). Như chúng ta đã biết vào đầu thế kỷ XIX, Nguyễn Ánh đã dựa vào thế lực của người pháp đánh đuổi nhà Tây Sơn giành lại chính quyền, thành lập ra một chế độ phong kiến tối phản động nhất trong lịch sử nước ta, giống như giáo sư Đinh Xuân Lâm đã từng nói: “Triều nguyễn thành lập là sự thắng thế của tập đoàn phong kiến tối phản động nhất trong nước, có tư bản nước ngoài ủng hộ đối với triều đại tây sơn tương đối tiến bộ hơn về nhiều mặt”. Chính sự khôi phục của triều nguyễn đã khiến cho xã hội nước ta sau hơn 300 năm loạn lạc và nội chiến liên miên, ngày càng thêm khủng hoảng trầm trọng –nông nghiệp thì đình đốn, công nghiệp thì kìm hãm không phát triển được, sự bất bình của nhân dân qua các cuộc khởi nghĩa đã liên tiếp nổ ra điều đó khiến cho Tự Đức cũng phải thốt lên rằng “sự đời ngẫm nghĩ, nghĩ mà nghê” (thơ ngẫu cảm). Cũng trong khoảng thời gian đó bọn thực dân pháp đã “mai phục” từ lâu, rồi bắt đầu nhảy vào xâm lược nước ta, chúng đã nổ súng tấn công Đà Nẵng. Hay trước đó cần phải nói rằng trong sự phát triển và mối quan hệ Đông- Tây thì thế kỷ XV được coi là thế kỷ bản lề khi mà trước đó Phương Đông (trong đó có Việt nam) đã phát triển sớm hơn so với các nền văn minh tỏa sáng trong lịch sử nhân loại, nhưng cũng từ đây phương đông lại dần đi vào tình trạng trì trệ, lạc hậu, chậm tiến và không vượt lên kịp so với “trào lưu tiến hóa” của nhân loại. Ngược lại trong lúc đó phương tây đã nhanh chóng vượt qua “đêm trường trung cổ” đi vào con đường phát triển tư bản chủ nghĩa. Sau cuộc tích lũy của tư bản chủ nghĩa vào cuối thế kỷ XV đầu thế kỷ XVI lần đầu tiên chủ nghĩa tư bản ra đã đời ở một số nước tiên tiến như: Hà Lan, Bồ Đào Nha, Tây Ban Nha,…rồi qua thế kỷ XVII-XVIII với các cuộc cách mạng tư sản ở Anh, Pháp… đã mở ra một thời đại phát triển mới của chủ nghĩa tư bản mới trong lịch sử thế giới, nối tiếp là cuộc cách mạng công nghiệp cuối thế kỷ XIX dẫn đến sự ra đời của một số nước văn minh công nghiệp. Hậu quả của sự phát triển Đông- Tây cùng sự phát triển chênh lệch trên các nước phương đông đó- Ngoại trừ Nhât Bản đã lần lượt bị các nước tư bản phương tây can thiệp và xâm lược, biến thành thuộc địa hoặc phụ thuộc dưới nhiều dạng khác nhau. Trong đó Việt Nam cũng cùng chung số phận với các nước phương đông đó. “Từ ngày đi sứ đến Tây kinh Thấy việc Âu Châu phải giật mình”. Từ năm 1858, trở đi đứng trước sự uy hiếp của chủ nghĩa tư bản pháp ngày càng lộ liễu và trắng trợn. Triều đình huế đã ngày càng tỏ ra hoang mang, dao động, không dám cương quyết chống lại sự xâm lược của Pháp bọn chủ trương hòa thì “thủ để hòa” chỉ đào hào và đắp lũy để cố thủ và hi vọng “trì cửu” cho quân pháp mệt mỏi để rút lui, thậm chí tai họa hơn họ còn nghĩ rằng: “họ ở xa lạ nên không thôn tính được ta và vì ta lạnh nhạt nên họ mới đánh ta” (ĐVN nhấn mạnh). Nhưng rồi đại đồn thất thủ đã làm cho vua quan nhà Nguyễn hoảng sợ, từng bước đi từ chủ trương “thủ để hòa” chuển sang “hòa vô điều kiện” dần khuất phục, nhượng bộ thực dân Pháp để cho chúng chiếm ba tỉnh miền đông, rồi ba tỉnh miền tây…thông qua hai hiệp ước 1862 và 1867. Như vậy một lần nữa nói qua về bối cảnh lịch sử của đất nước và những chuyển biến mau chóng của thời đại .Để qua đó cho chúng ta thấy rằng: Trần Thúc Nhẫn đã sống và hoạt động (1841-1883) trong một bối cảnh đầy thách thức của đất nước và của dân tộc. Khi mà lần đàu tiên trong lịch sử, dân tộc ta phải đương đầu với một cuộc xâm lược của một nước tư bản phương tây trên một trình độ phát triển về kinh tế, chính trị, xã hội và trang bị kĩ thuật cao hơn hẳn nước ta. Là “con dân” của nước Việt Nam và từng làm quan vào thời kì chế độ phong kiến đang trên đà suy tàn, thối nát, đất nước từng bước rơi vào tay thực dân Pháp. Do đó trước và sau khi ra làm quan chứng kiến thảm cảnh của đát nước bị “xẻo” dần từng miếng đầu tiên là ba tỉnh miền đông rồi ba tỉnh miền tây…trong lòng ông đã vô cùng đau xót, nhưng chỉ với chức danh của một vị quan nhỏ. Hơn thế nữa dù sau này đã có tăng thêm cấp bậc “tham tri bộ lễ” - Một trong sáu bộ có vai trò và quyền lực chính trị ít quan trọng và thất nhất trong thời đại phong kiến cũng như không phải là một bậc võ quan, một vị đại thần có trách nhiệm trực tiếp trước đại cục . Nhưng đứng trước vận mệnh của đất nước ông cũng đã tỏ ra hết hết sức lo lắng, bằng việc ông đã không chịu ngồi yên ở một chỗ, mà đã đem hết sức lực ra phụng sự đất nước, phụng sự nhân dân qua đó mong có một phần nhỏ vào công cuộc chống ngoại xâm của nước nhà. Khi mà ở giai đoạn đầu còn làm quan ở xã, huyện ông đã luôn luôn lấy lòng nhân ái của mình để đối xử với nhân dân. Khuyến khích nhân dân đẩy mạnh sản xuất, cùng dân đắp đê chống lụt, dẹp yên toán trộm cướp, bảo vệ tài sản của nhân dân….để làm tròn trách nhiệm của kẻ chăn dắt nhân dân qua đó mà làm cho “dân cường nước thịnh”để đẩy lùi, tiến lên, và đánh bại cuộc xâm lược của thực dân pháp. Chính nhờ những cống hiến đó đã giúp cho ông trong sự nghiệp làm quan đã được triều đình trọng thưởng và phong lên đến chức tam phẩm. Với đó ông không chỉ đem tấm lòng, sự nhân ái của mình ra đối xử với công việc, với nhân dân. Mà ngay trong chính gia đình ông, ông cũng luôn đem sự tình nghĩa, lòng hiếu thảo, sống có tình có nghĩa ra đối xử với cha mẹ và mọi người trong gia đình, vì vậy mà đã được tương truyền là: “hà đồng tam phụng”. b. Một con người tính tình khẳng khái, nhẫn nại cương nghị. Tuy là người xuất thân trong dòng họ khoa bảng, từng được đào tạo trong trường lớp nho học cũng như là từng tham gia vào chính quyền phong kiến vốn đã trở nên ngày càng đồi trụy. Ngoài việc bên cạnh đã dạy cho ông một khuân luật chặt chẽ về phong cách làm việc, cách đối nhân xử thế, tuân lệnh người trên dù cho họ đúng hay là sai…vốn sẵn có như là một sự “bất di bất dịch” của chế đọ phong kiến. Song không vì thế mà ông hoàn toàn nghe theo cụ thể tương truyền rằng :vào năm 1883 sau khi vua Tự Đức băng hà, trong triều các quan Tôn Thất thuyết, Nguyễn văn Tường nắm toàn quyền nhiếp chính đã thay đổi di chiếu và bày ra cảnh phế lập theo ý mình ở đó Nguyễn Văn Tường đã giao cho ông công việc thảo ý chỉ, ông đã không nhận và viện lý do rằng đó là công việc của nội các nên không dám nhận, sự thể đó đã làm cho Nguyễn Văn tường đành chịu, nhưng trong lòng rất giận. Hay cũng không phải ngẫu nhiên mà trước đó ông lại được vua tự đức rất mến chuộng và phong cho ông cái tên là Trần Thúc Nhẫn. c. Một con người xả thân vì nghĩa lớn để tận trung với tổ quốc, với nhân dân. Tính đến năm 1882, 1883 giữa lúc cuộc chiến đấu của nhân dân ta đang diễn ra sôi nổi trên tất cả các chiến trường, nhất là tại bắc kỳ và trung kỳ, thì triều đình huế lại tỏ ra vô cùng lúng túng, phân hóa mãnh liệt giữa hai phái chủ hòa và chủ chiến để rồi nhường bộ, đầu hàng từng bước trước những tiếng súng dọn đường, gặm nhấm dần từng bước của thực dân Pháp. Năm 1883 trong khi đang còn “bận rộn” ở chiến trường phía bắc (bắc kỳ) thì được tin vụa Tự Đức mất (17-7-1883), kéo theo đó là những rắc rối trong nội bộ triều đình sau khi Tự Đức mất trước cơ hội đó ngày 30-7-1883 bọn hiếu chiến thực dân pháp đã họp hội nghị quân sự ở hải phòng bằng việc thông qua một kế hoạch tấn công thẳng vào huế, gây sức ép buộc triều đình huế phải ký hiệp ước chấp nhận nền bảo hộ của Pháp tại Việt Nam. Chuẩn y kế hoạch ngày 15-8-1883 Pháp đã kéo ra cửa biển đà nẵng, rồi thuận an (16-8), ngày 17 thì gửi tối hậu thư buộc ta phải trả lời trong vòng 24giờ . ngày 18-8-1883 sau khi thời hạn ấn định trong thời hạn chiến thư đã hết, quân pháp bắt đầu tấn công thuận an . Tại đây ngày 19-8 nghĩa là chỉ một ngày sau khi quân pháp tấn công Thuận An. Thì cũng như những trí thức dân tộc chân chính khác, Trần Thúc Nhẫn đã dám đứng ra nhận trách nhiệm, thay mặt triều đình Huế lúc bấy giờ đi thương thuyết với Pháp, mặc dù cuộc thương thuyết đã thất bại trước những sự bất lợi của điều kiện khách quan và chủ quan. Hay nối tiếp sau đó, có thể nói khác với các bậc quan lại trước đó hoặc cùng thời như: Phan Thanh Giản, Trần Tiến Thành, Nguyễn Thành Ý … Đứng trước những những giờ phút “sống còn”, “ngàn cân treo sợi tóc” của đất nước, trước những đợt hỏa kích của quân Pháp, Trần Thúc Nhẫn đã cùng với quân lính đầu trần, chân đất, vũ khí thô sơ, áo quần rách mướt xông thẳng ra trận mạc. Tuy nhiên do trình độ tác chiến và vũ khí quá thô sơ, ông đã hy sinh trong tư thế của người anh hùng tận trung với non sông đất nước, với nhân dân. Như vây, tuy thất bại trước sức mạnh của hỏa lực Pháp, nhưng Trần Thúc Nhẫn đã thể hiện một trách nhiệm, một tinh thần và tấm lòng vì đất nước, vì dân nhân cho dù phải hy sinh cả tính mạng mình. Tinh thần chiến đấu dũng cảm của Trần Thúc Nhẫn và các binh sĩ còn được chính đối phương của ông, một sĩ quan Pháp từng tham gia chiến trận ở Thuận An thừa nhận “Những người pháo thủ Việt Nam đã chịu đựng dũng cảm ba ngày bắn phá tới tấp của các tàu chiến Pháp. Nếu họ biết điều chỉnh chính xác nòng pháo thì chúng ta (chỉ quân Pháp) sẽ tổn thất nhiều hơn”[8;27]. Như vậy với những đóng góp quan trọng nêu trên, tên tuổi và sự nghiệp của Trần Thúc Nhẫn xứng đáng được người đời ca tụng và lưu truyền như một “báu vật” của Tổ quốc. II. Những hạn chế: Có thể nói rằng, ở nhân vật Trần Thúc Nhẫn để tìm ra những hạn chế hoặc quy cho ông những tội trạng trước nhân dân, tổ quốc hoàn toàn đúng nghĩa theo cách đánh giá của một nhà sử học chân chính là một điều dường như không có. Trái lại, nếu có chăng đi nữa thì ông cũng chỉ là “nạn nhân” trong vô số những nạn nhân trước, sau hoặc cùng thời với ông mà thôi. Cụ thể đó là lần đi thương thuyết bị thất bại và trong trận chiến đấu bảo vệ Thuận An trong 3 ngày 18, 19, 20/8/1883 với thực dân Pháp. Song thực tế, sử học mác xít đã chỉ ra rằng: khi xét công lao hay tội trạng của một nhân vật lịch sử thì chúng ta cần phải căn cứ vào bối cảnh lịch sử mà nhân vật đó đang sống như thế nào? tính cách của nhân vật lịch sử đó là gì? và những đóng góp của họ đối với lịch sử ra làm sao? Hay giống như Lênin đã từng nói: “Khi xét công lao của các nhân vật lịch sử người ta không căn cứ vào ở chỗ họ không cống hiến được gì với những đòi hỏi của thời đại đương thời, mà căn cứ vào chỗ họ đã cống hiến được gì mới so với các bậc tiền bối của họ”[4;214-215]. Như vậy nếu căn cứ vào thời điểm Trần Thúc Nhẫn đã đi thương thuyết và sau cùng là việc để thất bại trong trận chiến ở Thuận An năm 1883 thì rõ ràng ông không có tội gì lớn. Trái lại, qua sự việc đó càng cho chúng ta thấy bản chất phản động, bán rẻ nhân dân, bán rẻ Tổ Quốc, cũng như trách nhiệm lớn lao của nhà Nguyễn trong việc để nước ta bị rơi vào tay thực dân Pháp. Qua đó nó cũng khiến chúng ta liên tưởng tới những lần đi thương thuyết của Phan Thanh Giản hay các vị quan khác trước đó về sự “che dấu, vu oan, quy đổi trách nhiệm” của triều đình Huế cho những người vốn đã không có trách nhiệm trực tiếp về “quốc thể” giống như Trần Thúc Nhẫn. Còn việc để mất những đồn lũy ở Thuận An vào tay Pháp xét cho cùng ông cũng không có tội gì. Bởi lẽ, khác với các vị quan trước đó như Phan Giản, Trần Tiễn Thành …đứng trước sức mạnh có thể nói là “gê gớm” của phương tây, ông đã không hề chùn chân, trốn tránh… trái lại thậm chí, ông đã nhiều lần trực tiếp xông pha ra trận mạc ngăn bước tiến của giặc. Hơn nữa, ông cũng không phải là một vị quan giỏi về binh lược, càng không phải là người trực tiếp đứng ra điều phối quân sĩ như các vị thống tướng như Lâm Hoằng, Lê Sĩ, Nguyễn trung … thì việc ông để mất thất bại cũng dễ hiểu và thông cảm. Tóm lại, khi nói đến những hạn chế của Trần Thúc Nhẫn, mỗi chúng ta cần phải có một cái nhìn,thái độ của sự “chia sẻ, đồng cảm”, trước thời cuộc của ông – Một thời cuộc mà ở đó mọi sự quyết định, hành động đều phải tuân theo mệnh lệnh của nhà vua. Cho nên những mặt được xem là hạn chế của ông, xét đến cùng thì triều đình nhà Nguyễn mới chính là người có tội trực tiếp hơn cả. KẾT LUẬN Trần Thúc Nhẫn – một danh sĩ thời Tự Đức, được xưng tụng là bậc tiết nghĩa, mặc dù đã sống cách chúng ta đến cả hơn thế kỷ nay, nhưng tên tuổi và khí phách của ông vẫn ngời sáng cho thế hệ chúng ta hôm nay và mai sau học tập và noi theo. Nói đến Trần Thúc Nhẫn, nhân dân Thừa Tiên Huế không ai không nhớ đến trận chiến đấu ở Thuận An năm 1883 – Đó là trận chiến đấu oanh liệt, dũng cảm,và đầy bi hùng của lịch sử dân tộc, tại đây với cương vị là Tham tri bộ lễ, trong lúc bối cảnh rối ren của triều đình Huế, hai phái chủ chiến vả chủ hòa có những mâu thuẫn, nhưng Trần Thúc Nhẫn đã luôn tỏ ra là một nhà yêu nước chân chính. Ông đã dám nhận lệnh,thay mặt triều đình lúc bấy giờ đi thương thuyết và chiến đấu với thực dân Pháp khi chúng có mưu đồ chiếm kinh đô Huế. Mặc dù mưu sự tuy chưa thành nhưng công lao của ông cũng đã có những đóng góp nhất định, đó là việc ngăn chặn không cho quân Pháp đổ bộ trực tiếp lên kinh đô Huế, cổ vũ khí thế đấu tranh của nhân dân…vv Do vậy, với những đóng góp tích cực của ông nên cả thế kỷ nay, hàng năm cứ đến ngày kỷ niệm thuận an thất thủ nhân dân địa phương lại tụ tập quanh lăng mộ Trần Thúc Nhẫn ôn lại những đức tính cao đẹp của ông – Một khí phách chiến đấu ngoan cường, lòng quả cảm, trung hiếu…một tấm gương sáng cho các thế hệ sau này noi theo ý nghĩa hơn thế nữa hiện nay ở thành phố Huế tên tuổi của ông còn được đăng cho tên đường (Đường Trân Thúc Nhẫn), nhằm để tưởng nhớ công lao của một vị đại thần, một vị quan yêu nước đã có những đóng góp to lớn trong những ngày đầu chống Thực Dân Pháp xâm lược trong việc gìn giữ đất nước nói chung và quê hương Thừa Thiên Huế nói riêng. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1- Chương Thâu, Góp phần tìm hiểu một số nhân vật trong lịch sử Việt Nam, Nxb Chính trị quốc gia, 1998. 2- Đại nam thục lục, bản dịch đã dẫn, tập IV, Tr 268-269. 3- Đinh Xuân Lâm, Đại cương lịch sử viêt nam tập II, Nxb Giáo dục,2000. 4- Lê Nin toàn tập,Nxb Tiến bộ,M,1974,T.2,Tr.214-215. 5- Đinh Xuân Lâm “Triều Nguyễn trước âm mưu bành trướng của các thế lực phương tây (1802-1858)” - Tạp Chí Nghiên Cứu Lịch Sử, số 6/93,Tr 6- 7. 6- Trần Đình Sử (tổng biên tập), Ngữ văn nâng cao 11 tập, Nxb Giáo dục, 2007. 7- Nguyễn Văn Tận, Đại cương lịch sử thế giới, Nxb Giáo dục,2005. 8- Nguyễn Quang Trung Tiến, “Trận đánh pháp ở Thuận An 115 năm trước (8.1883 – 8.1998)” – Huế xưa và nay,số 28/1998,Tr 26-27. 9- Nguyễn Quang Trung Tiến, “Về nguyên nhân thắng lợi của triều đình Huế ở mặt trận Đà Nẵng” – “Tạp chí thông tin khoa học và công nghệ”, số 3(21).1998. 10- Phan Thuận An, “Nhớ ngày thất thủ Thuận An” – Tạp chí thông tin khoa học và công nghệ, số 2(20),2008. 11- Phan Ngọc Liên, Lược sử Đông Nam Á, Nxb Giáo dục,1998. 12- Phan Khoang,Việt nam pháp thuộc sử, Nhà sách khai chí sxuất bản, Sài Gòn, 1960. 13- Sở văn hóa thông tin bảo tàng Thừa Thiên Huế, Bản lược kê lý lịch di tích, Huế, 1994. 14- Trích theo lời kể của Bác Trần Thúc Ngung, thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. 15- Trích trong gia phả nhà họ Trần Thúc Nhẫn, lưu trữ tại dòng họ nhà Trần, thôn Niêm Phò, xã Quảng Thọ, huyện Quảng Điền, tỉnh Thừa Thiên Huế. PHỤ LỤC ChÝnh s¸ch cña nhµ NguyÔn ®èi víi nh÷ng ng­êi theo ®¹o c«ng gi¸o. (Nguån http:www.google.com.vn) Liªn qu©n Ph¸p, T©y Ban Nha tÊn c«ng §µ N½ng 1858. Thùc d©n Ph¸p tÊn c«ng thµnh Gia §Þnh ( 2/1959 ). (Nguån http:// vi.wikipedia.org) Chiến hạm Bayard và cuộc tấn công thuận an 1883. Hòa ước quý mùi (25/8/1883). (http:www.google.com.vn) Ảnh các Anh hùng liệt sĩ tại Thuận An Cửa biển Thuận An hiện nay Toàn cảnh bãi biển Thuận An Đầu đường Trần Thúc Nhẫn TP-Huế. (Nguồn Đồi Thông Từ Hiếu - Nơi chôn cất Trần Thúc Nhẫn Bia Mộ Trần Thúc Nhẫn Mộ Trần Thúc Nhẫn và phu nhân của ông Lăng mộ Trần Thúc Nhẫn (Nguồn: Ảnh tác giả)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docbai_nien_luan_tot_nghiep_nam_47971.doc