Khóa luận Triển vọng khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA : ASEAN - China Free Trade Area)

Các nước ASEAN đã trải qua 10 năm đàm phán, đã kí kết hàng loạt các hiệp định về loại bỏ hàng rào thuế quan, thống nhất các tiêu chuẩn sản phẩm và thuật ngữ thuế quan, đơn giản hoá và thống nhất thủ tục hải quan, xây dựng cơ chế trao đổi nhân lực và thông tin, đã xác định mục tiêu trung và dài hạn, đã xác định cơ chế hiệp thương và cách đàm phán tương đối ổn định. Nội dung chính của AFTA, cũng như của ACFTA là tự do hoá thương mại. Xét về một khía cạnh nào đó, có thể nói AFTA là một nền móng quan trọng cho sự hình thành ACFTA. Vì vậy, ACFTA có thể tham khảo mô hình của AFTA trong quá trình hoàn thành khu vực mậu dịch tự do tự do này. Trên thực tế, những hành trình giảm thuế quan và phi thuế đã được đưa ra trong Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện của ASEAN - Trung Quốc cũng có nhiều điểm giống với phương pháp giảm thuế đã được áp dụng trong AFTA. Tuy nhiên học hỏi mô hình của AFTA không có nghĩa là Trung Quốc sẽ gia nhập vào AFTA mà chỉ là áp dụng những khuôn khổ chủ yếu và cơ cấu tổ chức của AFTA. Do bản thân việc thành lập AFTA đã trải qua một thời gian dài và có một số kinh nghiệm, ACFTA có thể từ đó rút ra những bài học bổ ích, từ đó sẽ giúp ACFTA giảm bớt thời gian và chi phí trong quá trình điều chỉnh kinh tế vi mô thông qua những biện pháp cụ thể. Hai bên cũng có thể tận dụng cơ chế của khu mậu dịch tự do, cố gắng đẩy mạnh tiến trình hợp tác hoá mà nội bộ ASEAN chưa thể giải quyết được. Ví dụ như kế hoạch về xây dựng Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) mà các nước ASEAN đưa ra vài năm trước nhưng đến nay cũng mới chỉ đang ở bước đầu, chưa có những tiến triển thực chất. Trung Quốc và ASEAN có thể tham khảo cơ chế đã có, thành lập Khu vực đầu tư Trung Quốc - ASEAN và thực hiện kế hoạch hợp tác công nghiệp, dịch vụ Trung Quốc - ASEAN. Việc này sẽ giúp cho việc thành lập ACFTA thực sự trở thành một tổ chức hợp tác toàn diện.

doc82 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1668 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Khóa luận Triển vọng khu mậu dịch tự do ASEAN - Trung Quốc (ACFTA : ASEAN - China Free Trade Area), để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iúp nâng cao năng lực sản xuất và trình độ sản xuất, trình độ khoa học kĩ thuật của doanh nghiệp các nước. Đồng thời, do trình độ sản xuất được nâng cao, chất lượng sản phẩm sản xuất ra sẽ tốt hơn, mặt khác nhờ tính kinh tế nhờ quy mô cộng với đặc tính giá thành rẻ vốn có từ trước của các sản phẩm của cả Trung Quốc và các nước ASEAN, hàng hoá của các nước này sẽ nâng cao tính cạnh tranh hơn trên thị trường quốc tế, từ đó cũng có tác dụng tốt để thúc đẩy mở rộng thị trường quốc tế của hai bên. c) Đẩy nhanh tốc độ thực hiện chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông, từ đó mang lại nhiều lợi ích cho các nước ASEAN và Trung Quốc tham gia chương trình này: Hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông là một trong những nội dung quan trọng trong chương trình hợp tác đã được đề cập trong Hiệp định khung giữa ASEAN và Trung Quốc. Vì vậy, sau khi ACFTA ra đời, các chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông sẽ được thực hiện nhanh hơn, đặc biệt là chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mêkông ASEAN ( AMBDC ) và chương trình hợp tác Tiểu vùng sông Mêkông mở rộng ( GMS ). Trong khuôn khổ của hai chương trình này, các dự án về xây dựng cơ sở hạ tầng sẽ được ưu tiên thực hiện và trong tương lai gần nhất là hai dự án xây dựng tuyến đường sắt Singapo - Côn Minh và tuyến đường cao tốc Băng Cốc - Côn Minh như đã được nêu trong Hiệp định khung. Các dự án về giao thông được thực hiện xong sẽ tạo cơ sở hạ tầng thuận tiện cho việc giao lưu giữa các nước ASEAN và Trung Quốc trong việc phát triển thương mại và dịch vụ tiểu vùng. Bên cạnh đó, chương trình hợp tác tiểu vùng sông Mêkông với bước tiến quan trọng đạt được trong Hội nghị thượng đỉnh GMS được tổ chức lần đầu tiên ở Campuchia vào 3/11/2002 vừa qua. Theo " Tầm nhìn GMS", các nước thành viên trong tiểu vùng (gồm Thái lan, Lào, Campuchia, Việt Nam, Myanma và Trung Quốc) sẽ trở thành một cộng đồng các quốc gia hoà hợp, thịnh vượng, bình đẳng, thống nhất, phát triển bền vững, đặc biệt GMS sẽ tiến tới xoá bỏ tình trạng nghèo đói vẫn đang tồn tại ở một số nước thành viên kém phát triển hơn. Đồng thời, với việc các nước thành viên đưa ra Tuyên bố chung cấp cao về GMS, việc Trung Quốc tham gia hiệp định về thuận lợi hoá thương mại về di chuyển người và hàng hoá sẽ tạo cơ sở hạ tầng và 6 nước thành viên ký Hiệp định về thương mại năng lượng liên chính phủ…, cộng với việc thực hiện các dự án trong khuôn khổ GMS về 7 lĩnh vực trọng điểm, sẽ không chỉ tạo ra cơ sở hạ tầng thuận lợi cho việc đẩy mạnh thương mại, đầu tư giữa các nước trong tiểu vùng mà còn góp phần cho việc phát triển giao lưu văn hóa, du lịch giữa các dân tộc trong GMS. Các dự án về hoàn thiện hành lang kinh tế nối các nước trong tiểu vùng sẽ đẩy mạnh giao lưu thương mại, đầu tư, trong đó có một bộ phận quan trọng từ thương mại biên giới. Các dự án của GMS cũng giúp các nước thành viên khai thác có hiệu quả các tài nguyên của sông Mêkông, tận dụng cơ hội về nguồn nhân lực, về trao đổi lao động, phát triển ngành du lịch vốn đang là tiềm năng của các nước này, đồng thời bảo vệ môi trường của tiểu vùng sông Mêkông. Ngoài ra, một lợi ích quan trọng nữa mà GMS mang lại là giúp thu hẹp khoảng cách phát triển không đồng đều giữa các nước trong tiểu vùng, nhất là những nước thành viên mới, tăng cường tính bổ sung giữa các nước để mở ra cơ hội phát triển bền vững cho toàn khu vực. d) Bên cạnh thương mại và đầu tư, ACFTA sẽ thúc đẩy hợp tác giữa Trung Quốc và ASEAN ở nhiều lĩnh vực khác: Sau khi ACFTA được thành lập, các doanh nghiệp hai bên sẽ càng có điều kiện thuận lợi hơn nữa để tìm hiểu và giao lưu, nắm rõ hơn nữa tình hình thị trường của nhau, có lợi cho việc đẩy mạnh hợp tác và mở rộng các lĩnh vực hợp tác, đẩy mạnh hiệu quả và tốc độ phát triển của quan hệ kinh tế thương mại trong khu vực. Bên cạnh việc thúc đẩy hợp tác trong lĩnh vực thương mại, đầu tư, ACFTA cũng sẽ mang lại cơ hội hợp tác giữa các nước thành viên ở những lĩnh vực quan trọng khác như nông nghiệp, thông tin liên lạc và phát triển nguồn nhân lực… Ví dụ như trong lĩnh vực nông nghiệp, đây là một trong những lĩnh vực được ưu tiên hàng đầu bên cạnh lĩnh vực thương mại và đầu tư. do hầu hết các nước trong khối ACFTA là những nước đi lên từ nông nghiệp và hiện nay nông nghiệp vẫn là một ngành chiếm tỷ trọng lớn trong cơ cấu kinh tế của các nước này. Có thể thấy danh mục giảm thuế các mặt hàng trong chương trình " Thu hoạch sớm"( early harvest ) trong Hiệp định khung của ACFTA chủ yếu tập trung vào các mặt hàng nông sản. Đây sẽ là cơ hội tốt để các nước trong ACFTA đẩy mạnh xuất khẩu hàng nông sản trong nội bộ khối, cung cấp cho nhau những nông sản mà nước khác đang thiếu hoặc kém lợi thế so sánh hơn, tăng tính bổ sung lẫn nhau trong lĩnh vực nông nghiệp. Đồng thời, với "Biên bản ghi nhớ về hợp tác nông nghiệp" vừa được các nhà lãnh đạo ASEAN và Trung Quốc ký kết tại Hội nghị thượng đỉnh ASEAN 8, các nước ACFTA cũng sẽ có điều kiện thuận lợi hơn để tăng cường sự hợp tác trong sản xuất nông nghiệp, nâng cao năng suất, hiệu quả của sản xuất nông nghiệp, giúp ngành nông nghiệp các nước trong khu vực phát triển hơn nữa, đồng thời nâng cao chất lượng, tăng tính cạnh tranh của các hàng nông sản xuất khẩu. Trong lĩnh vực công nghệ thông tin, hai bên sẽ có cơ hội trao đổi, học hỏi kinh nghiệm của nhau để phát triển ngành công nghệ thông tin liên lạc, hình thành một mạng lưới thông tin tiên tiến trong nội bộ khối. Đồng thời, với những chương trình trợ giúp phát triển và hỗ trợ kỹ thuật giữa các nước, đặc biệt là các nước thành viên mới, ngành công nghệ thông tin liên lạc nói riêng và công nghệ nói chung sẽ cùng phát triển mạnh mẽ hơn. Trong lĩnh vực phát triển nguồn nhân lực, hai bên sẽ có thể tăng cường trao đổi cả đội ngũ lao động đơn giản và đặc biệt là những cán bộ khoa học có trình độ cao, những chuyên gia, kỹ sư, cử nhân tri thức đóng góp cho sự phát triển nền kinh tế mỗi nước nói riêng và cả khu vực nói chung. Bên cạnh đó, trong tương lai các nước thành viên ACFTA sẽ có cơ hội phát triển quan hệ hợp tác phát triển trên nhiều lĩnh vực khác nữa như: tài chính ngân hàng, hợp tác về công nghiệp, du lịch, giao thông vận tải, viễn thông, sở hữu trí tuệ, phát triển các doanh nghiệp vừa và nhỏ (SMEs), môi trường, công nghệ sinh học, lâm và ngư nghiệp, khai khoáng, năng lượng … 2. Những thách thức đối với Trung Quốc và ASEAN khi tham gia ACFTA Như trên đã trình bày, cơ hội đối với các nước Trung Quốc và ASEAN sẽ có rất nhiều khi tham gia vào ACFTA. Tuy nhiên, đi liền với những cơ hội này, sẽ tồn tại những thách thức nhất định trong quá trình thành lập ACFTA và cả sau khi khu vực này đã ra đời đòi hỏi cần có sự xem xét kỹ lưỡng của các bên. 2.1. Đối với các nước ASEAN: Như đã phân tích ở các phần trước, nền kinh tế các nước ASEAN và Trung Quốc rất nhiều những yếu tố cạnh tranh. Cơ cấu kinh tế của các nước ASEAN và Trung Quốc có nhiều nét tương đồng, trong khi đó, kinh tế Trung Quốc lại có quy mô lớn hơn quy mô kinh tế của cả 10 nước ASEAN cộng lại; hơn nữa Trung Quốc cũng có tiềm lực kinh tế với nhiều ngành lớn mạnh hơn đa số các nước ASEAN. Vì vậy, khi mở cửa hơn đối với Trung Quốc, các nước ASEAN nhất là những nước ASEAN mới ( có phát triển chậm hơn) sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức lớn, nhất là trong lĩnh vực thương mại và đầu tư. a) Hàng hoá Trung Quốc thâm nhập vào thị trường ASEAN mạnh hơn, từ đó một số ngành sản xuất sẽ bị thua thiệt : So sánh giữa mức thâm nhập của hàng hóa hai bên vào thị trường của nhau, thì hàng hoá của Trung Quốc sẽ thâm nhập vào thị trường ASEAN nhiều hơn về cả số lượng và chủng loại. Điều này là một thách thức lớn đối với các nước ASEAN vốn thị trường đã tràn ngập hàng hoá Trung Quốc như hiện nay. Hiện nay, thuế suất của Trung Quốc đang ở mức bình quân 16,9%, trong đó mức cao nhất không vượt quá 100%. Khoảng 30% các dòng thuế của Trung Quốc ở mức trên 20%. Thuế suất cao nhất của Trung Quốc được áp dụng cho các mặt hàng thực phẩm, xe cộ, hàng dệt và phụ liệu, giày dép, mỡ và dầu ăn. Những mặt hàng này đang phải chịu thuế suất trên 10% trong khi các nước ASEAN hiện đang áp dụng thuế suất trên 20% cho những mặt hàng này. So với thuế suất hiện đang được áp dụng, nếu cắt giảm, sẽ tạo nhiều thuận lợi cho hàng Trung Quốc thâm nhập thị trường ASEAN hơn là cho hàng ASEAN thâm nhập thị trường Trung Quốc. Hiện nay, trong quan hệ thương mại với Trung Quốc, các nước ASEAN như Singapo, Brunei, Việt Nam, Campuchia và Lào đều đang nhập siêu. Sau khi thành lập ACFTA, việc cắt giảm thuế của các nước ASEAN sẽ làm tăng tình trạng nhập siêu của các nước ASEAN. Hơn nữa, xem xét cơ cấu xuất nhập khẩu giữa ASEAN và Trung Quốc, ta có thể thấy rằng các mặt hàng kỹ thuật và cơ bản ASEAN ngày càng có xu hướng thiên về nhập khẩu hơn là xuất khẩu. Cho nên, trong một tương lai gần, nếu không có gì thay đổi, thương mại giữa hai bên sẽ phát triển theo chiều hướng này, dẫn đến một sự tăng trưởng đáng kể của hàng Trung Quốc thâm nhập vào ASEAN, và làm cho ASEAN càng nhập siêu thêm. Những mặt hàng của ASEAN sẽ phải đối mặt với thách thức cạnh tranh lớn nhất của Trung Quốc sẽ là những ngành có hàm lượng lao động cao như các sản phẩm dệt may, quần áo, giày dép, các mặt hàng tiêu dùng, …và cả một số mặt hàng tập trung nhiều vốn và công nghệ như ngành sản xuất máy tính, máy in…và một số sản phẩm, thiết bị điện tử khác và những ngành sản xuất thay thế hàng nhập khẩu khác. Các mặt hàng này của Trung Quốc sẽ cạnh tranh mạnh mẽ với các hàng hoá cùng loại của ASEAN trên thị trường quốc tế và thậm chí trên thị trường của chính các nước ASEAN. Do vậy, các ngành sản xuất những ngành hàng này của các nước ASEAN sẽ bị thua thiệt. Thị trường các nước ASEAN sẽ phải chịu áp lực mở cửa đối với các hàng hoá có sức cạnh tranh mạnh của Trung Quốc, đặc biệt đối với các nước ASEAN mới, có trình độ phát triển chậm hơn thì áp lực này càng mạnh. Tuy đã được hưởng nhiều ưu đãi như được lùi thời gian hoàn thành ACFTA và " early harvest " chậm hơn 5 năm so với các nước còn lại trong khối, được đưa ra một số danh mục loại trừ trong thực hiện "early harvest",… nhưng với trình độ phát triển hiện nay, các nước này vẫn sẽ gặp nhiều khó khăn để thực hiện cam kết trong ACFTA. Trong khi Trung Quốc sẽ không ngừng đẩy mạnh thâm nhập sâu vào thị trường những nước này, hàng hoá những nước này sẽ rất khó cạnh tranh được với hàng hoá của Trung Quốc. Nguy cơ suy giảm vốn đầu tư nước ngoài do sức ép cạnh tranh từ thị trường Trung Quốc : Trung Quốc là đối thủ cạnh tranh lớn của các nước ASEAN. Hiện nay, Trung Quốc đã chiếm giữ khoảng 80% đầu Trung Quốc của quốc tế vào châu á, dòng chảy FDI vào Trung Quốc đã gấp 4 lần dòng chảy vào ASEAN. Trong khi các nước ASEAN chưa phục hồi hẳn sau khủng hoảng tài chính năm 1997, lại thêm tình hình chính trị bất ổn định ở một số nước như Inđônêxia, Philipin… nên đầu tư nước ngoài vào ASEAN đã giảm sút trong mấy năm trở lại đây. Trong khi đó, Trung Quốc với những thế mạnh về thị trường, nhân công, sự ổn định về kinh tế và chính trị cộng với cải cách sau khi gia nhập WTO, khiến đầu tư nước ngoài của Trung Quốc không ngừng tăng trưởng và ngày càng chiếm tỉ trọng lớn so với tổng đầu tư vào các nước châu á. Đây sẽ là một thách thức trực tiếp với các nước ASEAN, vì sẽ có thể các công ty nước ngoài sẽ chuyển di chuyển địa điểm đầu tư từ ASEAN sang Trung Quốc khi ACFTA được thành lập. Môi trường đầu tư của Trung Quốc hiện nay thuận lợi, hấp dẫn và ổn định hơn nhiều so với ASEAN. Tuy Trung Quốc đang có chính sách kiềm chế mức tăng trưởng FDI vào nước này ở một mức nhất định nhưng sự hấp dẫn từ bản thân môi trường đầu tư của Trung Quốc vẫn mạnh hơn so với những chính sách hạn chế này, tức là đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc vẫn nhiều hơn là vào các nước ASEAN. Do đó, nếu ACFTA được thiết lập thì FDI càng chuyển dịch vào Trung Quốc nhiều hơn vì Trung Quốc, vốn đã hấp dẫn hơn về chi phí lao động, nguồn lực và quy mô sản xuất, giờ càng trở nên hấp dẫn hơn một khi FDI được mở rộng vào ASEAN. Mặt khác, chi phí nhân công thấp của Trung Quốc cũng có thể là một thách thức trực tiếp đối với ASEAN. Vì lực lượng lao động với chi phí nhân công thấp này dần dần sẽ đủ lớn mạnh để học hỏi tích luỹ kinh nghiệm đang bắt đầu chuyển thành lực lượng lao động với chi phí nhân công cao hơn. Sự dịch chuyển lực lượng lao động trong nước của Trung Quốc sẽ dễ dàng hơn so với sự dịch chuyển lực lượng lao động của các nước ASEAN chủ yếu vì các nước ASEAN dù sao vẫn là những thị trường khác biệt còn thị trường Trung Quốc là thống nhất. Chi phí nhân công của một số nước thành viên mới của ASEAN có thể thấp hơn của Trung Quốc nhưng những mặt về cơ sở hạ tầng như chi phí điện , nước, điện thoại quốc tế, phí vận tải đường biển và hàng không đều cao hơn Trung Quốc rất nhiều. Những yếu tố này càng cho thấy, so sánh về môi trường đầu tư thì các nước ASEAN vẫn còn kém hấp dẫn hơn nhiều so với Trung Quốc, cho nên ASEAN chịu sức ép cạnh tranh rất lớn từ Trung Quốc trong lĩnh vực thu hút đầu tư này. Một số thách thức khác : Trung Quốc đang nổi lên như một cơ sở sản xuất lớn của cả thế giới, điều này sẽ làm cho một số ngành sản xuất của các nước ASEAN một mặt bị thua thiệt bởi sự cạnh tranh của hàng hoá Trung Quốc, mặt khác sẽ khiến nền kinh tế các nước ASEAN bị khống chế bởi những ngành công nghiệp phát triển mạnh mẽ này của Trung Quốc, nhất là những ngành tập trung nhiều lao động như hàng tiêu dùng, hàng dệt, may mặc, giày dép, đồ chơi, thực phẩm, đồ uống…và cả một số ngành tập trung nhiều vốn và công nghệ như các máy móc, thiết bị điện tử, máy tính, chất bán dẫn, …. Ngoài ra, môi trường đầu tư của Trung Quốc đã thu hút nhiều công ty có công nghệ cao và mới cũng như các công ty đa quốc gia (MNC) vì chính sách của Trung Quốc trong tương lai gần là thu hút công nghệ tiên tiến, kinh nghiệm quản lý và các nhân tài của nước ngoài. Do đó, Trung Quốc sẽ cố "đẩy" các công nghệ hiện tại sang các nước kém phát triển hơn để đổi lấy công nghệ cao hơn. Việc thiết lập Khu vực Thương mại Tự do sẽ đẩy việc chuyển giao công nghệ này sang các nước ASEAN, đặc biệt sang các nước thành viên mới, đây sẽ là một thách thức lớn nữa đối với ASEAN. 2.2. Đối với Trung Quốc : a) Sức ép của tình trạng vốn nước ngoài ồ ạt chảy vào thị trường trong nước Nguồn FDI vào Trung Quốc ngày càng tăng, sau khi Trung Quốc gia nhập WTO và thành lập khu mậu dịch tự do với ASEAN, FDI vào Trung Quốc sẽ còn tăng nhiều nữa. Đây là một hiện tượng tốt với Trung Quốc, tuy nhiên, đằng sau hiện tượng này còn nhiều thách thức. Hiện nay, một số học giả Trung Quốc đã biểu hiện sự lo lắng về nguồn vốn nước ngoài chảy vào Trung Quốc. Lý do bởi vì chất lượng vốn đầu tư nước ngoài vào Trung Quốc hiện nay chưa thật tốt. Đa số những nguồn vốn này chỉ tập trung vào những lĩnh vực thiên về chiều rộng như các ngành sản xuất gia công, chất lượng thấp, các ngành tập trung nhiều lao động, có rất ít số vốn này đầu tư vào những ngành kỹ thuật cao và những ngành cạnh tranh mang tính lâu dài. Thêm vào đó là tình trạng một lượng lớn vốn của Trung Quốc bị thất thoát ra nước ngoài và tình trạng nguồn vốn chỉ chủ yếu xuất phát từ một số ít thị trường như Hồng Kông, Đài Loan và một số ít nước đang phát triển khác từ châu á, còn vốn từ các nước Mỹ, Tây Âu, Nhật Bản rất ít. Những điều này sẽ là thách thức lớn đối với Trung Quốc khi ngày càng có nhiều vốn nước ngoài chảy vào thị trường này. Những điều này sẽ là thách thức lớn đối với Trung Quốc khi ngày càng có nhiều vốn nước ngoài chảy vào thị trường này. b) Một số sản phẩm nông nghiệp Trung Quốc sẽ phải chịu sức ép cạnh tranh mạnh từ các nước ASEAN : Nền nông nghiệp của Trung Quốc trước đây vốn được bảo hộ mạnh mẽ. Các mặt hàng nông sản của Trung Quốc, đặc biệt là các mặt hàng lương thực thực phẩm đều có thuế suất nhập khẩu khá cao hoặc hạn ngạch nhập khẩu thấp, ví dụ như hạn ngạch nhập khẩu đối với lúa mỳ là 7,3%, gạo là 2,66%, ngũ cốc 4,5%, bông là 0,74%, dầu ăn 2,5%…hoặc thuế nhập khẩu đối với thịt bò là 45%, phomat là 50%, thịt heo 20%… Far Eastern Economic Review (FEER) - 2/5/2002 và Thời báo kinh tế Sài Gòn số 1/8/2002. Trong khi đó, ACFTA sẽ thực hiện giảm thuế trước tiên đối với các mặt hàng nông sản, đặc biệt theo chương trình " Early harvest " Trung Quốc phải giảm thuế đầu tiên đối với các nông sản trong đó chủ yếu là lương thực thực phẩm với 10 nước ASEAN, do vậy các nông sản này của Trung Quốc sẽ phải chịu áp lực lớn từ việc giảm thuế. Việc thực hiện giảm thuế hàng nông sản theo đúng cam kết của Trung Quốc sẽ gặp khó khăn vì mức giảm thuế khá lớn do mức thuế bảo hộ trước đây cao. Nhiều sản phẩm nông nghiệp của Trung Quốc sẽ phải chịu sức ép, giảm sản xuất, đặc biệt là những ngành sản xuất lúa mỳ lúa mì, ngô, bông, dầu ăn, mía đường, đậu nành…và sẽ phải nhập khẩu một số lượng lớn từ các nước ASEAN do đây chủ yếu là những nông sản mà ASEAN có lợi thế cạnh tranh mạnh hơn. c) Chịu ảnh hưởng tiêu cực từ sự bất ổn định trong chính trị, xã hội của các nước ASEAN : Tình hình chính trị, xã hội của một số nước ASEAN như Inđônêxia, Philipin, Campuchia… vốn đã có nhiều nhân tố phức tạp, bất ổn định. Đặc biệt, hiện nay, ở Inđônêxia và Philipin vốn là những nước ASEAN, tình hình chính trị đang diễn ra hết sức phức tạp như những xung đột diễn ra ngay trong nước và cả sự đe doạ của chủ nghĩa khủng bố đến các nước này…Ngoài ra, giữa các nước thành viên ASEAN còn tồn tại những vấn đề có nguy cơ bùng nổ xung đột, gây mất ổn định. Đây có thể là những nhân tố không tốt ảnh hưởng đến Trung Quốc một khi Trung Quốc có mối quan hệ mật thiết hơn với các nước ASEAN. Khi hai bên đã thành lập một khu mậu dịch chung, tuy đây chỉ là hợp tác trên phương diện kinh tế nhưng tình hình an ninh, chính trị những nước ASEAN có thể ảnh hưởng đến kinh tế và thậm chí cả chính trị của Trung Quốc ở một mức độ nhất định. * Ngoài ra, sau khi thành lập ACFTA, cả hai bên Trung Quốc và ASEAN sẽ cùng phải đối mặt với nhiều thách thức khác như : tình trạng buôn lậu qua biên giới, di cư bất hợp pháp vì đây là những nước láng giềng; tình trạng an ninh chính trị bị đe doạ do ảnh hưởng của một số nước ASEAN lan ra toàn khu vực; tình trạng phân phối không đồng đều dẫn đến sự phát triển không đồng đều giữa các nền kinh tế trong khu vực và cả những ngành kinh tế trong mỗi nước trong ngắn hạn . T óm lại, việc thành lập ACFTA sẽ đem lại nhiều cơ hội cho cả hai bên ASEAN và Trung Quốc, có thể khẳng định đây là sự hợp tác các bên cùng có lợi. Mặc dù những thách thức mà hai bên sẽ phải đối mặt không phải là ít nhưng về mặt tổng thể, cơ hội còn nhiều hơn thách thức. Không thể phủ nhận giữa hai bên có sự cạnh tranh gay gắt về kinh tế - thương mại và đây là thách thức lớn nhất mà hai bên phải đối phó, tuy nhiên cũng cần thấy rằng cạnh tranh bao giờ cũng là nhân tố quan trọng để thúc đẩy sự phát triển, qua cạnh tranh mỗi bên sẽ nỗ lực hơn từ đó nền kinh tế của mỗi nước thành viên trong khối sẽ có triển vọng phát triển với tốc độ nhanh hơn và đi vào chiều sâu hơn. Có thể nói, những thách thức của ACFTA đối với các bên chỉ mang tính chất tạm thời. Cả hai bên Trung Quốc và ASEAN nên ý thức được rằng đằng sau những thách thức là những lợi ích lâu dài. Điều quan trọng là các bên cần phải có những điều chỉnh thích hợp để nắm bắt, tận dụng cơ hội và ứng phó với những thách thức để được hưởng lợi nhiều nhất từ ACFTA trong tương lai. Chương iii : những kiến nghị đối với sự phát triển của ACFTa trong tương lai Một số dự đoán về sự phát triển của ACFTA trong tương lai : ACFTA ra đời sẽ là khu mậu dịch tự do đông dân nhất thế giới với gần 1,8 tỉ người tiêu dùng, chiếm gần 30% đân số thế giới và là khu mậu dịch tự do lớn nhất giữa các nước đang phát triển. Theo dự đoán của nhóm các chuyên gia hợp tác kinh tế ASEAN - Trung Quốc, sau khi thành lập, ACFTA sẽ đạt tổng GDP khoảng 2000 tỉ USD đứng thứ 3 thế giới sau Khu mậu dịch tự do châu Mỹ và Liên minh châu Âu EU, tổng kim ngạch thương mại ước đạt 1200 tỉ USD. Đồng thời, GDP của các nước ASEAN sẽ tăng thêm 0,9% tức là khoảng 5,4 tỉ USD còn GDP của Trung Quốc sẽ tăng thêm 0,3% tức là khoảng 2,2 tỉ USD. Xuất khẩu của ASEAN vào Trung Quốc sẽ tăng 48% tương đương 13 tỉ USD còn xuất khẩu của Trung Quốc vào ASEAN sẽ tăng 55% tương đương 10,6 tỉ USD. Theo People's Daily Online- 5/11/2002 -www.peopledaily.com.cn ASEAN và Trung Quốc cam kết sẽ hoàn thành việc thành lập ACFTA trong vòng 10 năm, nhưng thời gian 10 năm chỉ là trên giấy tờ chứ không phải là một khái niệm tuyệt đối. Rất có thể có nhiều bộ phận các hạng mục trong Hiệp định khung không cần phải đến 10 năm. Khu mậu dịch tự do ASEAN ( AFTA) lúc đầu dự kiến hoàn thành trong 15 năm nhưng thực tế gần đây thời gian này đã được rút ngắn lại còn 9 năm. Do vậy, chúng ta cũng có thể hi vọng ACFTA sẽ được hoàn thành trong khoảng thời gian ngắn hơn dự kiến. ACFTA có điểm giống với AFTA ở chỗ cũng lấy Hiệp định thương mại làm nội dung chính, nhưng ACFTA chắc chắn sẽ phức tạp hơn, phong phú và đa dạng hơn so với AFTA để phản ánh và thích ứng với đặc điểm đa dạng hoá của khu mậu dịch tự do để thể hiện lợi ích và phát huy tính tích cực của các bên. Còn so với WTO, tôn chỉ và mục tiêu của ACFTA cũng nhất quán với WTO, tuy nhiên về mức độ mở cửa thị trường thì ACFTA còn hơn WTO, điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi hơn và cơ hội rộng mở hơn để hai bên đẩy mạnh thương mại và đầu tư song phương. Hơn nữa, mục đích của việc ASEAN và Trung Quốc thành lập khu mậu dịch tự do không chỉ là để loại bỏ hàng rào thuế quan và phi thuế quan còn tồn tại giữa hai bên mà còn để thiết lập một khung pháp lý tổng hợp bao gồm một loạt các biện pháp nhất thể hoá thị trường như thúc đẩy đầu tư, thuận lợi hoá thương mại và các quy tắc tiêu chuẩn hoá thương mại và đầu tư. Nếu hai bên thực hiện cơ chế bổ sung lẫn nhau có hiệu quả để hình thành ACFTA sẽ nâng cao khả năng chống lại rủi ro từ bên ngoài của nền kinh tế mỗi nước, giảm sự phụ thuộc vào các nước phát triển, từ đó ACFTA sẽ trở thành một mẫu hình mới trên thế giới về hợp tác và hỗ trợ lẫn nhau giữa các nước đang phát triển. Những lợi ích từ việc thành lập ACFTA có thể chưa nhìn thấy ngay được mà còn cần phải trải qua một quá trình. Về hiệu quả trong ngắn hạn mà ACFTA đem lại, do hai bên mới chỉ đạt được Hiệp định khung sơ bộ nên có thể hợp tác kinh tế trong 1 hoặc 2 năm tới giữa ASEAN và Trung Quốc sẽ không có ảnh hưởng lớn lắm, nhưng cam kết của hai bên về thành lập ACFTA trong Hiệp định khung sẽ có tác dụng rất tích cực đối với việc tăng lòng tin vào hợp tác kinh tế thương mại giữa hai bên. Sau một thời gian ngắn là quá trình làm nền, tích luỹ, tác dụng tích cực của ACFTA sẽ được phát huy, quan hệ thương mại, đầu tư giữa hai bên có thể sẽ tăng lên rõ rệt, từ đó sẽ đặt nền móng vững chắc cho sự tăng trưởng và ổn định kinh tế của khu vực Đông á trong nhiều năm tới. Là khu vực kinh tế sôi động nhất hiện nay, Đông á luôn thu hút được sự chú ý của cả thế giới. Việc Trung Quốc và ASEAN đạt được thoả thuận thành lập ACFTA không chỉ là xác định xu hướng hợp tác vào thời gian tới mà sẽ tạo ra một loạt phản ứng đối với hợp tác Đông á, một mặt sẽ thúc đẩy hợp tác kinh tế theo khuôn khổ "10+3" giữa ASEAN và Trung Quốc, Hàn Quốc, Nhật Bản ; mặt khác sẽ trực tiếp thúc đẩy nhanh hơn tiến trình hợp tác trên phạm vi rộng hơn của toàn khu vực Đông á. Khu mậu dịch tự do Trung Quốc - ASEAN thực ra là một quá trình để tiến đến mục tiêu cuối cùng - đó là hợp tác Đông á, nhất thể hoá khu vực Đông á. Hợp tác "10+1" này giữa ASEAN và Trung Quốc là hợp tác đạt được đầu tiên trong khuôn khổ "10+3", do đó sẽ tạo lập vai trò dẫn đầu của ASEAN và Trung Quốc trong việc thúc đẩy tiến trình hợp tác Đông á. II. Những kiến nghị đối với sự phát triển của ACFTA Mặc dù ACFTA ra đời sẽ mang lại không ít những thách thức đối với các nước thành viên, nhưng nếu các bên biết cách biến những thách thức này thành cơ hội, biết cách đưa ra những điều chỉnh đúng đắn để giảm bớt những thách thức này đồng thời biết cách tận dụng những lợi thế so sánh của mỗi bên, tận dụng phát huy những cơ hội đã có trước đây và sẽ có được từ hợp tác trong ACFTA sắp tới, thì ACFTA sẽ thực sự trở thành một cơ chế hợp tác có hiệu quả mang lại nhiều lợi ích cho các bên. Sau đây là một số kiến nghị góp ý đối với các nước Trung Quốc và ASEAN để đạt được sự hợp tác các bên cùng có lợi và sự phát triển có hiệu quả hơn của ACFTA trong tương lai. 1. Tổ chức phân công sản xuất có hiệu quả giữa các nước trong khu vực, biết cách khai thác và tập trung phát triển những lĩnh vực mà mỗi bên có lợi thế so sánh hơn: Cả hai bên ASEAN và Trung Quốc cần tập trung phát triển những lĩnh vực mà mỗi bên có lợi thế so sánh hơn để tăng tính bổ sung lẫn nhau giữa các nước này. Ví dụ các nước ASEAN tập trung vào xuất khẩu hàng nông sản nhất là các mặt hàng ngũ cốc, các loại hoa quả nhiệt đới, lâm sản, thuỷ hải sản, hoặc các sản phẩm điện tử cơ khí, một số nguyên vật liệu dùng cho sản xuất hoặc tập trung phát triển những ngành dịch vụ mà Trung Quốc đang có nhu cầu lớn như tư vấn, tài chính, giáo dục, quản lý cơ sở hạ tầng, quy hoạch đô thị… Vì các sản phẩm công nghiệp kĩ thuật thấp của Trung Quốc có thể dựa vào chính những cơ sở sản xuất công nghiệp của nước này ASEAN cũng nên cải thiện ngành sản xuất công nghiệp để tạo ra những sản phẩm đạt giá trị gia tăng cao hơn. Về phía Trung Quốc vốn đã có thế mạnh trong rất nhiều ngành hàng, trong đó Trung Quốc nên tập trung nhiều nhất vào những sản phẩm tiêu dùng, sản phẩm điện tử, máy móc công nghệ, các loại nông sản ôn đới, hoa, rau quả… Đồng thời, đối với các nước ASEAN, để khắc phục xu hướng ngày càng trở nên yếu thế trước Trung Quốc trong những ngành hàng mà cả hai bên đều có ưu thế cạnh tranh sau khi ACFTA được thành lập cộng thêm với nhân tố Trung Quốc đã gia nhập WTO, tránh tình trạng hàng hoá Trung Quốc thâm nhập ồ ạt vào thị trường nội địa, các nước ASEAN cần cố gắng xác lập lợi thế so sánh bằng cách nhanh chóng tăng năng suất lao động và hàm lượng tri thức trong sản phẩm tiêu thụ sản phẩm cuối cùng để tạo nên những mặt hàng có nét độc đáo. Ví dụ như trong những ngành có hàm lượng lao động cao, các nước ASEAN cần phải nhanh chóng tăng năng suất lao động và hàm lượng tri thức trong sản phẩm tiêu thụ cuối cùng để tạo nên những những mặt hàng có nét độc đáo, chẳng hạn tăng tính thời trang trong hàng may mặc, chú ý sự quan trọng của kiểu dáng, của tính tiện dụng trong sản phẩm tạp hoá, đồ dùng trong nhà, trong văn phòng… Các nước ASEAN cũng cần nỗ lực chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao hơn, nhanh chóng xác lập lợi thế so sánh trong những ngành liên quan đến máy móc. Về các loại máy móc như đồ điện, điện tử gia dụng, máy móc gia đình và văn phòng…vốn là nhóm hàng mà cả Trung Quốc và các nước ASEAN-5 đang cạnh tranh mạnh, các nước ASEAN cần nâng cao chất lượng và đầu tư nhiều vào các mặt hàng này. Còn các máy móc cao cấp có hàm lượng công nghệ rất cao như xe hơi, máy công cụ, người máy…Trung Quốc sẽ phải nhập khẩu khá nhiều loại sản phẩm này nhưng chủ yếu từ những nước phát triển như Nhật, Mỹ, Hàn Quốc, Đài Loan…Tuy nhiên, ASEAN có thể tạo điều kiện để các công ty đa quốc gia chọn làm nơi sản xuất một số bộ phận của các loại máy móc đó. Ngoài ra, trong khi Trung Quốc luôn được coi là trung tâm công nghiệp chế tạo của thế giới, tuy nhiên Trung Quốc không phải là cơ sở sản xuất duy nhất, sẽ có ngành công nghiệp khác như công nghiệp chế biến tài nguyên, công nghiệp nguyên liệu thô mà các ASEAN sẽ có cơ hội tận dụng để phát triển những ngành công nghiệp này, vừa là nhân tố bổ sung cho kinh tế Trung Quốc. 2. Tập trung đầu tư vào một số lĩnh vực trọng điểm, cải thiện môi trường đầu tư, nâng cao sức cạnh tranh về thu hút đầu tư : Mục tiêu đầu tư của ACFTA nên tập trung theo hướng tối ưu hoá phân bổ vốn trong toàn khu vực, nâng cao sức cạnh tranh quốc tế, nâng cao hiệu quả kinh tế của hai bên, tăng công ăn việc, tiến tới sự phát triển không ngừng của hai bên vì sự phát triển chung và phồn vinh của cả khu vực. Những lĩnh vực đầu tư mà hai bên nên đẩy mạnh là xây dựng cơ sở hạ tầng, năng lượng, lĩnh vực thiết bị công nghệ mới và một số lĩnh vực dịch vụ như hợp tác về tiền tệ, tài chính, du lịch, bán hàng…Ví dụ như trong lĩnh vực cơ sở hạ tầng, hai bên nên cùng nhau hợp tác để xây dựng và nâng cấp đường bộ, đường sắt, đường hàng không, phát triển mạng lưới điện tử - thông tin liên lạc… tạo điều kiện tốt để doanh nghiệp hai bên đầu tư vào nhau cũng như các nước khác ngoài khu vực đầu tư vào ASEAN và Trung Quốc. Trong lĩnh vực năng lượng, hai bên có thể thông qua hình thức thành lập các công ty liên doanh để cùng khai thác, chế biến tài nguyên của nhau. Chẳng hạn các doanh nghiệp Trung Quốc do đã có đầy đủ công nghệ, máy móc hiện đại khai thác năng lượng có thể xây dựng những trung tâm khai thác tài nguyên như dầu thô, khí đốt ở các nước ASEAN như Mianma, Inđônêxia, Việt Nam…Về các năng lượng có thể tái sinh, các doanh nghiệp Trung Quốc có thể đầu tư vào các nước ASEAN những lĩnh vực như thủy điện, nhiên liệu làm rượu, sức gió phát điện, sản xuất khí đốt, than…Cả Trung Quốc và ASEAN đều có thể cùng hợp tác khai thác dầu thô, khí đốt ở khu vực biển Nam. Hai bên cũng có thể hợp tác đầu tư trong lĩnh vực thiết bị công nghệ mới như liên doanh khai thác nông sản mới, dược phẩm mới, phát triển ngành công nghệ thông tin, hạt nhân, công nghệ vũ trụ. Đối với riêng các nước ASEAN, để khắc phục tình trạng các nguồn vốn nước ngoài vào ACFTA sau này đa số sẽ đổ dồn vào Trung Quốc, các nước ASEAN cần phải cải thiện môi trường đầu tư hơn nữa, tạo một môi trường đầu tư ổn định, cải thiện các điều kiện để có thể cung ứng các dịch vụ để có thể cung ứng các dịch vụ cần thiết cho nền kinh tế như lao động, cơ sở hạ tầng…Đặc biệt, để thu hút FDI nhiều hơn, cần xây dựng chính sách đầu tư ổn định, có nhiều ưu đãi đối với các nhà đầu tư nước ngoài, xây dựng nhiều hơn cũng như nâng cấp các cơ sở hạ tầng, tăng sức cạnh tranh cả về phí tổn, phẩm chất sản phẩm và khả năng phát hiện và tiếp cận thị trường, xoá bỏ bớt các thủ tục hành chính rườm rà, không cần thiết, đồng thời nâng cao trình độ lao động, tăng nhanh tầng lớp lao động có kỹ năng để chuyển dịch cơ cấu công nghiệp lên cao hơn. 3. Đẩy nhanh thực hiện chương trình hợp tác kinh tế sông Mêkông - Lan Thương Như đã đề cập ở phần trước, chương trình hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông - Lan Thương có vị trí rất quan trọng trong ACFTA. Sự thành công hay thất bại của chương trình hợp tác này sẽ ảnh hưởng lớn đến quá trình thành lập ACFTA bởi vì nó liên quan trực tiếp đến phần lớn các thành viên trong khối ACFTA. Vì vậy, cần phải đẩy mạnh việc thực hiện các nội dung trong chương trình này, coi đây là một khu vực thử nghiệm của ACFTA. Trước hết, cần thúc đẩy và hệ thống hoá các cơ chế hợp tác hiện có thuộc chương trình này, đó là các chương trình Hợp tác kinh tế tiểu vùng sông Mêkông mở rộng (GMS), Hợp tác phát triển lưu vực sông Mêkông - ASEAN, Hợp tác phát triển bền vững lưu vực sông Mêkông và Hợp tác kinh tế phát triển khu " tứ giác vàng " Bắc Thái Lan với Lào, Campuchia và Trung Quốc. Tuy việc thực hiện đã đạt được một số thành tựu nhất định nhưng hiện nay các chương trình này đang hoạt động một cách không có hệ thống và sự hợp tác còn ở mức thấp hoặc mới chỉ đang ở bước đầu, vì vậy Trung Quốc và các nước ASEAN cần phải hệ thống hoá những cơ chế này, duy trì những cơ chế này ổn định trong một khoảng thời gian nhất định. Đặc biệt, chương trình hợp tác phát triển lưu vực sông Mêkông cần được đặt lên hàng đầu vì đây là một trong những lĩnh vực trọng điểm trong ngắn hạn của ACFTA. Chương trình hợp tác kinh tế sông Mêkông- Lan Thương nói chung nên bắt đầu bằng đầu tư vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng, có thể thành lập một quỹ đầu tư để góp vốn từ các nước trong tiểu vùng và của nước ngoài, điều này sẽ tạo điều kiện thuận lợi đẩy nhanh tiến trình xây dựng các cơ sở hạ tầng của các dự đang được thực thi hiện nay trong tiểu vùng. Mậu dịch biên giới cũng nên được coi là một bước khởi đầu để thúc đẩy phát triển kinh tế tiểu vùng và đây đồng thời cũng là nội dung quan trọng của ACFTA vì mậu dịch biên giới sẽ không chỉ đóng vai trò như một thì điểm cho ACFTA, mà còn thúc đẩy phát triển quan hệ kinh tế thương mại giữa các nước Trung Quốc và ASEAN láng giềng. Có thể áp dụng một số biện pháp như sau để đẩy mạnh mậu dịch biên giới phát triển: cơ chế quản lý hàng hoá xuất nhập khẩu ưu đãi : Ngoài những ưu đãi về thuế quan và phi thuế sẽ được bãi bỏ theo Hiệp định khung về Hợp tác kinh tế toàn diện giữa ASEAN và Trung Quốc, các hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới nên được hưởng những ưu đãi riêng và trong thời gian sớm hơn. Trừ một số mặt hàng cấm, những mặt hàng trọng điểm của chính phủ, những hàng hoá dùng trong quân sự hoặc một số mặt hàng đặc biệt khác…các hàng hoá xuất nhập khẩu qua biên giới có thể bỏ hạn ngạch và giấy phép xuất nhập khẩu. Cơ chế quản lý thuế ưu đãi: Các mặt hàng được sản xuất ở các nước láng giềng và sau đó xuất khẩu qua cửa khẩu chỉ định và được sử dụng và tiêu thụ tại thị trường của một trong các nước trong khu vực, trừ những mặt hàng bắt buộc phải nộp thuế theo quy định của Nhà nước thì vẫn có thể tiếp tục áp dụng chế độ thu 50% thuế nhập khẩu và thuế giá trị gia tăng như hiện nay. Sau đó thuế này sẽ được hoàn lại một phần hoặc toàn bộ, phần thuế được hoàn này có thể được dùng vào việc xây dựng các cơ sở hạ tầng tại cửa khẩu. Thuận lợi hoá mậu dịch biên giới qua hợp tác trong các lĩnh vực về hải quan, kiểm nghiệm kiểm dịch, ngân hàng, bảo hiểm, trọng tài… cần được đẩy mạnh. Cần tăng cường những công tác bảo vệ an ninh biên giới, chống buôn lậu và các hành vi gian lận thương mại khác, bảo đảm một môi trường an toàn và thuận lợi cho mậu dịch biên giới phát triển. Tăng cường xây dựng cơ sở hạ tầng ở các khu cửa khẩu như đường sá, kho bảo thuế, trang bị các thiết bị kiểm tra hàng hoá hiện đại, đẩy mạnh đầu tư xây dựng các khu kinh tế cửa khẩu phát triển, các khu thương mại biên giới phát triển để tạo thuận lợi cho việc vận chuyển, lưu thông, tiêu thụ hàng hoá được nhanh chóng, tiện lợi… 4. Chính phủ hai bên nên tích cực đóng vai trò chỉ đạo và hướng dẫn để thúc đẩy hợp tác kinh tế thương mại giữa các doanh nghiệp: Trong nền kinh tế thị trường và sự kinh doanh tự chủ của các doanh nghiệp, tác dụng hướng dẫn chỉ đạo của Nhà nước rất quan trọng. Nó không chỉ giúp tránh được tình trạng không sử dụng hoặc sử dụng lãng phí các nguồn lực, mà còn thúc đẩy các doanh nghiệp biết cách khai thác và sử dụng các nguồn lực có hiệu quả; bên cạnh đó, cũng giúp giảm bớt những thiệt hại về kinh tế do sai sót của các doanh nghiệp cũng như tăng khả năng thành công của các quyết định của các doanh nghiệp. Nhà nước có thể cung cấp những thông tin tham khảo hữu ích để doanh nghiệp kịp thời điều chỉnh phương hướng kinh doanh của mình. Đối với các nước ASEAN và Trung Quốc, vai trò của Nhà nước lại càng quan trọng trong giai đoạn hiện nay. Để đẩy mạnh hợp tác kinh tế giữa các doanh nghiệp trong ACFTA, Chính phủ hai bên nên có một số biện pháp sau : Thường xuyên cung cấp các thông tin về tình hình thị trường, phổ biến các báo cáo phân tích thông tin thị trường. Các cơ quan, ban ngành chức năng hữu quan thường xuyên tổ chức các hoạt động giao lưu với các doanh nghiệp tiêu biểu, lắng nghe ý kiến của họ đồng thời giới thiệu môi trường đầu tư và các dự án hợp tác cho những doanh nghiệp này. Xây dựng một website chung của cả khu vực để cung cấp thông tin và kết nối giữa các doanh nghiệp, từ đó tạo điều kiện thuận lợi cho việc tra cứu thông tin, tìm hiểu thị trường của nhau cũng như có thể cung cấp các thông tin, giới thiệu về doanh nghiệp mình, tìm các đối tác kinh doanh. Thành lập nhiều phòng thương mại, hiệp hội các doanh nghiệp…để thu hút sự tham gia của nhiều doanh nghiệp. Sau đó thông qua những tổ chức này để có thể tìm hiểu kỹ hơn và nắm bắt được chính sách, hoạt động của các doanh nghiệp, từ đó có những biện pháp cụ thể để phát huy tối đa chức năng của các tổ chức này. Tổ chức các cuộc triển lãm, các chuyến khảo sát thị trường sang các nước khác trong khu vực và các hoạt động xúc tiến thương mại khác để tăng cơ hội gặp gỡ, tiếp xúc, giao thương giữa các doanh nghiệp các bên, hỗ trợ cho các doanh nghiệp xuất khẩu … Chính phủ các nước trong khu vực có thể hợp tác cùng tổ chức các cuộc hội thảo, tọa đàm giữa doanh nghiệp các nước để các doanh nghiệp có thể thông qua đó trao đổi ý kiến, kinh nghiệm, đưa ra những vấn đề khó khăn thảo luận cùng giải quyết, đồng thời Nhà nước sẽ cung cấp thông tin thường xuyên và kịp thời cho các doanh nghiệp, cung cấp các dịch vụ trung gian môi giới, trợ giúp hoặc tư vấn các giải pháp cho các doanh nghiệp cùng tham khảo. 5. Các doanh nghiệp hai bên nên chủ động nâng cao ý thức hợp tác, tìm hiểu thị trường, chính sách, cơ chế hoạt động của nhau đồng thời nỗ lực tự đổi mới, nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp mình: Về phía các doanh nghiệp, đồng thời dưới sự hướng dẫn chỉ đạo của Nhà nước, cũng nên chủ động tìm ra những biện pháp hợp tác có hiệu quả. Có thể thông qua một số biện pháp cụ thể như sau : Tìm hiểu tình hình thị trường, tình hình cung cầu, đặc điểm, yêu cầu, biến động và những tiềm năng phát triển của thị trường của nhau, việc này sẽ giúp các doanh nghiệp khai thác thị trường, tìm ra và nắm bắt kịp thời các cơ hội kinh doanh ở các nước bạn. Tìm hiểu chính sách, chủ trương của Chính phủ các nước trong khu vực một mặt là để nắm bắt kỹ hơn về thị trường và kinh doanh có hiệu quả trong thị trường một nước mà doanh nghiệp định tham gia, mặt khác rất quan trọng là để so sánh các cơ hội kinh doanh giữa các thị trường trong khu vực để lựa chọn thị trường kinh doanh có hiệu quả nhất về một ngành nghề cụ thể nào đó. Ví dụ đối với các nước ASEAN, để tận dụng cơ hội có được từ chiến lược " Đại khai phá miền Tây" của Trung Quốc, các doanh nghiệp ASEAN nên đẩy mạnh hơn nữa việc thâm nhập vào các tỉnh khu vực phía tây của Trung Quốc. Hoặc ví dụ như để tận dụng cơ hội từ việc sắp hoàn thành AFTA trong ASEAN, các sản phẩm được sản xuất ra ở một trong những nước ASEAN sẽ được hưởng ưu đãi thuế quan ở các nước ASEAN còn lại, các doanh nghiệp Trung Quốc nên tìm cách thành lập các cơ sở sản xuất và tiêu thụ chính những sản phẩm đó ở các nước ASEAN. Việc này cũng phù hợp với chính sách khuyến khích đầu tư ra nước ngoài đang được áp dụng hiện nay của chính phủ Trung Quốc. Nếu việc thành lập các nhà máy sản xuất ở các nước ASEAN như vậy, một mặt các doanh nghiệp Trung Quốc có thể nhận được sự hỗ trợ của chính chủ trương của chính phủ nước này đem lại, mặt khác vừa có thể tận dụng những ưu đãi của AFTA, và trong tương lai là những ưu đãi của ACFTA, gắn sản xuất với tiêu thụ sản phẩm. Tìm hiểu chính sách, cơ chế hoạt động của các doanh nghiệp ở các nước khác trong khu vực. Đây là điều kiện tiền đề cho sự hợp tác có hiệu quả. Trước đây đã có không ít những thất bại trong hợp tác giữa các doanh nghiệp Trung Quốc và ASEAN mà nguyên nhân chủ yếu là do sự hiểu biết đầy đủ về nhau cho nên dẫn đến nhiều bất đồng về quan điểm trong các quyết định và cả trong quá trình hoạt động của các doanh nghiệp hợp tác. Thời gian gần đây, cùng với công cuộc cải cách mở cửa, hệ thống hoạt động và các nguyên tắc quản lý của các doanh nghiệp Trung Quốc có nhiều thay đổi. Các doanh nghiệp ASEAN nên tìm hiểu những chế độ sở hữu khác nhau, những đặc điểm mới trong thể chế lãnh đạo, hệ thống quản lý, chính sách marketing,v.v…của các doanh nghiệp có quy mô khác nhau của Trung Quốc. Đồng thời, trong quá trình phục hồi nền kinh tế hiện nay, các doanh nghiệp ASEAN cũng liên tục đưa ra những điều chỉnh và cải thiện cơ chế quản lý kinh doanh, sản xuất, nhân sự, tài chính,…nên các doanh nghiệp Trung Quốc cũng phải nỗ lực tìm hiểu về những thay đổi này. Đặc biệt, trong quá trình thành lập ACFTA sắp tới, trong cơ cấu của nền kinh tế nói chung cũng như của các doanh nghiệp hai bên nói riêng còn có nhiều điều chỉnh nữa đòi hỏi cả hai bên cần phải nỗ lực nhiều hơn nữa cho sự hợp tác có hiệu quả giữa các doanh nghiệp. Tích cực tham gia vào các cuộc triển lãm, khảo sát thị trường nước ngoài…để tìm hiểu thông tin, tìm đối tác, tăng cường giao lưu với doanh nghiệp các nước khác trong khu vực. Thành lập các hiệp hội doanh nghiệp cùng các doanh nghiệp trong nước hoặc thành lập hiệp hội các doanh nghiệp trong một số ngành cùng với các doanh nghiệp khác trong khu vực để cùng trao đổi ý kiến, cùng hợp tác sản xuất kinh doanh, nâng cao sức cạnh tranh của các doanh nghiệp trong khu vực. Ví dụ có thể thành lập Hiệp hội các doanh nghiệp trong một số ngành vốn là thế mạnh của các nước trong khu vực như những ngành hàng nông nghiệp như gạo, hạt điều, cao su, thuỷ hải sản… hoặc một số ngành công nghiệp điện tử, may mặc…để đẩy mạnh những ngành này phát triển, hợp tác sản xuất trên quy mô lớn, nâng cao chất lượng sản phẩm và có thể điều tiết giá xuất khẩu những mặt hàng này trên thị trường quốc tế tránh một cách hợp lý. Đồng thời, bản thân các doanh nghiệp cũng cần phải nỗ lực tự đổi mới về cách thức quản lý kinh doanh sản xuất, đổi mới công nghệ, giảm thiểu các chi phí, nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ để nâng cao sức cạnh tranh từ nội lực doanh nghiệp mình. 6. Tham khảo kinh nghiệm từ mô hình AFTA : Các nước ASEAN đã trải qua 10 năm đàm phán, đã kí kết hàng loạt các hiệp định về loại bỏ hàng rào thuế quan, thống nhất các tiêu chuẩn sản phẩm và thuật ngữ thuế quan, đơn giản hoá và thống nhất thủ tục hải quan, xây dựng cơ chế trao đổi nhân lực và thông tin, đã xác định mục tiêu trung và dài hạn, đã xác định cơ chế hiệp thương và cách đàm phán tương đối ổn định. Nội dung chính của AFTA, cũng như của ACFTA là tự do hoá thương mại. Xét về một khía cạnh nào đó, có thể nói AFTA là một nền móng quan trọng cho sự hình thành ACFTA. Vì vậy, ACFTA có thể tham khảo mô hình của AFTA trong quá trình hoàn thành khu vực mậu dịch tự do tự do này. Trên thực tế, những hành trình giảm thuế quan và phi thuế đã được đưa ra trong Hiệp định khung về hợp tác kinh tế toàn diện của ASEAN - Trung Quốc cũng có nhiều điểm giống với phương pháp giảm thuế đã được áp dụng trong AFTA. Tuy nhiên học hỏi mô hình của AFTA không có nghĩa là Trung Quốc sẽ gia nhập vào AFTA mà chỉ là áp dụng những khuôn khổ chủ yếu và cơ cấu tổ chức của AFTA. Do bản thân việc thành lập AFTA đã trải qua một thời gian dài và có một số kinh nghiệm, ACFTA có thể từ đó rút ra những bài học bổ ích, từ đó sẽ giúp ACFTA giảm bớt thời gian và chi phí trong quá trình điều chỉnh kinh tế vi mô thông qua những biện pháp cụ thể. Hai bên cũng có thể tận dụng cơ chế của khu mậu dịch tự do, cố gắng đẩy mạnh tiến trình hợp tác hoá mà nội bộ ASEAN chưa thể giải quyết được. Ví dụ như kế hoạch về xây dựng Khu vực đầu tư ASEAN (AIA) mà các nước ASEAN đưa ra vài năm trước nhưng đến nay cũng mới chỉ đang ở bước đầu, chưa có những tiến triển thực chất. Trung Quốc và ASEAN có thể tham khảo cơ chế đã có, thành lập Khu vực đầu tư Trung Quốc - ASEAN và thực hiện kế hoạch hợp tác công nghiệp, dịch vụ… Trung Quốc - ASEAN. Việc này sẽ giúp cho việc thành lập ACFTA thực sự trở thành một tổ chức hợp tác toàn diện. 7. Nội bộ các nước ASEAN cần đoàn kết và nhất trí, đồng thời khẩn trương đẩy nhanh hơn nữa quá trình hoàn thành các chương trình hợp tác trong nội bộ khối ASEAN Các nước ASEAN đều có lợi ích chung từ việc thành lập ACFTA, hợp tác với Trung Quốc đem lại nhiều cơ hội nhưng cũng có không ít thách thức, nền kinh tế lại là một nền kinh tế lớn mạnh và có quy mô lớn hơn cả 10 nước ASEAN gộp lại. Nếu trong nội bộ các nước ASEAN không có sự đoàn kết hợp lực trong quan hệ với Trung Quốc thì ASEAN sẽ khó có thể đạt được những lợi ích chung đó, thậm chí còn kìm hãm sự phát triển chung của cả khu vực này. Vì vậy, trong quá trình xây dựng ACFTA, các nước ASEAN cần phải đẩy mạnh đoàn kết nhất trí hơn nữa, đứng trên lập trường chung trong giải quyết các vấn đề kinh tế cũng như chính trị, cùng hợp lực để bảo vệ quyền lợi của mình trong các quan hệ hợp tác với Trung Quốc, cùng giúp đỡ nhau phát triển khắc phục những khó khăn trong việc thực hiện các cam kết trong ACFTA. Đặc biệt là đối với những nước ASEAN mới cần có sự giúp đỡ của các nước khác trong ASEAN để theo kịp trình độ phát triển của các nước phát triển hơn trong ACFTA và để hạn chế bớt những tiêu cực do việc thực hiện ACFTA đem lại. Đồng thời, các nước ASEAN cần đẩy nhanh việc hoàn thành các chương trình hợp tác trong nội bộ khối này như AFTA, AIA, AICO,…vì việc này sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến việc thúc đẩy hoàn thành các chương trình hợp tác trong ACFTA, tạo cơ sở tiền đề việc thực hiện ACFTA . 8. Củng cố hoà bình, ổn định an ninh chính trị trong khu vực Mặc dù chính phủ Trung Quốc và các nước ASEAN đã có những nỗ lực trong việc giải quyết những vấn đề về an ninh, chính trị giữa hai bên song hiện nay vẫn còn tồn tại những vấn đề về tranh chấp hải đảo, vùng biển, lãnh thổ, biên giới…do lịch sử để lại cần giải quyết. Ngoài ra, vấn đề chính trị ở một số nước ASEAN như Inđônêxia, Philipin, Campuchia cũng diễn ra rất phức tạp, đặc biệt sự hiểm hoạ của chủ nghĩa khủng bố đối với toàn thế giới từ sau sự kiện 11/9 ở Mỹ và một số sự kiện diễn ra gần đây ở những nước ASEAN như Inđônêxia, Philipin đã trở thành mối đe doạ đối với an ninh chung của ASEAN nói riêng và của toàn khu vực ACFTA nói chung. Vì vậy, Trung Quốc và các nước ASEAN một mặt cần nỗ lực tìm hướng giải quyết triệt để những mâu thuẫn chính trị đang tồn tại giữa hai bên, mặt khác cần hợp tác để bảo vệ an ninh chính trị của mỗi nước và toàn khu vực, hợp lực chống chủ nghĩa khủng bố và các lực lượng phản động khác để duy trì hoà bình, ổn định chung trong khu vực, tạo điều kiện thuận lợi cho hợp tác kinh tế thương mại phát triển. Kết luận Chỉ trong thời gian rất ngắn là một năm, Trung Quốc và ASEAN đã đi đến quyết định chính thức về việc thành lập ACFTA. Đây chính là một bước nhảy vọt về chất trong quan hệ giữa hai bên và cũng là một quyết định mang tính lịch sử mà hai bên đã đưa ra để tìm kiếm những cơ hội phát triển mới. Khu vực mậu dịch tự do này ra đời sẽ hứa hẹn nhiều lợi ích thiết thực đối với các nước thành viên. Mặc dù giữa ASEAN và Trung Quốc hiện nay đang tồn tại nhiều yếu tố cạnh tranh về kinh tế, đây là một thách thức lớn song cũng lại là một động lực để phát triển - cạnh tranh chính là một trong những nhân tố quan trọng để đạt được hiệu quả cao. Mặt khác, tuy có nhiều điểm tương đồng nhưng các nước ASEAN và Trung Quốc hoàn toàn vẫn có thể tìm thấy nhiều dư địa trong hợp tác để phát triển nền kinh tế của mỗi bên. ACFTA là một mô hình hợp tác đúng đắn và thích hợp đối với cả hai bên. Nếu hai bên cùng nỗ lực thực hiện những cam kết như đã nêu trong Hiệp định khung, đồng thời có những biện pháp khả thi để cụ thể hoá và tiến hành những nội dung hợp tác trong Hiệp định này, chắc chắn ACFTA sẽ là một cơ chế hợp tác có hiệu quả giữa hai bên. Trong tương lai, khu mậu dịch tự do với hơn 1,8 tỉ người tiêu dùng này sẽ có thể là một mẫu hình mới về hợp tác, hỗ trợ lẫn nhau giữa các nước đang phát triển, đồng thời cũng là tiên phong đối với sự liên kết giữa các nước Đông á. Trong khuôn khổ thời gian và quy mô hạn chế, khoá luận này chỉ đề cập một số vấn đề liên quan trực tiếp đến ACFTA như những nhân tố thúc đẩy quyết định thành lập ACFTA, những cơ hội và thách thức của ACFTA đối với hai bên Trung Quốc và ASEAN nói chung và một số kiến nghị đối với sự phát triển của ACFTA. Ngoài ra còn một số vấn đề khác liên quan tới đề tài em chưa có dịp bàn đến như cơ hội và thách thức của ACFTA và những biện pháp để tham gia hiệu quả vào khối này đối với từng nước ASEAN, đặc biệt là đối với Việt Nam. Hi vọng trong tương lai tới, nếu có điều kiện, em sẽ có thể phát triển đề tài lên mức cao hơn. tài liệu tham khảo Tài liệu tiếng Việt : Giáo trình Quan hệ kinh tế quốc - Lý thuyết và thực tiễn - GS. PTS Tô Xuân Dân - PGS.TS Vũ Chí Lộc - Nhà xuất bản Hà nội - 1998. Những vấn đề của toàn cầu hoá - Tiến sĩ Nguyễn Văn Dân ( Chủ biên )- Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia- Nhà xuất bản khoa học xã hội - 2001. Toàn cầu hoá kinh tế. Lối thoát của Trung Quốc là ở đâu - Trung tâm nghiên cứu Trung Quốc dịch - Nhà xuất bản khoa học xã hội - 2001. Châu á. Từ khủng hoảng nhìn về thế kỷ 21 - Tác giả Vũ Quang Việt - Nhà xuất bản TP Hồ Chí Minh và VAPEC - 2000. Đặc điểm con đường phát triển kinh tế xã hội của các nước ASEAN - Tiến sĩ Phạm Đức Thành ( Chủ biên ) - Nhà xuất bản khoa học xã hội - 2001. ASEAN hôm nay và triển vọng - PTS Nguyễn Thu Mỹ ( Chủ biên ) - Nhà xuất bản chính trị quốc gia - 1998. Tài liệu tham khảo về Xúc tiến thương mại - Cục xúc tiến thương mại. Bộ thương mại - Tháng 10/2002. Kinh tế thế giới năm 1999 -2000, 2000 - 2001, 2001 - 2002, Đặc điểm và triển vọng - Kim Ngọc ( chủ biên ) - NXB Chính trị quốc gia - 2000. Trung Quốc : Cải cách mở cửa (1978 - 1998) - Tiến sĩ Nguyễn Thế Tăng ( chủ biên ) - NXB khoa học xã hội - 2000. Công nghiệp hoá ở một số nước ASEAN - Bài học kinh nghiệm và tầm nhìn đến 2020- GS.TS Nguyễn Thanh Tuyền, TS Đào Duy Huân - NXB Chính trị Quốc gia - 2000. Tạp chí nghiên cứu Trung Quốc các số năm 2001 và 2002. Tạp chí nghiên cứu Đông nam á các số 1, 5 năm 2002. Tạp chí Những vấn đề kinh tế thế giới số 2 năm 2002. Bản tin Trung Quốc các số 1, 5, 7 năm 2002. Tạp chí Ngoại thương các số 11-20/4, 21 -31/8, 21-31/10 năm 2002. Thời báo kinh tế Sài Gòn các số 20/9, 27/9 năm 2001, 27/6,1/8 năm 2002. Các website : www.fptnet.com www.saigonnet.vn www.vnn.vn www.vietrade.gov.vn www.undp.org.vn www.netnam.com b. tài liệu tiếng Anh "Forging closer ASEAN - China Economics Relations in the 21st century"-Report Submitted by the ASEAN-China expert group on Economic cooperation, 10/2001 Framework Agreement on comprehensive economic cooperation between ASEAN and China - 8th ASEAN Summit. IMF- Direction of Trade Statistics Yearbook 2001 FEER, 2/5/2002. " The challenges of cooperation" - Reported by Mr. Lim Swee Say, Singapore's Minister of Environment - Annual ASEAN-China bilateral dialogue (15-16 April 2002) China - ASEAN Free Trade arrangement: Opportunities and challenges, John Wong & Sarah Chan - Paper presented at the International Seminar on China - ASEAN trade, investment and development cooperation ( June,2002 ) Các website : www.aseansec.org www.asiaweek.com www.moftec.gov.cn www.xinhuanet.com www.china.org.cn www.chinadaily.com.cn www.peopledaily.com.cn www.vietnamnews.vnagency.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docKhoa luan tot nghiep ban 1.doc
Tài liệu liên quan