Kinh nghiệm một số nước và thực trạng áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam

Phương án can thiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song nó phụ thuộc phần lớn vào chế độ tỷ giá hiện hành. Mỗi chế độ ngoại hối đều có phương án điều chỉnh can thiệp thích hợp. Trên thực tế, đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp lãi suất chiết khấu, các nghiệp vụ thị trường hối đoái, quĩ bình ổn hối đoái, giảm giá hoặc tăng giá đồng nội tệ,. Phương pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức “báo động” cần phải can thiệp thì NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ bớt đi, làm cho tỷ giá không có cơ hội tăng nữa. Tuy nhiên, chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động một cách qua lại gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá là không giống nhau, do đó những biến động của lãi suất không nhất thiết kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có thể thu hút được vốn ngắn hạn từ nước ngoài, nhưng nếu tình hình kinh tế - chính trị - xã hội không ổn định thì khó có thể thực hiện được vì vấn đề an toàn vốn phải đặt lên trên hết. Khủng hoảng 1971-1973 ở Mỹ là một ví dụ. Mặc dù lãi suất trên thị trường New-York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp ba thị trường Frankfurk nhưng vốn ngắn hạn không được chuyển vào Mỹ mà lại được đưa đến Tây Đức và Nhật Bản.

doc32 trang | Chia sẻ: Dung Lona | Lượt xem: 918 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Kinh nghiệm một số nước và thực trạng áp dụng chế độ tỷ giá ở Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
LỜI MỞ ĐẦU Tỷ giá là một trong những vấn đề rất được quan tâm trong một nền kinh tế, đặc biệt là trong nền kinh tế của các nước đang phát triển, đang từng bước hoà nhập vào nền kinh tế thế giới và tham gia vào phân công lao động quốc tế. Bởi hoạt động thương mại quốc tế của các nước này ngày càng phát triển và đòi hỏi phải có sự tính toán so sánh về giá cả, tiền tệ với các nước đối tác. Chính tỷ giá là một công cụ quan trọng được sử dụng trong tính toán này. Đặc biệt Việt Nam đang ở tình trạng lạm phát tăng cao việc điều chỉnh chế độ tỷ giá hợp lý là hết sức cần thiết cho tình hình xuất nhập khẩu của việt nam hiện nay. Cấu trúc bài viết gồm các phần: PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ. PHẦN II: KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM. PHẦN III: CÁC GIẢI PHÁP XÚC TIẾN VÀ ĐƯA CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ. Tuy nhiên, không phải đồng tiền nào cũng được nhận để thanh toán bên ngoài quê hương của nó. Để chuyển đổi ra nội tệ của nước nào đó, nó phải được ngân hàng nước đó thu mua. Những đồng tiền có thể chuyển đổi thành nội tệ của một nước khác được gọi là ngoại tệ, nó được xem là phương tiện thanh toán và đầu tư quốc tế. Trên thế giới hiện nay có một số ngoại tệ mạnh được sử dụng rộng rãi, phổ biến như: USD (Mỹ), JPY (Nhật), Bảng (Anh),... PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ 1-/ Khái niệm tỷ giá, thị trường ngoại hối Tỷ giá hối đoái là quan hệ so sánh về mặt giá trị giữa hai đồng tiền của hai quốc gia,ví dụ:1USD=16,950VND Thị trường ngoại hối là nơi diễn ra hoạt động mua bán ngoại tệ và vốn bằng ngoại tệ. Đặc điểm của thị trường ngoại hối ở mỗi quốc gia có thể khác nhau. Ở Mỹ thị trường ngoại hối được tổ chức thành thị trường qua tay, tại đó hàng trăm nhà kinh doanh (đa số là ngân hàng) sẵn sàng mua và bán các khoản tiền gửi ghi bằng ngoại tệ. Tính cạnh tranh trên thị trường này là rất lớn. Mua bán trên thị trường ngoại hối là những giao dịch trị giá trên một triệu USD. 2-/ Vai trò của tỷ giá Tỷ giá giữ vai trò quan trọng đối với mọi nền kinh tế. Sự vận động của nó có tác động sâu sắc, mạnh mẽ tới mục tiêu, chính sách kinh tế vĩ mô của mỗi quốc gia: Thứ nhất, nó là phương tiện để thực hiện trao đổi thương mại quốc tế. Một quốc gia muốn mua hàng hoá ở nước khác phải đổi đồng tiền nước mình ra tiền nước đó để thực hiện các giao dịch. Tỉ giá hối đoái sẽ qui định tỉ lệ qui đổi giữa hai loại đồng tiền đó. Thứ hai, nó tác động trực tiếp tới hoạt động xuất nhập khẩu. Khi đồng tiền của một nước tăng giá (tăng trị giá so với các đồng tiền khác) thì hàng hoá của nước đó ở nước ngoài trở thành đắt hơn và hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành rẻ hơn. Ngược lại, khi đồng tiền của một nước sụt giá, hàng hoá của nước đó tại nước ngoài trở thành rẻ hơn trong khi hàng hoá nước ngoài tại nước đó trở thành đắt hơn (các yếu tố khác không đổi). Tỷ giá tác động tới hoạt động xuất nhập khẩu vì vậy nó tác động tới cán cân thanh toán quốc tế, gây ra thâm hụt hoặc thặng dư cán cân. Thứ ba, tỷ giá là công cụ điều tiết vĩ mô. Tác động vào tỷ giá sẽ làm ảnh hưởng tới xuất nhập khẩu từ đó ảnh hưởng tới tổng cầu, sản phẩm quốc dân, thất nghiệp,... Việc điều hành tỷ giá không tốt có thể dẫn tới lạm phát, khủng hoảng. Tỷ giá còn góp phần vào việc cải thiện cung cầu về ngoại tệ, giải quyết vấn đề nợ nước ngoài,... 3-/ Các loại tỷ giá hối đoái Tỷ giá hối đoái chính thức và Tỷ giá hối đoái song song Tỷ giá hối đoái có thể được quy định bởi thị trường trong chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi, và được gọi là tỷ giá thị trường. Tỷ giá hối đoái cũng có thể được quy định bởi các cơ quan quản lý nhà nước trong chế độ tỷ giá hối đoái cố định. Ở nhiều nước, cả thị trường lẫn cơ quan quản lý nhà nước cùng tham gia quy định tỷ giá hối đoái. Tỷ giá hối đoái khi đổi tại ngân hàng thương mại và quầy giao dịch ngoại hối phục vụ khách hàng lẻ thường chênh lệch so với tỷ giá công bố có thể vì một trong hai lý do sau: (1) đã được tính gộp cả phí dịch vụ; (2) có hai tỷ giá đồng thời, một tỷ giá hối đoái chính thức (có thể do cơ quan quản lý nhà nước qui định, hoặc do cả thị trường lẫn cơ quan quản lý nhà nước quy đinh) và một tỷ giá không chính thức (còn gọi là tỷ giá hối đoái song song hay tỷ giá chợ đen) do thị trường quyết định. Ở Việt Nam, ngay cả tỷ giá hối đoái chính thức cũng có vài loại: tỷ giá bình quân liên ngân hàng, tỷ giá tính thuế xuất nhập khẩu, tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại, và tỷ giá hạch toán. Tỷ giá mua vào và bán ra ngoại tệ niêm yết tại một số ngân hàng để phục vụ khách đổi tiền là tỷ giá giao dịch của ngân hàng thương mại có tính thêm phí dịch vụ. Còn tỷ giá đổi tiền tại các cửa hàng kinh doanh vàng bạc ngoại tệ của tư nhân hay khi đổi tiền trong nhân dân chính là tỷ giá hối đoái song song. Tỷ giá hối đoái danh nghĩa và Tỷ giá hối đoái thực tế Tỷ giá hối đoái danh nghĩa là tỷ giá hối đoái không xét đến tương quan giá cả hay tương quan lạm phát giữa hai nước. Tỷ giá hối đoái thực là tỷ giá hối đoái có xét đến tương quan giá cả giữa hai nước hoặc tương quan tỷ lệ lạm phát giữa hai nước. Quan hệ giữa hai loại tỷ giá này được thể hiện qua cách tính sau: Tỷ giá hối đoái thực tế = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Giá nước ngoài / Giá nội địa = Tỷ giá hối đoái danh nghĩa x Tỷ lệ lạm phát nước ngoài / Tỷ lệ lạm phát trong nước. Tỷ giá hối đoái song phương và Tỷ giá hối đoái hiệu lực Tỷ giá hối đoái giữa hai đồng tiền được gọi là tỷ giá hối đoái song phương. Còn tỷ giá hối đoái hiệu lực là tỷ lệ trao đổi giữa một đồng tiền X với nhiều đồng tiền khác cùng lúc (thông thường là đồng tiền của các bạn hàng thương mại lớn). Tỷ giá này được tính dựa trên giá trị bình quân gia quyền của các tỷ giá song phương giữa đồng tiền X với từng đồng tiền kia. Tỷ giá hối đoái hiệu lực cũng có loại danh nghĩa và loại thực tế 4-/ Những nhân tố tác động tới tỷ giá: Sự hình thành TGHĐ là quá trình tác động của nhiều yếu tố chủ quan và khách quan. Nhưng nhìn chung, có ba yếu tố chính tác động đến tỷ giá. Đó là mối quan hệ cung cầu về ngoại tệ, độ lệch về lãi suất và lạm phát giữa các nước. Cung cầu về ngoại tệ trên thị trường là nhân tố ảnh hưởng trực tiếp đến sự biến động của tỷ giá hối đoái. Cung cầu ngoại tệ lại chịu sự ảnh hưởng của nhiều yếu tố khác nhau trong đó có cán cân thanh toán quốc tế. Nếu cán cân thanh toán quốc tế dư thừa có thể dẫn đến khả năng cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ và ngược lại. Sự cân bằng của cán cân thanh toán quốc tế lại phụ thuộc vào các nguốn cung và cầu ngoại tệ cấu thành nên cán cân thanh toán quốc tế. Khi nền kinh tế có mức tăng trưởng ổn định nhu cầu về hàng hoá và dịch vụ nhập khẩu sẽ tăng do đó nhu cầu về ngoại tệ cho thanh toán hàng nhập khẩu tăng lên. Ngược lại, khi nền kinh tế rơi vào tình trạng suy thoái thì các hoạt động sản xuất kinh doanh và xuất nhập khẩu bị đình trệ làm cho nguồn cung ngoại tệ giảm đi. Trong khi nhu cầu nhập khẩu chưa kịp thời được điều chỉnh trong ngắn hạn việc giảm cung ngoại tệ sẽ đẩy tỷ giá lên cao. Mức chênh lệch về lãi suất giữa các nước là yếu tố thứ hai ảnh huờng đến TGHĐ. Nước nào có lãi suất tiền gửi ngắn hạn cao hơn lãi suất tiền gửi của các nước khác thì vốn ngắn hạn sẽ chảy vào nhằm thu phần chênh lệch do tiền lãi tạo ra, do đó sẽ làm cho cung ngoại tệ tăng lên, TGHĐ sẽ giảm xuống. Mức chênh lệch lạm phát của hai nước cũng ảnh hưởng đến sự biến động của tỷ giá. Giả sử trong điều kiện cạnh tranh lành mạnh, năng suất lao động của hai nước tương đương như nhau, cơ chế quản lý ngoại hối tự do, khi đó tỷ giá biến động phụ thuộc vào mức chênh lệch lạm phát của hai đồng tiền. Nước nào có mức độ lạm phát lớn hơn thì đồng tiền của nước đó bị mất giá so với đồng tiền nước còn lại. Chênh lệch lạm phát dựa vào thuyết ngang giá sức mua của đồng tiền PPP. Theo thuyết này, mức giá của một nước tăng lên tương đối so với mức tăng giá của nước khác trong dài hạn sẽ làm cho đồng tiền của nước đó giảm giá và ngược lại. Như vậy, yếu tố chênh lệch lạm phát chỉ có ảnh hưởng đến biến động của tỷ giá trong dài hạn. Việc nghiên cứu yếu tố này để làm cơ sở dự đoán biến động của tỷ giá trong ngắn hạn sẽ đem lại kết quả không đáng tin cậy. Ngoài những yếu tố nêu trên TGHĐ còn chịu ảnh hưởng của các yếu tố khác, chẳng hạn như yếu tố tâm lý, chính sách của chính phủ, uy tín của đồng tiền, nguồn vốn đầu tư vào ra Nhìn chung, TGHĐ biến động tăng hoặc giảm là do tác động của nhiều yếu tố khác nhau. Do đó, để có một mức tỷ giá phù hợp cho từng thời kỳ, chúng ta cần phải xác định được các yếu tố chủ quan, khách quan; trực tiếp và gián tiếp tác động lên tỷ giá. Trên cơ sở đó, mà đưa ra những quyết định chính sách đúng đắn trong việc điều hành tỷ giá nhằm đạt các mục tiêu kinh tế cụ thể 5-/ Sự can thiệp điều hành tỷ giá: Thông thường, Ngân hàng Trung ương là người thay mặt Chính phủ can thiệp vào thị trường ngoại hối. Ngân hàng Trung ương đóng vai trò quan trọng, to lớn trong việc điều hành tỉ giá song không phải là vô hạn. Trên thị trường ngoại hối ngân hàng Trung ương đóng vai trò kép: Ngân hàng mua bán ngoại tệ và sử dụng các công cụ can thiệp khi cần thiết. a-/ Các loại hình can thiệp của NHTƯ: Can thiệp trách nhiệm: Khi tỷ giá của một đồng tiền trong hệ thống tỷ giá cố định đạt tới cận điểm hoặc đỉnh điểm qui định can thiệp thì phải can thiệp. Theo khuôn khổ hệ thống Bretton-woods, các nước thành viên có trách nhiệm duy trì sự dao động của đồng tiền nước mình trong miền dao động tỷ giá so với USD đã qui định trước. Khi cán cân thanh toán của một quốc gia bị mất cân đối hết sức nghiêm trọng (mặc dù đã dùng mọi biện pháp mà không cải thiện được), thì mới được phép tăng hoặc giảm tỷ giá hối đoái của nội tệ. Can thiệp tự do (ngược lại với can thiệp trách nhiệm): Có thể xảy ra không chỉ trong hệ thống tỷ giá cố định mà ngay cả trong hệ thống tỷ giá thả nổi. Thông thường, sự can thiệp của NHTƯ phải được tiến hành trước khi sự dao động của tỷ giá hối đoái đạt tới những điểm cần can thiệp, nhằm giảm bớt sự căng thẳng của tình hình. Sự can thiệp của NHTƯ vào thị trường ngoại hối, ngoài các hiệu ứng phụ, có 2 hiệu ứng chính sau đây: thứ nhất, tác động trực tiếp vào khối lượng ngoại tệ; thứ hai, gián tiếp gây biến động thông qua mức lãi suất trong nước. b-/ Hệ thống công cụ can thiệp: Phương án can thiệp phụ thuộc vào nhiều yếu tố, song nó phụ thuộc phần lớn vào chế độ tỷ giá hiện hành. Mỗi chế độ ngoại hối đều có phương án điều chỉnh can thiệp thích hợp. Trên thực tế, đã và đang tồn tại nhiều phương pháp khác nhau: phương pháp lãi suất chiết khấu, các nghiệp vụ thị trường hối đoái, quĩ bình ổn hối đoái, giảm giá hoặc tăng giá đồng nội tệ,... Phương pháp lãi suất chiết khấu: Đây là phương pháp thường được sử dụng để điều chỉnh tỷ giá hối đoái trên thị trường. Khi tỷ giá hối đoái đạt đến mức “báo động” cần phải can thiệp thì NHTƯ nâng cao lãi suất chiết khấu. Do lãi suất chiết khấu tăng, lãi suất cho vay trên thị trường cũng tăng lên. Kết quả là vốn vay ngắn hạn trên thị trường thế giới sẽ dồn vào để thu lãi cao hơn. Nhờ thế mà sự căng thẳng về nhu cầu ngoại tệ bớt đi, làm cho tỷ giá không có cơ hội tăng nữa. Tuy nhiên, chính sách lãi suất chiết khấu cũng có những hạn chế nhất định, vì quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá chỉ là quan hệ tác động một cách qua lại gián tiếp, chứ không phải quan hệ trực tiếp nhân quả. Các yếu tố để hình thành lãi suất và tỷ giá là không giống nhau, do đó những biến động của lãi suất không nhất thiết kéo theo biến động của tỷ giá. Lãi suất cao có thể thu hút được vốn ngắn hạn từ nước ngoài, nhưng nếu tình hình kinh tế - chính trị - xã hội không ổn định thì khó có thể thực hiện được vì vấn đề an toàn vốn phải đặt lên trên hết. Khủng hoảng 1971-1973 ở Mỹ là một ví dụ. Mặc dù lãi suất trên thị trường New-York cao gấp rưỡi thị trường London, gấp ba thị trường Frankfurk nhưng vốn ngắn hạn không được chuyển vào Mỹ mà lại được đưa đến Tây Đức và Nhật Bản. Các nghiệp vụ thị trường hối đoái. Thông qua các nghiệp vụ mua-bán ngoại tệ điều chỉnh tỷ giá hối đoái là một trong những biện pháp rất quan trọng của Nhà nước để giữ vững sự ổn định sức mua của đồng tiền quốc gia. Đây là biện pháp trực tiếp tác động vào tỷ giá hối đoái. Một sự can thiệp hữu hiệu trong đó đồng tiền trong nước được bán để mua tài sản nước ngoài đưa đến: (1) Thu thêm dự trữ quốc tế; (2) Một sự tăng trong cung tiền tệ; (3) Một sự sụt giá của đồng nội tệ. Ngược lại, khi đồng tiền trong nước được mua bằng cách bán tài sản nước ngoài đưa đến: (1) Dự trữ quốc tế giảm; (2) Cung tiền tệ giảm; (3) Đồng tiền trong nước tăng giá. Tuỳ điều kiện mỗi quốc gia mà việc tổ chức thực hiện nghiệp vụ này có sự khác nhau về phạm vi, qui mô tác động. Với những nước có nền kinh tế phát triển cao, các nghiệp vụ thị trường hối đoái được thực hiện trên qui mô rộng lớn, đôi khi mở ra trên phạm vi cả một khu vực, thậm chí thế giới. Việc lựa chọn các thời điểm cần mua, cần bán ngoại tệ trên thị trường với tỉ giá nào để đạt được mục tiêu điều chỉnh là những hoạt động có ý nghĩa quyết định. Nếu chủ quan, thiếu cân nhắc đầy đủ kỹ càng việc lựa chọn này thì hậu quả nhiều khi khó mà lường hết được. Điều chỉnh tỷ giá theo phương pháp này, Chính phủ thường gặp phải phản ứng trái ngược nhau của các doanh nghiệp cũng như các tầng lớp dân cư trong xã hội bắt nguồn tự lợi ích kinh tế. Những mâu thuẫn này thường xảy ra giữa những nhà xuất khẩu và nhập khẩu giữa những người đang nắm giữ trong tay số lượng lớn ngoại tệ và những người trong túi chỉ có nội tệ. Để thực hiện có hiệu quả biện pháp này, một điều kiện không thể thiếu là Chính phủ phải có một lượng dự trữ ngoại tệ đủ sức để can thiệp vào thị trường khi cần thiết. Quỹ dự trữ bình ổn hối đoái: Trong điều kiện tình hình giá cả thị trường luôn không ổn định, thậm chí hay xảy ra các biến động lớn, các nước thường sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái như là một trong những công cụ để điều chỉnh tỷ giá hối đoái. Nguồn vốn để hình thành quỹ dự trữ bình ổn hối đoái thường là: - Phát hành trái khoán kho bạc bằng tiền quốc gia (như Anh, Hà Lan,...) - Sử dụng vàng để lập quỹ dự trữ bình ổn hối đoái (như Pháp, Mỹ, Thuỵ Sỹ,...) Hạn chế của công cụ này là nó chỉ tác động lớn khi khủng hoảng ngoại tệ ít nghiêm trọng. Hơn nữa, việc tạo lập được quĩ bình ổn hối đoái đòi hỏi các quốc gia phải có một thực lực nhất định về kinh tế. Vấn đề phá giá đồng tiền: Phá giá đồng tiền là việc nâng cao hoặc giảm thấp sức mua của đồng tiền so với các ngoại tệ. Kết quả của phá giá sẽ ảnh hưởng trực tiếp đến sự tăng hoặc giảm của tỷ giá hối đoái. Đây là điểm giống nhau giữa phá giá đồng tiền và điều chỉnh tỷ giá hối đoái, nhưng không phải không có sự khác nhau. Điều chỉnh tỷ giá hối đoái là việc làm thường xuyên liên tục của Nhà nước nhằm duy trì sự ổn định của tỷ giá hối đoái, ổn định sức mua của đồng tiền, kiềm chế đẩy lùi lạm phát. Tỷ giá hối đoái được điều chỉnh theo nguyên tắc duy trì biên độ dao động cho phép tăng hoặc giảm một tỷ lệ nhất định so với tỷ giá hối đoái được sử dụng làm chuẩn. Khác hẳn với phá giá đồng tiền, một biện pháp mạnh, cực đoan, chỉ áp dụng trong những trường hợp hết sức cần thiết. Phá giá không phải là giải pháp đúng cho mọi trường hợp. Nó phải được vận dụng linh hoạt, phù hợp với điều kiện, hoàn cảnh cụ thể thích hợp. Nếu không hiệu ứng tiêu cực của hành động phá giá sẽ đẩy tình hình vào thế khủng hoảng trầm trọng hơn. Bên cạnh giảm giá sức mua đồng nội tệ là việc nâng giá sức mua đồng nội tệ. Nó thường được áp dụng trong các trường hợp: - Giá hàng hoá, dịch vụ xuất khẩu được xác định thấp so với giá trên thị trường quốc tế. - Hạn chế xuất khẩu do sức ép của các nước bạn hàng nhằm tạo thế cân bằng trong thương mại quốc tế. - Tăng khả năng nhập khẩu, kiềm chế lạm phát. - Ngăn ngừa các loại ngoại tệ đang bị mất giá tràn vào nước mình. Sự can thiệp điều hành tỷ giá trong lịch sử không phải luôn giống nhau. Thực tế mỗi công cụ can thiệp điều chỉnh tỷ giá lại được vận dụng một cách linh hoạt tương ứng với mỗi điều kiện, chế độ tỷ giá cụ thể. Trong lịch sử đã xuất hiện các chế độ bản vị vàng, bản vị đô la, chế độ tỷ giá thả nổi, chế độ tỷ giá linh hoạt,... Các chế độ này sẽ được nghiên cứu ở phần tiếp theo. 6-/ Các chế độ tỷ giá trong lịch sử: Chế độ bản vị vàng: Khi áp dụng chế độ tỷ giá cố định lấy vàng làm bản vị (còn gọi là chế độ bản vị vàng) thì việc lựa chọn phương án xử lý tỷ giá ít phải đặt ra vì chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, đồng tiền ít bị mất giá, tỷ giá xác định qua nội dung vàng của các đồng tiền ít khi bị biến động. Trong chế độ bản vị vàng thì biên độ dao động của tỷ giá là ngang giá vàng cộng (hoặc trừ) chi phí vận chuyển vàng (vận tải, bảo hiểm, đóng gói và thủ tục phí,...) giữa các nước hữu quan. Biên độ dao động này gọi là “điểm vàng”. Khi tỷ giá vượt qua điểm vàng thì nước mắc nợ sẽ không dùng đồng tiền quốc gia của mình để mua ngoại tệ dùng vào việc trả nợ mà họ sẽ chuyển vàng ra nước ngoài để trả nợ. Với đặc trưng này, chế độ bản vị vàng là một chế độ ổn định, sức mua đồng tiền ít bị biến động. Để biết chế độ bản vị vàng hoạt động như thế nào ta hãy xem xét ví dụ sau: kho bạc Mỹ chấp nhận đổi 1USD lấy 1/20 lạng vàng, ở Anh 1 Bảng đổi được 1/4 lạng vàng. Do đó, tỷ giá hối đoái giữa đồng Bảng Anh và đồng USD Mỹ là 1 Bảng = 5 USD. Bây giờ đồng Bảng Anh bắt đầu tăng giá cao hơn 5 USD. Nếu một người nhập khẩu Mỹ mua thực phẩm ở Anh trị giá 100 Bảng thì họ phải trả nhiều hơn 500 USD so với trước. Song người nhập khẩu có cách lựa chọn khác, đó là mua vàng bằng 500 USD ở Mỹ rồi trả số vàng đó sang Anh để thanh toán tiền hàng. Việc chở vàng sang Anh rẻ hơn khi giá đồng Bảng Anh vẫn cao hơn giá 5 USD (cộng thêm số tiền chi phí vận chuyển vàng từ Mỹ sang Anh). Việc chuyển vàng từ Mỹ sang Anh làm cho cơ số tiền tệ của Anh tăng lên và cơ sở tiền tệ của Mỹ giảm xuống. Kết quả tăng lên trong cung ứng tiền tệ làm tăng mức giá cả của Anh trong khi việc cung ứng tiền tệ của Mỹ giảm xuống làm mức giá cả của Mỹ giảm xuống. Kết quả mức giá tại Anh tăng lên so với mức giá tại Mỹ làm cho đồng Bảng Anh giảm giá. Quá trình này tiếp tục cho đến khi giá trị của đồng Bảng Anh giảm xuống trở lại bằng 5 USD. Trong giai đoạn đầu của nền kinh tế tư bản chủ nghĩa, chế độ này tỏ ra có nhiều ưu điểm. Nó có khả năng điều tiết khối lượng tiền tệ trong lưu thông một cách tự phát, không cần đến sự can thiệp của Nhà nước theo cơ chế: Sự tăng giảm khối lượng tiền tệ trong lưu thông luôn tỷ lệ nghịch với sự tăng giảm dự trữ vàng kim loại trong nền kinh tế. Chế độ tỷ giá cố định Bretton woods (1944). Theo chế độ này, tỷ giá chính thức giữa đồng tiền của các nước thành viên được hình thành trên cơ sở so sánh hàm lượng vàng của USD Mỹ (1 USD = 0,888671 gam vàng) và chỉ được phép dao động trong biên độ 1% của tỷ giá chính thức đã được đăng ký tại quĩ tiền tệ quốc tế (IMF). Nếu vượt quá biên độ này thì Ngân hàng Trung ương phải can thiệp bằng cách mua vào hoặc bán ra một số lượng USD nhất định. Theo chế độ này, vàng vẫn đóng vai trò trung tâm để so sánh sức mua giữa các đồng tiền với nhau qua cái cầu nối là USD (lúc bấy giờ 1 ounce = 35 USD). Từ cuối những năm 50 trở đi, vai trò của Mỹ ngày càng giảm sút trên thị trường thế giới, cán cân thanh toán quốc tế thường xuyên bị thâm hụt, dự trữ suy giảm và nợ nước ngoài tăng đã làm cho đồng USD ngày càng mất giá nghiêm trọng. Sự mất giá liên tục của đồng USD làm cho nạn đầu cơ trên các thị trường hối đoái quốc tế tăng lên. Hàng tỷ USD được tung ra trên thị trường để mua cái đồng tiền được giá. Các Ngân hàng Trung ương của các thành viên IMF cũng không đủ sức can thiệp để giữ giá đồng USD theo nguyên tắc tỷ giá cố định Bretton-woods. Trong bối cảnh đó, Mỹ buộc phải phá giá đồng USD. Đồng USD - đồng tiền chủ chốt, chỗ dựa cho các đồng tiền khác, trở nên bất ổn định kéo theo sự sụp đổ của chế độ tỷ giá Bretton-woods. Chế độ tỷ giá thả nổi (Floating rate): Chế độ tỷ giá thả nổi ra đời sau khi chế độ tỷ giá cố định Bretton - woods sụp đổ. Với chế độ tỷ giá thả nổi, tỷ giá được hình thành trên cơ sở diễn biến của cung và cầu ngoại hối trong nền kinh tế mà không bị ràng buộc như trước đây. Tỷ giá thả nổi có vai trò rất quan trọng trong điều tiết xuất - nhập khẩu và góp phần làm ổn định trở lại nền kinh tế đang có nguy cơ suy thoái. Thả nổi tỷ giá là xu hướng tất yếu của kinh tế thị trường, song việc áp dụng nó như thế nào lại là vấn đề phải cân nhắc kỹ để lựa chọn. Do đặc điểm phát triển kinh tế - xã hội của các nước trên thế giới còn có những sự khác nhau nhất định nên tuỳ vào hoàn cảnh cụ thể mà các nước tự lựa chọn cho mình một chế độ phù hợp. Đến nay chế độ tỷ giá thả nổi được chia làm 2 loại: - Chế độ tỷ giá thả nổi tự do. - Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý. Chế độ tỷ giá thả nổi tự do là chế độ mà tỷ giá hối đoái không có sự can thiệp nào của Chính phủ hoàn toàn do quan hệ cung cầu trên thị trường quyết định, tuy nhiên trên thực tế thì hầu như không có chế độ tỷ giá thả nổi hoàn toàn. Chế độ tỷ giá này được áp dụng ở những nước có nền kinh tế phát triển cao, thị trường tài chính phát triển và hoàn chỉnh. Chế độ tỷ giá thả nổi có quản lý là chế độ mà trong đó cung - cầu ngoại hối là cơ bản, nhưng không phải hoàn toàn, trong những trường hợp cần thiết Chính phủ sẽ có những biện pháp can thiệp nhằm giữ vững sự ổn định sức mua đồng tiền trong nước. Lựa chọn chế độ tỷ giá nào luôn là bài toán hóc búa đối với mọi quốc gia. Thực tế đã chứng minh đó là cả một nghệ thuật. Trong lịch sử, nhiều quốc gia đã thành công trong việc lựa chọn chế độ tỷ giá thích hợp. Bên cạnh đó, không ít quốc gia đã phải trả giá đắt cho việc sai lầm khi lựa chọn chế độ tỷ giá. Qua đây, chúng ta có thể rút ra những bài học bổ ích vận dụng vào thực tế ở Việt Nam. Kinh nghiệm lựa chọn chế độ tỷ giá một số nước và thực trạng lựa chọn chế độ tỷ giá ở Việt Nam sẽ được phân tích sâu hơn ở Phần II. PHẦN II KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM I-/ KINH NGHIỆM LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC Chế độ tỷ giá cố định, thả nổi tự do hay thả nổi có quản lý đều có mặt tích cực và mặt hạn chế nhất định. Việc lựa chọn chế độ tỷ giá nào phải căn cứ vào điều kiện cụ thể của từng quốc gia. Nó phụ thuộc vào mục tiêu, chính sách phát triển kinh tế xã hội trong từng thời kì. Mỗi chế độ tỷ giá lại có một cơ chế hoạt động riêng. Việc vận dụng sáng tạo, hợp lý chế độ tỷ giá vào nền kinh tế không phải đơn giản, dễ dàng. Thực tế, việc lựa chọn chế độ tỷ giá không hợp lý sẽ dẫn đến những hậu quả khôn lường. Kinh nghiệm của một số nước trên thế giới đã cho thấy điều đó. 1-/ Đức: Nước Đức lựa chọn cho mình chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý của Nhà nước. Chính phủ Đức đã can thiệp điều hành tỷ giá để chống lại khủng hoảng kinh tế (sản xuất giảm tuyệt đối, lạm phát cao, thất nghiệp hàng loạt) đầu những năm 80. Chính phủ Đức mưa toan tìm lối thoát thông qua giải pháp mở rộng xuất khẩu bằng lợi thế phá giá, thế nhưng năm 1980 khi DM mất giá 12% lại là năm Đức có mức xuất siêu thấp nhất (8,9 tỷ DM). Lúc đó ở Đức có hai cách nhìn nhận vấn đề phá giá. Một là, sẽ cải thiện. Hai là, làm giá nhập khẩu tăng, khuyến khích lạm phát lên cao. Đến lượt mình lạm phát tất yếu tác động tiêu cực vào xuất khẩu, sản xuất. Vậy là hiệu ứng phá giá tan mất, tình hình thêm phức tạp. Còn các chủ xuất khẩu Đức thừa nhận phá giá DM hoàn toàn không thể khắc phục khó khăn. Kề từ 1/1980 chưa đầy hai năm, DM đã 5 lần mất giá so với USD với mức đáng kể (14 đến 15%), song tỷ giá lại nhanh chóng quay trở lại mức xuất phát điểm trước khi phá giá. Chiến lược khôi phục kinh tế của Đức lúc bấy giờ thất bại, ngoài các nhân tố nội địa, còn chịu tác động không thể cưỡng nổi từ chính sách đồng tiền nặng của Chính quyền Rigân (vốn từ Đức, Anh “tháo chạy” sang Mỹ, Canada,...). Vấn đề kinh tế của Đức chỉ được giải quyết khi Chính phủ mới của ông Hellmut Kol áp dụng phương sách khác: giảm can thiệp Nhà nước; sử dụng các cơ chế, chính sách tài chính; giảm mạnh thuế; khuyến khích sản xuất nội địa; thực thi chính sách thắt chặt. 3-/ Các nước ASEAN và NICs Các nước ASEAN và NICs theo đuổi chính sách tỷ giá ổn định, hướng về xuất khẩu. Theo đó, việc can thiệp vào tỷ giá của Chính phủ nhằm ổn định tỷ giá, ổn định môi trường kinh tế vĩ mô, thu hút đầu tư nước ngoài. Không một nước nào chủ trương phá giá làm động lực cho xuất khẩu, vai trò của tỷ giá chỉ là hỗ trợ. Việc điều chỉnh tỷ giá ở các nước này có một số điểm chung: Thứ nhất, do khó khăn về tài chính, thiếu ngoại tệ nghiêm trọng nên lúc đầu họ áp dụng nhiều loại tỷ giá, nội tệ định giá cao trong cơ chế cố định. Sau thời kì 1971-1973 thực hiện phá giá, sau đó nhanh chóng thống nhất tỷ giá chính thức và thị trường. Thứ hai, khi đạt được tỷ giá thị trường cân đối, họ áp dụng cơ chế điều chỉnh theo quan hệ cung - cầu là chính. Các nước gắn nội tệ vào giỏ ngoại tệ mạnh. Thứ ba, các nước nỗ lực ổn định hoá các quan hệ tỷ giá, tỷ giá hối đoái thực tế, có dự trữ ngoại tệ để khống chế biên độ dao động của tỷ giá ở mức thấp. Thứ tư, khi tỷ giá tăng họ điều chỉnh tỷ giá để không cản trở xuất khẩu, song luôn gắn bó việc điều chỉnh này với nhiệm vụ khống chế lạm phát. Thứ năm, nhìn chung đồng nội tệ của các nước này có xu hướng tăng giá ổn định so với USD. Việc duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định, ổn định hoá các quan hệ tỷ giá hướng vào xuất khẩu trong thời gian đầu đã phát huy tác dụng và đạt hiệu quả cao. Tuy nhiên việc theo đuổi chế độ tỷ giá này trong một thời gian dài đã dẫn đến những bất cập. Nó là một trong những nguyên nhân dẫn tới cuộc khủng hoảng tài chính tiền tệ Châu Á vừa qua. Khi nợ nước ngoài đến thời kì đáo hạn lại là lúc cán cân thanh toán quốc tế thâm hụt nghiêm trọng. Mặc dù nguồn ngoại tệ lúc này khan hiếm nhưng hoạt động xuất khẩu lại bị chững lại. Do đó nguồn thu ngoại tệ không đủ bù đắp thâm hụt tài khoản vãng lai. Chính phủ các nước vẫn tiếp tục tung dự trữ ngoại hối nhằm duy trì tỷ giá cố định. Lợi dụng tình hình đó, nhà đầu cơ người Mỹ Soros đã đầu cơ vào đồng tiền các nước ASEAN. Khi ngoại tệ khan hiếm tới đỉnh điểm, đồng nội tệ có nguy cơ phải phá giá thì Soros bán khống một lượng lớn nội tệ ra thị trường làm cho đồng bản tệ hoàn toàn mất giá. Chính phủ Thailand phải tuyên bố phá giá đồng Bath, mở đầu cho cuộc khủng hoảng tài chính Châu Á, chấm dứt chế độ tỷ giá cố định. Qua các sự kiện khủng hoảng ở Đức, bão táp tài chính ASEAN chúng ta có thể rút ra nhiều bài học bổ ích. Việc theo đuổi, áp dụng chế độ tỷ giá nào là cả một nghệ thuật. Nên chăng Việt Nam sẽ gắn chặt đồng nội tệ với đồng tiền nước khác, duy trì chế độ tỷ giá hối đoái cố định (như các nước ASEAN) hay sẽ chủ trương thả nổi hoàn toàn tỷ giá và phá giá nội tệ để chống đỡ khủng hoảng, hướng về xuất khẩu. Áp dụng máy móc một chế độ tỷ giá nào đều là sai lầm bởi vì mỗi chế độ tỷ giá đều có mặt mạnh và mặt hạn chế. Việc lựa chọn, áp dụng chế độ tỷ giá như thế nào là hợp lý, phù hợp với đặc thù của Việt Nam sẽ được phân tích kỹ ở phần tiếp theo. II./ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 1-/ Bối cảnh lạm phát và chế độ tỷ giá thời gian qua ở Việt Nam "Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo, lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng ác luẩn quẩn theo nghĩa của Soros. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này." Ý kiến của TS.Nguyễn Quang A Lạm phát ở Việt Nam được đo bằng chỉ số giá tiêu dùng (CPI) của một rổ gồm 494 mặt hàng thiết yếu, chia ra làm 10 nhóm hàng hóa và dịch vụ. Tỷ trọng, tỷ lệ đóng góp vào CPI (còn gọi là quyền số) của sự tăng giá của các nhóm hàng và dịch vụ chính là: hàng ăn và dịch vụ ăn uống 42,85% (trong đó lương thực 9,86 và thực phẩm 25%); nhà ở, điện, nước, chất đốt, vật liệu xây dựng 9,99%; giao thông, bưu chính viễn thông 9,04%; thiết bị đồ dùng gia đình 8,62%; may mặc, mũ nón, giày dép 7,21%  Đóng góp vào CPI của mỗi nhóm hàng bằng sự thay đổi giá của các nhóm hàng đó (so với thời điểm gốc, thí dụ năm trước, tháng trước) nhân với quyền số tương ứng. CPI bằng tổng của những đóng góp đó. Với tỷ trọng gần 43% sự gia tăng giá thức ăn góp phần rất lớn vào CPI ở Việt Nam.Sự đóng góp của thức ăn vào CPI như sau: Hình 1. Đóng góp của thức ăn vào chỉ số giá cả (%, trục bên trái); chỉ số giá tiêu dùng (trục phải) ở Việt Nam. Qua đây ta cũng thấy diễn biến của CPI (so với cùng kỳ năm trước, đường cong tính theo trục bên phải). Có thể thấy đóng góp vào CPI của thức ăn luôn cao (cỡ 50 đến 80%) ở Việt Nam. Theo”FAO Food Price Index”-chỉ số giá thức ăn thế giới nghiên cứu bởi FAO(tổ chức Lương Nông của Liên Hợp Quốc) thì biến động chỉ số giá thức ăn thế giới từ 2005 đến 3-2008 có thể thấy trên Hình 2 dưới đây.   Hình 2: Biến động chỉ số giá thức ăn thế giới (trục hoành: từ tháng 1 đến tháng 12) từ năm 2005 đến tháng 3-2008 (so với mức giá 1998-2000 được lấy là 100), nguồn FAO Có thể thấy từ tháng 10-2006 chỉ số giá thức ăn thế giới bắt đầu tăng nhanh nhưng đến tháng 3-2007 vẫn dưới 140 điểm, nhưng từ tháng 4-2007 đến tháng 3-2008 đã từ 140 lên trên 220. Giá thức ăn trong nước không nhất thiết tăng theo giá thế giới, tuy nhiên do độ mở khá cao của nền kinh tế Việt Nam giá thức ăn trong nước (và đóng góp vào CPI của nó) cũng bắt đầu tăng nhanh từ tháng 4-2007 như có thể thấy trên Hình 1, dù lạm phát vẫn ở mức dưới 8%. Lạm phát ở Việt Nam bắt đầu tăng nhanh theo nhịp độ tăng giá thức ăn thế giới từ tháng 9-2007, nhất là trong 4 tháng đầu năm 2008 khi CPI tháng 4 lên đến 21,42% so với tháng 4-2007(lương thực tăng 25,1%; thực phẩm tăng 15,6% so với tháng 12-2007).  Tất nhiên lạm phát không chỉ do tăng giá thức ăn gây ra, việc tăng giá năng lượng, vật liệu (với quyền số gần 10%) cũng góp phần không nhỏ, và giá thế giới của các mặt hàng đó cũng tăng cao. Tăng trưởng tín dụng, lượng cung tiền cũng góp phần tăng lạm phát. Tuy nhiên nguyên nhân chính của lạm phát trong thời gian qua là sự tăng giá thức ăn và năng lượng trên thế giới đã tác động đến giá của các mặt hàng có quyền số lớn như đã nêu ở trên. Và nếu vậy thì các biện pháp chống lạm phát bằng hình thức thắt chặt chính sách tiền tệ là chưa hoàn toàn trúng.  Vấn đề là ở chế độ tỷ giá hối đoái. Đồng Việt Nam đã được neo vào đồng USD từ lâu. Lấy tỷ giá của đồng nội tệ/USD của các nước Việt Nam, Philippines (phil), Trung Quốc (China), Thái Lan và Malaysia ở mỗi thời điểm chia cho tỷ giá tương ứng ở tháng 1-2005 (để có điểm gốc là 1 cho tiện so sánh). Biến động tỷ giá như vậy từ 1-2005 đến tháng 4-2008 được biểu hiện trên Hình 3 dưới đây: Hình 3: Tỷ giá VND/USD giai đoạn tháng 1/2005 đến tháng 9/2007 Trong thời gian này đồng USD đã mất giá đáng kể so với các đồng tiền khác (như Euro, Yên hay Bảng Anh) và cũng mất giá so với các đồng tiền của Philippines, Trung Quốc,  Thái Lan và Malaysia, nói cách khác các đồng tiền này đã lên giá so với USD (Pillipines cỡ 27%, Trung Quốc cỡ 16%, Thái Lan và Malaysia cỡ 20% vào tháng 4-2008 so với tháng 1-2005) như có thể thấy trên hình 3. Ngược lại đồng Việt Nam vẫn bị neo vào đồng USD (thậm chí còn mất giá so với USD).  Ngoài ra chính chế độ tỷ giá hối đoái này đã khuyếch đại tác động của sự tăng giá thức ăn và năng lượng thế giới lên giá cả ở Việt Nam và gây ra lạm phát tăng nhanh so với các nước đó (hình 4). Hình 4. Lạm phát ở Việt Nam, Philippines, Trung Quốc, Thái Lan và Malaysia Theo cách nghĩ của lý thuyết kinh tế truyền thống đồng nội tệ (VND) yếu sẽ kích thích xuất khẩu, VND mạnh (lên giá) sẽ kích thích nhập khẩu và gây khó khăn cho xuất khẩu. Tuy nhiên cách suy nghĩ này không hoàn toàn đúng. Với đồng VND yếu (xem hình 3) xuất khẩu của Việt Nam đúng là đã tăng trưởng rất ngoạn mục (năm 2007 tăng  22,5%, 4 tháng đầu năm 2008 tăng 27,6% (tất cả đều được tính bằng USD nếu trừ đi phần USD mất giá thì thành tích tăng trưởng xuất khẩu chưa hẳn đã tốt). Tuy nhiên nhập khẩu còn tăng nhanh hơn nhiều, 44% năm 2007 và 71% trong 4 tháng đầu năm 2008 so với cùng kỳ năm trước, làm cho nhập siêu ở mức báo động.Ta có thể thấy cách nghĩ truyền thống đã đơn giản hóa vấn đề và không thể đứng vững Ngoài ra sự bất ổn của kinh tế Việt Nam thời gian qua (lạm phát cao, thâm hụt thương mại lớn, thị trường tiền tệ - tài chính chao đảo) đã khiến nhiều doanh nghiệp hoạt động trong môi trường đầy biến động, không dự báo được, không thể sử dụng có hiệu quả các nguồn lực. Nhiều doanh nghiệp thua lỗ hoặc lợi nhuận thấp, phải thu hẹp sản xuất kinh doanh. Một số không ít bị đóng cửa, phá sản hoặc tạm ngừng kinh doanh để chờ thời. Không chỉ các doanh nghiệp sản xuất hàng hóa - dịch vụ thông thường, mà cả các doanh nghiệp là tổ chức tài chính, như các tổ chức tín dụng, quỹ đầu tư, các công ty chứng khoán, công ty bảo hiểm cũng gặp những khó khăn lớn. Khủng hoảng tài chính toàn cầu và suy thoái kinh tế thế giới đang lan rộng và tác động xấu đến tất cả các nước, trong đó có Việt Nam. Cuộc khủng hoảng này cộng hưởng với những bất ổn vĩ mô và suy giảm sản xuất kinh doanh trong nước, đang và sẽ đặt ra những khó khăn ngày càng lớn cho doanh nghiệp. Những dấu hiệu được cảnh báo những ngày gần đây càng bộc lộ rõ, như xuất khẩu khó khăn; khan hiếm dần nguồn vốn ngoại, tỉ giá USD tăng; doanh nghiệp không mặn mà vay vốn ngân hàng, mặc dù lãi suất giảm (tuy vẫn còn cao) vì không chọn được phương án kinh doanh trước quá nhiều bất ổn bên trong và bên ngoài 2-/ Chế độ tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay Chế độ tỷ giá thả nổi có sự quản lý điều tiết của Nhà nước là thích hợp với tiến trình đổi mới nền kinh tế nước ta hiện nay. Vì nó cho phép chúng ta thực hiện một chính sách tiền tệ độc lập vừa tuân theo quy luật cung - cầu thị trường vừa phát huy vai trò quản lý, điều tiết linh hoạt của Nhà nước để đạt được mục tiêu, yêu cầu phát triển kinh tế. Với cơ chế điều hành tỷ giá mới, chế độ tỷ giá thả nổi có sự điều tiết ở nước ta hiện nay càng có cơ hội phát huy hiệu quả. Ngày 25/2/1999 NHNN Việt Nam đã công bố hai quyết định mới về tỷ giá: Quyết định số 64/1999/QĐ-NHNN7 về việc công bố tỷ giá hối đoái của đồng Việt Nam với các ngoại tệ. Quyết định số 65/1999/QĐ-NHNN7 về việc quy định nguyên tắc xác định giá mua bán ngoại tệ của các tổ chức được phép kinh doanh ngoại tệ. Từ ngày 26/2/1999, NHNN chỉ công bố tỷ giá giao dịch bình quân trên cơ sở tỷ giá thực tế bình quân trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng (TTNTLNH) của ngày giao dịch gần nhất trước đó. Căn cứ vào đó các ngân hàng thương mại được phép kinh doanh ngoại tệ xác định tỷ giá mua bán ngoại tệ giao ngay không vượt quá 0,1% so với tỷ giá này. Chúng ta dễ nhận thấy những ưu điểm của cơ chế tỷ giá này: Một là, tỷ giá ngân hàng Nhà nước công bố hàng ngày là tỷ giá giao dịch bình quân trên TTNTLNH, điều này phản ánh tỷ giá được hình thành một cách khách quan hơn, phản ánh đúng hơn cung cầu ngoại tệ trên thị trường. Hai là, tỷ giá mà ngân hàng Nhà nước công bố gần gũi với giá thị trường tự do. Như vậy, khoảng cách giữa giá thị trường tự do và giá của các ngân hàng thương mại là nhỏ. Ba là, Bản thân tỷ giá tự nó đã được điều chỉnh theo quan hệ cung cầu, hay chính nhu cầu của doanh nghiệp là cơ sở xác định tỷ giá và tại đó cung cầu ngoại tệ được thoả mãn, không gây ra “cơn sốt” ngoại tệ. Bốn là, cơ chế điều chỉnh tỷ giá mới xuất phát từ cung cầu ngoại tệ trên thị trường nên khi công bố tỷ giá không phải chịu sức ép tâm lý, gây hoang mang như việc áp đặt tỷ giá trước kia. Năm là, cơ chế điều chỉnh tỷ giá mới mềm dẻo và linh hoạt hơn, vì thế nó phù hợp với thông lệ quốc tế, góp phần vào sự hoà nhập kinh tế khu vực và thế giới. Tuy nhiên, về lâu dài nếu không tiếp tục bổ sung, hoàn chỉnh các giải pháp bổ trợ cho cách điều hành tỷ giá hối đoái mới, có thể sẽ phát sinh một số vấn đề khó khăn là: Thứ nhất, tâm lý đón chờ phá giá VNĐ vẫn thường trực, gắn liền với cách tính toán và công bố tỷ giá giao dịch bình quân của NHNN, khiến tỷ giá thực tế của TTNTLNH luôn ở xu hướng tăng thêm với mức được phép là 0,1% tạo thành cấp số luỹ tiến liên tục mũ n của hệ số 1,001. Thứ hai, để khắc phục tình trạng này NHNN phải sử dụng quỹ ngoại tệ để can thiệp nhằm kiềm chế tỷ giá giao dịch thực tế của TTNTLNH, trong khi khả năng dự trữ ngoại tệ rất mỏng. Thứ ba, do TTNTLNH chưa phát triển hoàn hảo, liều lượng dự trữ ngoại tệ bỏ ra can thiệp còn ít do đó kiểm soát dao động tỷ giá chỉ dừng lại ở phạm vi hẹp, cơ chế điều hành tỷ giá mới vẫn còn độ cứng nhắc cao. Thứ tư, việc bỏ hẳn ấn định tỷ giá hối đoái danh nghĩa sẽ đưa đến khó khăn nhất định trong dự báo một số cân đối lớn của nền kinh tế như: cán cân thanh toán vãng lai, tổng cung, tổng cầu tiền tệ của nền kinh tế, thu chi ngân sách... Thực tế trên đặt ra cho chúng ta nhiệm vụ cấp bách quan trọng là phải tìm ra những giải pháp nhằm khắc phục những mặt hạn chế của cơ chế điều hành tỷ giá đồng thời phát huy những mặt tích cực của cơ chế này. 3-/ Ảnh hưởng của chế độ tỷ giá hối đoái ở việt nam hiện nay tới lạm phát tăng trưởng và xuất nhập khẩu Quan hệ giữa tỷ giá hối đoái và lạm phát không phải là quan hệ một chiều mà là quan hệ vòng, tác động qua lại lẫn nhau, không thể coi cái này là nguyên nhân và cái kia là kết quả. Một quan hệ vòng tự tăng cường lẫn nhau như vậy là một vòng ác luẩn quẩn (vicious circle) khi đồng nội tệ mất giá và lạm phát gia tăng và là vòng thiện (benign circle) khi điều ngược lại xảy ra. Đồng USD mất giá, VND được neo vào USD cũng mất giá theo lạm phát tăng cao. Rõ ràng chúng ta đang ở trong một vòng ác luẩn quẩn. Cần phải phá vỡ cái vòng luẩn quẩn này. Trong thời gian gần đây việc nới lỏng biên độ tỷ giá chỉ có tác động nhất thời.Ngân hàng Nhà nước đã dùng các công cụ chính sách thắt chặt tiền tệ (thắt chặt cung tiền, thắt chặt tín dụng), áp đặt trần lãi suất(18%-17/5) vừa qua mang tính hành chính và đã không có hiệu quả và không thể trì hoãn việc cải tổ chính sách tỷ giá. Do thắt chặt tiền tệ đã xảy ra vấn đề thiếu thanh khoản, do bị áp trần lãi suất nên ngân hàng khó thu hút được tiền trong dân cư, kích thích người dân đầu tư và giữ vàng và/hay ngoại tệ. Các sàn giao dịch vàng đang đua nhau mở cửa là một dấu hiệu không mấy lành mạnh. Hơn nữa nhập siêu quá lớn khiến nhu cầu ngoại tệ càng cao. Nền kinh tế bị càng bị đô la hóa (và vàng hóa) hơn. Và USD khan hiếm là không khó hiểu. Các ngân hàng phải tăng lãi suất tiền gửi USD, khiến chênh lệch lãi suất USD ở trong nước và ngoài nước ngày càng doãng ra, điều này lại khuyến khích các dòng vốn ngắn hạn (đầu cơ hay cho ngân hàng trong nước vay ngắn hạn) chảy vào gây áp lực hơn nữa lên lạm phát. Ngoài ra chế độ tỷ giá của việt nam sẽ chịu ảnh hưởng rất lớn từ những chính sách mang tính linh hoạt của nhà nước việt nam.ví dụ như: Ngân hàng Nhà nước giảm lãi suất cơ bản, giảm lãi suất tái chiết khấu và tái cấp vốn, tăng lãi suất tiền gửi dự trữ bắt buộc, thanh toán tín phiếu bắt buộc trước hạnnhững chính sách đó tạo điều kiện để các ngân hàng giảm lãi suất, cung thêm tiền vào lưu thông. Từ đây có tâm lý lo ngại đà tăng lạm phát có thể tái diễn, VND mất giá. Ngược lại với nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản ở Việt Nam tổn thất do tiền đồng lên giá là “tổn thất vô hình” mà ít có giám đốc điều hành doanh nghiệp hay bộ phận kinh doanh xuất khẩu “nhìn” thấy được, mà nếu có, chỉ là bộ phận kế toán. Giả định vay ngân hàng 16.000 đồng để mua 1 kg cà phê nhân và ký hợp đồng xuất khẩu quy ra tiền đồng được 16.100 đồng/kg (giả định là 1 đô la Mỹ). Trên lý thuyết thì doanh nghiệp lời được 100 đồng/kg cà phê nhưng khi thu tiền đô và bán lại cho ngân hàng để trả nợ vay thì chỉ bán được 15.800 đồng, tức doanh nghiệp lỗ 200 đồng/kg cà phê do tiền đồng lên giá. Đó là chưa kể giá cà phê nhân trong nước đang có xu hướng tăng mạnh như hiện hay thì tiền thu về mua trở lại nguyên liệu cho đợt xuất khẩu sau càng ít đi.   “Tới khi kế toán bán lại tiền đô cho ngân hàng để trả nợ thì nhiều giám đốc doanh nghiệp mới tá hoả vì biết mình bị lỗ, bởi đồng tiền lưu thông, mua nguyên liệu đầu vào là tiền đồng và vay ngân hàng ban đầu cũng đa phần là vay tiền đồng” đó là ví dụ về ảnh hưởng của tỷ giá.Sau đây là những giải pháp đặt ra cho vấn đề tỷ giá ở việt nam PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP XÚC TIẾN VÀ ĐƯA CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ. 1-/ Tăng lượng dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước. Đây là một trong những giải pháp quan trọng góp phần điều chỉnh thị trường hối đoái, can thiệp điều hành tỷ giá. Tuy nhiên ở mỗi giai đoạn nó có những ý nghĩa khác nhau nhất định. Trước đây, tỷ giá hối đoái là do NHNN ấn định và công bố, nó mang nặng tính kế hoạch, hành chính hơn là một công cụ điều tiết vĩ mô. Tỷ giá được xác định theo ý muốn chủ quan của NHNN nên nó tác động tới cung cầu nhiều hơn là cung cầu tác động đến nó. Cho dù cung cầu ngoại tệ thay đổi nhưng tỷ giá vẫn được giữ nguyên (nếu NHNN thấy việc đó là cần thiết). Vì thế mà mặc dù có những lúc dự trữ ngoại tệ của ta rất mỏng nhưng tỷ giá danh nghĩa vẫn không hề bị biến động. Nói cách khác, quỹ dự trữ ngoại tệ hầu như không cần phải huy động tới. Với chế độ tỷ giá linh hoạt có điều tiết ở nước ta hiện nay thì mọi vấn đề không phải như vậy. Cơ chế tỷ giá mới đòi hỏi khi cung, cầu ngoại tệ trên thị trường ngoại tệ thay đổi thì tỷ giá trên thị trường cũng phải thay đổi theo. Nếu ngân hàng Nhà nước muốn giữ tỷ giá hối đoái ổn định thì buộc phải can thiệp. Tuy nhiên, sự can thiệp ở đây không phải là mệnh lệnh hành chính, ấn định trực tiếp vào tỷ giá mà nó được tiến hành trên cơ sở ngân hàng Nhà nước bán hoặc mua ngoại tệ, sử dụng quỹ dự trữ bình ổn hối đoái. Nếu cung ngoại tệ lớn hơn cầu ngoại tệ, NHNN chỉ việc tung VNĐ ra mua ngoại tệ, làm tăng nguồn dự trữ ngoại tệ của NHNN. Khi cầu ngoại tệ lớn hơn cung ngoại tệ thì NHNN phải tung ngoại tệ ra bán để giữ tỷ giá. Yêu cầu đặt ra là NHNN phải có dự trữ đủ mạnh để sẵn sàng đối phó với âm mưu kích động, yếu tố đầu cơ. Nếu dự trữ ngoại tệ không đủ mạnh để can thiệp trong những lúc cần thiết thì: Một là, quay lại điểm xuất phát - dùng biện pháp hành chính ấn định tỷ giá - Hai là, thả nổi hoàn toàn tỷ giá hối đoái. 2-/ Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá. Giữa lãi suất và tỷ giá có mối quan hệ khá chặt chẽ NHNN có thể can thiệp điều hành tỷ giá thông qua chính sách lãi suất. Khi đồng tiền trong nước bị mất giá, NHNN có thể nâng lãi suất. Lãi suất tăng làm cho lợi tức dự tính về đồng nội tệ cao hơn. Vốn, ngoại tệ nước ngoài sẽ tràn vào nước, giảm sự căng thẳng của khan hiếm ngoại tệ, đồng nội tệ khó có khả năng giảm giá. Tuy nhiên không nên cô lập chính sách tỷ giá và chính sách lãi suất mà chúng phải được kết hợp nhuần nhuyễn với nhau. Để bảo vệ sự giảm giá của đồng nội tệ, NHNN tăng lãi suất lên quá cao sẽ làm cho đầu tư suy giảm, cái giá phải trả sẽ là tăng trưởng chậm và thất nghiệp cao. Thực tế đã chứng minh những nước chủ trương tăng quá cao lãi suất trong lúc đồng tiền mất giá mạnh (như Thái Lan, Hàn Quốc) đã gặp khó khăn nhiều hơn so với những nước chủ trương phối hợp chính sách tỷ giá với chính sách lãi suất (như Trung Quốc, Malaysia). Việc Trung Quốc liên tục hạ lãi suất đã giúp nước này duy trì tốc độ tăng trưởng cao trong điều kiện không phá giá đồng NDT. 3-/ Các cơ chế quản lý ngoại hối cần được hoàn chỉnh hơn. Hiện nay chúng ta chưa làm cho các đơn vị hoàn toàn yên tâm bán hết số ngoại tệ thu về cho ngân hàng. Nên bên cạnh quy định tự do, cần có biện pháp hành chính quy định số ngoại tệ mà các đơn vị phải bán cho ngân hàng. Chỉ nên quy định một lượng nhỏ ngoại tệ được phép để lại trên tài khoản của các doanh nghiệp để họ có thể chủ động chi tiêu những món nhỏ mà không phải trình báo, mặt khác đó cũng là giải pháp tạo tâm lý yên tâm. Cần quan tâm hơn nữa tới nguồn ngoại tệ đang trôi nổi ngoài thị trường, ngăn chặn hiện tượng chảy máu ngoại tệ, đô la hoá... Có biện pháp xử lý nghiêm khắc những trường hợp vi phạm chế độ quản lý ngoại hối, tạo tâm lý yên tâm cho những đơn vị nghiêm túc thực hiện chế độ quản lý ngoại hối. Tìm mọi biện pháp đáp ứng đầy đủ nhu cầu ngoại tệ hợp lý, trong mọi trường hợp. Chú ý tìm tòi các giải pháp tạo sự tiện ích để khuyến khích và khơi tăng nguồn kiều hối. 4-/ Đặc biệt với tình hình hiện nay nên lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá hướng tới bình ổn thị trường tài chính hơn là hướng tới kiềm chế lạm phát cũng như tăng trưởng kinh tế. Vấn đề đặt ra lúc này đối với Việt Nam là phải lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá nào là thích hợp trong quá trình hội nhập kinh tế luôn là những vấn đề hóc búa. Sự lựa chọn sai lầm rất có thể dẫn đến sự bất ổn tiền tệ, bất ổn kinh tế vĩ mô. Có nhiều quan điểm khác nhau về việc áp dụng cơ chế tỷ giá hối đoái hiện nay, có ý kiến cho rằng trong bối cảnh lạm phát cao, dòng vốn vào nhiều nên để VND lên giá theo cung cầu thị trường thì mới kiểm soát được lạm phát. Có ý kiến ngược lại là phải can thiệp để phá giá VND để giảm thâm hụt cán cân thương mại mà hiện nay đang thâm hụt ở mức báo động. Có hai vấn đề quan trọng cần được xem xét khi lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá, đó là xem xét tác động chính sách tỷ giá trên khía cạnh vĩ mô và vi mô. Xét về khía cạnh vĩ mô, một chính sách tỷ giá cần phải được nhấn mạnh đến tầm quan trọng của việc thiết lập một cái neo rõ ràng và đáng tin cậy như một nhân tố của chiến lược chính sách nhằm ổn định mức giá trong nước và ổn định thị trường tài chính. Về khía cạnh vi mô, chính sách tỷ giá cần phải được nhấn mạnh tầm quan trọng của việc duy trì khả năng cạnh tranh quốc tế của nền kinh tế, đảm bảo một vị thế cán cân thanh toán mạnh, theo đó chính sách tỷ giá gắn với cả biến số kinh tế thực. Từ tình hình và đặc điểm kinh tế Việt Nam trong bối cảnh hội nhập và lạm phát đang gia tăng như hiện nay, việc lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá để đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát và ổn định thị trường tiền tệ là không đơn giản với tình trạng đôla hoá như hiện nay. Điều đó cũng cho thấy không thể lựa chọn cơ chế tỷ giá thả nổi ngay lập tức mà cần phải có lộ trình cụ thể để đảm bảo ổn định thị trường tài chính. Mặc dù kiềm chế lạm phát là mục tiêu quan trọng hàng đầu, song do tính tác động trọng yếu của tỷ giá đến lạm phát và tăng trưởng kinh tế. Vì vậy nên lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá hướng tới bình ổn thị trường tài chính hơn là hướng tới kiềm chế lạm phát cũng như tăng trưởng kinh tế. Với thực trạng về mức độ phát triển thị trường ngoại hối, thị trường tiền tệ như hiện nay thì cơ chế điều hành tỷ giá khống chế biên độ như hiện nay là hợp lý. Chính vì vậy, trong lựa chọn chính sách vĩ mô để kiểm soát lạm phát cần hướng tới việc kiểm soát dòng vốn vào sẽ hiệu quả hơn thông qua công cụ tỷ giá. Tuy nhiên, để chính sách tỷ giá hỗ trợ tích cực cho chính sách tiền tệ đạt được mục tiêu kiềm chế lạm phát trong trung hạn, thì phải từng bước tạo ra sự linh hoạt trong cơ chế điều hành tỷ giá KẾT LUẬN Qua nghiên cứu và phân tích bài viết đã nêu bật được những khái niệm cơ bản về tỷ giá hối đoái và thị trường ngoại hối.từ cái nhìn tổng quan về tỷ giá dưới góc độ lý luận,bài viết đã lien hệ với thực tế lựa chọn và áp dụng chế đọ tỷ giá ở một số nước trên thế giới và rút ra bài học đối với Việt Nam.Việc áp dụng chế độ tỷ giá hối đoái thả nổi có sự điều tiết và quản lý của nhà nước trong giai đoạn hiện nay ở nước ta là hợp lý,nó phù hợp với tiến trình đổi mới của Đảng và nhà nước ta đã lựa chọn. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1-/ Tiền tệ, ngân hàng và thị trường tài chính Fredic S.Mishkin 2-/ Tìm hiểu về tín dụng và hối đoái Phạm Vũ Định - NXB Trẻ TP HCM 3-/ Tỷ giá hối đoái - phương pháp tiếp cận và nghệ thuật điều chỉnh. Nguyễn Công Nghiệp, Lê Hải Mơ NXB Tài chính - 1996 4-/ Thông cáo báo chí của Tổng cục thống kê ngày 3-7-2006 5-/Kỹ thuật kinh doanh xuất nhập khẩu GS.TS.Võ Thanh Thu 6-/Tín dụng và thanh toán quốc tế TS.Trần Văn Hoè LỜI MỞ ĐẦU 1 PHẦN I: TỔNG QUAN VỀ TỶ GIÁ 2 1-/ Khái niệm tỷ giá, thị trường ngoại hối 2 2-/ Vai trò của tỷ giá 2 3-/ Các loại tỷ giá hối đoái 3 4-/ Những nhân tố tác động tới tỷ giá: 4 5-/ Sự can thiệp điều hành tỷ giá: 5 6-/ Các chế độ tỷ giá trong lịch sử: 9 PHẦN II: KINH NGHIỆM MỘT SỐ NƯỚC VÀ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 13 I-/ KINH NGHIỆM LỰA CHỌN CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở MỘT SỐ NƯỚC 13 1-/ Đức 14 2-/ Các nước ASEAN và NICs 14 II./ THỰC TRẠNG ÁP DỤNG CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM 15 1-/ Bối cảnh lạm phát và chế độ tỷ giá thời gian qua ở Việt Nam 15 2-/ Chế độ tỷ giá hối đoái ở Việt Nam hiện nay 21 3-/ Ảnh hưởng của chế độ tỷ giá hối đoái ở việt nam hiện nay tới lạm phát tăng trưởng và xuất nhập khẩu 23 PHẦN III. CÁC GIẢI PHÁP XÚC TIẾN VÀ ĐƯA CHẾ ĐỘ TỶ GIÁ Ở VIỆT NAM HOẠT ĐỘNG CÓ HIỆU QUẢ. 25 1-/ Tăng lượng dự trữ ngoại tệ cho Ngân hàng Nhà nước. 25 2-/ Xử lý tốt mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá. 26 3-/ Các cơ chế quản lý ngoại hối cần được hoàn chỉnh hơn. 26 4-/ Đặc biệt với tình hình hiện nay nên lựa chọn cơ chế điều hành tỷ giá hướng tới bình ổn thị trường tài chính hơn là hướng tới kiềm chế lạm phát cũng như tăng trưởng kinh tế. 27 KẾT LUẬN 29 DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 30

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc5978.doc
Tài liệu liên quan