Luận văn Các giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững Thị trường chứng khoán Việt Nam

Qua 8 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho việc phát triển ngành tài chính ngân hàng nói riêng, nền kinhtế nói chung. TTCK trở thành kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp và của nền kinh tế thông qua việc phát hành cổ phiếu. Qua TTCK, các DN huy động được nguồnvốn khổng lồ trong dân chúng, biến nguồn vốn nhàn rỗi ngắn hạn thành các khoản đầu tư dài hạn, phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Hàng ngàn tỷ đồng đã đượcđưa vào sản xuất, kinh doanh, vòng quay vốn của toàn nền kinh tế được cải thiện rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó, TTCK còn tiềm ẩn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để có thể tăng trưởng bền vững, trở thành "hàn thử biểu" của nền kinh tế. Những giải pháp nhằm tăng cung kích cầu, hoàn thiện môi trường đầu tư cần nhanh chóng được triển khai thực hiện. Chúng ta tin rằng, việc đánh giá đúng các kết quả đạt được, nhìn rõ những nguyên nhân của hạn chế thiếu sót, xác định rõ mục tiêu phát triển của thị trường và hướng giải pháp khắc phục những tồn tại sẽ thúc đẩy TTCK Việt Nam ngày một phát triển bền vững hơn.

pdf106 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 1575 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Các giải pháp thúc đẩy sự phát triển bền vững Thị trường chứng khoán Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
điều kiện thuận lợi cho việc đưa ra một kết quả chính xác sau này. Do đó, công ty phải có khả năng tiếp cận được nguồn thông tin đáng tin cậy về nhà phát hành dưới mọi hình thức, trực tiếp hoặc gián tiếp, chính thức hoặc không chính thức.  Uy tín đối với thị trường Cũng như bất kỳ một công ty nào, công định mức tín nhiệm cũng cần phải tạo dựng được uy tín đối với thị trường, để kết quả định mức tín nhiệm- sản phẩm mà cty cung cấp, được "người tiêu dùng"- chính là công chúng đầu tư, sử dụng. 3.3.6 Phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm Tùy theo từng tổ chức, mà phương pháp đánh giá hệ số tín nhiệm có khác nhau đôi chút. Tuy vậy về cơ bản chúng khá giống nhau. Theo đó, công ty đối tương sẽ được đánh giá từ quốc gia, môi trường, đến ngành kinh doanh mà nó đang hoạt động. Sau đó, các thông số có tính cách định tính chẳng hạn chất lượng, kỹ năng của ban quản lý, chiến lược marketing, chính sách quản lý…cũng sẽ được xem xét. Kế đó, và cũng 80 rất quan trọng là tất cả các chỉ số chính phản ánh tình hình tài chính sẽ được đưa ra phân tích, đánh giá. Tổng hợp lại những yếu tố trên, tổ chức đánh giá tín nhiệm sẽ xếp hạng các trái phiếu theo các mức khác nhau đã định sẵn và ký hiệu bằng các chữ cái đầu tiên; theo bảng sau: Bảng 4: Các hạn mức của hệ số tín nhiệm đối với công cụ nợ dài hạn Chỉ số Tín nhiệm theo S&P Chỉ số Tín Nhiệm theo Moody’s Diễn giải Phân loại AAA Aaa Chất luợng cao nhất, ổn định, độ rủi ro thấp nhất AA Aa Chất lượng cao, rủi ro thấp, Độ rủi ro chỉ cao hơn hạng AAA một bậc. A A Chất lượng khá, tuy vậy có thể bị ảnh huỡng bởi tình hình kinh tế. BBB Baa Chất lượng trung bình, an toàn trong thời gian hiện tại, tuy vậy có ẩn chứa một số yếu tố rủi ro. Trái phiếu có thể đầu tư BB Ba Chất lượng trung bình thấp, có thế gặp khó khăn trong việc trả nợ, bị ảnh hưởng đối với sự thay đổi của tình hình kinh tế. Trái phiếu có độ rủi ro cao B B Chất lượng thấp, rủi ro cao, có nguy cơ không thanh toán đúng hạn CCC Caa Rủi ro cao, chỉ có khả năng trả nợ nếu tình hình kinh tế khả quan. CC Ca Rủi ro rất cao, rất gần phá sản, C C Rủi ro rất cao, khó có khả năng thực hiện thanh toán các nghĩa vụ nợ D Xếp hạng thấp nhất, đã phá sản hay hầu như sẽ phá sản NR NR Không đánh giá Trái phiếu không nên đầu tư Nguồn: www.saga.vn 81 Đối với chỉ số Moody’s, ngoài những xếp hạng cơ bản trên, hệ số 1, 2, 3 còn dùng để chia nhỏ một xếp hạng cơ bản ra làm 3 loại, trong đó 1 là cao nhất trong hạng đó, 2 là trung bình, 3 là thấp nhất, ví dụ: Aa1, Aa2, Aa3. Còn đối với chỉ số S&P, + hay – được dùng để chia nhỏ xếp hạng. trong đó + là cao nhất trong hạng đó, không dấu là trung bình, - là thấp nhất; ví dụ: AA+, AA, AA- Dùng chỉ số Z để ước tính hệ số Tín Nhiệm Chỉ số Z (Z score) là công cụ được cả hai giới học thuật và thực hành, công nhận và xử dụng rộng rãi nhất trên thế giới. Chỉ số này được phát minh bởi Giáo Sư Edward I. Altman, trường kinh doanh Leonard N. Stern, thuộc trường Đại Học New York, dựa vào việc nghiên cứu khá công phu trên số luợng nhiều công ty khác nhau tại Mỹ. Mặc dù chỉ số Z này được phát minh tại Mỹ, nhưng hầu hết các nuớc, kể cả các nước, vẫn có thể sử dụng với độ tin cậy khá cao. Z’’ = 6.56X1 + 3.26X2 + 6.72X3 + 1.05X4 Trong đó X1 = Tỷ số Vốn Lưu Động trên Tổng Tài Sản X2 = Tỷ số Lợi Nhuận Giữ Lại trên Tổng Tài Sản X3 = Tỷ Số Lợi Nhuận Trước Lãi Vay và Thuế trên Tổng Tài sản X4 = Giá Trị Thị Trường của Vốn Chủ Sỡ Hữu trên Giá trị sổ sách của Tổng Nợ Nếu Z’’ > 2.6 Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản Nếu 1.1 < Z’’ < 2.6 Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản Nếu Z’’ <1.1 Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao. Ngoài tác dụng cảnh báo dấu hiệu phá sản, Giáo Sư Esward I. Altman đã phát minh tiếp hệ số Z’’ điều chỉnh. Chỉ số này bằng với chỉ số Z’’+3.25 (các vùng cảnh báo phá sản vì thế cũng được tăng lên 3.25). Ông đã nghiên cứu trên 700 công ty và tìm 82 ra sự tương đồng giữa chỉ số Z’’ điều chỉnh này với hệ số tín nhiệm S&P. Công thức Z’’ điều chỉnh được xác định như sau: Z’’ = 3,25 + 6,56X1 + 3,26X2 + 6,72X3 + 1,05X4 Sự tương đồng giữ chỉ số Z’’ điều chỉnh và xếp hạng S&P của công ty đựơc trình bày trong bảng sau. Trong đó cột 3, định mức tín nhiệm Moody’s được đưa vào theo sự tương đồng với định mức tín nhiệm S&P. Bảng 5: Các hạn mức của hệ số tín nhiệm dựa trên hệ số Z Z’’ điều chỉnh Định Mức Tín Nhiệm S&P Định Mức Tín Nhiệm Moody’s > 8,15 AAA Aaa 7,60 – 8,15 AA+ Aa1 7,30 – 7,60 AA Aa2 7,00 – 7,30 AA- Aa3 6,85 – 7,00 A+ A1 6,65 – 6,85 A A2 6,40 – 6,65 A- A3 6,25 – 6,40 BBB+ Baa1 Doanh nghiệp nằm trong vùng an toàn, chưa có nguy cơ phá sản 5,85 – 6,25 BBB Baa2 5,65 – 5,85 BBB- Baa3 Trái phiếu có thể đầu tư 5,25 – 5,65 BB+ Ba1 4,95 – 5,25 BB Ba2 4,75 – 4,95 BB- Ba3 Trái phiếu có độ rủi ro cao 4,50 – 4,75 B+ B1 Doanh nghiệp nằm trong vùng cảnh báo, có thể có nguy cơ phá sản 4,15 – 4,50 B B2 3,75 – 4,15 B- B3 3,20 – 3,75 CCC+ Caa1 2,50 – 3,20 CCC Caa2 1,75 – 2,50 CCC- Caa3 Doanh nghiệp nằm trong vùng nguy hiểm, nguy cơ phá sản cao. 0 – 1,75 D Trái phiếu không nên đầu tư Nguồn: www.saga.vn Sự tương đồng giữa chỉ số Z’’ điều chỉnh và hệ số tín nhiệm S&P là khá cao, nhưng không có nghĩa là tuyệt đối. Trong bài viết của mình, giáo sư Altman cũng trình bày một sự lệch chuẩn nằm trong khoản cho phép của hai chỉ số trên. Một điều nữa chúng ta cần phải chú ý là chỉ số Z’’ điều chỉnh mặc dù được dùng khá tốt ở các thị trường 83 khác, cũng nên được nghiên cứu để điều chỉnh theo môi trường Việt Nam. Mặc dù ghi chú hai điểm trên, theo người viết, việc tạm ước tính hệ số tín nhiệm bằng chỉ số Z’’ là đáng tin cậy và có thể dùng được. Nó có thể giúp giúp công ty và người đầu tư nhận định cơ bản về tình hình tài chính và khả năng thanh toán nợ của công ty. 3.4. Các giải pháp bổ trợ cho sự pháp triển bền vững của TTCK Việt Nam 3.4.1. Đa dạng hóa và nâng cao chất lượng các loại hàng hoá để đáp ứng nhu cầu của thị trường 3.4.1.1 Nâng cao hiệu quả phát hành cổ phiếu doanh nghiệp trên TTCK TTCK là định chế bậc cao trong nền kinh tế thị trường, nó đồng thời vừa là thước đo vừa là công cụ phát triển nền kinh tế cả ở cấp vĩ mô lẫn vi mô. Việc mua cổ phiếu của DN được phát hành trên TTCK đồng nghĩa với việc NĐT bỏ phiếu lựa chọn các DN có triển vọng phát triển tốt. Hành động này mang lại nhiều lợi ích cho nhiều bên. Tuy nhiên, hiệu quả việc phát hành cổ phiếu của DN không chỉ phụ thuộc vào một phía mà phụ thuộc và tất cả các đối tượng tham gia Thứ nhất, về phía cơ quan quản lý cấp phép hồ sơ phát hành  Cần tăng cường hoàn thiện hơn nữa các quy định pháp lý có liên quan đến nội dung, quy trình thủ tục, điều kiện cấp phép hồ sơ phát hành của doanh nghiệp và cả quy định mức phạt, chế tài các vi phạm có liên quan đến phát hành cổ phiếu doanh nghiệp (như cần nâng mức phạt tiền cao hơn 70 triệu đồng như hiện hành).  Nâng cao trình độ chuyên môn, tinh thần trách nhiệm và năng lực thẩm tra, thẩm định, cũng như hệ thống thông tin quản lý nhà nước, quản lý doanh nghiệp liên ngành, đa ngành và chuyên ngành cần thiết phục vụ xây dựng, triển khai và giám sát thực hiện các phương án phát hành cổ phiếu DN…  Tăng cường phối hợp với các đơn vị hữu quan, như Ban đổi mới sắp xếp DNNN, các SGDCK và TTGDCK, các cơ quan thanh tra, giám sát, điều tra và tư pháp… để nâng cao chất lượng các hồ sơ phát hành; tăng cường ngăn chặn, xử lý kịp thời và hiệu quả các sai phạm liên quan đến cấp phép hồ sơ và thực hiện các phương án phát hành cổ phiếu DN. 84 Thứ hai, về phía đơn vị tư vấn phát hành  Nâng cao trình độ chuyên môn, đạo đức nghề nghiệp cho các cán bộ của đơn vị mình.  Tuân thủ nghiêm túc, đầy đủ các quy định pháp luật trong khi tác nghiệp.  Chủ động và độc lập hơn trong tư vấn các nội dung, vấn đề liên quan đến phương án phát hành cổ phiếu của DN trên cơ sở nắm chắc, bám sát diễn biến thị trường, các thông tin về DN và các quy định pháp lý có liên quan; cải thiện cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ hoạt động của mình. Thứ ba, về phía tổ chức phát hành  Không coi phát hành cổ phiếu là mục đích tự thân hoặc là cơ hội đầu cơ kinh doanh cổ phiếu của DN, nhất là phát hành cổ phiếu bổ sung, cổ phiếu thưởng mà phải gắn với kế hoạch SXKD rõ ràng, cụ thể, khả thi.  Thu thập thông tin đầy đủ về các vấn đề có liên quan tới xây dựng, triển khai, giám sát thực hiện phương án phát hành cổ phiếu.  Thành lập bộ phận chuyên trách xây dựng phương án phát hành cổ phiếu gồm các cơ quan tư vấn và cán bộ có trách nhiệm, trình độ chuyên môn và đạo đức tốt.  Chủ động phòng ngừa, đối phó với các vi phạm từ nội bộ hoặc từ đơn vị tư vấn trong xây dựng, triển khai phương án phát hành cổ phiếu. Thứ tư, về phía các nhà đầu tư trên TTCK Các NĐT cần tỉnh táo, thận trọng và có kiến thức hơn trong tiếp cận, phân tích thông tin và thông qua các quyết định đầu tư của mình liên quan đến phương án phát hành cổ phiếu của DN, để biết tự bảo vệ và phòng tránh những rủi ro trong đầu tư CK do thiếu kiến thức về CK và TTCK. 3.4.1.2. Triển khai giao dịch ký quỹ và nghiệp vụ bán khống trên TTCK TTCK Việt Nam hiện nay đang trải qua giai đoạn suy giảm liên tục. Có nhiều nguyên nhân dẫn đến sự sụt giảm này, trong đó nguyên nhân hay được nhắc đến là áp lực 85 giải tỏa CK do NĐT đã cầm cố để vay tiền kinh doanh CK từ các NHTM. Sự sụt giảm nghiêm trọng của thị trường cho thấy bản chất rủi ro cũng như tính chất tự phát, thiếu kiểm soát của hoạt động này trên thị trường. Thực ra, mọi vấn đề đều có tính hai mặt. Cũng có quan điểm cho rằng chính các hoạt động vay và cho vay CK để thực hiện giao dịch ký quỹ cần phải được khuyến khích để thúc đẩy tính thanh khoản của TTCK, khuyến khích các NĐT tham gia vào thị trường. Điều quan trọng là phải kiểm soát chặt chẽ để phòng ngừa rủi ro và bảo vệ quyền lợi của nhà đầu tư. Tuy nhiên, pháp luật CK của Việt Nam hiện nay chưa có hướng dẫn cụ thể về việc cho phép CTCK triển khai các dịch vụ về giao dịch ký quỹ. Mặc dù Khoản 9, Điều 71 Luật Chứng khoán đã có quy định theo hướng mở: "công ty chứng khoán thực hiện việc bán hoặc cho khách hàng bán chứng khoán khi không sở hữu chứng khoán và cho khách hàng vay chứng khoán để bán theo quy định của Bộ Tài chính", tuy nhiên, cho đến nay, vẫn chưa có hướng dẫn nào của Bộ Tài chính được ban hành. Giao dịch ký quỹ là giao dịch mua hoặc bán CK trong đó người mua hoặc người bán chỉ có một phần tiền hoặc CK cần thiết, phần còn lại vay từ CTCK hoặc các tổ chức tài chính CK khác. Điều đó có nghĩa là các tổ chức này đã cấp tín dụng cho khách hàng, giúp khách hàng thanh toán giao dịch. Có hai loại giao dịch ký quỹ cơ bản là giao dịch vay mua CK và bán khống. Trong giao dịch vay mua CK, NĐT chỉ thanh toán một phần tiền mua, phần còn lại do CTCK trả. Thực chất là CTCK cho khách hàng vay và nhận chính số CK đã mua được làm tài sản thế chấp cho khoản vay. Còn bán khống là việc bán CK mà mình không sở hữu vào thời điểm giao dịch. Để thực hiện giao dịch này, NĐT phải vay CK để giao trong ngày thanh toán. Như vậy, xét ở một khía cạnh nhất định, giao dịch bán khống có thể làm tăng giá CK, bởi vì nhà đầu tư sau đó phải mua lại CK để bù vào số CK đã đi vay từ CTCK, khiến giá CK có thể tăng lên ở mức độ nhất định. Thực tế, việc cho phép thực hiện các giao dịch ký quỹ đã phổ biến ở hầu hết các TTCK phát triển với mục đích thúc đẩy giao dịch thị trường và khuyến khích sự tham gia của nhà đầu tư. Để có thể thực hiện được các giao dịch ký quỹ, vấn đề cơ bản là phải thừa nhận hoạt động vay và cho vay CK. Cho vay và vay CK là hình thức bù đắp lượng thiếu hụt tại thời điểm thanh toán. Trên thế giới, hoạt động vay và cho vay 86 CK đã phát triển hết sức mạnh mẽ trong thời gian gần đây và góp phần rất lớn vào sự phát triển chung của các TTCK các nước. Hoạt động này không chỉ dừng lại ở việc tài trợ CK và tiền để thực hiện các giao dịch ký quỹ, mà còn phục vụ cho nhiều mục đích khác như: vay CK khi có nhu cầu phải giao CK mà họ chưa mua để thực hiện hợp đồng phái sinh (ví dụ quyền mua), dùng CK làm tài sản cầm cố, hoặc làm đảm bảo cho một giao dịch vay CK khác, khắc phục sự cố mất khả năng thanh toán trong hệ thống thanh toán CK. Hiện nay đang có hai xu hướng chính tại các TTCK trên thế giới trong việc thành lập các tổ chức thực hiện các nghiệp vụ vay và cho vay CK. Đối với một số quốc gia và vùng lãnh thổ (như: Đài Loan, Hàn Quốc, Nhật Bản...) cơ quan quản lý TTCK thiết lập hệ thống các Công ty Tài chính Chứng khoán với mục đích chuyên biệt để thực hiện các nghiệp vụ vay và cho vay CK nhằm triển khai các chính sách phát triển thị trường. Đặc thù của hệ thống các Công ty Tài chính Chứng khoán tại các nước này là không đặt ra mục tiêu kinh doanh mà chủ yếu nhằm mục tiêu bình ổn giá cả và phát triển TTCK thông qua việc hỗ trợ các giao dịch CK. Việc thành lập các Công ty Tài chính Chứng khoán theo mô hình này đáp ứng được nhu cầu thúc đẩy hoạt động giao dịch của thị trường, song vẫn đảm bảo khả năng quản lý chặt chẽ để giảm thiểu khả năng rủi ro, đặc biệt là với các thị trường mới thành lập do vay và cho vay CK về bản chất là các giao dịch phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nếu hệ thống quản lý thị trường không đủ hiệu quả. Đối với một số nước (như Mỹ) không có các tổ chức chuyên doanh lĩnh vực tài chính CK mà rất nhiều tổ chức tài chính như NHTM, nhà môi giới CK... được phép tham gia vào hoạt động này như là một trong các nghiệp vụ kinh doanh. Cho dù thực hiện theo mô hình nào thì hoạt động này đều có một điểm chung là: vì đây là các hoạt động giao dịch phức tạp và ẩn chứa nhiều rủi ro nên thường chịu sự điều chỉnh chặt chẽ của pháp luật và thường bị hạn chế đối với các TTCK mới thành lập. Ví dụ, tại Trung Quốc, dù TTCK đã hình thành từ lâu nhưng mãi đến ngày 1/8/2006, Ủy ban Giám quản Chứng khoán Trung Quốc mới thông qua quy chế cho 87 phép thực hiện giao dịch ký quỹ và bán khống thông qua các CTCK và trong giai đoạn đầu, hoạt động kinh doanh này chỉ được thực hiện tại một số CTCK nhất định. Đó cũng là lý do khiến giao dịch vay và cho vay CK chưa được công nhận chính thức ở Việt Nam trong thời gian qua. Giao dịch vay và cho vay CK chỉ mới được thừa nhận một cách rất hạn chế dưới hình thức hỗ trợ chứng khoán cho các giao dịch tạm thời mất khả năng thanh toán của các thành viên (nhằm khắc phục lỗi giao dịch do thành viên gây ra, ví dụ nhập nhầm lệnh mua thành lệnh bán, dẫn đến hậu quả không có CK để giao) hoặc sử dụng CK vào mục đích cầm cố để vay tiền của các tổ chức tín dụng nhằm tiếp tục đầu tư vào CK. Tuy nhiên, cùng với sự phát triển của thị trường, tính thanh khoản của thị trường ngày một nâng cao, trình độ và năng lực của các NĐT CK ngày càng hoàn thiện, cần nghiên cứu cho phép áp dụng các giao dịch loại này như một biện pháp khuyến khích giao dịch, thực hiện thông lệ và tiêu chuẩn giao dịch quốc tế. Trong trường hợp của Việt Nam, với đặc thù TTCK còn rất non trẻ, trước mắt có thể nghiên cứu để triển khai hoạt động vay và cho vay CK theo mô hình thành lập Công ty Tài chính Chứng khoán như là một cơ quan thực hiện chính sách thị trường chứ không phải vì mục tiêu lợi nhuận (giống như Hàn Quốc, Nhật Bản và Đài Loan). Mục tiêu của việc thành lập Công ty Tài chính Chứng khoán thể hiện ở việc thúc đẩy các hoạt động giao dịch CK, bình ổn thị trường, tăng tính thanh khoản cho TTCK. Do đó, Chính phủ phải đóng vai trò quyết định trong việc thành lập Công ty Tài chính Chứng khoán Việt Nam, trong đó có sự cân nhắc các điều kiện thực tế của nền kinh tế và TTCK. Trong thời gian đầu, do Chính phủ phải đóng vai trò chủ chốt trong việc quản lý và điều tiết hoạt động tài chính CK, mô hình phù hợp là công ty sở hữu Nhà nước hoặc Nhà nước nắm giữ cổ phần chi phối. Ngoài ra, cần thiết phải hình thành một hành lang pháp lý cho hoạt động vay và cho vay chứng khoán, bao gồm các quy chế về hoạt động vay và cho vay CK và bổ sung các quy định tại các văn bản pháp luật liên quan (Quy chế về đăng ký, lưu ký, thanh toán bù trừ chứng khoán), trong đó những nội dung chính cần phải đề cập bao gồm: 88  Một là, chủ thể tham gia giao dịch vay và cho vay CK: bao gồm tổ chức thanh toán trung tâm là TTLKCK, thực hiện vai trò là đối tác trung tâm điều phối hoạt động hạch toán, chuyển khoản chứng khoán vay, tài sản bảo đảm, thực hiện thanh toán cho các thành viên là các CTCK (G30 khuyến nghị rằng vai trò của công ty thanh toán bù trừ hoặc TTLKCK chỉ nên là người hỗ trợ chứ không nên cho vay từ tài khoản của riêng mình để tránh rủi ro và duy trì tính khách quan và trong sạch của thị trường. Như vậy, TTLKCK chỉ đơn thuần làm trung gian cho các giao dịch trong hệ thống trên cơ sở ghi sổ). Bên vay và cho vay là các NĐT, các CTCK, quỹ đầu tư CK, các tổ chức tín dụng, NHTM... Bên đối tác trung gian là Công ty Tài chính Chứng khoán được UBCKNN cấp phép thực hiện hoạt động vay và cho vay CK.  Hai là, CK được phép vay và cho vay chỉ nên hạn chế ở những CK niêm yết tại TTGDCK, SGDCK. Ngoài ra, CK phải đáp ứng được các điều kiện là không thuộc diện CK đang bị kiểm soát hoặc bị cấm giao dịch.  Ba là, tài sản bảo đảm được sử dụng trong giao dịch vay và cho vay CK là các CK niêm yết trên TTGDCK, SGDCK hoặc là tiền mặt. Nếu CK được sử dụng làm tài sản bảo đảm, các CK này cũng phải đáp ứng được các điều kiện như CK được phép vay và cho vay. Tài sản bảo đảm thường được định giá thấp hơn giá trị thực tế được xác định vào thời điểm thực hiện giao dịch.  Bốn là , theo thông lệ quốc tế cần quy định rõ giao dịch vay và cho vay chứng khoán phải thực hiện trên cơ sở Hợp đồng mẫu và phải làm thành văn bản, trong đó bao gồm các nội dung chính về: - Tư cách các bên tham gia giao dịch - Quyền sở hữu đối với CK và tài sản bảo đảm - Loại tài sản bảo đảm, tỷ lệ tài sản bảo đảm được chấp thuận - Những thỏa thuận về việc giao tài sản bảo đảm và duy trì một tỷ lệ tài sản bảo đảm phù hợp khi việc định giá theo giá thị trường có biến động lớn. - Các quy định cụ thể hóa quyền của các bên đối tác về việc thay thế tài sản bảo đảm (nếu có). 89 - Cách xử lý số cổ tức được thanh toán và các quyền khác liên quan tới CK vay và tài sản đảm bảo, trong đó bao gồm cả thời điểm thực hiện thanh toán. - Các thỏa thuận về việc xử lý những sự kiện phát sinh liên quan đến quyền đối với công ty. - Các bước thu hồi chứng khoán và cách xử lý nếu CK đó không được giao. - Trường hợp mất khả năng thanh toán, quyền và trách nhiệm sau đó của các bên đối tác. - Khiếu nại giữa các bên trong trường hợp mất khả năng thanh toán... Kinh nghiệm ở nhiều nước cho thấy việc áp dụng Hợp đồng mẫu (đã được kiểm soát) là phương án có thể giảm thiểu rủi ro và là đảm bảo chắc chắn về mặt pháp lý cho các bên trong trường hợp có sự xung đột pháp luật với các văn bản pháp lý khác có liên quan (ví dụ như các quy định của luật dân sự về vấn đề vay tài sản). 3.4.1.3. Cải tiến và đẩy mạnh quá trình cổ phần hóa DNNN Lợi ích của việc CPH DNNN  Những DN mà nhà nước chiếm đến 99% vốn điều lệ đã không còn là DN một chủ sở hữu mà đã trở thành một CTCP có nhiều cổ đông tham gia (nếu có chính sách bán rộng rãi cổ phần cho người lao động và NĐT bên ngoài tham gia). Khi đã trở thành công ty đại chúng thì DN phải có nghĩa vụ thường xuyên công bố thông tin, như vậy tính minh bạch trong quản trị DN đã được cải thiện.  Đã là CTCP thì DN tạo được cơ chế trả luơng và thu nhập theo cơ chế thị trường, mà không hề bị ràng buộc theo cơ chế bảng lương được ấn định từ cơ chế nhà nước – đây là một động lực để phát triển DN.  Ban lãnh đạo DN phải chịu một sức ép lớn hơn trước rất nhiều là phải tạo lợi nhuận cho DN nhằm đủ nguồn để trả cổ tức tiền mặt cho cổ đông theo mặt bằng chung của thị trường. 90  Hiện nay có 1 tình trạng phổ biến trong các Tổng công ty nhà nước là không chú trọng đến việc đạt được 1 tỷ suất lợi nhuận bình quân như các DNNN đã CPH, họ không chú trọng hoặc không có khả năng làm cho lợi nhuận của bộ phận văn phòng tổng công ty cao, mà chỉ cần có ít lợi nhuận. Việc chuyển các Tổng công ty nhà nước thành CTCP sẽ làm bộc lộ nhân sự yếu kém để cơ quan chủ quản có điều kiện thay thế nhân sự, đồng thời làm tăng hiệu quả hoạt động của các Tổng công ty nhà nước và tập đoàn kinh tế nhà nuớc.  Khi đã trở thành CTCP sẽ mở ra nhiều hình thức huy động vốn mới như phát hành cổ phiếu, trả cổ phiếu bằng cổ tức….Đây là những tiền đề quan trọng để tăng cường khả năng tài chính của công ty mẹ.  Thực tiễn về cổ phần hoá DNNN trong 15 năm qua đã chỉ ra rằng : - Có 1 số DNNN kinh doanh liên tục thua lỗ, đến khi cổ phần hoá thì gặp tình trạng khó bán cổ phần, cổ phần nhà nước chiếm trên 90% vốn điều lệ, nhưng chỉ sau một thời gian ngắn đa phần đối tượng này kinh doanh hiệu quả và từ đó làm nền tảng cho việc bán bớt hoặc bán hết cổ phần nhà nước. - Có những DNNN kinh doanh hiệu quả, khi CPH huy động vốn lớn trong bối cảnh chưa có TTCK hoặc TTCK bị khủng hoảng ( giai đoạn 2001 – 2003), khi chuyển thành CTCP thì nhà nước nắm cổ phần đa số tuyệt đối, nhưng cũng chỉ 1 thời gian ngắn sau CPH, những DN đó đã tái cơ cấu được cổ phần nhà nước. Cần xác định mục tiêu ưu tiên của cổ phần hoá DNNN trong giai đoạn hiện nay  Theo chính sách cổ phần hoá hiện hành thì chúng ta đưa ra nhiều mục tiêu cổ phần hoá DNNN như: Thay đổi cơ chế quản lý, huy động vốn, tìm kiếm đối tác chiến lược, tạo hàng hoá cho TTCK….Đặt ra những mục tiêu này là hoàn toàn đúng đắn nhưng trong bối cảnh của TTCK hiện nay thì khi cổ phần hoá các DNNN, chúng ta không thể cùng 1 lúc đạt được ngay các mục tiêu này.  Nếu chúng ta chỉ đặt mục tiêu ưu tiên là hoàn thành thủ tục chuyển đổi công ty nhà nước thành CTCP mà nhà nước tạm thời nắm cổ phần đa số (có thể trên 91 95% vốn điều lệ đối với những tập đoàn kinh tế lớn ) thì những mục tiêu quan trọng khác sẽ được giải quyết nhanh sau 1 thời gian ngắn của hậu CPH.  Để đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN mà không làm ảnh hưởng đến sự ổn định của TTCK thì : - Tạm thời chấp nhận cổ phần đa số của nhà nước, có thể lên tới 95% vốn điều lệ. - IPO một lượng nhỏ cổ phiếu, số lượng phát hành không quá 50 tỷ đồng theo mệnh giá.  Giải quyết vấn đề bán cổ phần cho đối tác chiến lược : - Vấn đề đảm bảo tốc độ cổ phần hoá DNNN phải là ưu tiên số một. - Đàm phán, lựa chọn đối tác chiến lược mất rất nhiều thời gian (từ 6 tháng đến 1 năm, thậm chí 2 năm, 3 năm), vì vậy không nên đặt vấn đề là đàm phàn lựa chọn xong đối tác chiến lược thì mới thực hiện IPO. - Các cơ quan chỉ đạo CPH nêu ưu tiên tốc độ hoàn thành thủ tục chuyển thành CTCP, còn đối tác chiến lược có thể thực hiện sau CPH là tốt nhất. Những giải pháp này hoàn toàn phù hợp với qui định hiện hành, với phương pháp này chúng ta hoàn toàn có thể đẩy nhanh tiến trình CPH DNNN mà vẫn đảm bảo kiểm soát nguồn cung, đồng thời sẽ tạo 1 lượng hàng hoá có giá trị gia tăng lớn cho nhà nước trong việc bán bớt cổ phần nhà nước khi điều kiện cho phép. Thay đổi cơ chế quản trị doanh nghiệp cho đối tượng mà nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ  Các văn bản hiện hành về công ty nhà nước đã qui định 1 số đối tượng DN không CPH hoặc chưa CPH, tuy nhiên vấn đề đặt ra là làm cách nào để nâng cao quản trị DN tại các DN này nhằm bảo toàn và phát triển nguồn vốn nhà nước?  Cần phân loại đối tượng DN này : 92 - Những DNNN do vấn đề bí mật về an ninh quốc phòng mà không thể công bố thông tin ra công chúng thì được xác định là DN mà nhà nước cần nắm giữ 100% vốn điều lệ. - Những đối tượng DN còn lại chưa thể CPH hay không CPH do được xác định là những DN quan trọng thì nên chuyển sang hình thức CTCP mà nhà nước nắm giữ trên 90% vốn điều lệ. Việc chuyển đổi này chỉ có lợi cho nhà nước mà thôi. Hy vọng rằng các cơ quan hoạch định chính sách về đổi mới DN nên tiếp thu giải pháp này và mong rằng khoảng 7 năm nữa thì diện đối tượng DN mà nhà nước cần nắm giữ 100% vốn sẽ giảm khoảng 90%. 3.4.1.4. Thành lập thị trường giao dịch phi tập trung Sự cần thiết phải của việc thành lập thị trường giao dịch phi tập trung  Có thể mang lại lợi nhuận lớn hơn: trong lúc thị trường niêm yết tập trung có biên độ giao dịch hẹp hơn, thì biên độ +/-20% có thể đem lại khoản lợi nhuận lớn hơn cho NĐT (tất nhiên, khả năng tổn thất nếu thua lỗ cũng cao hơn).  Bảo vệ quyền lợi nhà đầu tư, đặc biệt là NĐT nhỏ lẻ: giao dịch cổ phiếu trên thị trường phi tập trung có rất nhiều rủi ro. Các giao dịch đều mang tính tự phát, chủ yếu dựa vào sự tin tưởng lẫn nhau và không có cơ chế quản lý chặt chẽ. Thông thường, để có thể thực hiện mua/bán CK phải thông qua người thứ 3 đứng giữa làm trung gian. Điều này có thể dẫn tới khả năng gây ra các giao dịch thao túng giá. Thêm vào đó, có rất nhiều cổ phiếu giả được giao dịch nhưng không được phát hiện. Vì vậy, giao dịch cổ phiếu tập trung với cơ chế quản lý và khung pháp lý chặt chẽ sẽ tạo sự an toàn trong giao dịch, giúp NĐT yên tâm hơn khi đầu tư CK. Đồng thời cũng thu hút NĐT tham gia vào TTCK.  Tạo tính minh bạch cho TTCK: khi thực hiện quản lý giao dịch CK của công ty đại chúng chưa niêm yết, việc giám sát quá trình công bố thông tin của công ty đại chúng sẽ chặt chẽ hơn. Các công ty đại chúng bắt buộc phải thực hiện nghĩa vụ công khai thông tin theo đúng quy định. Đó là cơ sở cho NĐT có 93 nguồn thông tin chính thức để tìm hiểu, xem xét, đánh giá một cách tương đối chính xác tình hình hoạt động của DN trước khi quyết định đầu tư.  Kênh huy động vốn: công ty đại chúng đăng ký giao dịch CK chưa niêm yết tại TTGDCK Hà Nội có cơ hội quảng bá hình ảnh, uy tín doanh nghiệp, tìm kiếm đối tác… Đó là lợi thế để doanh nghiệp tiếp tục phát hành chứng khoán huy động vốn, đồng thời có điều kiện thuận lợi hơn khi niêm yết chính thức. Nguyên tắc chung Chứng khoán của các công ty đại chúng chưa niêm yết trên Sở/TTGDCK sẽ được đăng ký và lưu ký tập trung tại TTLK và giao dịch tại các CTCK. Kết quả giao dịch sẽ được tổng hợp qua TTGDCK Hà Nội để thực hiện thanh toán bù trừ tại TTLK. Căn cứ trên kết quả giao dịch và thanh toán bù trừ, CTCK sẽ hạch toán tăng/giảm số lượng chứng khoán trên tài khoản của nhà đầu tư liên quan. Theo đó, CK đăng ký giao dịch bao gồm cổ phiếu của các công ty đại chúng chưa niêm yết và trái phiếu chuyển đổi của các công ty đại chúng. Tuy nhiên, những chứng khoán này phải đáp ứng đủ 3 điều kiện:  Thứ nhất, là CK của công ty đại chúng chưa niêm yết hoặc bị hủy niêm yết tại TTGDCK Hà Nội/ SGDCK TP. HCM.  Thứ hai, CK đã được đăng ký lưu ký tại TTLK.  Thứ ba, được 1 CTCK là thành viên bảo trợ (CTCK thành viên cam kết với công ty đại chúng thực hiện các thủ tục đăng ký giao dịch chứng khoán và bảo đảm hỗ trợ tổ chức đăng ký giao dịch trong việc thực hiện nghiêm chỉnh nghĩa vụ công bố thông tin theo quy định). Một số quy định về giao dịch  Đơn vị giao dịch: không quy định.  Đơn vị yết giá: 100 đồng (đối với cổ phiếu) và 1 đồng (đối với trái phiếu).  Mệnh giá giao dịch: 10.000 đồng (đối với cổ phiếu); 100.000 đồng (đối với trái phiếu).  Biên độ dao động giá: +/-20%. 94  Giá tham chiếu: TTGDCK Hà Nội tính toán và công bố giá tham chiếu theo phương thức bình quân gia quyền.  Phương thức giao dịch: thỏa thuận thông thường (các bên tự thỏa thuận với nhau về điều kiện giao dịch và được đại diện giao dịch của CTCK nhập thông tin vào hệ thống đăng ký giao dịch để xác nhận các giao dịch này); thỏa thuận điện tử (đại diện giao dịch của CTCK nhập lệnh với các điều kiện giao dịch đã được xác định và lựa chọn lệnh đối ứng phù hợp để thực hiện giao dịch).  Thời gian thực hiện: NĐT có thể thoả thuận giao dịch với nhau bất kỳ thời gian nào trong ngày. Tuy nhiên, thời gian yêu cầu CTCK thực hiện nhập báo cáo kết quả giao dịch vào hệ thống là từ 10h - 12h và từ 13h -15h tất cả các ngày làm việc.  Phí giao dịch: do CTCK quy định nhưng mức thu không vượt quá mức trần hay thấp hơn mức sàn do Bộ Tài chính quy định.  Các báo cáo kết quả giao dịch đã nhập vào hệ thống không được phép huỷ bỏ. Trường hợp trong phiên giao dịch, nếu phát hiện ra sai sót trong quá trình nhập báo cáo giao dịch thì CTCK sẽ thực hiện sửa báo cáo giao dịch trên hệ thống theo quy trình do TTGDCK Hà Nội hướng dẫn.  Lệnh chào mua/chào bán có hiệu lực tối đa trong 1 ngày giao dịch hoặc cho đến khi được thực hiện hoặc bị huỷ bỏ. Trường hợp muốn thay đổi các thông tin của lệnh chào mua/chào bán, CTCK thực hiện huỷ lệnh chào mua/chào bán cũ và nhập lại lệnh mới. Giao dịch của nhà đầu tư  Nhà đầu tư chỉ được có một tài khoản CK và chỉ được mở tại một CTCK duy nhất. Trường hợp NĐT đã có tài khoản giao dịch CK niêm yết thì sẽ dùng ngay tài khoản này để thực hiện giao dịch và lưu ký CK chưa niêm yết. Tài khoản sẽ được tách biệt thành 2 tiểu khoản (CK niêm yết và CK chưa niêm yết) để tiện việc theo dõi, giám sát. 95  Khi đặt lệnh bán, NĐT phải có đủ số lượng CK trên tài khoản chứng khoán mở tại các CTCK được phép thực hiện giao dịch. Khi đặt lệnh mua chứng khoán, NĐT phải ký quỹ đầy đủ 100% tiền. 3.4.2 Phát triển các định chế trung gian 3.4.2.1 Nâng cao chất lượng hoạt động tại các công ty chứng khoán Một trong những giải pháp chiến lược để nâng cao hoạt động đầu tư, giảm thiểu rủi ro trong đầu tư CK, tạo cầu nối cho cung cầu CK gặp nhau là phải mở rộng phát triển qui mô và nâng cao chất lượng dịch vụ hoạt động của các tổ chức tài chính trung gian, đặc biệt chú trọng đến việc nâng cao nghiệp vụ và tính chuyên nghiệp trong việc cung cấp dịch vụ. CTCK là một trong những định chế tài chính trung gian quan trọng tham gia hoạt động trên TTCK. Từ khi thành lập đến nay TTCK Việt Nam đã thu hút gần 100 CTCK được thành lập. Đây cũng là thành công mà TTCK đem lại sau 8 năm đi vào hoạt động. Tuy nhiên, khi có quá nhiều CTCK cùng hoạt động trong khi số tài khoản của nhà đầu tư lại quá ít thì lại dẫn đến những cạnh tranh không lành mạnh để lôi kéo khách từ các CTCK khác về công ty của mình. Bài học từ các thị trường mới nổi cho thấy Trung Quốc trước đây có số lượng các CTCK lên đến 2.000 các công ty, nhưng đến thời điểm sụt giảm còn 70 các công ty, hiện nay là 107 các công ty. Đài Loan thời điểm cao nhất có 278 các công ty, sau đó sụt giảm còn 48 các công ty. Thái Lan trước đây cũng có tới hơn 200 các CTCK, sau đó giảm xuống còn hơn 50 các công ty. Việc giảm số lượng các các CTCK tại các nước thường được thực hiện thông qua việc tăng yêu cầu về mức đủ vốn của các các CTCK (đây cũng là điều kiện cơ bản và khó nhất khi lập các CTCK). Điều này dẫn đến hàng loạt các cuộc sáp nhập, thâu tóm, hợp nhất giữa các các công ty. Mặt khác, theo cam kết về dịch vụ CK khi Việt Nam gia nhập WTO, vào năm 2012, các các CTCK nước ngoài được phép thành lập văn phòng đại diện, chi nhánh, các CTCK 100% vốn tại Việt Nam. Giới hạn số lượng các CTCK lúc này sẽ đặt các các CTCK trong nước vào nguy cơ bị thâu tóm bởi các các công ty nước ngoài có tiềm 96 lực tài chính mạnh. Kinh doanh dịch vụ CK nhiều khả năng sẽ trở thành sân chơi do các nhà cung cấp dịch vụ khổng lồ nước ngoài thống trị, trong khi các công ty trong nước với kinh nghiệm còn non trẻ, tiềm lực kinh tế còn mỏng khó lòng sống sót trong cuộc cạnh tranh sắp tới. Chúng ta nên tập trung vào việc nâng tiêu chí thành lập các CTCK dưới góc độ nâng cao chất lượng, như việc bắt buộc khi thành lập các CTCK mới cần phải có sự tham gia của các định chế tài chính lớn như ngân hàng, bảo hiểm… Trong mọi thời điểm, thiết nghĩ, vấn đề chất lượng nên được đặt lên hàng đầu, nhất là trong tình hình thị trường hiện nay, việc tăng cường năng lực cho đội ngũ trung gian thị trường càng là vấn đề cấp thiết. Trong số các nghiệp vụ kinh doanh CK thì hoạt động môi giới là quan trọng nhất và phổ biến nhất, đóng góp quan trọng cho việc tăng tính thanh khoản cho thị trường và mở rộng qui mô giao dịch thị trường. Tuy nhiên, hoạt động môi giới của hầu hết các CTCK trong thời gian qua chưa đáp ứng được sự mong đợi của khách hàng. Nhu cầu được tư vấn của NĐT cá nhân rất cao. Nhất là thời điểm hiện nay, khi thị trường không còn cảnh mua đâu, thắng đó nên NĐT rất cần có nhiều thông tin, có người trao đổi trước khi đưa ra quyết định cuối cùng. Nhưng nhìn chung, những lời tư vấn của các nhân viên môi giới còn nặng về cảm tính, không chuyên sâu về phân tích. Hơn nữa, các quy định ràng buộc về trách nhiệm của người tư vấn hầu như không có nên NĐT phải biết sàng lọc và xem đó như một nguồn thông tin tham khảo. Để nâng cao chất lượng dịch vụ, thu hút nhiều hơn các NĐT tham gia và nhằm hạn chế rủi ro cho các NĐT, các CTCK cần phát triển các hình thức tư vấn đầu tư và nâng cao năng lực hiệu quả hoạt động tư vấn cho khách hàng:  Các CTCK phải chủ động tuyển dụng có chọn lọc một đội ngũ nhân viên tư vấn có năng lực thực sự, có ý thức, tác phong năng động, hoạt bát, có đạo đức nghề nghiệp tốt. Đây là một trong những vấn đề khó khăn đối với các CTCK hiện nay khi mà vấn đề nhân sự trong lĩnh vực tài chính trở nên khan hiếm trong thời gian qua. 97  Định kỳ, các CTCK nên tổ chức các buổi hội thảo, tọa đàm về nghiệp vụ chuyên môn, để các nhân viên nghiệp vụ học hỏi kinh nghiệm lẫn nhau, tức là không chỉ đào tạo theo hướng chuyên nghiệp, mà còn phải đào tạo song phương theo hướng đào tạo và tự đào tạo. Bên cạnh đó, các CTCK cần phải tổ chức các buổi tư vấn, thuyết trình, giải đáp những thắc mắc để nâng cao kiến thức và kinh nghiệm cho các NĐT.  Các CTCK cũng cần có chế độ đãi ngộ xứng đáng đối với các nhân viên tư vấn làm tốt chuyên môn, nhằm khuyến khích họ phát huy hơn nữa năng lực của mình.  Đối với việc tư vấn cho các cá nhân cần phân biệt rõ thành hai loại hình khách hàng. Đó là những người cần tư vấn sẽ phải chịu thêm một mức phí tư vấn và những người hoàn toàn không cần tư vấn. Trong đó, đối với những người cần tư vấn có thể xem xét việc phát triển loại hình tư vấn toàn phần.  UBCK Nhà nước cần phải hoàn thiện hệ thống đào tạo, cấp phép hành nghề tư vấn CK và phổ biến kiến thức, nâng cao nhận thức cho công chúng đầu tư. Xây dựng chương trình đào tạo theo sát đúng với thực tế Việt Nam có tính chuyên sâu và riêng biệt; xây dựng đội ngũ giảng viên tốt về phẩm chất, sâu về chuyên môn và giỏi về phương pháp sư phạm là vấn đề cần phải được quan tâm; xây dựng quy trình đào tạo từ việc quản lý, ra đề thi, tổ chức thi, chấm thi, cấp chứng chỉ.  Đối với các nhân viên của mình các công ty chứng khoán cần thường xuyên kiểm tra, phát hiện những sai sót, để chắc chắn rằng nhân viên của mình thực hiện các hành vi tư vấn đúng theo pháp luật chứng khoán và đạo đức của nhà tư vấn. Mặt khác giữa các khách hàng và công ty chứng khoán xảy ra những mâu thuẫn về quyền lợi do đó các cơ quan chức năng cần thanh tra kiểm tra thường xuyên các CTCK để đảm bảo quyền lợi khách hàng luôn đặt trước quyền lợi của công ty. Tóm lại TTCK đóng một vai trò quan trọng trong việc huy động vốn và bổ sung các nguồn vốn đầu tư hợp lý, thông qua TTCK các nguồn vốn trong nước và nước ngoài 98 được tập trung sử dụng cho các dự án đầu tư, mở rộng sản xuất phát triển kinh tế… Có thể nói TTCK là một thị trường tài chính cao cấp muốn tham gia cần phải có những kiến thức và mức am hiểu nhất định. Chính vì vậy chúng ta cần phát triển các nghiệp vụ của CTCK đặc biệt là hoạt động tư vấn của các CTCK nhằm từng bước tạo một nền văn hóa chứng khoán cho công chúng nhằm mục đích phát triển TTCK nói riêng và nền kinh tế nói chung 3.4.2.2 Thành lập quỹ bình ổn TTCK Khi TTCK Việt Nam đi xuống trong giai đoạn vừa qua, ý tưởng hình thành quỹ bình ổn thị trường được nhìn nhận là một hướng đi tích cực. Quỹ bình ổn TTCK là một mô hình góp vốn bằng tiền mặt từ các công ty thành viên và các Quỹ đầu tư CK trên thị trường. Số tiền sẽ được quản lý và sử dụng bởi một công ty được lập ra chuyên để bảo đảm lợi ích cho các NĐT trong những trường hợp xấu. Như vậy khoản tiền này có thể được tung ra để bình ổn thị trường trong những lúc biến động quá dữ dội, qua đó giúp các nhà đầu tư khỏi bị sốc Tại Hàn Quốc, mô hình này đã từng xuất hiện năm 1968. Singapore, Hồng Kông, Đài Loan cũng có mô hình quỹ bình ổn thị trường theo hình thức này. Nhật Bản đã hình thành quỹ này từ những năm 60 của thế kỷ trước. Năm 1964, khi chỉ số Nikkei của TTCK Nhật Bản từ đỉnh cao trên 1800 điểm rơi xuống gần 1000 điểm, nền kinh tế Nhật Bản cũng gặp một số khó khăn tương tự nền kinh tế Việt Nam hiện nay. Đó là, TTCK lao dốc mạnh, cán cân thanh toán thâm hụt, lạm phát tăng cao. Chính phủ Nhật Bản đã phải tăng lãi suất để kiềm chế lạm phát và thành lập một công ty chứng khoán, hoạt động như mô hình một quỹ bình ổn. Các thành viên góp vốn cho công ty này thuộc lĩnh vực tư nhân, bao gồm các ngân hàng, các công ty môi giới chứng khoán. Số vốn huy động được khoảng 10 tỷ Yên. Sau hơn 1 năm, TTCK Nhật đã có phần hồi phục. Cần nhìn nhận rằng mục tiêu của Quỹ là bình ổn thị trường. Vì vậy, quỹ có tác động ổn định thị trường trong ngắn hạn và phát triển thị trường trong dài hạn. Trong ngắn hạn, các thành viên tham gia quỹ có thể gặp một số khó khăn khi phải hy sinh lợi ích ngắn hạn để phục vụ mục tiêu dài hạn. 99 Tuy nhiên, cơ chế điều hành và quản trị nguồn vốn như thế nào để đảm bảo lợi ích công bằng của các chủ thể thị trường là một điều đáng được quan tâm. Đây là một vấn đề phức tạp và khó khăn. Mua bán như thế nào, lỗ lãi được tính toán ra sao đều là những vấn đề khó khăn cần xem xét kỹ lưỡng và cần có sự đồng thuận giữa các thành viên. Thêm vào đó, ở Việt Nam vẫn có tình trạng đầu cơ và thao túng nên việc vận hành quỹ là một vấn đề rất phức tạp. Việc hình thành quỹ dù sao vẫn rất cần sự hỗ trợ của Chính phủ và các tổ chức. Theo đó, Nhà nước có thể trích một phần thặng dư trong quá trình cổ phần hóa các doanh nghiệp nhà nước lớn để đóng góp vào quỹ. Về vấn đề điều hành, chính phủ phải có đóng góp vào quỹ nhưng không nên tham gia điều hành. Việc điều hành nên để các thành viên thị trường bầu chọn, không chỉ dựa trên tiêu chí về số vốn mà quan trọng hơn là tiêu chí về đạo đức. Đồng thời, Chính phủ nên đối thoại với quỹ về hoạt động của quỹ. Ngược lại, quỹ cũng có thể thỏa thuận với Chính phủ về những điều kiện để tuân thủ các mệnh lệnh của Chính phủ, đồng thời, yêu cầu chính phủ minh bạch công khai thông tin để phục vụ các hoạt động. 3.4.3 Phát triển hệ thống điều hành của chính phủ 3.4.3.1 Nâng cao hiệu quả công tác quản lý, giám sát của nhà nước Chứng khoán là thị trường nhạy cảm, nơi mà lòng tin của NĐT vào sự hưng thịnh của nền kinh tế, vào tính minh bạch của thị trường quyết định đến thành công của thị trường. Trong thời gian qua, niềm tin của NĐT vào thị trường đang bị lung lay bởi rất nhiều lý do, trong đó đáng kể nhất là thị trường thiếu tính minh bạch. Giao dịch nội gián, tiết lộ thông tin nội bộ, cổ đông lớn chèn ép cổ đông nhỏ, hối lộ bằng quyền mua cổ phiếu, ưu tiên lệnh công ty trước lệnh khách hàng… hàng loạt hành vi tuy chưa đến mức phải tử hình nhưng đang đánh vào cái gốc của thị trường, đó là niềm tin của nhà đầu tư. Nếu ra đi vì thua lỗ, một lúc nào đó nhà đầu tư sẽ quay lại với thị trường, nhưng nếu mất lòng tin, họ sẽ không bao giờ trở lại. Sự phát triển của TTCK hiện cũng đang đặt ra một số vấn đề phải quan tâm xử lý như: giá một số cổ phiếu tăng liên tục ở mức cao; chất lượng dịch vụ của các tổ chức 100 tài chính trung gian, hoạt động tư vấn, giám sát, định giá cổ phẩn để niêm yết, chất lượng và quản lý thông tin còn hạn chế; các quy định về quản lý, kiểm soát thị trường đảm bảo phát triển bền vững còn thiếu và chưa đồng bộ; sự chủ động của các Bộ, ngành chức năng cũng như sự phối hợp liên ngành để thực hiện quản lý, kiểm soát TTCK chưa thật tốt; năng lực quản lý giám sát thị trường của UBCKNN còn yếu. Để tiếp tục tạo điều kiện cho TTCK phát triển ổn đinh, bền vững, thực sự trở thành một kênh huy động vốn quan trọng cho nền kinh tế; đồng thời, bảo đảm lợi ích hợp pháp cho nhà đầu tư, góp phần hoàn thiện và phát triển đồng bộ thị trường tài chính Việt Nam, các cơ quan chức năng cần thực hiện những vấn đề sau:  Phát triển thị trường các giao dịch chính thức, tăng cường quản lý các công ty đại chúng theo quy định của Luật chứng khoán nhằm thu hẹp thị trường OTC.  Giám sát các hoạt động của các quỹ đầu tư CK, đặc biệt đối với các quỹ đầu tư CK nước ngoài phải bảo đảm hoạt động theo đúng các quy định của pháp luật về tỷ lệ cổ phiếu, công bố thông tin và các quy định hiện hành khác; đồng thời, phát hiện, xử lý kịp thời và nghiêm khắc mọi hành vi vi phạm; chỉ cho phép thành lập các quỹ đầu tư CK đủ điều kiện theo quy định của pháp luật; phối hợp với Ngân hàng Nhà nước xây dựng cơ chế kiểm soát luồng tiền để giám sát hoạt động đầu tư chứng khoán của các nhà đầu tư nước ngoài ở Việt Nam. Thực hiện đăng ký lại ngay các văn phòng đại diện của các tổ chức kinh doanh chứng khoán theo quy định của Luật Chứng khoán.  Giám sát hoạt động giao dịch trên các SGDCK, TTGDCK; chú trọng kiểm soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân hoạt động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao dịch, lưu ký, thanh toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một cách công khai, minh bạch, đúng pháp luật.  Giám sát hoạt động môi giới, tư vấn đầu tư, tư vấn định giá doanh nghiệp để các hoạt động dịch vụ này thực sự có chất lượng, phản ảnh trung thực và là hoạt động có độ tin cậy cao đối với các NĐT chứng khoán. 101  Tăng cường giám sát hoạt động giao dịch trên các SGDCK, TTGDCK; chú trọng kiểm soát việc thực hiện quy định về công bố thông tin của các tổ chức, cá nhân hoạt động trên TTCK; bảo đảm tuân thủ quy trình về đặt lệnh giao dịch, lưu ký, thanh toán CK để các hoạt động này đều được thực hiện một cách công khai, minh bạch, đúng pháp luật.  Nghiên cứu, ban hành cơ chế tài chính phù hợp đối với UBCK, SGDCK, TTGDCK, TTLKCK, để có thể thu hút, khuyến khích cán bộ có năng lực và chuyên môn làm việc tại cơ quan quản lý, giám sát TTCK.  Phối hợp với các cơ quan thông tin đại chúng đẩy mạnh việc thông tin tuyên truyền với nội dung và phương thức đa dạng để công chúng có hiểu biết hơn về những lợi ích cũng như những rủi ro khi tham gia thị trường.  Tiếp tục giám sát hoạt động của các NHTM trong hoạt động repo, huy động, cho vay, cầm cố để đầu tư CK; xây dựng, củng cố về tổ chức và áp dụng các công cụ quản lý thích hợp để bảo đảm giám sát được luồng vốn đầu tư nước ngoài vào TTCK trong mối liên hệ giữa TTCK và thị trường tiền tệ. 3.4.3.2 Tuyên truyền, phổ biến kiến thức về chứng khoán và TTCK Kinh doanh CK không phải là đánh bạc như nhiều người nghĩ. Tuy nhiên, thống kê cả nước hiện có trên 400.000 tài khoản của nhà đầu tư tổ chức, cá nhân thì con số NĐT có bài bản và chiến lược trên các sàn CK quả là không nhiều. Nghịch lý này dẫn tới chuyện nhiều NĐT thiếu chuyên nghiệp lên sàn mơ đổi đời bằng được trong phút chốc trong khi kiến thức, kinh nghiệm còn thiếu khiến cho mỗi khi chỉ số chứng khoán sụt giảm thì họ là những người bị ảnh hưởng đầu tiên. Trong chiến lược phát triển TTCK, gắn với tiến trình cải cách đổi mới nền kinh tế trong giai đoạn hội nhập; một nội dung khá cần thiết đang được đặt ra hiện nay là công tác phổ cập kiến thức CK. Có thể nói, việc phổ cập kiến thức CK hiện nay chưa được thực hiện “tận gốc” và đây cũng chính là một trong những yếu tố hạn chế sự phát triển của TTCK Hiện nay, công tác đào tạo và phổ cập hiện mới bó hẹp trong UBCKNN. Các hoạt động của UBCKNN trong khâu này mới chỉ giới hạn ở việc trực tiếp mở một số khoá 102 đào tạo nghiệp vụ ngắn ngày, chủ yếu ở Hà Nội, Tp.HCM với tổng số người học còn quá khiêm tốn, chỉ vài ngàn người. Mặt khác, các khóa đào tạo của UBCKNN là những chứng chỉ cần thiết cho các cá nhân muốn hoạt động môi giới CK nên phần nào bó hẹp trong một số đối tượng của các CTCK. Các thành phần khác như NĐT, cá nhân được phổ cập chưa nhiều. Một hạn chế lớn nhất trong công tác tuyên truyền về CK và TTCK là chưa có sự kết hợp với các phương tiện truyền thông đại chúng. Việc đưa tin về TTCK là hoàn toàn tự nguyện. Hiện mới chỉ có 1 tờ báo chuyên về TTCK. Một số báo và tạp chí kinh tế, tài chính chỉ đưa tin về TTCK trong trang mục kinh tế – xã hội hoặc thị trường tài chính nói chung.... Các cơ quan báo chí cũng chưa được giúp đỡ nhiều trong việc đào tạo phóng viên có kiến thức về CK, chưa được hoan nghênh trong công tác tuyên truyền về CK và TTCK, chưa có cơ hội và kinh nghiệm trong việc tiếp cận với kinh nghiệm TTCK nước ngoài. Do vậy, cần phải có chiến lược cụ thể để tuyên truyền phổ cập kiến thức về TTCK.  Mở rộng tuyên truyền, phổ cập kiến thức cho công chúng trên các phương tiện thông tin đại chúng như: báo chí, đài phát thanh, đài truyền hình, mạng Internet, các khóa đào tạo miễn phí, xây dựng các bản tin, các chuyên mục về CK và TTCK,...  Tổ chức các trò chơi tìm hiểu về CK và TTCK trên các phương tiện truyền thanh, truyền hình, báo chí, tổ chức các cuộc thi CK ảo, thi phân tích tài chính, thi làm giám đốc tài chính, thi làm giám đốc điều hành,... cũng là biện pháp phổ biến kiến thức cho công chúng.  Trung tâm nghiên cứu đào tạo UBCKNN cần thiết phải mở các lớp học mẫu ngắn hạn, tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề về CK và TTCK tại các Trung tâm văn hóa quận, huyện hay Nhà văn hóa thanh niên cho các đối tượng đang sinh hoạt tại đây để vừa có dịp vui chơi, giải trí vừa có dịp học tập bổ ích bởi vì nhu cầu tìm hiểu và tham gia TTCK trong công chúng là rất lớn.  Các trường Đại học tiếp tục hình thành và phát triển hơn nữa bộ môn CK cũng như đưa các môn học chuyên sâu vào chương trình để vừa phục vụ công tác 103 đào tạo tại trường vừa đáp ứng nhu cầu học hỏi nâng cao trình độ của những người làm việc trong lĩnh vực này.  Khuyến khích tất cả giáo viên dạy về CK phải có kinh nghiệm thực tế, tham gia đầu tư CK, tiến tới xoá bỏ việc dạy chay.  Đào tạo bài bản về chứng khoán cho tất cả phóng viên về kinh tế.  UBCKNN phối hợp đào tạo với các nước có TTCK phát triển để học hỏi kinh nghiệm đầu tư và tiếp cận với nền văn hóa CK tiên tiến của thế giới. KẾT LUẬN CHƯƠNG 3 Trong chương này, tác giả đưa ra các giải pháp nhằm thúc đẩy sự phát triển bền vững TTCK Việt Nam. Các giải pháp được đưa ra dựa trên chủ trương chính sách của chính phủ trong việc phát triển TTCK Việt Nam đến năm 2010 và tầm nhìn đến năm 2020. Do giới hạn của luận văn, tác giả chỉ tập trung vào hai giải pháp chính là việc niêm yết chứng khoán ra thị trường nước ngoài và thành lập tổ chức định mức tín nhiệm. Ngoài ra còn có các giải pháp bổ trợ cho sự phát triển bền vững của TTCK như: nâng cao hiệu quả của việc phát hành cổ phiếu doanh nghiệp trên TTCK, đẩy nhanh quá trình CPH, đa dạng hóa các sản phẩm trên thị trường, thành lập thị trường giao dịch phi tập trung, nâng cao chất lượng hoạt động tại các CTCK, thành lập quỹ bình ổn thị trường, nâng cao hiệu quả công tác giám sát của nhà nước, tuyên truyền phổ biến kiến thức chứng khoán. 104 KẾT LUẬN Qua 8 năm hoạt động, TTCK Việt Nam đã có những đóng góp to lớn cho việc phát triển ngành tài chính ngân hàng nói riêng, nền kinh tế nói chung. TTCK trở thành kênh huy động vốn hiệu quả của doanh nghiệp và của nền kinh tế thông qua việc phát hành cổ phiếu. Qua TTCK, các DN huy động được nguồn vốn khổng lồ trong dân chúng, biến nguồn vốn nhàn rỗi ngắn hạn thành các khoản đầu tư dài hạn, phục vụ cho sản xuất, kinh doanh. Hàng ngàn tỷ đồng đã được đưa vào sản xuất, kinh doanh, vòng quay vốn của toàn nền kinh tế được cải thiện rõ rệt. Nhưng bên cạnh đó, TTCK còn tiềm ẩn nhiều vấn đề cần phải giải quyết để có thể tăng trưởng bền vững, trở thành "hàn thử biểu" của nền kinh tế. Những giải pháp nhằm tăng cung kích cầu, hoàn thiện môi trường đầu tư cần nhanh chóng được triển khai thực hiện. Chúng ta tin rằng, việc đánh giá đúng các kết quả đạt được, nhìn rõ những nguyên nhân của hạn chế thiếu sót, xác định rõ mục tiêu phát triển của thị trường và hướng giải pháp khắc phục những tồn tại sẽ thúc đẩy TTCK Việt Nam ngày một phát triển bền vững hơn. 105 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Bùi Kim Yến, (2005), TTCK, Nhà xuất bản Lao động 2. Đào Lê Minh, (2002), Những vấn đề cơ bản về chứng khoán và TTCK, Nhà xuất bản Chính trị Quốc gia. 3. Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam, (2006), “Luật chứng khoán”. 4. Trần Đắc Sinh, (2005), Các giải pháp để đưa doanh nghiệp tiềm năng lên niêm yết trên TTCK, Đề tài nghiên cứu khoa học, Sở Khoa học Công nghệ TP.HCM. 5. Trần Đắc Sinh, (2005), “Đánh giá 5 năm hoạt động của TTCK Việt Nam”, Ủy ban chứng khoán Nhà nước, TP.HCM 6. Trần Ngọc Thơ, (2005), Tài chính doanh nghiệp hiện đại, Nhà xuất bản Thống kê. 7. Trung tâm Giao dịch chứng khoán TP.HCM, (2006), Tổng kết 5 năm TTCK Việt Nam, NXB Phương Đông, TP.HCM. Các trang web 1. Ủy ban chứng khoán Nhà nước www.ssc.gov.vn 2. Bộ Tài chính www.mof.gov.vn 3. Sở giao dịch chứng khoán TP.HCM www.hsx.vn 4. Trung tâm giao dịch chứng khoán Hà Nội www.hastc.org.vn 5. Đầu tư chứng khoán www.vir.com.vn 6. Tin nhanh chứng khoán www.tinnhanhchungkhoan.com.vn 7. Tin nhanh Việt Nam www.vnexpress.net 8. Thời báo kinh tế Việt Nam www.vneconomy.vn 9. Saga Việt Nam www.saga.vn 10. Báo Tuổi trẻ www.tuoitre.com.vn 11. Báo Vietnamnet vietnamnet.vn 12. Báo Thanh niên thanhnien.com.vn 13. Công ty CP Chứng khoán Thăng Long www.thanglongsc.com.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdf1.pdf
Tài liệu liên quan