Luận văn Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt nam giai đoạn 1986 - 2000

MS: LVVH-LLVH021 SỐ TRANG: 113 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2010 PHẦN MỞ ĐẦU 1. Lí do chọn đề tài Từ sau thời điểm năm 1986, khi Đại hội Đảng lần thứ VI, đất nước ta chính thức bước vào thời kì đổi mới. Trên tất cả các lĩnh vực hoạt động và đời sống xã hội đều có những chuyển biến lớn. Trong sáng tác văn học, văn xuôi thời đổi mới giai đoạn 1986-2000 nói chung, truyện ngắn nói riêng, nổi lên vấn đề quan niệm nghệ thuật về con người với cảm hứng triết luận đã thu hút sự quan tâm, chú ý của nhiều nhà phê bình, lý luận văn học. Thực ra, từ bao đời nay con người với đời sống muôn màu muôn vẻ của nó là đối tượng trung tâm của văn học, tính cách, tâm hồn, tất cả những gì thuộc về con người làm nên ý nghĩa cuộc sống của con người là đối tượng mà nhà văn tìm đến trước hết. Khám phá bản chất người là một trong những thành tựu của văn học nhân loại. Có thể nói, sự sáng tạo của nhà văn, tầm khái quát sâu rộng của tác phẩm nghệ thuật làm phong phú đời sống tinh thần của dân tộc và nhân loại xuất phát từ việc giải quyết vấn đề con người. Nhưng cùng với sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học, đặc biệt trong truyện ngắn giai đoạn 1986-2000 thì cảm hứng triết luận về con người ngày càng trở nên đậm đặc. Trên các tờ báo, tạp chí chuyên ngành có nhiều nhà nghiên cứu đề cập đến hiện tượng văn học này. Đây là một bước phát triển mới, một sự khởi sắc toàn diện của văn xuôi. Tuy nhiên các bài viết mới chỉ giới thiệu hay phê bình một tác giả, một tác phẩm, một khía cạnh cụ thể của vấn đề. Việc làm sáng tỏ sự chuyển biến trong cảm hứng sáng tác, tìm về cảm hứng triết luận về con người mang tính chỉnh thể có ý nghĩa cả về lí luận cũng như về thực tiễn. Đến với đề tài này, sở dĩ chúng tôi chọn mốc thời gian 1986-2000 là vì, không chỉ nó có liên quan đến những tác phẩm đoạt giải của Hội nhà văn, được công bố rộng rãi, được công chúng đón nhận, mà giai đoạn 1986-2000 là giai đoạn có ý nghĩa quan trọng, giai đoạn của một sự chuyển biến lớn, kết thúc một thế kỷ và mở đầu thế kỷ tiếp tục sự đổi mới của một nền văn học; đó còn là giai đoạn những nhà văn trăn trở hướng đi riêng lại gặp chung trong cái mạch cảm hứng. Đến với đề tài này, chúng tôi mong muốn có một cái nhìn mang tính toàn diện hơn về hiện tượng này của văn học đương đại. Tham vọng không phải là đưa ra một sự tổng kết trọn vẹn hoặc đưa ra những lời phán quyết cuối cùng cho những gì còn chưa kết thúc, mà chỉ là, qua sự trình bày và lý giải một cách tương đối có hệ thống của mình, mong có thể góp thêm tiếng nói khẳng định thêm sự đổi mới của văn học giai đoạn này so với giai đoạn trước. Chúng tôi cũng hi vọng đây sẽ là một đóng góp có ý nghĩa trong việc nghiên cứu và giảng dạy văn học. 2. Lịch sử vấn đề Trong hoàn cảnh xã hội Việt Nam từ trong chiến tranh bước sang đời sống hòa bình đầy phức tạp và thử thách, con người bình thường, con người đời thường được các nhà văn miêu tả sâu sắc. Tính triết luận về con người trong văn xuôi vốn được kế thừa từ Nam Cao, Thạch Lam qua Nguyễn Khải và bây giờ đến hầu hết ở những cây bút trẻ. Nó thu hút sự quan tâm của những nhà nghiên cứu, phê bình văn học đương thời. Nói như nhà nghiên cứu văn học Vũ Tuấn Anh, đào sâu vào thế giới tâm hồn, tâm linh của con người, văn học hiện nay như đã tìm thấy sợi dây nối với truyền thống miêu tả tâm lí của những bậc thầy như Nam Cao, Thạch Lam, Nguyễn Tuân, . Có thể nêu những ý kiến, những nhận định tập trung vào những ý hướng sau: a. Các nhà nghiên cứu, lí luận văn học khẳng định con người với tất cả mọi phương diện của nó là đối tượng muôn đời của văn học, là nguồn cảm hứng vô tận cho sáng tác của nhà văn. Và các nhà văn đứng ở góc độ con người để nhận thức, lí giải, bàn luận về con người- đối tượng trung tâm của văn học- trong cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Mỗi con người là một cuộc đời riêng, một thế giới riêng vốn rất phong phú, phức tạp. Và trong mối quan hệ cũng hết sức phong phú, phức tạp của nó với toàn xã hội, con người trở thành mối quan tâm hàng đầu của sáng tác. Với Chính sách xã hội bao trùm mọi mặt của cuộc sống con người, Đảng chủ trương phát huy yếu tố con người và lấy việc phục vụ con người làm mục đích cao nhất của mọi hoạt động. Văn học, đặc biệt là văn học đã bước vào giai đoạn thực sự trưởng thành, không chỉ bày tỏ tình yêu, sự phẫn nộ hay lòng thương xót con người mà còn là một lĩnh vực quan sát và khám phá con người. Tính tự do, dân chủ và mục đích chân chính đó đã tạo thành dòng chảy ồ ạt vào đại dương nhân bản, nghiêng hẳn về phía con người. Trần Đình Sử khẳng định: Chỉ từ sau năm 1986,với công cuộc đổi mới toàn diện của đất nước, con người trong văn học mới thực sự trải qua một bước ngoặt mới. Chất sử thi nhạt dần và quan niệm thế sự, đời tư, triết lí, văn hóa về con người nổi lên, trở thành nét chủ đạo, làm thay đổi cả diiện mạo văn học” [ A.I.40, tr. 282]. Nguyễn Văn Hạnh có khẳng định trách nhiệm của người cầm bút: Ý thức rõ hơn chức năng và sức mạnh riêng của văn học, trách nhiệm của người cầm bút, đặc biệt trong bước ngoặt lớn của đất nước, các nhà văn càng thấy phải hiểu sâu hơn con người, con người với số phận chẳng ai giống ai, với những biểu hiện sống, những nhu cầu tinh thần và vật chất đa dạng và luôn thay đổi. [A. II. 30. tr. 219- 220] Nhận định của Huỳnh Như Phương vừa nhấn lại đặc điểm của văn học hôm nay vừa tiếp tục khơi thông hướng đi nhân bản của nó: ý hướng đi vào nội tâm để khám phá chiều sâu tâm linh nhằm nhận diện hình ảnh con người đích thực là ý hướng có triển vọng của một nền văn học dân chủ [A.II.67, tr.16]. Trong “Quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000”, Nguyễn Văn Kha khẳng định: Giữa cuộc sống rộng lớn, giữa các sự kiện, biến động lịch sử đầy rối rắm và phức tạp, chính đời sống con người, tư tưởng, tình cảm và thân phận của nó là đối tượng trung tâm của văn học [A.I.21, tr.11]. Trong bài Đổi mới văn học vì sự phát triển, nhà nghiên cứu văn học Vũ Tuấn Anh có nêu nhận định: Với Đổi mới văn học, bằng sự lật trở của tư duy nghệ thuật, mối quan hệ văn học- hiện thực đã có một sự thay đổi về chất. Có thể nói, toàn bộ hiện thực đã tràn vào văn học trong nhịp độ gấp gáp, đến mức xô bồ ( ) ở cả phần sáng lẫn phần tối, cả ở lịch sử lẫn thời khắc hiện tại, cả số phận lịch sử lẫn số phận cá nhân . [A.II.3, tr.17]. Tác giả bài viết nói trên khẳng định một cách mạnh mẽ và trực tiếp tính phức tạp ở phía chiều sâu trong tâm hồn con người, khẳng định một sự tìm tòi nhận thức mới về con người, đây là cái nhìn nhận chung của nhiều người: Đối tượng nghiên cứu và khám phá của văn học không chỉ là xã hội mà còn là con người với tất cả sự phức tạp và bí ẩn của nó; Cũng cần nói đến một phương diện khác, như một yếu tố thực sự mới mẻ mười năm qua: cố gắng khám phá cái thế giới bí ẩn, khuất lấp, đầy bất trắc và bất thường bên trong mỗi con người, bên trong bản- thể Người [A.II.3, tr.15]. Nhìn lại Những thành tựu của truyện ngắn sau năm 1975, Bích Thu cũng thừa nhận có một sự nhận thức mới về con người trong truyện ngắn: Hướng tới hiện thực về con người, thông qua từng số phận cá nhân, các nhà văn đã xới lên những vấn đề nhức nhối, bức xúc của con người trong hiện thực đương đại. Con người trong truyện ngắn hôm nay không còn là “những đời người rất nhạt” vì “không có những bất ngờ, may rủi” mà là những con người “đầy những vết dập xóa trên thân thể, trong tâm hồn”[A.II.80, tr. 35]. Nhận định của Bích Thu như một nét nhấn cần thiết trong những nhận định cách nhìn mới về con người trong văn xuôi nói chung, truyện ngắn nói riêng: Trong thực tiễn sáng tác từ sau 1975 đến nay, cảm hứng sự thật về hiện thực và con người trở thành cảm hứng bao trùm đối với các nhà văn. Văn xuôi thế sự, đời tư không chỉ bộc lộ những nếm trải, suy tư, nghiền ngẫm mà còn phơi bày, phanh phui các sự vật, hiện tượng để đi đến tận cùng cốt lõi của nó.[A.II.80, tr.25] Trong một bài viết ngắn Cái hài và bi kịch người trí thức trong truyện ngắn “Vũ điệu của cái bô”, tác giả Nguyễn Thị Thúy Hằng cũng nêu nhận định tương tự: Quan tâm hơn đến con người, văn học sau 1975 bổ sung những mảng hiện thực nghiệt ngã, khuất tối qua các số phận nhỏ bé của nhiều loại người trong xã hội. Ở những số phận đó có cả cái hài lẫn cái bi, cái đẹp đẽ lẫn cái tầm thường. Đấy là bằng chứng về một tư duy hiện thực mới, một quan niệm nghệ thuật mới về con người, một quan hệ “tiếp xúc thân mật suồng sã” của nhà văn với đối tượng phản ánh [A.II.31, tr. 79]. Đánh giá về sáng tác Ma Văn Kháng, Nguyễn Thị Huệ có một ánh nhìn đầy chất nhân văn về con người trong cuộc đời thường: Từ trong bản chất vốn có, con người là phong phú và phức tạp ( ) nên không thể dùng cái nhìn phân đôi con người một cách đơn giản, cứng nhắc; phân biệt một cách rạch ròi: tốt- xấu, tích cực, tiêu cực mà cần phải đi sâu nghiên cứu, mổ xẻ phân tích những nỗi niềm thực, những uẩn khúc và bi kịch riêng của đời họ, không thể dè bỉu, giễu cợt trước những vấp ngã, lầm lạc của con người mà cần phải có cái nhìn bao dung, độ lượng, thể tất trước những lầm lạc đó. [A.II.34, tr. 53]. Trần Cương nêu một cái nhìn khái quát, so sánh sự khác biệt rõ nét của hai giai đoạn văn học: Nếu các nhà văn trước 86 đứng ở phương diện xã hội và phong trào để nhìn con người thì các nhà văn sau 86 đã đứng ở góc độ con người để nhìn con người, xã hội và các vấn đề chung. Do đó, dường như lần đầu tiên xuất hiện hai chủ đề thuộc về con người mà trước kia chưa có. Đó là chủ đề về số phận con người và hạnh phúc cá nhân.[A.II.11, tr.34,35] Có thể nói thể tài thế sự, đời tư đang dần chiếm vị trí chủ đạo trong văn xuôi, đáp ứng được nhu cầu phân tích, lý giải, suy tư về con người, xã hội và mọi trạng huống của nhân tình thế thái. Văn xuôi đương đại có sự chuyển đổi mạnh mẽ từ miêu tả hiện thực sang biểu hiện hiện thực. Từ tái hiện hiện thực theo chiều rộng, chiều dài hướng tới sự tái hiện cuộc sống theo chiều sâu, sự khái quát, triết luận về xã hội, nhân sinh, phát hiện ra bản chất của cuộc sống xã hội và con người.[A.II.37, tr.28]. Để từ đó có thể khẳng định văn học hiện nay cũng đang hòa vào con đường chung của văn học nhân loại ở phương diện khám phá những bí ẩn của con người.[A.II.3, tr18,19] b. Nhận thức, lí giải, bàn luận về con người nhằm mục đích cuối cùng là để hiểu con người hơn, làm cho con người mỗi ngày sống tốt hơn. Đánh giá về những việc, những con người sao được trọn vẹn là một điều quan trọng. Mỗi một con người sống hết trọn đời mình không dễ mấy ai không gặp những khúc quanh, những ngã rẽ, nhất là ngã rẽ của tâm hồn, trước một hành vi lựa chọn, một sự nhìn nhận đúng, sai. Mà cũng không phải lúc nào ta cũng có thể sẻ chia và tìm gặp được một điểm tựa để sẻ chia một cách trực tiếp. Văn học, nhất là những thời điểm như vậy, là vô cùng cần thiết để thực hiện chức năng của nó. Bởi các nhà văn lớn của mọi thời đều tìm đến con người, tiếp cận và giải mã cuộc đời và con người, dẫu có theo những cách khác nhau thì cái mục đích cuối cùng vẫn là dễ hiểu nó hơn.[A.II.46, tr. 29] Phạm Xuân Nguyên khơi gợi cách nhìn nhận, cách đánh giá con người của hôm nay: truyện ngắn hôm nay tiếp tục xới lật các mảng hiện thực của cuộc sống ở cả hai chiều của quá khứ và hiện tại để mong góp một tiếng nói định vị cho người đọc một thái độ nhìn nhận, đánh giá những việc, những người của bây giờ, của nơi đây. [A.II.61, tr.27] Nhà nghiên cứu văn học Hoàng Ngọc Hiến, một cách giản dị, tự nhiên, đi thẳng vào vấn đề thuộc bản chất của văn học : Con người không phải lúc nào cũng làm chủ được bản thân mình. Vả chăng hiểu được bản thân mình không phải là dễ. Văn học có tác dụng to lớn giúp cho con người hiểu được chính mình. [A.II.32, tr.21] Về điểm này, Nguyễn Văn Kha trong Đổi mới quan niệm về con người trong truyện ngắn Việt Nam 1975- 2000, phân tích khá đầy đủ: Chính tình yêu con người, lòng trắc ẩn, sự cảm thông với những niềm vui, nỗi khổ của con người đã dẫn dắt tâm tưởng của nhà văn đến với từng cuộc đời, từng số phận, để phát hiện, khám phá thế giới huyền diệu của con người, nhìn thấy mặt tốt, mặt xấu, cái cao thượng, cái thấp hèn, cái thật, cái giả, để có thái độ yêu ghét phân minh, chống lại ách áp bức bóc lột, chống lại sự nô dịch con người. Vì thế, chủ nghĩa nhân văn trong văn học không chỉ là tình yêu thương con người mà còn nâng cao con người lên, hướng con người đến cái chân, cái thiện, cái mỹ. [A.1.21, tr.14]. Tô Huy Rứa góp thêm một lời nhắc nhở: Phải ý thức sâu sắc rằng, văn học, nghệ thuật của chúng ta không chỉ là nhu cầu thiết yếu của con người mà chính là một trong những động lực to lớn trực tiếp góp phần xây dựng nền tảng tinh thần của xã hội và sự phát triển toàn diện của con người Việt Nam.[A. II.73, tr.29] Trên tinh thần đó, Nguyễn Ngọc Thiện khẳng định: Và vì văn hóa, văn nghệ là nền tảng tinh thần của xã hội, thể hiện chiến lược về con người, nhằm mục tiêu xây dựng con người, bồi dưỡng và phát huy nguồn lực con người nên tính nhân văn của nó trong sự hướng tới Chân, Thiện, Mỹ được đề cao.[A. II.78, tr. 21] Trong Các nhà văn trả lời phỏng vấn về chiến tranh, về đề tài chiến tranh trong văn học, Xuân Thiều bộc bạch: Trong các truyện ngắn của mình, tôi thường mong muốn được phát hiện những điều chưa biết của con người Việt Nam ta trong chiến tranh. Những điều thuộc về thế giới bên trong, thuộc về phẩm chất, về cách nhìn, cách đánh giá con người thế nào là hợp lẽ con người nhất. Để con người tốt hơn, yêu nhau hơn và điều quan trọng là giữ gìn cho được cuộc sống đáng sống này, chống mọi sự đe dọa của chiến tranh.[A.II.35, tr.133, 134] Và nhận xét của Mai Hương: Sau những cảm hứng chà xát dữ dội với những mặt tiêu cực của cuộc sống, nhiều tác phẩm văn xuôi đã tìm khơi lại cảm hứng về những vẻ đẹp bình dị những chuyển động thầm kín và ấm áp trong ngõ ngách của tâm hồn con người. [A.II.37, tr.28] Lã Nguyên lạc quan: Giữa hai bờ chân, thiện, hướng tới cái đẹp, văn học đang dào dạt đổ về đại dương nhân bản mênh mông.[A.II.56] Bên cạnh đó, văn học khẳng định vị trí tối thượng của con người trong mọi cái thuộc về giá trị có trong cuộc sống. Cá nhân con người vừa là đối tượng nhận thức trung tâm, vừa là điểm xuất phát để văn học nhìn ra thế giới. Nó soi ngắm thế giới và định giá lịch sử qua lăng kính và mức thước của cá nhân con người. Nguyễn Minh Châu cho khuynh hướng lấy đời tư con người làm mảnh đất khám phá những quy luật vĩnh hằng của các giá trị nhân bản. Nguyễn Huy Thiệp tiêu biểu cho khuynh hướng lấy cá nhân con người làm đơn vị cân đo trạng thái nhân thế. [A.II.56, tr. 7] Như vậy, có thể nói, cảm hứng triết luận về con người trong văn học Việt Nam thời đổi mới, cụ thể truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000, nhìn chung được nhiều nhà nghiên cứu, phê bình đề cập hoặc chú ý nhấn mạnh nhưng chưa được đi sâu, tập trung nghiên cứu thành một công trình hoàn chỉnh, có hệ thống. Tiếp nhận từ những nhận định đó, luận văn đi sâu nghiên cứu về Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt Nam từ năm 1986-2000 qua những truyện ngắn tiêu biểu, tìm nhận những ý kiến, bàn luận, nhận thức, lý giải về con người của các nhà văn trên nhiều bình diện bề ngoài lẫn chiều sâu trong tâm hồn, trong tổng thể mối quan hệ của nó. 3. Phạm vi nghiên cứu Nghiên cứu Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn giai đoạn 1986- 2000, luận văn tập trung khảo sát 49 truyện ngắn đáng chú ý- những truyện ngắn mang đậm chất triết luận về con người, giúp nhận diện về con người trong dạng thái đa diện nhiều chiều của hôm nay. Có thể kể những truyện ngắn trong giai đoạn văn học 1986- 2000 của những tác giả tiêu biểu như Nguyễn Minh Châu, Nguyễn Huy Thiệp, Nguyễn Quang Thiều, Phạm Thị Hoài, Nguyễn Thị Thu Huệ, Dạ Ngân, và một số truyện ngắn đoạt giải trong các đợt thi truyện ngắn trên Tuần báo văn nghệ, Văn nghệ Quân đội. 4. Phương pháp nghiên cứu Trong luận văn chúng tôi vận dụng một số phương pháp sau: Phương pháp lịch sử- xã hội: Sự chuyển biến của văn học gắn với quá trình vận động đổi mới đang diễn ra đều khắp trên xã hội. Dưới sự tác động của hoàn cảnh xã hội; trên quan điểm lịch sử cụ thể, luận văn xem xét sự vận động và chuyển biến của văn học theo xu hướng tất yếu của nó, để từ đó cố gắng tiếp cận một cách đầy đủ nhất những quan điểm của tác giả về đời sống, xã hội, đặc biệt là về con người thể hiện trong tác phẩm. Phương pháp hệ thống được chú ý vận dụng trong việc khảo sát tác phẩm, hệ thống những yếu tố làm nổi bật vấn đề của luận văn theo từng luận điểm, giúp có được cái nhìn xuyên suốt. Phương pháp phân tích- tổng hợp được chúng tôi sử dụng rộng rãi trong luận văn. Đi từ việc khảo sát tác phẩm, phân tích những yếu tố nổi bật trong việc thể hiện cảm hứng nghệ thuật (như khám phá tâm lí nhân vật, lí giải hành động của nhân vật, ) rút ra những nhận xét có tính chất tổng hợp, khái quát, làm nổi rõ cảm hứng. 5. Ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu 5.1. Ý nghĩa khoa học Như đã nói, cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn thời đổi mới 1986- 2000 là một trong những cảm hứng chủ đạo của văn học thời kì đổi mới nhưng chưa được đi sâu nghiên cứu một cách tập trung. Luận văn sẽ đi vào khảo sát vấn đề này một cách hệ thống, cụ thể, góp phần làm sáng tỏ hơn trong việc nghiên cứu vấn đề này. 5.2. Ý nghĩa thực tiễn - Nhận thức lại con người trong văn học thời kì đổi mới, như là một cách nhìn cuộc sống trong những mối quan hệ bộn bề, phức tạp. Góp thêm tiếng nói, hướng về phía chiều sâu trong tâm hồn con người, để mà nhận diện con người của hôm nay. - Trong công tác giảng dạy ở nhà trường, luận văn hi vọng sẽ gợi ý được những hướng tiếp cận mới trong việc phân tích và giảng dạy tác phẩm văn học ở bậc phổ thông, bổ sung một góc nhìn mới về con người. 6. Kết cấu của luận văn Luận văn gồm ba chương và hai phần ( phần mở đầu và kết luận). Phần mở đầu: Nêu những vấn đề bao quát chung: Lý do chọn đề tài, lịch sử vấn đề, đối tượng và phạm vi nghiên cứu, phương pháp nghiên cứu, ý nghĩa khoa học và thực tiễn của đề tài nghiên cứu, kết cấu của luận văn. Chương 1: Những tiền đề nảy sinh cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000 1.1 Cảm hứng nghệ thuật 1.1.1. Khái niệm cảm hứng. 1.1.2. Các dạng cảm hứng và cảm hứng chủ đạo 1.1.3. Cảm hứng triết luận về con người trong văn học Việt Nam giai đoạn 1986-2000 1.2 Những tiền đề cho sự nảy sinh cảm hứng nghệ thuật trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000. 1.2.1. Sự quan tâm tới yếu tố con người trong đời sống chính trị, xã hội Việt Nam sau 1975 1.2.2. Sự thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người trong văn học Việt Nam Chương 2: Cảm hứng triết luận với sự nhận diện con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000. 2.1. Con người với đời sống xã hội. 2.1.1. Con người trong cuộc sống đời thường . 2.1.2. Con người với chuẩn mực đạo đức văn hóa. 2.2. Con người với thiên nhiên 2.2.1. Thiên nhiên tác động đến đời sống con người 2.2.2. Thiên nhiên làm phong phú nội tâm và khơi gợi khát vọng hướng thiện 2.2.3. Con người phải gìn giữ và sống hoà hợp với thiên nhiên 2.3. Con người hướng vào đời sống bên trong 2.3.1. Dấu vết chiến tranh với niềm đau day dứt 2.3.2. Hạnh phúc và những khắc khoải kiếm tìm 2.3.3. Sự hữu hạn của mỗi người trước thời gian đời người Chương 3: Giọng điệu nghệ thuật của cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986-2000. 3.1. Giọng trăn trở, day dứt. 3.2. Giọng thương xót, ngậm ngùi. 3.3. Giọng suy tư, triết lí . Kết luận Thư mục tham khảo

pdf113 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2523 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt nam giai đoạn 1986 - 2000, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
khẳng định một tiếng nói dịu, mềm mà mạnh mẽ của con người đối với con người. Nó giúp lí giải và nhận diện con người thêm sâu sắc. 3.2. Giọng đau xót, ngậm ngùi. Có thể thấy giọng văn này đặc biệt hướng đến những số phận, những cuộc đời đau khổ, nhất là những con người trong chiến tranh, bước ra từ chiến tranh, trở về với cuộc sống đời thường; hướng đến những hi sinh, mất mát khó hoặc không thể bù đắp nổi của con người trong và sau chiến tranh; hướng đến những oan khiên, bẽ bàng mà con người phải chịu, nhưng không phải do mình gây ra,… Đó cũng chính là sự lí giải, chiêm nghiệm về con người, về cuộc đời và là cái nhìn nhân văn của văn học, của nhà văn, của con người đối với từng số phận con người trong cuộc sống nhiều đa đoan này. Trở về với hòa bình, đắm mình trong nỗi lo về một căn bệnh chất độc hóa học, người lính trong Dây neo trần gian chua xót, ngậm ngùi khi nghĩ về cái chết: “Sắp tới tôi sẽ tan biến như hạt bụi- một trong số mười hai. Hay là em viết chút gì đi. Một chút để đánh dấu mười hai người lính chúng tôi. Năm người đã trở về với hòa bình để rồi lần lượt nằm vào cái huyệt đã đào sẳn cho mình trong chiến tranh từ mười mấy năm về trước?!” [B.7, tr. 35]. Lời tỏ bày trực tiếp của nhân vật thể hiện một cách thành thật nhất nỗi ưu tư của con người trước vấn đề trực cảm, gợi lên nỗi buồn nhiều hơn niềm vui trong cuộc sống này. Người vợ trong Con Gấu của Nguyễn Quang Huy, sau khi đã rời bỏ mái nhà nghèo và người chồng bệnh tật, tìm một hạnh phúc khác, chị nhân ra ảo vọng và đau xót: “Một nỗi buồn cứ từ từ dâng lên, đầy ắp trong nàng, rồi những giọt nước mắt lần lượt ứa ra, nhỏ xuống bát cơm của con Gấu… Con Gấu làm nàng nghĩ đến chủ của nó, và thân phận mình. Cứ thế, nàng lặng lẽ khóc…” [B.14, tr. 111]. Bằng lời văn nửa trực tiếp, tác giả đi từ điểm nhìn bên ngoài và mỗi lúc mỗi xoáy sâu vào nội tâm nhân vật, đưa người đọc có cùng cảm xúc của nhân vật, hằn một nỗi xót xa, cay đắng về trước lẽ đời, trước tình người. Đôi khi nỗi chua xót, ngậm ngùi không được thể hiện trực tiếp qua từ ngữ, câu văn thể hiện tâm trạng nhân vật mà chỉ biểu lộ qua nét mặt, cử chỉ. Bằng lối này, với lời văn nửa trực tiếp, nhà văn đã tái hiện lại rất cảm động hình ảnh người cha (Người ở bến sông Châu- Sương Nguyệt Minh) câm lặng trước sự không quay về của đứa con gái, như là không thể khác, ông lặng lẽ “làm cái việc chưa từng có trên đời là chở người yêu cũ của con gái mình đi lấy vợ. Mặt ông không để lộ niềm vui hay nỗi buồn. Nhìn vào mắt ông thấy cồn cào như có sóng. Chỉ đến khi người cuối cùng của đám rước lên bến, ông mới vội lén lấy tay áo quệt nước mắt. Ông bỏ lên lều cỏ nằm” [B.21, tr. 335]. Trong Cỏ lau, để thể hiện tâm trạng, những suy tư trong tâm hồn nhân vật, nhà văn Nguyễn Minh Châu dùng hình thức đan xen, hòa trộn giữa các giọng văn nhằm khắc họa nỗi thao thức, ngậm ngùi cứ ứ đọng mãi, không biết đến bao giờ mới vơi của nhân vật Lực. Nhất là khi đi bên người vợ cũ, anh cảm thấy lòng ngậm ngùi, một cái gì rất sâu, đằm lại phía bên trong, không thể tỏ bày khiến nội tâm nhân vật thêm sâu sắc: “Tôi cầm tay Thai dắt quay trở lại. Tôi nhìn đăm đăm ngọn đèn của gia đình ai vừa thắp trong ngôi nhà đất của những người đi khái hoang. Tôi đi sát vào Thai, tìm lại hơi thở cũ, hơi hướng cũ, tìm lại một chỗ trú nấp cho linh hồn mình, vẫn biết một cách đau đớn rằng cuộc sống đã an bài, Thai chẳng dễ thay đổi được hoàn cảnh. Và rồi cuối cùng giữa những hình người đàn bà bằng đá đầy cô đơn giữa trời xanh đứng nhìn xuống một vùng thung lũng đất đai được tưới bón đã trở nên phì nhiêu, có một người lính già sống suốt đời ở đấy cùng với một ông bố, trồng sắn trên một vạt đất có một ngôi mộ, thỉnh thoảng một mình chèo một chiếc thuyền gỗ xuôi sông Đồng Vôi về làng chơi” [B.3, tr. 95]. Ở một đoạn khác, vẫn là nỗi niềm của Lực: “Chiến tranh, kháng chiến, không phải như một số người khác, đến bây giờ tôi không hề mảy may hối tiếc đã dốc tất cả vào đấy cống hiến cho nó, nhưng nó như một nhát dao phạt ngang mà hai nửa cuộc đời tôi bị chặt lìa thật khó gắm lại như cũ. Nhưng đau hơn là hai nửa cuộc đời tôi không bị cắt lìa hẳn. Ông già tôi đã đi qua nỗi mất mát từ bao nhiêu năm nay; giờ ông già tôi đã quên hẳn tôi. Thai cũng vậy, giờ Thai cũng đã có một cuộc đời khác, một người chồng khác với một lũ con cái, nỗi đau khổ ghê gớm vì mất tôi cũng đã qua từ lâu. Vậy cho nên đáng lẽ chỉ còn là một kỉ niệm về người đã khuất, việc tôi đang còn sống đối với gia đình riêng của Thai hiện tại sao bao nhiêu năm vất vả chả khác nào một điềm hăm dọa, tôi chẳng khác nào một người khách đến không đúng lúc. Tôi chỉ làm rối thêm cuộc sống, tôi chỉ quấy rầy số phận đã an bài” [B.3, tr. 24, 25].”Và cuối cùng tôi vẫn chỉ là một người khách lạ- của cái cuộc sống luôn luôn biến động nhưng bao giờ cũng luôn được sắp xếp xong đâu đấy” [B.3, tr. 25]. Ở đây giọng ngậm ngùi đan xen giọng day dứt, dằn vặt nhấn mạnh những suy tư, trăn trở thường trực bên trong tâm hồn nhân vật. Lời nhân vật tỏ bày trực tiếp lồng trong lời gián tiếp của người kể chuyện , miên man suốt một đoạn văn dài nghe ra như một lời trần tình cùng người đọc, mong tìm một sự thấu hiểu, chia sẻ, cảm thông. Cũng vậy, trong Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã để cho nhân vật tữ nói lên cái trạng thái nội tâm của mình. Đây cũng chính là bước rút ngắn khoảng cách giữa tác giả với nhân vật. Sau khi người yêu mất đi, Quỳ mới nhận ra “thực sự tình yêu nó là cái gì. Tôi nằm im mà tâm hồn tôi vật vã. Hình như đến bây giờ tôi mới thực sự yêu anh ấy. Đến bây giờ tôi mới hiểu được trong tất cả mọi sự mất mát, thì mất một con người là không có gì bù đắp được, không sao lấy lại được. (…). Tôi chỉ cần anh ấy. Tôi chỉ cần có anh ấy bằng xương bằng thịt, bên cạnh tôi. Trong lúc mọi người bàn tán, thương tiếc, kể ra bao nhiêu công đức, thànhtích và nết tốt của anh ấy thì tôi, tôi chỉ nghĩ đến những nết xấuc ủa anh ấy. Vì chỉ có nghĩ đến những tật xấu thì anh ấy mới hiện ra và đi về phía tôi, xích lại gần với tôi, như là một con người thật, bằng xương bằng thịt. Nhưng dù sao thì cũng là đánh lừa mình. Anh ấy chết rồi còn đâu?” [B.5, tr. 107]. Lời trần tình của nhân vật được bộc lộ trực tiếp qua lời nhân vật Quỳ tỏ bày cùng một người bạn, cũng là một bệnh nhân đang nằm viện, nghe như lời thủ thỉ thâm trầm với chính mình khi hồi tưởng lại quá khứ, tưởng như nhân vật đang đang trực diện với chính nó, cái biến cố lớn nhất trong đời luôn khuấy động tâm tư của chị. Lắng lại một chút, ta thấy có sự đan xen nhiều giọng: giọng trăn trở, day dứt, giọng xót xa, ngậm ngùi lẫn triết lí, suy tư, khắc sâu tâm trạng bất an và cái nhiều nỗi trong tình cảnh của người trong cuộc. Người mẹ (trong “Người của mỗi người” của Dạ Ngân) thân cò nuôi con, nhưng khi con cái lớn lên, dựng vợ gả chồng cho chúng xong, mẹ hóa thành của nợ. Bà ngậm ngùi, cả cái ngậm ngùi cũng trong nỗi lặng lẽ: “Hóa ra khi đứa con còn nhỏ, mẹ là cái cây tỏa bóng, lớn chút nữa, mẹ là quả ngọt, là chỗ dựa tin cậy. Khi hết đời cây bóng thành chướng ngại và cuối cùng chúng chỉ muốn bứng đi cho rảnh nợ” [B.19, tr.366). Giọng ngậm ngùi lẫn nỗi chua xót về cái quy luật nước mắt chảy xuôi được nhà văn Dạ Ngân thể hiện qua lời nửa trực tiếp. Ở lời văn này, tâm tư, tình cảm của tác giả hướng hếtt về nhân vật người mẹ trong truyện, làm trào lên nỗi đau đớn, xót xa. Và một nỗi đau xót khôn cùng, làm se thắt cả lòng người, khi người mẹ đau khổ ấy đã nhoái nhoài ngã xuống dòng nước, để cho nước cuốn trôi đi. Một nỗi đau đớn lẫn chua xót, bẽ bàng: “Chắc lâu lắm các con bà mới hay tin, tin về “một bà già sơ ý đã té phà vì chóng mặt”. Chắc họ sẽ thắp hương, sẽ tấm tức khóc và sẽ tiếc vì không “vớt được xác má để xây cho má một cái một thật kiên cố”?” [B.19, tr. 375]. Lời văn trần thuật của người đứng phía bên ngoài, nhưng rất gần với nhân vật, soi chiếu ánh nhìn vào nhân vật, vào hoàn cảnh bi đát mà không cách nào né tránh. Đoạn văn là lời nửa trực tiếp, đầy sức ám ảnh. Khi mọi lí tưởng phấn đấu của con người bị dập phá bởi “phe đối lập”, cô Ba (Phía sau gương mặt người- Nguyễn Đức Thiện) không khỏi ngậm ngùi: “Chưa bao giờ cháu gặp hoàn cảnh này, và cũng chưa bao giờ thấy xung quanh mình, chỗ nào cũng thấy những mũi nhọn tấn công. Hồi quyết tử giữ quê hương cháu, cả Mĩ- ngụy là như vậy, nhưng chẳng thấy sợ. Còn bây giờ, không thấy địch, chỉ thấy ta, mà ngán quá chú Năm…” [B.26, tr. 229]. Ông Năm, vị chỉ huy quân sự, một thời trận mạc, cũng không ít những trăn trở, day dứt: “Ngày hòa bình, gặp nhau, ôm xiết nhau vào lòng, tưởng như không còn kẻ thù nào mà đối phó nữa. Không dè, bây giờ… ông sẽ phải làm một việc mình không hề muốn, đó là tấn công ngay vào những người trước đây là bạn, và sau này, khi cuộc ttấn công của ông thắng lợi thì vẫn phải coi họ là bạn của mình” [B.26, tr. 320]. Lời đối thoại trực tiếp của nhân vật cô Ba và nhân vật ông Năm tạo âm hưởng chung về một tâm trạng ngậm ngùi, và cả sự chán ngán của con người trước những éo le, phủ phàng của cuộc sống thời bình. Lắng nghe những lời bình dị, chân thành thốt lên từ nhân vật, để cho nhân vật trực tiếp nhìn nhận con người, cuộc sống, tính khách quan trong khái quát hiện thực của tác phẩm càng cao. Có thể thấy được tính bình đẳng trong quan hệ nhà văn- người đọc và nhân vật. Đấy cũng chính là một trong những đặc điểm nghệ thuật của văn học hôm nay. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp vẫn thường trao cho nhân vật chức năng trần thuật với tư cách là người trong cuộc. “Tướng về hưu” là một dẫn chứng. Giọng ngậm ngùi, đau xót chủ yếu toát ra từ lời của nhân vật Thuần (người kể chuyện xưng tôi), con trai của tướng Thuấn. Trước sự tính toán, thực dụng, phi nhân đến rợn người của cô con dâu bác sĩ, một vị tướng về hưu không sao chịu nổi. Một nỗi đau xót, ứ nghẹn dồn vào giọng nói, hành động, những chi tiết như thế là hiếm hoi trong sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp: “Cha tôi dắt tôi xuống bếp, chỉ vào nồi cám, trong đó thấy có các mẫu thai nhi bé xíu, thấy có cả những ngón tay nhỏ hồng hồng. Tôi lặng đi. Cha tôi khóc. Ông cầm phích đá ném vào đàn chó béc giê: “Khốn nạn! Tao không cần sự giàu có này” [B.29, tr. 27]. “Tôi thấy cô đơn quá. Các con tôi cũng cô đơn. Cả đám đánh bạc. Cả cha tôi nữa”. [B.29, tr. 33]. Nhân vật của Nguyễn Huy Thiệp thường thốt ra những lời thoại ngắn, nhưng thường có sức chứa lớn, đậm sắc thái tâm trạng. Hơn cả một nỗi đau xót, một sự triết lí, ông Thuấn về hưu, lặng lẽ, cô đơn, ông nuôi giữ một niềm tin và truyền nó lại cho người khác, cho cái cô Lài dở hơi, từ chính tình thương và niềm tin nguyên vẹn của người lính trong xót xa: “Con ơi, con không hiểu rằng cả tin chính là sức mạnh để sống hả con?” [B.29, tr. 39]. Và thường nỗi đau đớn, ngậm ngùi lẫn trong lời triết lí như một thuộc tính chất hai mặt của giọng điệu. Thuần trong Tướng về hưu đã bộc bạch tâm tư trong giọng như thế: “Tôi khóc, chưa bao giờ tôi khóc như thế. Bây giờ tôi mới hiểu khóc như cha chết là khóc thế nào. Hình như đấy là cái khóc lớn nhất đời một con người” [B.29, tr. 42]. Có thể thấy, giọng đau xót, ngậm ngùi ẩn trong những câu văn, đoạn văn dài, có sự kết hợp nhiều nhất của lời trực tiếp của nhân vật và lời gián tiếp của người kể chuyện, góp phần nhấn mạnh, làm rõ thêm sắc diện trong thế giới nội tâm con người. 3.3. Giọng suy tư, triết lí Có thể nói, đây là giọng điệu nghệ thuật đặc sắc trong cảm hứng triết luận về con người của truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986- 2000. Cái chất suy tư, triết lí về con người, về cuộc sống của hôm nay là tâm điểm hướng đến của nhà văn. Suy tư, chiêm nghiệm để mà nhận chân chân lí cuộc sống, luận giải về con người trong cuộc đời thường với nhiều khúc quanh, uẩn khúc, tìm ra cái gọi là bản thể người, để thấu hiểu, chia sẻ và được chia sẻ. Và để nâng lên cái thuộc về tầm ý nghĩa của sự sống- một trong những mục đích hướng đến của văn học. Những suy tư, triết lí về cuộc đời trong truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này thường hướng về nhân cách sống của con người, lí giải cho hành vi, lối sống của con người, cả phía chiều sâu thẳm của những tâm tư, tình cảm của con người. Giọng suy tư, triết lí thường mang tính đối mặt nhằm cọ xát với hiện thực con người và cuộc sống. Ở đây cái quan trọng không phải nhân vật là người như thế nào mà là cách nhìn, cách nghĩ của nó về con người và cuộc sống quanh mình ra sao. Trong Im lặng của Nguyễn Ngọc Tấn, nếm trải đã nhiều những cam go trong cuộc sống, nhân vật tôi nhìn nhận: “Có những mẫu đời trong cuộc sống hòa bình đã thách thức con người ta phải trả giá gấp trăm lần trong chiến tranh. Anh bạn tôi đang lao vào sự thách thức ấy mà anh không thể biết” [B.24, tr. 99]. Với tư cách là một người bạn, theo đúng nghĩa của nó, nhân vật tôi trực tiếp nói lên những suy nghĩ của mình như là lời chiêm nghiệm về lẽ sống, về thế thái nhân tình. Ở vị trí đó, anh đã mang đến cho người đọc, cho nhân vật Hải trong truyện một sự chuẩn bị, một tinh thần đối phó, một thái độ sống bình tĩnh. Bởi vì “khi một gã con trai, vì một sự xúc động quá mạnh nào đó, phải để rơi vài giọt nước mắt, thì lập tức sau đó gã sẽ tìm thấy ngay ở mình một sự hèn yếu. Lòng tự ái sẽ làm cho mắt gã nảy những tia uất ức, gã sẽ lao vào cuộc sống phá cho tan những gì làm cho gã thành kẻ yếu hèn. Có lẽ cũng vì thế mà trên trán những gã con trai cứ ngày ngày cứng cỏi, dày dạn hơn, bình tĩnh và trầm lặng hơn, để đến một ngày nào đó, không một cái gì có thể làm hoen mắt gã được nữa” [B.24, tr. 101]. Cách dùng lời trực tiếp của nhân vật ở đây thay cho lời của nhà văn có ý nghĩa khẳng định một cách khách quan hiện thực cuộc sống, tạo ra một thế cân bằng trong quan hệ của nhà văn và nhân vật. Trong Bên bờ những dòng chảy (Nguyễn Đình Tú), trước những đổi thay vô tận của dòng sông đời, con người (nhân vật tôi) chạnh lòng nghĩ về cõi mênh mông, xa vắng của một đời người: “Nước sông ở quê thì đỏ, ra đến biển lại xanh cũng như đời mỗi người là một dòng chảy nhỏ, khi ra đến biển lại hóa cái hư vô xanh thẳm trong cõi mênh mông vô cùng” [B.31, tr. 414]. Lời trực tiếp của nhân vật và lời gián tiếp của người kể chuyện nhập lại làm một, tưởng như lời đồng vọng của con người với con người trong cái miên man nghĩ về kiếp sống. Và một nhân vật đã nói hộ nhà văn về một hiện thực của cuộc sống: “Khi nghèo đói người ta thèm sự đủ đầy, khi còn vô danh thì người ta thích nổi tiếng, khi thấp cổ bé họng thì người ta nghĩ đến quyền lực. Con người xét cho cùng mục đích sống vẫn là đầy đủ về vật chất và được tôn vinh về tinh thần. Kẻ bất tài thường tự bào chữa cho mình, cho rằng mình thanh tịch, coi thường của cải phù vân, không thèm mơ tưởng đến công danh hão. Trong xã hội chỉ có ba loại người tài, đó là người giàu có, người nổi tiếng và người có quyền lực. Còn loại trí thức nhàng nhàng học được dăm ba chữ lại luôn tỏ ra mình đạo cốt phong vân” [B.31, tr. 419]. Với Mảnh vỡ của đàn ông, nhà văn Hồ Anh Thái lại đề cập đến một trạng thái khác trong đời sống tinh thần của con người: Đàn bà là mảnh vỡ của đàn ông. Cho nên họ cứ miên man, khắc khoải, cứ đau đáu đi tìm mảnh vỡ còn lại. Sự hoang vắng trong lòng người đàn bà là một trong những căn cơ của sự thiếu cân bằng trạng thái sống. Nó làm người ta hao gầy thể xác, hạn hẹp tình cảm, bùng cháy những khát khao, hoặc trở nên sa đọa, hư hỏng một cách sắc nhọn, hoặc yếu mềm, dễ lả,… Hồ Anh Thái đã có những nhân định triết lí một cách thấm thía: “Người đàn bà là mảnh vỡ của người đàn ông đã mất. Người thì cam chịu số kiếp của một mảnh vỡ, âm thầm ở nơi riêng khuất, dù vẫn day dẳng một ước mong tìm được mảnh vỡ khác để hàn gắn lại. Người thì làm mảnh vỡ lăn lê ra đường đi lối lại mà đâm mà cứa vào những bàn chân may mắn, trả thù cho số phận hẩm hiu của mình” [B.25, tr.143]. Nhận định này được đặt trong lời của nhân vật chính, lời của đứa con trai với mẹ, của người bạn với người bạn xóm giềng quen thân. Vì vậy, đó là lời chân thành, cảm động toát ra từ tình cảm của nhân vật. Câu văn mang triết lí thể hiện tính nhân văn. Giọng triết lí trong Đùa của tạo hóa của Phạm Hoa nổi rõ là cuộc đấu tranh muôn đời, không phân định thắng thua, cuộc đấu tranh từ âm thầm đến công khai giữa mẹ chồng và nàng dâu, như là một “mệnh đề” của tạo hóa: “Muôn đời như vậy. Mẹ chồng và nàng dâu, cuộc đùa dai của tạo hóa. Lúc vờ vịt, giả dối, lúc bùng nổ như bom, như đạn bắn. Cuộc giành giật ấy muôn năm không có thắng và không có bại” [B.9, tr. 147]. Đoạn văn ngắn nhưng chứa đựng lượng thông tin đủ cung cấp cho người đọc về cái quy luật bao đời nay, ẩn chứa khát vọng đổi thay trong lời văn nửa trực tiếp. Cũng có thể tìm thấy giọng điệu này trong những truyện ngắn Hậu thiên đường (Nguyễn Thị Thu Huệ), Giọt buồn Giáng sinh của Võ Thị Hảo, … với sự thay đổi linh hoạt của lời văn nghệ thuật. Đứng ở vị thế là một người chủ động chia sẻ với chồng tình cảnh của anh, tự đứng ra giải quyết cái tình thế éo le, ngang trái, nhân vật Niềm trong Dù phải sống ít hơn (Dạ Ngân) “vẫn đau đớn nghĩ: Từ lâu anh vẫn khao khát gặp lại cô ấy. Lạ thay đàn bà, trong một tấm lòng bao la, vẫn có những ngóc ngách chật hẹp đáng ra không nên có” [B.20, tr. 348]. Và khi Thịnh đoàn tụ cùng vợ con anh, Niềm “như kẻ mộng du giữa dòng ánh sáng tràn trề từ trên cao dội xuống. Vì ai mà mi cháy hết mình như vậy, bóng đèn ơi? Phải chăng vì thế mà đời sống của chúng ngắn ngủi?” [B.20, tr. 351]. Dòng ý thức của nhân vật được thể hiện trong dạng câu hỏi bật lên nghe thảng thốt. Chính trong những giờ khắc như vậy, sự chiêm nghiệm mới được vỡ ra. Đứng trước những nhiễu nhương của xã hội thời bình, cô Ba (Phía sau gương mặt người- Nguyễn Đức Thiện), con người của cách mạng, bày tỏ những nỗi niềm, vừa suy tư vừa triết lí, mà nghe ra cũng đằm sâu một nỗi trở trăn, thất vọng: “Thà như ngày xưa, hồi còn chiến tranh, thước đo ý chí của mỗi người tính bằng những lần lội qua bom đạn. Còn bây giờ con người không biết lội qua cái gì để người ta nhận ra mình, tin mình” [B.26, tr. 226]. Trải mình trong chiến tranh, bước ra khỏi những nghiệt ngã một thời mà ông Năm phải đối mặt trong hòa bình, ông nhận chân con người: “Cương vị với người thích cương vị giống như cái áo đẹp, giống như đồ trang sức. Khi lộ hết những cái đó ra thì họ trở lại đúng với con người bình thường. Mà con người bình thường phía sau gương mặt thánh thiện thế nào cũng phảng phất một chút quỷ. Ai cũng thế cả” [B.26, tr. 247]. Lời trực tiếp của nhân vật có ưu thế làm nổi bật lên tính cách của nhân vật thông qua cái nhìn của nhận vật đối với cuộc sống. Nó thể hiện con người cương trực, gần như luôn ở thế tiến công, minh bạch trong cách phân diện hai mặt trong một con người. Đây cũng chính là một trong những yếu tố làm nên nhân cách của con người. Tác phẩm Nguyễn Huy Thiệp nhiều chất triết lí. (Về phần này có nhiều ý kiến, nhận định về cái hay, cái dở trong triết lí của Nguyễn Huy Thiệp. Ở đây chỉ xin nêu lên những triết lí của nhà văn như là những giá trị, giúp nhận diện rõ hơn về con người và cuộc sống). Trong Những người thợ xẻ, lời của nhân vật Thục triết lí sâu sắc, thấm nhuần truyền thống văn hóa dân gian: “Nghĩa tình lại chuộc nghĩa tình. Vô sự với tạo hóa, trung thực đến đáy, dù có sống giữa bùn, chẳng sợ không xứng là người” [B.29, tr.184]. Hay như cách nói nghe từng trải của Bường: “Mày không nên đa cảm như thế. Cuộc đời còn cực lắm con ạ. Chúng ta phải làm kiệt sức để kiếm miếng ăn, đa cảm làm yếu người đi” [B.29, tr 159] và “Những nhạy cảm vô lối sẽ làm tan nát cuộc đời mày mất thôi” [B.29, tr 160]. Còn với nhân vật Ngọc đối mặt với những điều tưởng là quá sức so với độ tuổi của anh. Nên trong lời nhân vật có cái bộc trực của nỗi bức xúc trước hiện thực đang phơi bày ra, nhưng lại cũng không phủ nhận nó. “Tôi chỉ căm giận, căm giận những phù vân trong toàn bộ hoàn cảnh sống của thời đại tôi. Những giáo điều đạo đức bao giờ cũng giản dị, ngây ngô, buồn cười, sơ lược, thậm chí còn điểu giả nữa. Ác nhất là những giáo điều ấy đúng. Bởi nó cần. Nó là sợi xích tròng cổ để giữ hình ảnh tương đối về mỗi chúng ta. Nếu không sẽ là hủy diệt…” [B.29, tr 166, 167]. Đến như ông Bổng, con người không nhận lấy trách nhiệm về mình trong cuộc sống, phút lâm chung của người chị dâu, xúc động mà bật ra những lời mang ý nghĩa nhân sinh: “Chị ơi, chị có nhận ra em không?” Mẹ tôi bảo: “Có”. Lại hỏi: “Thế em là ai?” Mẹ tôi bảo: “Là người”. Ông Bổng khóc òa lên: “Thế là chị thương em nhất. Cả lành cả họ gọi em là đồ chó. Vợ em gọi em là đồ đểu. Thằng Tuân gọi em là đồ khốn nạn. Chỉ có chị gọi em là người” [B.29, tr. 30, 31]. Nhà văn Nguyễn Huy Thiệp thường hay đặt vào miệng nhân vật những câu triết lí nhiều khi rất đau đớn. Ví như cuộc đối thoại ngắn của hai đứa trẻ trong đám tang: “Cái Mi hỏi: “Sao chết đi qua đò cũng phải trả tiền? Sao lại cho tiền vào miệng bà?” Cái Vi bảo: “Đấy có phải ngậm miệng ăn tiền không bố?” (…) Cái Vi bảo: “Con hiểu đấy. Đời người cần không biết bao nhiêu là tiền. Chết cũng cần” [B.29, tr. 33]. Cái cách để nhân vật tự nói lên những suy nghĩ của mình về một hiện tượng trong đời sống là rất quen thuộc trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Nó xác định một vị thế của nhân vật hướng tới người đọc, và thực sự tác động rất ấn tượng tới người đọc bằng những lời trực tiếp trong những câu thoại ngắn mà có sức khái quát lớn, mang tính triết lí sâu sắc về lẽ đời, về tình người. Cuộc sống thường ngày với những vất vả, lo toan, với những tính toán khiến con người như thun lại. Nó quen thuộc đến nỗi Chương, nhân vật chính của truyện Con gái thủy thần cố gắng lắm cũng không sao thoát khỏi những gương mặt người đó: “Tôi cố nhớ lại khuôn mặt Mẹ Cả mà không nhớ được. Cứ nhắm mắt lại là thấy toàn mặt quen, tựa như mặt bà Hai Khởi vừa tròn vừa to, mũi trông như vỏ cam sần, hoặc như mặt chị Vĩnh, dài mà tai tái như dái trâu, như mặt cô Hỷ, đỏ như tôm luộc, mặt anh Dư, xương hàm bạnh ra như mặt ngựa. Chẳng có khuôn mặt nào đáng là mặt người. Mặt nào trông cũng thú vật, đầy nhục cảm, không đểu cáng, dối trá thì cũng nhăn nhúm, đau khổ” [B.29, tr. 108]. Sắc diện của con người được nhân vật trực tiếp nhận xét, suy ngẫm lên qua hàng loạt những tính từ mang lại ấn tượng đậm nét trong người đọc. Giọng triết lí pha lẫn nỗi cay đắng, chua xót làm bật lên nỗi khổ về kiếp người, vừa thương người, thương đời và cũng không vắng những nỗi buồn. Yếu tố này thường trở đi trở lại trong nhiều truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp. Như Thương nhớ đồng quê. Những nghĩ suy của Nhâm, người con trai mới bước vào tuổi mười bảy, được nhà văn ghi lại một cách trực tiếp, kết đọng trong bài thơ mang nhiều tính triết lí: “Tôi nghĩ về sự đơn giản của ngôn từ Sự bất lực của hình thức biểu đạt Mà nỗi nhọc nhằn đầy mặt đất Sự vô nghĩa trắng trợn đầy mặt đất Những số phận hiu hắt đầy mặt đất” [B.29, tr. 274] Để rồi trong dòng mạch của sự triết lí đó, vỡ ra nỗi đau đớn, chua xót: “Trăm năm lẫn lộn khóc cười Kiếp ếch kiếp người cay hỡi đắng cay…” [B.29, tr. 282] Thế giới được nhìn nhận từ sự thật bên trong của con người. Những sự thật bao nhiêu lâu nay hoặc bị giấu giếm hoặc bọc trong lớp vỏ đạo đức, văn hóa thì nay được lột trần một cách công khai, minh bạch từ phát ngôn của nhân vật. Nhưng dẫu sao cũng “cần phải sống, cho dù cuộc sống ngàn lần khốn nạn, đầy rẩy xấu xa cũng như cực nhọc” [B.29, tr 167], bởi cuộc sống là vô giá. Với cuộc sống đời thường sắc cạnh và cõi cằn, thì khi đến với thiên nhiên, con người sẽ cảm thấy nhẹ như không: “Tất cả những trò nhố nhăng đê tiện vấp phải hàng ngày hoàn toàn có thể rũ sạch bởi một cú nhảy của con sóc nhỏ trên cành dâu da” [B.29, tr. 90] (Muối của rừng). Câu văn dài trong lời nửa trực tiếp thể hiện hứng thú nghiên cứu đời sống, trình bày những trải nghiệm cùng thái độ tự tin đem lại giọng triết lí, chiêm nghiệm này. Nhân vật ông Diểu, người thợ săn đã có những cảm giác tuyệt vời khi săn ở rừng. Và trong cuộc đọ sức với thiên nhiên, với bầy khỉ, ông Diểu lại nhận ra cái điều tưởng giản đơn nhưng cũng thật thấm thía: “Với giống cái thì thân thể mình là quan trọng nhất. Điều ấy thật giản dị và đẹp. Nhưng điều ấy lại đầy xót xa” [B.29, 91]. “Hóa ra ở đời, trách nhiệm đè lên lưng mỗi sinh vật quả thật nặng nề” [B.29, tr. 100]. Triết lí trong văn hóa nông dân Việt Nam rất sâu sắc và cũng rất giản dị vì nó được rút ra từ cái gốc của một dân tộc. Như lời một bà mẹ già trong Những bài học nông thôn: “Thôi con ạ, mẹ mười đốt thì tám đốt quỷ, đốt rưỡi là ma, có nửa đốt là người. Nghe được tí nào thì nghe, không có cứ bỏ ngoài tai” [B.29, tr.199]. Trở lại với Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành, với lời trực tiếp của nhân vật mang chức năng trần thuật thể hiện con người với sức mạnh của cá tính như Quỳ, “đối với đám đàn ông, chỉ có thể hoặc là cướp đoạt lấy người ta hoặc bị người ta cướp đoạt, hoặc thống trị đàn ông, hoặc bị đàn ông thống trị thì mới yên ổn. Chứ khó có thể tìm đến với nhau bằng một thứ tình yêu thường tình được”, đã không làm sao có thể kìm nén được nỗi lòng không bình yên, luôn khát khao tìm kiếm. Cái trạng thái bất an đó, theo lời bộc bạch mang sắc màu chiêm nghiệm của nhân vật, chỉ có thể được khuôn lại trong trách nhiệm với cuộc đời: “Và rồi, tôi thầm phỏng đoán, suốt đời cho đến già sẽ là một cuộc săn tìm hư vô, trong con người sẽ luôn có ý thức của một phần ma quỷ nhập vào, và có lẽ, rồi cuối cùng chỉ có ý thức về trách nhiệm mới đánh chết cái ý thức ma quỷ bất trị đó” [B.5, tr. 87]. Đi qua hơn nửa đời người, buồn vui sướng khổ, được mất đã nhiều, Quỳ nhận ra: “Hóa ra cuộc sống từ bao đời nay đã là như thế, con người là một sự kết tinh của những thăng hoa; hóa ra thời nào cũng có những con người như anh ấy, tập trung trí tuệ và tài năng trác tuyệt của nhân dân; và mang trong lòng tất cả khát vọng cháy bỏng của nhân dân” [B.5, tr. 112]. Cái cách để cho nhân vật trực tiếp nói lên những cảm nhận mang tính triết lí về cuộc sống, khái quát hiện thực cuộc sống, có thể coi đấy là sở trường của nhà văn Nguyễn Minh Châu, góp phần thể hiện phong cách của nhà văn, đậm chất suy tư, giàu khả năng triết lí. Những vấn đề nhân sinh, thế sự như ý nghĩa cuộc đời, sự lựa chọn cách sống, kế mưu sinh, vấn đề lương tâm, đạo đức… được nhà văn quan tâm, bàn luận, trao đổi qua giọng điệu nghệ thuật này. Tất cả đều nhằm làm nổi rõ suy tư, trăn trở của con người, làm nổi rõ phận người. Đôi khi giọng triết lí chỉ là một câu thoại ngắn và không cần lời đáp. Như lời bà đồng trong Dây neo trần gian của Võ Thị Hảo:“Cô cũng chỉ là trong những con bướm sặc sỡ lượn chơi trên cõi đời này” [B.7, tr. 31]. Hay như Người của mỗi người (Dạ Ngân), người mẹ lặng lẽ chịu đựng mọi hành vi, lời nói nặng nề của con cái, cũng vì tình thương. Để rồi tác giả khái quát lên thành chân lí trong lời văn nửa trực tiếp: “Mọi cái lý trên đời, ngẫm ra, cái lý tình thương là mạnh hơn cả, vì nó người ta có thể thế này rồi cũng có thể thế kia” [B.19, tr. 357]. Ở giọng văn này, phần lớn các nhà văn sử dụng câu văn dài, và đặt trực tiếp vào lời của nhân vật, để cho nhân vật tự bộc bạch, tự nói lên những suy tư, những chiêm nghiệm nhất định về cuộc đời mà nhân vật trải qua. Bằng cách đó, chân lí cuộc sống cứ dần vỡ ra theo những tỏ bày của chính nhân vật, không phải là lời khẳng định đơn thuần của nhà văn. *TIỂU KẾT: Nhìn chung, truyện ngắn Việt Nam giai đoạn này nói riêng, văn học Việt Nam nói chung không chỉ có những chuyển biến trong cảm hứng nghệ thuật mà còn có những chuyển biến đáng chú ý về mặt nghệ thuật thể hiện. Trong đó có thể thấy sự kết hợp phong phú, đa dạng về giọng điệu: giọng trăn trở, day dứt; giọng thương sót, ngậm ngùi; giọng suy tư, triết lí. Giọng điệu góp phần khắc họa chân dung con người thêm toàn diện, sâu sắc, đặc biệt tạo ấn tượng xúc động bởi thế giới nội tâm con người, miên man và sâu thẳm. Truyện ngắn hôm nay vang vọng dư âm những giọng nói khác nhau của nhân vật, tạo nên sự phức điệu trong tác phẩm ngôn từ nghệ thuật. KẾT LUẬN 1. Chiến tranh đã đi qua, cuộc sống bất bình thường trở lại bình thường. Các nhà văn có đủ độ lùi nhất định để nhìn nhận con người trong đời sống hòa bình, cả trong chiến tranh với cái nhìn trầm tĩnh, toàn diện. Văn học, đặc biệt ở thể loại truyện ngắn có đủ điều kiện phát huy cao vai trò của nó. Mỗi truyện là một mảng đời sống khác nhau của thân phận con người. Hạnh phúc và khổ đau. Vinh quang và nghiệt ngã. Chiến thắng và mất mát. Khao khát và tuyệt vọng… Bởi số phận con người luôn là đề tài miêu tả của các nhà văn. Trong lịch sử phát triển văn học nhân loại, số phận con người đã được miêu tả với tất cả những khía cạnh tích cực và tiêu cực thấm đậm tinh thần nhân đạo và giá trị nhân văn. Ngày hôm nay, trong những biến động và sôi động của cuộc sống đời thường, mỗi người, dù là ai, người anh hùng, người trí thức, người dân bình thường, trong mỗi hoàn cảnh đều mang những nét tính cách riêng là đối tượng trung tâm để nhà văn khám phá, thể hiện. Tựu chung, từ sự thay đổi của hoàn cảnh xã hội làm thay đổi quan niệm nghệ thuật về con người, văn học giai đoạn này đã có cách tiếp cận và nhận diện con người ở những góc nhìn và cảm hứng khác nhau. 2. Với cảm hứng triết luận về con người, truyện ngắn Việt Nam giai đoạn 1986- 2000 xem xét, nhận thức con người ở nhiều bình diện, bề ngoài lẫn chiều sâu trong tâm hồn, trong nhiều mâu thuẫn, nhiều mối quan hệ phức tạp của cuộc sống. Mỗi nhà văn khai thác con người ở những góc độ khác nhau, con người hiện lên trang viết của các nhà văn với những nét tính cách, những hành vi đạo đức, những thái độ sống, những lựa chọn hành động, … phong phú, đa dạng, sinh động, mức độ nông sâu khác nhau mà lại hoàn toàn hợp nhất, tạo nên cái gọi là bản thể người. Điều này đưa đến cách tiếp cận đa diện, nhiều chiều về con người cá nhân trong cuộc sống đời thường hôm nay. 3. Từ sự nhận thức con người, như đã nói trên, nhà văn có sự lựa chọn phương thức thể hiện đa dạng, linh hoạt và phù hợp, giúp nhận diện con người thêm toàn diện, sâu sắc. Đặc sắc là giọng điệu nghệ thuật khá đa dạng. Ở mỗi góc nhìn, độ suy tư, lí giải về con người mà nhà văn có thể có giọng trăn trở, day dứt, giọng thương xót, ngậm ngùi hay giọng suy tư, triết lí về cuộc đời. Những sắc thái giọng điệu đó không tách rời nhau mà cùng trong sự tổng hòa biện chứng của giọng điệu nghệ thuật trong cảm hứng triết luận về con người. Truyện ngắn Việt Nam 1986- 2000 đằm thắm, tròn đầy một sức sống. Đứng ở ngưỡng hiện tại, sau mười năm nhìn lại, một phần tư cuối của thế kỉ XX, tất cả những vấn đề nhà văn đề cập góp một tiếng nói khẳng định thành tựu của truyện ngắn 1986- 2000 nói riêng và văn học giai đoạn này nói chung, khẳng định một đóng góp lớn của văn học vào kho tàng văn hóa dân tộc. 4. Cảm hứng triết luận về con người trong truyện ngắn Việt Nam hôm nay, thiết nghĩ, còn cần thêm nữa sức khái quát sâu, rộng trong tư duy nghệ thuật, ở cả phương diện văn học, mỹ học và triết học. Nó không dừng lại ở một giới hạn nào trong nhận thức về con người mà qua thời gian, qua mỗi bước đi của lịch sử, ánh nhìn nhân văn của nhà văn về con người mở ra thêm chiều kích mới, phức tạp, sâu sắc và vô cùng phong phú, tạp ra sức cuốn hút mạnh mẽ đối với người sáng tác và cả người tiếp nhận. THƯ MỤC THAM KHẢO A. SÁCH, BÁO THAM KHẢO I. SÁCH NGHIÊN CỨU, PHÊ BÌNH 1. Lại Nguyên Ân (2003), Sống với văn học cùng thời, Nxb Thanh niên. 2. Nguyễn Duy Bắc (2006), Cảm nhận về văn hóa, văn học trong hành trình đổi mới (Tiểu luận, phê bình), Nxb Văn hóa dân tộc- Hội văn học nghệ thuật Lạng Sơn. 3. Nguyễn Văn Dân (1999), Nghiên cứu văn học- lý luận và ứng dụng, Nxb giáo dục Hà Nội. 4. Lê Duẩn (1997), Xây dựng nền văn hóa mới, con người mới xã hội chủ nghĩa, Nxb Văn hóa, Hà Nội. 5. Đinh Xuân Dũng (2003), Hiện thực chiến tranh và sáng tạo văn học, Nxb Quân đội nhân dân. 6. Lê Tiến Dũng (2004), Nhà phê bình và cái roi ngựa (Phê bình,tiểu luận), Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 7. Đặng Anh Đào (2001), Đổi mới nghệ thuật tiểu thuyết phương Tây hiện đại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 8. Phan Cự Đệ (Chủ biên) (2004), Văn học Việt Nam thế kỉ XX, Nxb Giáo dục. 9. Phan Cự Đệ (2005), Văn học Việt Nam thế kỉ XX- những vấn đề lịch sử và lý luận, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Nhiều tác giả (2006), Văn học Việt Nam sau năm 1975- những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục. 11. Nhiều tác giả (1989), Truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp- tác phẩm và dư luận, Nxb Trẻ, Tp. Hồ Chí Minh. 12. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi sau Cách mạng tháng Tám, Nxb Hà Nội. 13. Nguyễn Văn Hạnh, Hùynh Như Phương (1999), Lí luận văn học,- vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục. 14. Hoàng Ngọc Hiến (2006), Văn học… gần và xa, Nxb Giáo dục. 15. Đỗ Đức Hiểu (2003), Đổi mới phê bình văn học, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 16. Đỗ Đức Hiểu (2000), Thi pháp hiện đại, Nxb Hội nhà văn. 17. Đào Duy Hiệp (2001), Thơ và truyện và cuộc đời (Phê bình- tiểu luận), Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 18. Đoàn Hương (2004), Văn luận, Nxb Văn học. 19. Lê Thị Hường (1995), Những đặc điểm cơ bản của truyện ngắn Việt Nam giai đọan 1975- 1995, Luận án PTS Khoa học Ngữ văn, Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn, Hà Nội. 20. Mai Hương (2001), Nguyễn Minh Châu toàn tập (tập 1), Nxb Văn học. 21. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm nghệ thuật về con người trong truyện ngắn Việt Nam 1975-2000, Nxb Đại học Quốc gia Tp. Hồ Chí Minh. 22. Truyện ngắn Ma Văn Kháng (tập 1) (2000), Lời giới thiệu (của Lã Nguyên), Nxb Thanh niên, Hà Nội. 23. M.B.Khrapchenkô (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 24. Phong Lê (1994), Văn học và công cuộc đổi mới, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 25. Phong Lê (1980), Văn xuôi Việt Nam trên con đường hiện thực xã hội chủ nghĩa, Nxb khoa học xã hội, Hà Nội. 26. Phương Lựu (Chủ biên) (1997) , Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 27. Nguyễn Văn Lưu (1999), Mấy vấn đề lí luận văn nghệ trong sự nghiệp đổi mới - Đổi mới văn học, quan niệm và thực tiễn, nxb Sự thật, Hà Nội. 28. Chu Giang Nguyễn văn Lưu (2004), Luận chiến văn chương, Nxb Văn học. 29. Lê Thành Nghị (2003), Văn học- sáng tạo và tiếp nhận, nxb Quân đội nhân dân. 30. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Tp. Hồ Chí Minh. 31. Vương Trí Nhàn (2001) (Tiểu luận, phê bình), Cánh bướm và đóa hướng dương, Nxb Văn Nghệ, Tp. Hồ Chí Minh. 32. Vương Trí Nhàn (2001), Nghiệp văn (Tiểu luận, phê bình), Nxb văn hóa thông tin, Hà Nội. 33. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2003), Tự sự học, một số vấn đề lí luận và lịch sử, Nxb Đại học Sư phạm Hà Nội. 34. Trường Đại học Sư phạm Hà Nội (2008), Kỉ yếu hội thảo khoa học tự sự học (lần 2), Hà Nội. 35. Khoa Ngữ văn Đại học Sư phạm Hà Nội (2001), Hợp tuyển công trình nghiên cứu, Nxb Giáo dục. 36. Bộ Chính trị Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng Sản Việt Nam (1987), Nghị quyết 05 về văn hóa, nghệ thuật. 37. Phan Diễm Phương (2000)- Lời giải bày của văn chương (Phê bình, tiểu luận), Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 38. G.N.Pôpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục. 39. Trần Đình Sử (1993), Thi pháp học (Giáo trình), Nxb Tp. Hồ Chí Minh. 40. Trần Đình Sử (2001), Văn học và thời gian, Nxb văn học Hà Nội. 41. Trần Đình Sử (2004), Tinh tuyển văn học Việt Nam (tập 8)- Văn học giai đọan 1945- 2000, Nxb Khoa học xã hội. 42. Hà Công Tài, Phan Diễm Phương (tuyển chọn và giới thiệu) (2004), Nguyễn Khải, về tác gia và tác phẩm, Nxb Giáo dục. 43. Ngô Thảo (2000), Văn học với đời sống- đời sống văn học ( Phê bình, tiểu luận), Nxb Văn học, Hà Nội. 44. Bùi Việt Thắng (2000), Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 45. Bùi Việt Thắng (2006), Truyện ngắn hay về chiến tranh- Ký ức về chiến tranh (thay lời giới thiệu), Nxb Văn học. 46. Xuân Thiều (2005), Tiếng nói cảm xúc (Tiểu luận, phê bình), Nxb Phụ nữ. 47. Phan Trọng Thưởng (2001), Văn chương tiến trình tác giả -tác phẩm, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 48. Phan Trọng Thưởng, Nguyễn Hữu Sơn, Trịnh Bá Đĩnh (Biên soạn và giới thiệu) (1999), Tuyển tập bốn mươi năm Tạp chí Văn học (1960-1999) (tâp 3- Văn học hiện đại), Nxb Tp. Hồ Chí Minh. 49. M.Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 50. Đinh Quang Tốn (1997), Tản mạn và chính kiến văn chương, Nxb Văn học, Hà Nội. 51. Đinh Quang Tốn (2006), Điều tâm đắc và điều bàn lại (Phê bình văn chương), Nxb Công an Nhân dân. 52. Lê Ngọc Trà (2007), Văn chương, thẩm mĩ và văn hóa, Nxb Giáo dục. 53. Hoàng Trinh (1998), Tuyển tập văn học, Nxb Hội nhà văn. 54. Hoàng Thị Văn (2001), Đặc trưng truyện ngắn Việt Nam từ 1975 đến đầu thập niên 90 (Luận án tiến sĩ), Trường ĐHSP T.p HCM. II. BÁO- TẠP CHÍ 1. Vũ Tuấn Anh (1991), Tư duy nghiên cứu văn học hiện đại trước yêu cầu đổi mới, Tạp chí văn học (5). 2. Vũ Tuấn Anh (1994), Những vấn đề của văn học hiện đại qua ba cuộc thảo luận, Tạp chí văn học (1). 3. Vũ Tuấn Anh (1995), Đổi mới văn học vì sự phát triển, Tạp chí văn học (4). 4. Vũ Tuấn Anh (1996), Quá trình văn học đương đại nhìn từ phương diện thể loại, Tạp chí văn học (9). 5. Lại Nguyên Ân (1986), Văn xuôi gần đây - diện mạo và vấn đề, Văn nghệ Quân đội (1). 6. Lại Nguyên Ân (1987), Sáng tác truyện ngắn gần đây của Nguyễn Minh Châu, Tạp chí văn học (3). 7. Lê Huy Bắc (1988), Giọng và giọng điệu trong văn xuôi hiện đại, Văn học (9). 8. Ngô Ngọc Bội (1987), Đổi mới tư duy là một cuộc cách mạng tự thân, Văn nghệ (5). 9. Ngô Ngọc Bội (1991), Con chó và vụ ly hôn (Tập truyện của Dạ Ngân, Nxb Hội nhà văn, 1990), Văn nghệ (42). 10. Phạm Khánh Cao (1990), Chiến lược con người và yêu cầu sáng tác, Văn nghệ (52). 11. Trần Cương (1995), Văn xuôi viết về nông thôn từ nửa sau những năm 80, Tạp chí văn học (4). 12. Hoàng Diệu (1988), Mấy ghi nhận từ đời sống văn học năm 1987, Văn nghệ Quân đội (4). 13. Đinh Xuân Dũng (1990), Đổi mới văn xuôi chiến tranh, Văn nghệ (51). 14. Đỗ Đức Dục (1990), Văn học và chiến lược con người, Tạp chí văn học (6). 15. Triều Dương (1989), Đánh giá đúng thực trạng văn học, bình tĩnh tiếp tục cọng cuộc đổi mới, Văn nghệ (41). 16. Trần Thanh Đạm (1989), Bàn thêm về vấn đề con người trong văn học, Văn nghệ (35). 17. Nguyễn Đăng (1998), Thời gian của người, triết lí và ánh sáng, Tạp chí văn học (2). 18. Trần Bạch Đằng (1988), Văn học Việt Nam và vấn đề con người trong chiến tranh, Văn nghệ Quân đội (7). 19. Phan Cự Đệ (1986), Mấy vấn đề lí luận của văn xuôi hiện nay, Tạp chí văn học (5). 20. Phan Cự Đệ (1989), Cần định hướng cho công cuộc đổi mới trong tư duy văn học, Tạp chí văn học (2). 21. Trung Trung Đỉnh (1993), Phạm hoa và tập truyện ngắn “Mỗi thời của họ”, Văn nghệ (25). 22. Trần Độ (1988), Văn nghệ cần tiếp tục đổi mới, Văn nghệ (46). 23. Trần Độ (1993), Cảm nhận về một nền văn nghệ mới đang ra đời, Văn nghệ (2). 24. Hà Minh Đức (2002), Những thành tựu của văn học Việt Nam trong thời kì đổi mới, Văn học (7). 25. Huyền Giang (1995), Có những quan niệm về con người cá nhân ở phương Đông không? Tạp chí văn học (6). 26. Trần Thanh Hà (2008), Một số tác phẩm văn xuôi Việt Nam hiện đại qua cái nhìn phân tâm học, Văn học nước ngoài (3). 27. Đặng Thị Hạnh (1990), Đứa trẻ và thành phố (Đọc “Thiên sứ” của Phạm Thị Hoài), Tạp chí văn học (4). 28. Nguyễn Văn Hạnh (1987), Văn học trên con đường đổi mới, Văn học (4). 29. Nguyễn Văn Hạnh (1987), Đổi mới tư duy, khẳng định sự thật trong văn học nghệ thuật, Văn học (2). 30. Nguyễn Văn Hạnh (1993), Nguyễn Minh Châu những năm 80 và cách nhìn về con người, Tạp chí văn học (3). 31. Nguyễn Thị Thúy Hằng (2008), Cái hài và bi kịch người trí thức trong truyện ngắn “ Vũ điệu của cái bô”, (4) 32. Hoàng Ngọc Hiến (1998), Văn học và tác dụng chiều sâu trong việc xây dựng nhân cách văn hóa con người, Tạp chí văn học (6). 33. Nguyễn Hòa (1989), Suy nghĩ về vấn đề con người trong văn học viết về chiến tranh, Văn nghệ (51). 34. Nguyễn Thị Huệ (1998), Tư duy mới về nghệ thuật trong sáng tác của Ma Văn Kháng những năm 80, Tạp chí văn học (2). 35. Các nhà văn trả lời phỏng vấn về chiến tranh, về đề tài chiến tranh trong văn học (1987), Văn nghệ Quân đội (3). 36. Nguyễn Văn Huyên (1990), Mấy vấn đề của sáng tạo nghệ thuật hiện nay, Văn nghệ (43). 37. Mai Hương (1993), Nhìn lại văn xuôi 1992, Văn học (3). 38. Diệu Hường (2008), Một góc nhỏ văn chương Hồ Anh Thái, Văn nghệ (12). 39. Lê Thị Hường (1994), Quan niệm con người cô đơn trong truyện ngắn hôm nay, Tạp chí văn học (2). 40. Lê Thị Hường (1995), Các kiểu kết thúc của truyện ngắn hôm nay, Tạp chí văn học (4). 41. Nguyễn Khải (1984), Văn xuôi trước yêu cầu cuộc sống mới, Văn nghệ Quân đội (1). 42. Đỗ Văn Khang (1990), “Bước qua lời nguyền” và văn học “sám hối”, Văn nghệ (32). 43. Tương Lai (1985), Sự hình thành con người mới và đối tượng văn học, Tạp chí văn học (1). 44. Cao Kim Lan (2007), Lịch sử trong truyện ngắn Nguyễn Huy Thiệp và dấu vết của hệ hình thi pháp hậu hiện đại, Nghiên cứu văn học (12). 45. Tôn Phương Lan (1994), Chiến tranh qua những tác phẩm văn xuôi được giải, Tạp chí văn học (12). 46. Tôn Phương Lan (1996), Tìm hiểu tư tưởng nghệ thuật của Nguyễn Minh Châu qua quan niệm nghệ thuật về con người, Tạp chí văn học (4). 47. Phong Lê (1986), Con người mới và nhân vật tích cực- Mục tiêu theo đuổi và nhận diện của chúng ta, Tạp chí văn học (1). 48. Phong Lê (1988), Văn học và đời sống- hôm qua và hôm nay, Tạp chí văn học (1). 49. Phong Lê (1988), Cái bình thường và cái không bình thường trong đời sống văn học chúng ta hôm nay, Văn nghệ Quân đội (3). 50. Phạm Quang Long (1996), Thái độ Nguyễn Minh Châu đối với con người: niềm tin pha lẫn lo âu, Tạp chí văn học (9). 51. Phương Lựu (2008), Suy nghĩ bước đầu về văn học với tôn giáo, Nhà văn (4). 52. Ban chấp hành hội nhà văn Việt Nam (1990), Tình hình văn học hiện nay, Văn nghệ (30). 53. Phạm Thị Thanh Nga (2008), Yếu tố kì ảo trong truyện ngắn Việt Nam sau 1975, Nghiên cứu văn học (5). 54. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi sau 1975- Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí văn học (4). 55. Lã Nguyên (1989), Văn học Việt Nam trong bước ngoặt chuyển mình, Văn nghệ (45). 56. Lã Nguyên (1989), Nguyễn Minh Châu và những trăn trở đổi mới trong tư duy nghệ thuật, Tạp chí văn học (2). 57. Lã Nguyên (2007), Những dấu hiệu của chủ nghĩa hậu hiện đại trong văn học Việt Nam qua sáng tác của Nguyễn Huy Thiệp và Phạm Thị Hoài, Nghiên cứu văn học (12). 58. Phạm Xuân Nguyên (1988), Bàn về chuyện đổi mới trong văn học, Văn nghệ quân đội (7). 59. Phạm Xuân Nguyên (1992), Văn học hôm nay có gì mới, Văn học (6). 60. Phạm Xuân Nguyên (1994), Nguyễn Minh Châu trên sự yên tĩnh đời đời, Tạp chí văn học (12). 61. Phạm Xuân Nguyên (1994), Truyện ngắn và cuộc sống hôm nay, Tạp chí văn học (2). 62. Vương Trí Nhàn (1988), Sự cần thiết của văn học, Văn nghệ (28). 63. Phùng Quý Nhâm (1998), Tinh thần phân tích tâm linh, một đặc trưng của chủ nghĩa hiện thực, Tạp chí văn học (4). 64. Mai Thị Nhung (2008), Giọng điệu nghệ thuật trong tiểu thuyết thời đổi mới của Ma Văn Kháng, Nghiên cứu văn học (10). 65. Đỗ Hữu Phê (1989), Sáng tạo nghệ thuật, hiện thực, con người, Tạp chí văn học (6). 66. Huỳnh Như Phương (1986), Đọc “Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành”, Văn nghệ (32). 67. Huỳnh Như Phương (1991), Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học, Tạp chí văn học (4). 68. Huỳnh Như Phương (1993), Văn học đang nhìn lại chính mình, Tạp chí văn học (1). 69. Phạm Thị Phương (1998), Tìm hiểu tính cách nhân vật qua kết cấu truyện ngắn, Tạp chí văn học (4). 70. Phan Thị Diễm Phương (1990), Cảm nghĩ về truyện ngắn Nguyễn Quang Lập, Tạp chí văn học (4). 71. Trương Hồng Quang, Nguyễn Mai Xuân (1989), “Vàng lửa” của Nguyễn Huy Thiệp, “Triết học lịch sử” hay “văn xuôi nghệ thuật”, Tạp chí văn học (2). 72. Tô Huy Rứa (2008), Tiếp tục xây dựng và phát triển văn học nghệ thuật Việt Nam trong tình hình mới (Đưa Nghị quyết Đạii hội X của Đảng vào cuộc sống), Tạp chí Cộng sản (790). 73. Nguyễn Hương Tâm (1994), Văn học khái luận- nhìn từ hôm nay, Tạp chí văn học (5). 74. Bùi Việt Thắng (1981), Nghĩ về truyện ngắn của một số cây bút trẻ Quân đội, Văn nghệ Quân đội (3). 75. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm con người, Tạp chí văn học (6). 76. Bùi Việt Thắng (1994), Vấn đề tình huống trong truyện ngắn Nguyễn Minh Châu, Tạp chí văn học (2). 77. Nguyễn Ngọc Thiện (1996), Động lực lớn trong thời kì mới của lý luận phê bình, nghiên cứu văn học, Tạp chí văn học (9). 78. Vương Anh Tuấn (1989), Lịch sử trong quan niệm Nguyễn Huy Thiệp, Tạp chí văn học (3). 79. Bích Thu (1995), Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau năm 1975 qua hệ thống môtip chủ đề, Văn học (4). 80. Bích Thu (1996), Những thành tựu của tuyện ngắn sau 1975, Văn học (9). 81. Phan Trọng Thưởng (1998), Một cái nhìn bổ sung để nhận diện con người mới giai đoạn hiện nay, Tạp chí văn học (1). 82. Lê Ngọc Trà (1990), Vấn đề con người trong văn học hiện nay, Văn học (1). 83. Lê Ngọc Trà (2002), Văn học Việt Nam những năm đầu đổi mới, Văn học (2). 84. Ngọc Trai (1987), Sự khám phá về con người Việt Nam qua truyện ngắn, Văn nghệ Quân đội (10). 85. Bùi Thanh Truyền (2008), Song đề truyền thống- hiện đại trong điểm nhìn nghệ thuật của truyện giả cổ tích và truyện cũ viết lại thời đổi mới, Tạp chí nghiên cứu văn học (2). 86. Hà Xuân Trường (1991), Có sự đổi mới thật sự trong văn học, Văn nghệ (49). 87. Nguyễn Xuân Trường (1987), Văn học nghệ thuật trong đổi mới tư duy, Văn nghệ (1). 88. Phùng Văn Tửu (1996), Một phương diện của truyện ngắn, Tạp chí văn học (2). 89. Phùng Văn Tửu (1997), Từ cuộc đời đến văn chương, Tạp chí văn học (7). B. TRUYỆN NGẮN 1986- 2000 (Những truyện ngắn được khảo sát trong luận văn) 1. Y Ban (2007), Thư gửi mẹ Âu Cơ- Văn nghệ Quân đội- Tuyển chọn truyện ngắn được giải, Nxb Văn học. 2. Như Bình (2001), Hoa mua trắng- Mười năm truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 1991- 2000, Nxb Văn học. 3. Nguyễn Minh Châu (1994), Cỏ lau, Mùa trái cóc ở miền Nam- Cỏ lau (tập truyện), Nxb Văn học. 4. Nguyễn Minh Châu (2001), Lũ trẻ ở dãy K, Dấu vết nghề nghiệp, Bến quê, Chiếc thuyền ngoài xa- Nguyễn Minh Châu toàn tập (tập 3)(Mai Hương sưu tầm, biên soạn và giới thiệu), Nxb Văn học. 5. Nguyễn Minh Châu (2002), Người đàn bà trên chuyến tàu tốc hành- Truyện ngắn Minh Châu, tác phẩm và dư luận, Nxb Văn học. 6. Trần Thanh Hà (2006), Miền cỏ hoang- Giải nhất truyện ngắn (Sương Nguyệt Minh biên soạn), Nxb Công an Nhân dân. 7. Võ Thị Hảo (2001), Dây neo trần gian- Mười năm truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 1991-2000, Nxb Văn học. 8. Võ Thị Hảo (1995), Giọt buồn Giáng sinh- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác giả nữ, Nxb Hội nhà văn. 9. Phạm Hoa (2008), Đùa của tạo hóa- Nợ trần gian (tập truyện), Nxb Hội nhà văn. 10. Phạm Thị Hoài (1995), Năm ngày- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác giả nữ, Nxb Hội nhà văn. 11. Vũ Hồng (2001), Tiếng chuông trôi trên sông- Mười năm truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 1991- 2000, Nxb Văn học. 12. Nguyễn Thị Thu Huệ (1994), Hậu thiên đường- Bến trần gian (Tập truyện ngắn chọn lọc cuộc thi tạp chí Văn nghệ quân đội), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 13. Nguyễn Thị Thu Huệ (1995), Một nửa cuộc đời- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác giả nữ, Nxb Hội nhà văn. 14. Nguyễn Quang Huy (1994), Con gấu- Bến trần gian (tập truyện), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 15. Trầm Hương (1994), Chỗ dựa- Hồi ức binh nhì, Nhà xuất bản quân đội Nhân dân, Hà Nội 16. Trần Thùy Mai (2000), Trò chơi cấm- Truyện ngắn hay Việt Nam (tập 4), Nxb Hội nhà văn. 17. Lưu Sơn Minh (1994), Tiếng vạc sành- Bến trần gian (Tập truyện), Nxb Quân đội nhân dân, Hà Nội. 18. Sương Nguyệt Minh (2001), Người ở bến sông Châu- Mười năm truyện ngắn Văn nghệ Quân đội 1991- 2000, Nxb Văn học, Hà Nội. 19. Dạ Ngân (1995), Người của mỗi người- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác giả nữ, Nxb Hội nhà văn. 20. Dạ Ngân (1995), Dù phải sống ít hơn- Truyện ngắn chọn lọc mười bốn tác giả nữ, Nxb Hội nhà Văn. 21. Khánh Nhân (1994), Ngày hội- Hồi ức binh nhì (Tập truyện), Nxb Văn nghệ Quân đội. 22. Hiền Phương (2006), Tiếng rừng- Truyện ngắn hay về chiến tranh, Nxb Văn học. 23. Hoàng Đình Quang (1994), Những người thọ nạn- Hồi ức binh nhì (Tập truyện), Nxb Văn nghệ Quân đội. 24. Nguyễn Ngọc Tấn (2006), Im lặng- Truyện ngắn hay chiến tranh (Bùi Việt Thắng tuyển chọn, giới thiệu), Nxb Văn học. 25. Hồ Anh Thái (2006), Mảnh vỡ của đàn ông- Truyện ngắn hay về chiến tranh, Nxb Văn học. 26. Nguyễn Đức Thiện (2006), Phía sau gương mặt người- Giải nhất truyện ngắn (Sương Nguyệt Minh biên soạn), Nxb Công an Nhân dân. 27. Nguyễn Quang Thiều (1997), Mùa hoa cải bên sông- Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều, Nxb Văn học. 28. Nguyễn Quang Thiều (1994), Hai người đàn bà xóm Trại- Hồi ức binh nhì (Tập truyện), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 29. Nguyễn Huy Thiệp (2001), Đời thế mà vui, Huyền thoại phố phường, Con gái thủy thần, Những người thợ xẻ, Muối của rừng, Thương nhớ đồng quê, Những bài học nông thôn, Những ngọn gió Hua Tát, Không có vua, Tướng về hưu, Chảy đi sông ơi- Tuyển tập Nguyễn Huy Thiệp, Nxb Phụ nữ. 30. Phạm Ngọc Tiến (2007), Chạy trốn- Văn nghệ Quân đội- Tuyển chọn truyện ngắn đoạt giải, Nxb Văn học. 31. Nguyễn Đình Tú (2007), Bên bờ những dòng chảy- Văn nghệ Quân đội- Tuyển chọn truyện ngắn đoạt giải, Nxb Văn học. 32. Nguyễn Thế Tường (1994), Hồi ức của một binh nhì - Hồi ức binh nhì (Tập truyện), Nxb Quân đội Nhân dân, Hà Nội. 33. Lương Hiệu Vui (1994 ), Gặp gỡ- Hồi ức binh nhì (Tập truyện), Nhà xuất bản Quân đội Nhân dân, Hà Nội.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHLLVH021.pdf