Luận văn Chính sách tín dụng của Hàn Quốc

Hàn Quốc là một trong những quốc gia đã thực hiện công nghiệp hoá rất thành công trong những điều kiện xuất phát điểm thấp về mặt nguồn lực. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá của Hàn Quốc đó là do chính phủ đã sử dụng các công cụ chính sách phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá có hiệu quả mà trong đó chính sách tín dụng đóng vai trò quan trọng. Luận văn đã khẳng định sự cần thiết khách quan và vai trò quan trọng của chính phủ đối với việc định hướng, tạo nguồn lực và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hoá và luận giải vai trò của chính sách tín dụng như là một công cụ có hiệu quả mà chính phủ có thể sử dụng phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế. Luận văn cũng đã tập trung phân tích làm rõ thực chất của chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong từng giai đoạn của thời kỳ công nghiệp hoá và những tác động tích cực cũng như những hậu quả xấu của nó đôí với quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc nói chung và đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là những tổ chức được lựa chọn để thực hiện kế hoạch công nghiệp hoá của chính phủ và được hưởng những ưu đãi về tín dụng. Nguyên nhân của cơ bản của thành công của chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc là do nhà nước đã thực hiện được vai trò của mình trong quản lý kinh tế bằng việc tạo dựng được môi trường cạnh tranh cho các tổ chức kinh doanh là đối tượng được hưởng các ưu đãi tín dụng, duy trì được sự giám sát của chính phủ thông qua hệ thống ngân hàng và phối hợp tốt giữa chính sách tín dụng với các chính sách khác, chính phủ cùng chie sẻ rủi ro với các nhà công nghiệp và ngân hàng. Mặc dù chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc gây ra một số hậu quả xấu đối với nền kinh tế nhưng có thể khẳng định rằng nó đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế . Chính sách tín dụng có thể được sử dụng như là một công cụ có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về bối cảnh thực hiện công nghiệp hoá và mục tiêu công nghiệp hoá. Đây là cơ sở để luận văn đề xuất một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo của Hàn Quốc. Đối với Việt Nam, chính sách tín dụng có thể được chính phủ sử dụng như là một công cụ có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ này, cần có cơ chế để tránh những tác động xấu của nó. Việc tìm hiểu kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quá trình công nghiệp hoá từ những năm 60-70 đến nay không phải là vấn đề quá cũ, mà vẫn còn mang tính thời sự khi bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá. Hy vọng bản luận văn này, dù còn nhiều khiếm khuyết, sẽ tạo được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam.

doc138 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1261 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Chính sách tín dụng của Hàn Quốc, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ng 16.7%, công nghiệp dầu khí 8.3%, công nghiệp nhẹ 10.56%, công nghiệp thực phẩm 5.89%, xây dựng 9.75%, xây dựng đô thị 9.14%. Trong năm 2000, ĐTNN có sự chuyển biến lớn về chất so với các năm trước, tập trung chủ yếu vào lĩnh vực sản xuất (99% vốn đăng ký) trong đó công nghiệp chiếm 90.98%, nông lâm ngư nghiệp chiếm 2.76%, dịch vụ du lịch 2.02%, y tế giáo dục chiếm 3.41%. Tín dụng nước ngoài và các khoản nợ nước ngoài khác: Vay nước ngoài là các khoản vay ngắn hạn (thời hạn vay đến 1 năm) hoặc trung và dài hạn do nhà nước Việt Nam hoặc là doanh nghiệp, là pháp nhân Việt Nam vay của các tổ chức tài chính quốc tế, của chính phủ, của ngân hàng nước ngoài hoặc của tổ chức, cá nhân nước ngoài khác. Tính đến cuối năm 2000, tổng nợ nước ngoài thực tế của Việt Nam ở mức 12,8 tỷ USD, trong đó nợ doanh nghiệp là hơn 4 tỷ USD (doanh nghiệp FDI gần 3 tỷ, doanh nghiệp quốc doanh và các thành phần kinh tế khác hơn 1 tỷ), số còn lại là nợ Nhà nước. Mức nợ này chiếm 39% GDP, 105% giá trị xuất khẩu năm 2000. Trong các nguồn vốn nước ngoài, FDI chiếm tỷ trọng lớn và có chiều hướng giảm mạnh trong những năm gần đây, trong khi các nguồn vồn ODA và nợ nước ngoài lại có chiều hướng gia tăng. Điều này phản ánh rõ độ hấp dẫn của môi trường đầu tư nước ngoài của Việt Nam giảm sút. Hơn nữa, do Việt Nam còn thiếu kinh nghiệm, các lĩnh vực kinh tế- xã hội khác phát triển còn chưa đồng bộ và do môi trường cạnh tranh bên ngoài nên các chính sách, định chế đối với việc huy động và sử dụng vồn đầu tư nước ngoài ở Việt Nam còn bộc lộ nhiều hạn chế, ít hấp dẫn và có độ rủi ro cao. * Ưư tiên đầu tư chưa đúng hướng, còn dàn trải giữa các ngành nên dẫn đến hiệu quả vốn đầu tư thấp, chưa tạo được bước nhảy vọt về cơ cấu công nghiệp. Đầu tư của Việt Nam trong thời gian qua hướng về thay thế nhập khẩu. Đây không phải là một định hướng tốt khi quy mô tiêu dùng trên thị truờng trong nước còn nhỏ bé. Sự tập trung qúa mức vaò các ngành thay thế nhập khẩu gây nên mất cân đối giữa vốn và lao động, không phát huy được tác dụng của vốn đầu tư. Một số dự án đầu tư trong điểm xét về mặt kinh tế là không hiệu quả. Trường hợp nhà máy lọc dầu Dung Quất là một ví dụ điển hình. Số liệu của David ITO (Đại học Harvard, 2003) cho thấy rằng mối năm Việt Nam phải chi 200 triệu USD nếu lọc dầu (với công xuất 6,5 triệu tấn /năm) ở Việt Nam nhưng chỉ phải cho 72 triệu USD cho việc lọc dầu ở nước ngoài nếu Việt Nam nhập dầu lọc với khối lượng tương tự). Tính trung bình trong mỗi năm hoạt động của nhà máy lọc dầu, chính phủ và người tiêu dùng phải trả một khoản cho vượt trội là 130 triệu USD. Khi nhà máy này hoàn thành nó sẽ sử dụng khoảng 1000 lao động. Nếu khoản tiền này đầu tư cho khu vực tư nhân vay thì nó sẽ có khả năng tạo ra 500.000 việc làm. Nếu VIệt Nam cần một nhà máy lọc dầu để công nghiệp hoá và hiện đại hoá thì cũng không cần đặt ở nơi vừa xa nguồn nguyên liệu lại xa nơi tiêu thụ như vậy. Do các ngành công nghiệp nặng được lựa chọn ưu tiên đầu tư chưa đúng nên chưa tạo ra được bước nhảy vọt về cơ cấu công nghiệp. Những ngành công nghiệp kỹ thuật cao chưa được coi trọng đầu tư. Việc đầu tư được thực hiện chủ yếu vào những ngành sử dụng nhiều vốn và ít lao động, chưa khai thác được lợi thế so sánh về lao động của Việt Nam và chưa tuân thủ định hướng xuất khẩu. Theo số liệu của David O..D. (Đại học Harvard, 2003) thì trong giai đoạn từ 1995 đến 1997 Việt Nam tăng trưởng bình quân là 8,8%/ năm và đầu tư trung bình là 27,8% GDP, có nghĩa là Việt Nam cần 3,2 đơn vị đầu tư để tạo ra một đơn vị tăng trưởng. Theo những số liệu của ADB thì từ năm 2000 đến năm 2002, Việt Nam cần 4,5 đơn vị đầu tư để có một đơn vị tăng trưởng. Tỷ lệ này sẽ là 5: 1 nếu dùng các số liệu của IMF Do đầu tư chủ yếu vào những ngành sử dụng nhiều vốn và ít lao động nên chưa khai thác được lợi thế về lao động của Việt Nam. Hiện nay, Việt Nam được các nhà kinh tế xem là một quốc gia lãng phí về nguồn nhân lực. Tỷ lệ thất nghiệp đô thị ở mức cao 7,5%. Thời gian lao động nông nghiệp của lao động ở nông thôn chỉ chiếm 25% quỹ thời gian lao động. Chiến lược đầu tư cuả Việt Nam chưa thực sự coi trọng mực tiêu tạo việc làm. Đầu tư còn dàn trải giữa các ngành, các vùng chưa có trong tâm trọng điểm dẫn đến vốn đầu tư không hiệu quả, lãng phí vốn. Một hậu quả khác của đầu tư không đúng là mức độ tăng trưởng của xuất khẩu bình quân /năm tính theo $ có xu hướng giảm (xem bảng 21). Bảng 21 đưa ra sự so sánh giữa Việt Nam với Trung Quốc – là nước láng giềng có những điều kiện tương đối gần với Việt Nam như đều là những nền kinh tế chuyển đổi có thu nhập thấp và chịu tác động của những điều kiện kinh tế quốc tế gần giống nhau. Bảng 21: Tốc độ tăng trưởng xuất khẩu bình quân năm ( tính theo USD) của Việt Nam so với Trung Quốc 1995-2002 1997-200o 2000-2002 Trung quốc Việt nam 11,8% 17,9% 12,2% 12,6% 14,4% 7,0 Nguồn: David ITO, 2003 Tỷ lệ nông sản xuất khẩu qua chế biến của Việt Nam còn rất nhỏ bé, trong khi Trung Quốc cũng trong những điều kiện có thể so sánh được với Việt Nam lại có tỷ lệ này đạt trên 80 % . Sở dĩ có tình trạng này là do các chính sách hầu như tập trung nhiều vào hỗ trợ đầu ra cho sản phẩm xuất khẩu mà chưa tập trung vào khâu chế biến. * Việc giám sát thực hiện chính sách tín dụng còn lỏng lẻo dẫn đến chúng chưa được thực thi trong thực tiễn. Nhà nước đã quyết định ưu tiên tín dụng cho một số ngành công nghiệp mũi nhọn phục vụ cho xuất khẩu như ngành dệt may nhưng trong thực tế chính sách này chỉ là trên giấy tờ. Đối với tổng công ty dệt may, thực chất không tồn tại những ưu đãi tín dụng. Việc sửu dụng các khoản vốn vay ưu đãi của các đối tượng ưu tiên không được giám sát chặt chẽ dẫn đến hiệu quả thấp và thất thoát vốn. Bên cạnh tình trạng quản lý lỏng lẻo của chính phủ, việc thực hiện ưu tiên đầu tư cũng dẫn đến tình trạng tham nhũng của các quan chức chính phủ - những người có ảnh hưởng đến quyết định ưu tiên đầu tư trong bộ máy quản lý của nhà nước khi quyết định đầu tư chưa dựa trên những dấu hiệu của thị trường. * Khu vực ngoài quốc doanh chưa nhận được hỗ trợ vốn cần thiết. Tỷ trọng vốn đầu tư cho khu vực này có xu hướng giảm dần. Cụ thể là nếu trong giai đoạn 93-96, khu vực nhà nước chiếm 41% tổng vốn đầu tư và ở giai đoạn 2001-2002 tỷ lệ này là 56%. Điều đặc biệt cần nhấn mạnh ở đây là khu vực nhà nước là khu vực kinh doanh kém hiệu quả, chiếm tỷ trọng nhỏ về sử dụng lao động và tốc độ tăng trưởng việc làm của khu vực này trung bình chỉ là 2%/năm trong khi khu vực kinh tế tư nhân lại có khả năng tạo ra việc làm cao hơn. Toàn bộ khu vực tư nhân chính thức (chưa tính đến thành phần cá thể và cơ sở kinh tế hộ gia đình trong thời kỳ từ 2000-2002 đã tạo ra thêm 1,75 triệu việc làm. Tổng vốn đầu tư ở khu vực này là 4,7 tỷ $ tức là khổng 2700$ cho một việc làm. Cũng trong giai đoạn này, đầu tư của các DNNN bằng nguồn vốn của chính họ là 4 tỷ $ và khoảng 4 tỷ $ tín dụng do nhà nước điều tiết ngoài hệ thống ngân hàng từ các quỹ như Quỹ hỗ trợ phát triển nhưng như không tạo ra thêm việc làm. Khi vốn được đầu tư vào khu vực DNNN là khu vực kinh doanh kém hiệu quả thì điều này sẽ làm cho nguồn lực của nền kinh tế bị phân bổ sai trên toàn hệ thống. Đây cũng chính là nguyên nhân làm cho chỉ số ICOR của Việt nam cao hơn so với các quốc gia khác. Cần thấy rằng đây là một điều rất bất hợp lý xét trên phương diện kinh tế và nó phải được loại bỏ càng sớm càng tốt. * Những tồn tại trong cơ chế lãi suất hiện hành Tháng 6/1992 đã được NHNN coi là một mốc quan trọng, đánh dấu sự chuyển giai đoạn trong chính sách lãi suất, chấm dứt khâu cuối cùng của sự bao cấp qua tín dụng, bắt đầu chính sách lãi suất tín dụng hoạt động theo cơ chế thị trường. Tuy nhiên, trong thực tế, việc nhà nước bao cấp qua chính sách lãi xuất vẫn tồn tại. Việc các ngân hàng thực hiện quá nhiều mức lãi xuất ưu đãi theo chỉ định của chính phủ chẳng những làm méo mó thị trường tiền tệ mà còn duy trì quá lâu cơ chế bao cấp cho nhiều lĩnh vực sản xuất kinh doanh. Đồng thời, cách làm này cũng tạo cơ chế xin cho, gây ra nhiều tiêu cực và tạo môi trường cạnh tranh thiếu bình đẳng trong nền kinh tế. NHNN còn can thiệp quá sâu vào việc ấn định các mức lãi suất của NHTM, vẫn còn qui định nhiều mức lãi suất khống chế khác nhau. Bắt đầu là khung lãi suất rời bây giờ là trần lãi suất và chênh lệch lãi suất. Cho đến nay, hầu như NHTM ở nước ta chưa tạo được nhiều nguồn vốn dài hạn, lãi suất ngân hàng còn mang nặng tư duy kinh tế thời bao cấp, người gửi tiền dài hạn muốn lãi suất cao người vay vốn dài hạn đòi lãi suất thấp. Mức lãi suất trong cả nước chưa đáp ứng được nhu cầu của nền kinh tế thị trường. Hiện nay việc qui định mức lãi suất thống nhất chưa tạo được sự mềm dẻo linh hoạt theo yêu cầu thị trường từng vùng, khu vực. Cũng như thị trường hàng hoá, trong thị trường vốn, mức cung cầu về vốn ở mỗi vùng, mỗi khu vực khác nhau thì đòi hỏi giá cả của vốn tiền tệ cũng khác nhau. Vì vậy, nếu qui định một mức giá cả thống nhất sẽ dẫn đến tình trạng sử dụng công cụ lãi suất kém linh hoạt. Trên thực tế, còn có sự chênh lệch lớn giữa lãi suất tín phiếu kho bạc và lãi suất tiền gửi tiết kiệm của ngân hàng nên nhiều khi ảnh hưởng lớn đến hoạt động nguồn vốn của ngân hàng. Tín phiếu kho bạc dô một cơ quan thuộc bộ máy quản lý tài chính nhà nước (kho bạc nhà nước) thay mặt chính phủ phát hành nhằm huy động tiền mặt trong xã hội theo yêu cầu cân đối ngân sách nhà nước từng thời kì. Việc này không nhằm mục đích kinh doanh kiếm lời, bởi vậy, thường có mức lãi suất cao hơn lãi suất tiền gửi ngân hàng. Vì vậy, tín phiếu kho bạc đã thu hút được người cho vay (mua) hơn là gửi tiền vào ngân hàng, làm cho ngân hàng khó khăn vì giảm phần nào vốn huy động, làm ảnh hưởng đến qui mô tín dụng đã được định trước theo kế hoạch, ảnh hưởng đến việc thực hiện kế hoạch tài chính và nghĩa vụ với NHNN và sâu hơn nữa là phá vỡ sự kiến thiết mặt bằng lãi suất tín dụng. Có thể nói do sự nghèo nàn về chủng loại các sản phẩm đầu tư tài chính đã dẫn đến tình trạng tiền gửi tiết kiệm ngân hàng vẫn tăng trong khi lãi suất huy động liên tục giảm xuống. Việc thay đổi lãi suất liên tục lãi xuất làm cho khác hàng thường bị động trong quá trình tính tóan các kế hoạch làm ăn dài hạn của mình, nhất là lo sợ rủi ro đối với việc vay tiền đổi mới thiết bị máy móc, song có nhiều doanh nghiệp không thể không vay vì thiếu vốn triền miên và quá trình cho vay theo chỉ định vẫn chưa chấm dứt. Việc xử lí mối quan hệ giữa lãi suất và tỷ giá hối đoái bằng việc tăng nhẹ dần lãi suất cho vay bằng VND và điều chỉnh lãi suất tiền gửi bằng ngoại tệ trong năm 1988 là kịp thời, góp phần điều hoà thị trường nội, ngoại tệ hạn chế chuyển đổi từ VND sang ngoại tệ. Tuy nhiên, việc tăng nhẹ trần lãi suất cho vay bằng VND sẽ gây thêm khó khăn cho sản xuất kinh doanh trong nước, nhất là khi nền kinh tế đang ở tình trạng suy thoái. Mặt khác, lãi suất tiền gửi ngoại tệ của các tổ chức kinh tế tại các tổ chức tín dụng giảm từ 1- 15%/năm nhưng tỷ giá lại điều chỉnh tăng 15% (theo tỷ giá chính thức) tăng 135 (theo tỷ giá giao dịch trên thị trường ngoại tệ liên ngân hàng). Khi lãi suất vay ngoại tệ giảm nhưng tỷ giá hối đoái tăng làm hạn chế nhu cầu vay bằng ngoaị tệ của các doanh nghiệp muốn phát triển sản xuất kinh doanh dẫn tới tình trạng thiếu vốn cho phát triển công nghiệp. * Những yếu kém trong hoạt động của hệ thống ngân hàng. Những yếu kém trong hoạt động của hệ thống ngân hàng được thể hiện ở những điểm sau đây: - Các loại hình nghiệp vụ hoạt động ngân hàng trong nước chưa tiếp cận được chuẩn mức và với sự phát triển nhanh chóng của thị trường tiền tệ quốc tế và khu vực. - Hệ thống ngân hàng thiếu cán bộ có trình độ chuyên môn cao để đáp ứng nhu cầu phát triển của thị trường tài chính, trước hết là bộ phận phân tích dự báo đánh giá. - Hệ thống ngân hàng chưa có biện pháp hữu hiệu tập trung các nguồn lực thúc đẩy CNH- HĐH. - Hoạt động ngân hàng có nhiều biểu hiện chưa lành mạnh, các qui định, qui chế chưa được chấp hành nghiêm chỉnh, rủi ro tín dụng tích lũy ngày càng ở mức đáng lo ngại. - Tỷ lệ tín dụng trung và dài hạn tăng không tuơng xứng với tốc độ tăng nguồn vốn huy động của các loại vốn này( nguồn vốn chủ yếu của các NHTM là nguồn vốn ngắn hạn , chiếm tới 90%, nên NHTM không đáp ứng để khắc phục mà mới chỉ có giải pháp tình thế là ngành ngân hàng cho phép “Trích 20% tổng nguồn vốn ngắn hạn sang cho vay trung và dài hạn”, còn doanh nghiệp thì “lấy ngăn nuôi dài “. Sở dĩ tình trạng trên tồn tại là vì : Thứ nhất, yếu tố đầu tiên ảnh hưởng đến huy động vốn trung và dài hạn của ngân hàng là thị trường chứng khoán ở nước ta hiện nay ở giai đoạn sơ khai. Các sản phẩm trrên thị trường tiền tệ chưa nhiều, hoạt động đơn giản, thuần tuý. Mặt khác hệ thống pháp luật còn thiếu những quy định toàn diện trong việc điều chỉnh các hoạt động, tiếp theolà những hạn chế của chính ngành ngân hàng trong mọi hoạt động, chu chuyển nguồn vốn của các doanh nghiệp. Thứ hai, hiện nay, những người có tiền nhàn rỗi chưa dùng hết thì chưa tìm kiếm được những địa chỉ tin cậy. Thứ ba, các ngân hàng còn thiếu các công cụ huy động vốn dài hạn và thiếu thị truờng thứ cấp để luân chuyển và tạo thành tính thanh khoản dễ dàng của các công cụ này. + Mức dư nợ cho vay của các tổ chức tín dụng trong nền kinh tế có xu hướng tăng chậm do nhiều lý do khác nhau + Rủi ro tín dụng tích tụ ngày càng lớn và có nguy cơ phá vỡ tính ổn định của hệ thống ngân hàng, nếu không được ngăn chặn hữu hiệu. Trong nền kinh tế quốc dân nước ta hiện nay hoạt động tín dụng chiếm đến hơn 90% hoạt động ngân hàng nên rủi ro hoạt động ngân hàng chủ yếu là rủi ro tín dụng. Nhìn chung chất lượng tín dụng của hệ thống Ngân hàng còn thấp, các rủi ro còn lớn và nếu nhìn nhận nghiêm túc, có cơ sở để lo ngại về nguy cơ rủi ro tín dụng trong nền kinh tế nước ta. Vì lẽ, mức vốn chủ sở hữu của các doanh nghiệp hiện nay chỉ là 30%, còn lại là tiền vay Ngân hàng. Tổng số nợ phải trả của các doanh nghiệp Nhà nước năm 2002 ước gần 188.900 tỷ đồng, bằng 110% vốn Nhà nước tại doanh nghiệp, tăng 20% so với năm 1999. Gần như toàn bộ số nợ đó là tiền vay ngân hàng. Việc ngân hàng cho các đối tượng vay theo chính sách mà không có khả năng trả nợ làm cho tỷ trọng nợ xấu của các ngân hàng có xu hướng tăng lên. Trong tiến trình cải cách, nếu chính phủ sử dụng tiết kiệm quốc gia để giải quyết vấn đề nợ xấu, tiếp tục hỗ trợ cho những hoạt động không có khả năng tồn tại thì sẽ không còn nguồn để tài trợ cho các hoạt động lành mạnh khác Các mô hình quản lý rủi ro trong hoạt động của ngân hàng chỉ mới được thiết lập một vài năm gần đây và còn thiếu kinh nghiệm hoạt động, dẫn đến kết quả còn khiêm tốn (ví dụ UB Quản lý Rủi ro Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam được thành lập theo quyết định 455/QĐ ngày 21-9-2003; Trung tâm phòng ngừa và xử lý rủi ro ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn theoQuyết định 235/QĐ ngày 1/6/2001; Phòng thông tin phòng ngừa và xử lý rủi ro Ngân hàng Công thương Việt nam; Hội đồng quản lý rủi ro NHĐT & PT Việt nam 6/2002, Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản từng Ngân hàng thương mại theo Q.Đ.150/QĐ ngày 5-10-2001 để xử lý các khoản nợ tồn đọng có tài sản bảo đảm). - Việc thực hiện lãi xuất vay vốn ưu đãi đối với các đối tượng ưu tiên khác nhau hình thành nên 2 dạng mô hình ngân hàng chính sách ( Ngân hàng chính sách xã hội và Ngân hàng đầu tư phát triển ) làm cho bộ máy cồng kềnh, tốn kém chi phí. * Sự hỗ trợ qúa mức của chính phủ tạo ra tâm lý ỷ lại và tình trạng lãi giả lỗ thật ở một số đông các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế quốc doanh. Mặc dù tổng số nợ quá hạn trong tổng dư nợ cho vay của Quỹ hỗ trợ phát triển đang ở mức thấp nhưng đang có xu hướng gia tăng, tạo nguy cơ rủi ro lớn trong hoạt động tín dụng ưu đãi của nhà nước 3.2. NHỮNG NÉT TƯƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT GIỮA VIỆT NAM VÀ HÀN QUỐC. 3.2.1. Những nét tương đồng. Khi quyết định theo đuổi chính sách công nghiệp hướng ngoại, bất kỳ quốc gia nào cũng đều muốn coi nhân tố bên ngoài như một trong những động lực chủ yếu của sự phát triển đồng thời lại phải đối mặt với những thách thức của nó. Là động lực vì đó là nơi cấp vốn, công nghệ, kỹ thuật kinh nghiệm quản lý và thị trường. Là thách thức vì đó là nơi diễn ra cuộc cạnh tranh quyết liệt về kinh tế và những tính toán khác nhau về chính trị. Vậy mà cách đây 3 thập kỷ, Hàn Quốc và nhóm NICs Đông Á đi tiên phong trên con đường này và bằng những thành công tuyệt vời của mình đã mở đầu cho trào lưu công nghiệp hoá hướng ngoại mà hiện đang có ảnh hưởng hết sức sâu rộng đối với các nước đang phát triển, trong đó có Việt Nam. - Trong quá khứ, vào những năm 50 – 60 của thế kỷ 20, cả hai nước đều bị các cuộc chiến tranh tàn phá khốc liệt và là những thuộc địa có trình độ thấp, nghèo nàn lạc hậu phổ biến. Sau khi giành được độc lập, Chính phủ và nhân dân hai nước đều mong muốn sống trong hoà bình, tập trung sức lực vào phát triển kinh tế, khắc phục hậu quả quá khứ, đưa đất nước thoát khỏi nghèo nàn, lạc hậu, rút ngắn khoảng cách với các nước phát triển. - Nền kinh tế của hai nước trước khi bước vào công nghiệp hoá đều mang tính chất nông nghiệp là chủ yếu, trình độ sản xuất thô sơ, dân số đông, điều kiện thời tiết không thuận lợi, quy mô đất đai manh mún không đủ để sản xuất lớn. Thêm vào đó các ngành công nghiệp địa phương chỉ thoả mãn nhu cầu nội địa, không đủ khả năng cạnh tranh mạnh trên thị truờng thế giới. Điều đó đã tác động đến khả năng tích luỹ vốn và trình độ kỹ thuật của nền kinh tế Việt nam. Cũng giống như Hàn Quốc, khi thực hiện công nghiệp hoá Việt Nam phải đối mặt với một thực tế là cần tìm các nguồn vốn để đáp ứng nhu cầu đầu tư cho phát triển công nghiệp. Song song với vấn đề khai thác các nguồn vốn, Việt Nam cũng cần phải chú ý đến vấn đề làm thế nào để sử dụng nguồn vốn đã huy động được một cách có hiệu quả, làm cho nó phát huy được tác dụng tích cực đối với công cuộc công nghiệp hoá - Điểm xuất phát khi chuyển bước sang thời kỳ thực hiện chính sách công nghiệp hoá hướng ngoại của Việt Nam và Hàn Quốc gần giống nhau. Xét về mặt trình độ phát triển của nền sản xuất xã hội, Việt Nam hiện nay tương đương Hàn Quốc cuối những năm 50, đầu những năm 60. Một số chỉ tiêu kinh tế ở bảng 22 cho thấy rằng gần như có sự trùng hợp về mặt định lượng thống kê giữa Việt Nam năm 1993 với Hàn Quốc năm 1960. Bảng 22: Một số chỉ tiêu kinh tế cơ bản của Hàn Quốc và Việt Nam. Hàn Quốc (1960) Việt Nam (1993) +GDP/người (USD) +Cơ cấu kinh tế (% trong GDP): Nông nghiệp Công nghiệp Dịch vụ 236 37,5 20,5 41,9 220 36,6 20,9 38,2 Nguồn: Tạp chí Nghiên cứu kinh tế số 2 tháng 4/1994. Tỷ trọng của khu vực nhà nước trong tổng giá trị sản lượng công nghiệp ở Việt Nam là cao so với một số nước khác trong khu vực. Chính phủ kiểm soát trực tiếp hầu hết sản lượng công nghiệp ( tỷ trọng của khu vực nhà nước trong tổng sản lượng công nghiệp năm 1992 là 71% và tỷ trọng này đã tăng lên trong thời kỳ cải cách những năm 90). Số lượng các doanh nghiệp công nghiệp hiện tại chỉ khoảng vài trăm doanh nghiệp, tương đương với số các doanh nghiệp khống chế phần lớn giá trị gia tăng trong ngành chế tạo của Hàn Quốc. Đầu những năm 1970, ở Hàn Quốc có 46 tập đoàn công nghiệp (chaebol) chiếm 37% giá trị gia tăng trong ngành chế tạo. Vì vậy các nhà hoạch định chính sách của chính phủ có thể thông qua kiểm soát vài trăm doanh nghiệp để chỉ đạo và giám sát hầu hết sự phát triển công nghiệp của Việt Nam. - Cũng giống như Hàn Quốc, Việt Nam bước vào thực hiện công nghiệp hoá trong điều kiện thị trường các yếu tố đầu vào chưa hình thành hoặc hình thành nhưng ở mức độ phát triển rất thấp. Thị trường chứng khoán đã được mở ra nhưng cả hai yếu tố quyết định quy mô phát triển của loại thị trường này là cung và cầu thì đều rất hạn chế. Khi chuyển sang hoạt động theo cơ chế mới, nhiều DNNN của Việt Nam chưa có khả năng thích nghi. Những lúng túng trong quản lý kinh doanh khiến cho nhiều doanh nghiệp kinh doanh thua lỗ. Những doanh nghiệp kinh doanh có lãi thường là những doanh nghiệp nhận được sự bảo hộ của nhà nước. Tiến trình cổ phần hoá DNNN diến ra một cách chậm chạp. Do vậy, các DNNN không có hoặc có quá ít khả năng huy động vốn từ nguồn tự có, hoặc tìm kiếm tài trợ từ các nguồn bên ngoài loaị trừ việc vay vốn của các ngân hàng. Hoạt động của các doanh nghiệp trong khu vực kinh tế tư nhân cũng gặp khó khăn về vốn. Phần lớn các doanh nghiệp tư nhân có quy mô vốn là nhỏ, phụ thuộc nhiều vào hoạt động tín dụng của hệ thống ngân hàng trong khi hoạt động của hệ thống ngân hàng Việt Nam lại chưa có những chuyển biến mạnh mẽ sang mô hình hoạt động mới và còn chịu ảnh hưởng mạnh mẽ của chính phủ trong các hoạt động cho vay. 3.2.2. Những điểm khác biệt + Sự khác biệt quan trọng giữa hai quốc gia trước hết là về thể chế chính trị, kinh tế, xã hội, vai trò của các hình thái sở hữu đối với tư liệu sản xuất. Ở Hàn Quốc khu vực kinh tế tư nhân đóng vai trò chủ đạo và là động lực cho sự phát triển, còn ở Việt Nam, khu vực kinh tế nhà nước đảm nhiệm vai trò quan trọng này. Do sự khác nhau về thể chế mà Hàn Quốc và Việt Nam có những điều kiện thuận lợi khác nhau. Hàn Quốc ngay từ đầu đã phát triển kinh tế theo cơ chế thị trường có sự điều tiết vĩ mô của nhà nước. Mô hình kinh tế mà Hàn Quốc theo đuổi là mô hình kinh tế của Nhật Bản và Mỹ. + Trong nhiều năm qua, Hàn Quốc nhận được nhiều sự ưu đãi từ các nước tư bản như viện trợ kinh tế, quân sự cũng như ưu đãi về vay tín dụng quốc tế, về thuế đối với các hàng xuất khẩu của họ để thâm nhập vào thị trường các nước tư bản phát triển, và tiếp nhận chuyển giao công nghệ từ các nước này vào Hàn Quốc. Do vậy Hàn Quốc đã hình thành một đội ngũ các doanh nghiệp giỏi, tiếp cận thông minh với thị trường, đủ bản lĩnh để đương đầu với thị trường trong và ngoài nước. Trước đây, Việt Nam tiến hành công nghiệp hoá nhằm xây dựng một nước xã hội chủ nghĩa, bất đồng về thể chế với các nước tư bản phát triển nên những ưu đãi này không có. Thêm vào đó trong một thời kỳ dài quan hệ kinh tế của Việt Nam với thế giới còn rất hạn chế. Chỉ từ sau năm 1986, Đại hội VI của Đảng cộng sản Việt Nam, khi Việt Nam đã bắt đầu tiến hành chính sách đổi mới, chuyển từ cơ chế hành chính quan liêu bao cấp sang cơ chế thị trường, Việt Nam mới thực sự có sự chuyển hướng, được cộng đồng quốc tế thừa nhận nhưng cũng có nhiều vấn đề Việt Nam còn bỡ ngỡ vì quá mới mẻ. Việt Nam thiếu hẳn một đội ngũ các nhà doanh nghiệp thông thạo thị trường thế giới, có tri thức và bề dày kinh nghiệm kinh doanh trong bối cảnh mở cửa hiện nay. + Do nhiều năm duy trì cơ chế quản lý theo kiểu của Liên Xô cũ nên bộ máy quản lý của nhà nước còn nhiều bất cập với yêu cầu của nền kinh tế thị trường. Việc ra quyết định kinh tế của Việt nam còn chịu ảnh hưởng nặng nề của chính trị. Trường hợp nhà máy hoá dầu đặt ở miền Trung đã đề cập ở trên là một ví dụ. Nhà máy được đặt ở nơi vừa xa nguồn cung ứng vừa xa thị trường có thể làm kiệt quệ khủng khiếp nguồn đầu tư vốn đã hạn hẹp. Tiêu chuẩn chính trị không phải đột nhiên có thể loại ra khỏi các quyết định của chính phủ có ảnh hưởng đến nền kinh tế. Chính trị đóng vai trò to lớn trong phần lớn các quyết định của hầu hết các chính phủ trên khắp thế giới. Các dự án công cộng trên khắp thế giới đều được xây dựng để tranh thủ phiếu bầu hoặc các kiểu hậu thuẫn chính trị khác, cũng như để cung cấp các cơ sở hạ tầng cần thiết. Việt Nam theo hệ thống đảng cầm quyền nhưng các nhà chính trị điều hành hệ thống cũng cần giành được sự hậu thuẫn chính trị từ nhiều khu vực bầu cử khác nhau để ra quyết định. Các quan chức chính phủ còn chưa có đủ kinh nghiệm và tri thức trong lĩnh vực quản lý kinh tế đưa đến hậu quả là quản lý hành chính lỏng lẻo, chồng chéo, hệ thống luật pháp chưa hoàn chỉnh và sự tuỳ tiện, lộn xộn, kém hiệu quả trong nền kinh tế Việt Nam. Vai trò điều tiết kinh tế của nhà nước thông qua các công cụ chính sách còn nhiều hạn chế. + Việt Nam có lợi thế hơn so với Hàn Quốc thời kỳ bắt đầu thực hiện công nghiệp hoá là có nguồn thu đáng kể từ đầu lửa. Hàng năm ngành dầu khi đóng góp vào ngân sách quốc gia khoảng 1-2 tỷ USD. Việt Nam cũng nhận được các khoản viện trợ của các nước và các tổ chức quốc tế rất lớn. nếu tính bình quân đầu người thì Việt Nam có chỉ số này lớn hơn một số nước khác trong khu vực ví dụ như Trung Quốc. Tổng lượng vốn từ 2 nguồn kể trên là 20% GDP. + Việt Nam vẫn chưa dứt khoát từ bỏ chiến lược thay thế nhập khẩu, chưa tự mình quyết tâm đi theo chiến lược xuất khẩu hàng chế tạo mà tiếp tục phụ thuộc nhiều vào con đường công nghiệp hoá thay thế nhập khẩu. Các nhà hoạch định chính sách công nghiệp Việt Nam vẫn còn mắc kẹt nghiêm trọng vào các chiến lược dựa trên thay thế nhập khẩu và tiếp tục để nhà nước giữ vai trò chủ đạo trong các doanh nghiệp, trừ các doanh nghiệp nhỏ nhất và các doanh nghiệp do các nhà đầu tư nước ngoài kiểm soát hoặc quản lý. Rất nhiều các nhà đầu tư nước ngoài đã bắt đầu rút khỏi Việt nam trong năm 1998 và 1999, một phần do khủng hoảng tại quê nhà, nhưng mặt khác là do những khó khăn trong việc giải quyết những thủ tục rườm rà với bộ máy quan liêu của chính phủ. Chừng nào Việt nam còn duy trì tốc độ tăng trưởng cao trung bình khoảng 9% một năm từ 1992-1997 thì chừng đó còn ít hy vọng có được sự thay đổi cơ bản trong đường lối phát triển công nghiệp ngày. Nhưng nếu tốc độ tăng trưởng giảm mạnh hoặc thậm chí dừng lại ở mức như năm 1998 và 1999 thì cuộc tranh luận về chính sách công nghiệp sẽ trở nên sôi động hơn và Việt Nam sẽ phải có quyết định dứt khoát về chiến lược hướng về xuất khẩu + Xu hướng hội nhập và mở cửa của nền kinh tế thế giới trong những năn gần đây đặt Việt Nam vào bối cảnh thuận lợi hơn so với Hàn Quốc thời kỳ những năm 60 trong việc tham gia vào phân công lao động quốc tế và khai thác lợi thế so sánh của Việt nam. Xu hướng này mở ra cho Việt Nam khả năng huy động vốn từ nguồn nước ngoài phục vụ cho nhu cầu của công nghiệp hoá. Việt Nam có thể tiếp cận với các kỹ thuật hiện đại và kinh nghiệm quản lý của các nước công nghiệp phát triển, có thể rút ngắn thời gian và công sứccho sựu phát triển công nghiệp và kinh tế. Tuy nhiên, xu hướng này đồng thời cũng tạo ra những thách thức rất lớn cho sản phẩm của Việt Nam trên thị trường quốc tế. Những điển tương đồng và khác biệt giữa Việt Nam và Hàn Quốc trong thời kỳ thực hiện công nghiệp hoá ở hai nước chom phép Việt Nam có thể tham khảo những kinh nghiệm của Hàn Quốc trong việc sử dụng chính sách tín dụng cho việc thực hiệ mục tiêu của công nghiệp hoá. 3.3. NHỮNG BÀI HỌC KINH NGHIỆM ĐỐI VỚI VIỆT NAM 3.3.1. Nâng cao năng lực tín dụng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam Do nước ta tiến hành quá trình công nghiệp hóa hiện đại hóa trong điều kiện thiếu nguồn vốn cả về lượng và thời gian cung ứng, đồng thời sự thúc ép của hội nhập kinh tế quốc tế đòi hỏi hệ thống Ngân hàng thương mại Việt nam phải có những chuyển biến căn bản về nhận thức và hoạt động tín dụng để phục vụ thắng lợi công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa. Cần thực hiện cải cách toàn diện hệ thống ngân hàng, phát triển các loại hình ngân hàng thương mại nhằm tăng cường huy động vốn từ nguồn trong nước, thu hút các nguồn tiết kiệm trong dân cư và các nguồn tiết kiệm khác dành cho việc đầu tư cho công nghiệp hoá. Để tăng cường hoạt động tín dụng của hệ thống Ngân hàng Việt Nam cho công cuộc công nghiệp hóa hiện đại hóa đất nước trong điều kiện hội nhập, chúng tôi nêu lên một số khuyến nghị như sau: Một là: Bên cạnh việc nâng vốn điều lệ tối thiểu cho mỗi Ngân hàng thương mại, cần tăng vốn đầu tư vào công nghệ kỹ thuật nhằm hiện đại hóa dịch vụ tài chính – ngân hàng, phát triển hệ thống thanh toán, kế toán phù hợp với chuẩn mực quốc tế, nhất là về chuyển tiền điện tử và thanh toán qua mạng, mở rộng việc sử dụng các công cụ thanh toán bán lẻ và thanh toán liên ngân hàng quốc tế, triển khai mô hình ngân hàng điện tử và bảo vệ, bảo mật mạng. Trang bị đồng bộ hệ thống máy móc thực hiện các phương thức thanh toán mới phù hợp với các hiệp định vay nợ song phương và đa phương, đảm bảo an toàn, nhanh chóng, chính xác và tiện lợi cho hoạt động thanh toán của bất cứ ngân hàng nào trong nước và quốc tế. Cần cải tạo, nâng cấp hệ thống kỹ thuật tin học tài chính – ngân hàng và tin học quản lý, nhất là hệ thống thông tin quản lý (MIS) và điều hành, nhằm nâng cao chất lượng quản lý, kinh doanh của các trung gian tài chính. Mặt khác, cần xây dựng mạng lưới thông tin tài chính hiện đại, đảm bảo cho hệ thống ngân hàng hoạt động an toàn hiệu quả, dễ giám sát. Đồng thời, cần thiết lập một chương trình về hội nhập trên mạng Internet để cập nhật thông tin tài chính, tiền tệ thế giới. ứng dụng công nghệ thông tin tài chính – ngân hàng vào việc mở rộng các hình thức thanh toán không dùng tiền mặt, phát triển các công cụ giao dịch trên thị trường mở nhằm phát triển thị trường tiền tệ sâu rộng, có tính thanh khoản cao. Ngoài ra, cần tăng cường đầu tư phát triển nguồn nhân lực cho hệ thống Ngân hàng và các tổ chức tài chính về các lĩnh vực liên quan đến phát triển thị trường tài chính như các loại hình tổ chức tài chính, phương thức và công cụ giao dịch, các biện pháp phòng ngừa rủi ro, thanh tra giám sát, pháp luật quốc tế và ký kết hợp đồng giao dịch. Chú trọng nâng cao trình độ chuyên môn quản lý, nghiên cứu mặt bằng pháp lý hiện hành cũng như qui định của các nước đối tác về lĩnh vực liên quan đến các loại hình dịch vụ và phương thức giao dịch mới trên thị trường tài chính. Nâng cao năng lực nghiên cứu, thiết kế, cải tiến và tiếp thị sản phẩm nhằm đa dạng hóa các hoạt động kinh doanh tiền tệ, phát triển các sản phẩm và thị trường mới, đáp ứng kịp thời nhu cầu, thị hiếu của khách hàng. Hai là: Hệ thống ngân hàng cần tạo mọi điều kiện để tạo môi trường hoạt động cho vay tín dụng khuyến khích tăng trưởng các khu vực kinh tế theo hướng xuất khẩu. Hoạt động cho vay tín dụng phải nhằm vào việc thực hiện các nhiệm vụ công nghiệp hoá trong từng thời kỳ, đáp ứng các nhu cầu về vốn của các tổ chức kinh doanh. Quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đòi hỏi nhiều vốn nên hệ thống ngân hàng cần tìm các giải pháp huy động vốn từ các nguồn khác nhau để có đủ khả năng cho vay tín dụng . Các ngân hàng thương mại nên phát triển thị trường ngoại hối theo hướng hoàn thiện cơ chế quản lý ngoại hối để tự do hóa các giao dịch vãng lai, kiểm soát có lựa chọn các giao dịch tài khoản vốn, tiến đến làm cho đồng tiền Việt Nam được tự do chuyển đổi. Xây dựng hệ thống các biện pháp kiểm soát luồng vốn quốc tế và nợ nước ngoài, nhất là vốn ngắn hạn. Ba là, trong việc giải quyết nợ khó đòi, các Ngân hàng thương mại nên chủ động tìm kiếm phương pháp chuyển đổi nợ thành cổ phần tham gia vào sản xuất kinh doanh ở những nơi có đối tác có thể chấp nhận hoặc tính khả thi cao. Hiện nay với xu thế cổ phần hóa các doanh nghiệp lớn và làm ăn có lãi, các Ngân hàng thương mại có thể và cần phải tranh thủ cơ hội để vốn cho vay của mình tham gia chủ động hơn vào quá trình này. Mặt khác các Ngân hàng thương mại cần tăng cường hơn nữa hoạt động dịch vụ tư vấn về tín dụng cho khách hàng. Hệ thống Ngân hàng thương mại nên khắc phục sớm và chấm dứt tình trạng cho vay dài hạn bằng nguồn huy động tiền gửi ngắn hạn. Tích cực góp phần giúp các doanh nghiệp tìm kiếm vốn phát triển dài hạn bằng cách tiếp cận thị trường vốn. Nhiều vụ án lớn đem ra xử ở Tòa án trong những năm qua đã chứng tỏ điều đó. Hoặc nếu các trường hợp cán bộ tín dụng trực tiếp thu nợ, thu lãi của khác hàng, xâm tiêu mà không nộp vào Ngân hàng; hay nhờ khách hàng vay hộ, vay ké; hay các rủi ro khác liên quan trực tiếp đến cán bộ tín dụng. Những rủi ro đó trong hoạt động Ngân hàng trong điều kiện mới của hội nhập có thể diễn ra với phương cách tinh vi hơn. Ngoài ra có thể cán bộ tín dụng cố tình bỏ qua các thủ tục cấp tín dụng, tiếp tay hoặc do lừa đảo chụp giựt hay do chây ì không trả nợ của khách vay là các doanh nghiệp, nhất là doanh nghiệp tư nhân và các công ty trách nhiệm hữu hạn.... Bốn là cần đẩy mạnh hoạt động thị trường tín dụng thuê mua tài chính coi đó là hình thức cho vay có triển vọng của hệ thống Ngân hàng thương mại trong điều kiện hội nhập, mức độ rủi ro chắc chắn sẽ ít hơn. Thị trường này mới được hình thành tại Việt Nam, trực thuộc các Ngân hàng thương mại và Tổng công ty lớn. Hoạt động tín dụng trung, dài hạn này được tiến hành thông qua việc cho thuê máy móc, trang thiết bị, phương tiện giao thông và các động sản khác cho các doanh nghiệp trên cơ sở hợp đồng cho thuê với bên thuê, cho nên có thể khả năng rủi ro thấp hơn. Cho đến nay ở nước ta mới có khoảng trên dưới 8 Công ty cho thuê tài chính, trong đó có 5 công ty 100% vốn trong nước trực thuộc 4 Ngân hàng thương mại quốc doanh (Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển Nông thôn có 2 công ty), 1 Công ty liên doanh và 2 Công ty 100% vốn nước ngoài. So với các định chế tài chính khác, cho thuê tài chính có ưu điểm là thủ tục đơn giản, không yêu cầu khắt khe về các biện pháp thực hiện hợp đồng, không phân biệt đối xử giữa các loại hình doanh nghiệp, công nghệ đổi mới nhanh, dịch vụ hỗ trợ đa dạng. Tuy nhiên, hoạt động cho thuê tài chính còn gặp nhiều khó khăn do môi trường đầu tư trong nước còn chứa đựng nhiều rủi ro, khó tiếp cận với các doanh nghiệp nhà nước vì lãi suất vay vốn thường thấp hơn lãi suất cho thuê tài chính, các công ty cho thuê tài chính chưa được phép vay hoặc cho thuê dưới dạng ngoại tệ, hệ thống văn bản pháp lý về hoạt động cho thuê tài chính chưa hoàn thiện. Năm là hệ thống Ngân hàng thương mại nên có biện pháp cụ thể cũng như khẩn trương hơn nữa để tham gia và thúc đẩy sự phát triển của thị trường liên ngân hàng như thiết kế các công cụ tài chính và hình thành hạ tầng cơ sở của thị trường, xác định các thể thức tài chính và tiêu chí kinh doanh trên thị trường, thu thập và phổ biến thông tin, số liệu thống kê về thị trường, xây dựng một cơ chế chi trả và thanh toán bù trừ an toàn, khuyến khích thị trường phát triển bằng cách sử dụng các giải pháp kỹ thuật như sử dụng cơ chế chuyển khoản và thanh toán nhằm quản lý tốt luồng vốn qua thị trường liên ngân hàng. Khuyến khích các thông lệ thị trường mang tính cạnh tranh, sử dụng hệ thống tự động đấu thầu các loại giấy tờ có giá, không nên khuyến khích mua bán các loại giấy tờ có giá ngoài phạm vi thị trường đã được thiết lập. Tạo điều kiện cho việc phát triển hình thức tài trợ thuận tiện và linh hoạt hơn trên cơ sở xúc tiến sử dụng hợp đồng mua lại, qua đó tăng tính thanh khoản của thị trường và mở rộng thị phần. Sáu là: Để chính sách tín dụng không gây ra những hậu quả xấu, hệ thống ngân hàng cần tăng cường vai trò giám sát của mình đối với các khoản vay ưu đãi của các tổ chức kinh doanh. Nếu các đối tượng vay không sử dụng các khoản vốn vay theo đúng mục đích hoặc sử dụng vốn vay không có hiệu quả thì cần chấm dứt quyền ưu đãi. 3.3.2. Thực hiện chính sách ưu đãi về tín dụng thực sự đối với các ngành công nghiệp trọng điểm trong từng giai đoạn của quá trình công nghiệp hoá . Kinh nghiệm của Hàn Quốc cho thấy rằng sự tập trung tạo động lực khuyến khích một số ít doanh nghiệp có quy mô lớn của chính phủ tạo ra sự phát triển mạnh mẽ của một số ngành như sản xuất thép, hoá dầu, đóng tàu, công nghiệp ôtô là những ngành trọng điểm. Trong điều kiện nguồn vốn là có giới hạn nếu đầu tư dàn trải sẽ không tạo ra được những bước chuyển biến tích cực về cơ cấu công nghiệp. Chính phủ cần lựa chọn ngành ưu tiên đầu tư trọng điểm trong từng thời kỳ. Việt Nam đang trong giai đoạn đầu của quá trình công nghiệp hoá, với một xuất phát điểm thấp thì việc ưu tiên phát triển những ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất là các sản phẩm thuộc dạng nguyên vật liệu như dầu, gạo, cà phê và hải sản là một điều không thể phủ nhận. Các nước đã và đang thực hiện quá trình công nghiệp hoá đều phải trải qua giai đoạn phát triển các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất vì việc xuất khẩu sản phẩm của các ngành này có thể tạo ra nguồn thu ngoại tệ để phát triển công nghiệp, tạo nhiều việc làm; nghĩa là tạo ra những khởi động cho quá trình công nghiệp hoá đất nước. Đặc biệt, đối với những ngành sản xuất theo hợp đồng gia công chế biến còn tạo nhu cầu phát triển cho các ngành công nghiệp tiếp theo nếu như công nghệ nước ngoài được chuyển giao và có khả năng tiếp nhận các công nghệ đó. Trong giai đoạn đầu, nhà nước cần tạo điều kiện cho vay dài hạn với lãi suất thấp vốn đầu tư vào một số dự án quan trọng ở những ngành công nghiệp phục vụ cho xuất khẩu Bài học kinh nghiệm qua khứ cho thấy trước mắt cần xác định ngành ưu tiên đầu tư phải là ngành sử dụng được lợi thế so sánh của Việt Nam, đảm bảo cho việc thực hiện thành công định hướng xuất khẩu Các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai là những ngành công nghiệp yêu cầu công nghệ cao hơn như công nghiệp dệt, cơ khí chế tạo, điện tử… Các sản phẩm của các ngành này có độ chính xác, có chất lượng cao và tạo giá trị gia tăng cao hơn sản phẩm của các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất. Các ngành này được xây dựng dựa trên cơ sở và có mối liên kết với các ngành công nghiệp thế hệ thứ nhất đã có. Các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai có nhiều tác động đối với nền kinh tế, đặc biệt một số ngành như cơ khí, điện tử còn có tác động lan toả, nâng cao năng suất lao động của nhiều ngành công nghiệp và kinh tế khác. Trong tương lai gần từ nay đền 2010 thì việc chuyển dần sang các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai cần phải được ưu tiên hơn nữa vì các ngành này sẽ phát huy được lợi thế tương đối về nguồn nhân lực có chất lượng trong các công việc đòi hỏi kỹ năng cao. Mặt khác, việc xây dựng và phát triển các ngành công nghiệp thế hệ thứ hai này sẽ giúp nền kinh tế của đất nước đối phó được với các tác động từ bên ngoài cũng như tăng cường khả năng thu hút và tiếp nhận chuyển giao công nghệ. Các ngành công nghiệp thế hệ thứ ba là các ngành sản xuất ra nguyên vật liệu như công nghiệp hoá chất quy mô lớn, công nghiệp luyện kim. Những ngành này đòi hỏi vốn đầu tư lớn, hàm lượng công nghệ cao. Các loại nguyên liệu do các ngành này sản xuất ra sẽ có nhu cầu lớn về số lượng và ngày càng cao về chất lượng một khi nền kinh tế của đất nước phát triển đến một mức độ nhất định. Các loại nguyên liệu này sẽ một phần thay thế cho các nguyên liệu truyền thống ngày càng cạn kiệt do sự khai thác của con người. Đối với những ngành công nghiệp thế hệ thứ ba này, hiện nay Việt Nam phần lớn phải nhập khẩu và khả năng sản xuất trong nước gần như là không có. Với mục tiêu trở thành nước công nghiệp vào năm 2020 thì chắc chắn trong việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên trong thời gian tới, Việt Nam phải cân nhắc, xem xét tới các ngành nhất là những ngành công nghiệp công nghệ cao, những ngành có khả năng phát triển và tận dụng hiệu quả nguồn vốn và công nghệ. Tuy nhiên, việc phát triển các ngành công nghiệp thế hệ thứ ba này ở nước ta chỉ có thể thực hiện được sau một thời gian nữa, khi mà nền công nghiệp đã có những tiến bộ nhất định và khi ưu tiên phát triển chỉ có thể chọn một hoặc một vài ngành vì Việt Nam không có đủ vốn để đầu tư lan tràn cũng như chưa đủ khả năng quản lý các ngành này hiệu quả. Song song với việc lựa chọn ngành ưu tiên đầu tư thích hợp trong từng thời kỳ, chính phủ cũng cần xem xét lại đối tượng ưu tiên đầu tư theo hướng thu hẹp lại. Nếu vẫn tiếp tục tình trạng một phần lớn tổng vốn được đầu tư vào khu vực nhà nước là khu vực kinh doanh kém hiệu quả và đầu tư vào những dự án không có khả năng thu hồi vốn thì sẽ là một sự lãng phí lớn . 3.3.3. Vận dụng linh hoạt và hiệu quả công cụ lãi suất. Điều này bắt nguồn từ lý do lãi suất có tác động mạnh đến việc tăng giảm khối lượng vốn và tín dụng. Các ngân hàng thương mại nên thuần thục hơn trong việc cho vay theo lãi suất thoả thuận, linh hoạt hơn trong quá trình điều chỉnh lãi suất huy động và cho vay. Lãi suất cho vay được xác định trên cơ sở lãi suất huy động cộng với chi phí và các phí dịch vụ khác. Riêng lãi suất danh nghĩa cần được xác định trên cơ sở lãi suất thực tế cộng với tốc độ lạm phát. Một khi chính phủ thực hiện được quá trình kiểm soát thu nhập của dân cư và việc sử dụng tài khoản tiền gửi của người dân ngày một rộng rãi, các ngân hàng lại càng có điều kiện huy động vốn của dân cư. Lúc đó công cụ lãi suất lại càng phải thay đổi nhạy bén để quá trình huy động vốn có hiệu quả hơn. Đối vơí hệ thống lãi xuất cho vay ưu đãi, nên hạn chế số lượng các mức lãi xuất, tiến tới áp dụng một mức lãi xuất thống nhất cho cho tín dụng ưu đãi cho các đối tượng vay vốn. Các ngân hàng thương mại Việt Nam cũng nên tích cực tiết kiệm chi phí để có thể giảm lãi suất cho vay đến mức hợp lý để tạo điều kiện thuận lợi hơn nữa cho các doanh nghiệp sử dụng vốn vay dài hạn hơn trong quá trình thực hiện cnh hiện đại hoá. Không nhất thiết phải bắt buộc các ngân hàng thương mại phải cho vay cùng một khung lãi suất, tránh ảo giác ấn định lãi suất. Mặt khác trong quá trình huy động vốn, các ngân hàng cần phải lựa chọn các hình thức huy động thích hợp, tránh đơn điệu. Phấn đấu để nâng dần tỷ trọng vốn vay trung và dài hạn thông qua các công cụ huy động hấp dẫn. Nghĩâ là bên cạnh việc tăng cường sử dụng và hoàn thiện hình thức huy động tiền gửi của dân cư và tiền gửi nhàn rỗi của các doanh nghiệp và tổ chức, cần củng cố và mở rộng các hình thức huy động trung và dài hạn, có tính toán đến yếu tố trượt giá hoặc bảo đảm bằng vàng Tất cả đều cần đến sự tính toán thận trọng, linh hoạt và khẩn trương, nhạy bén và cần theo kịp tình hình biến động của thị trường trong điều kiện hội nhập. 3.3.4. Nâng cao vai trò và năng lực quản lý của Nhà nước Từ kinh nghiệm vai trò của chính phủ trong việc thực hiện công nghhiệp hoá của Hàn Quốc, chúng ta thấy rõ được các chính sách chỉ đạo và biện pháp can thiệp trực tiếp của chính phủ đã có vai trò hết sức quan trọng trong công cuộc công nghiệp hoá, nhằm phát huy những lợi thế so sánh vốn có của nền kinh tế trong đồng thời thúc đẩy sự phát triển của các lợi thế so sánh mới. Từ vai trò của chính phủ Hàn Quốc, với lợi thế của một nước đi sau Việt Nam có thể rút ra được rút ra được một số bài học về nâng cao vai trò và năng lực của chính phủ trong việc hoạch định và tổ chức thực hiện các chính sách nhằm vào việc thực hiện công nghiệp hoá nói chung và chính sách tín dụng nói riêng. Nhà nước không nên can thiệp thô bạo mà chủ yếu điều tiết ở tầm vĩ mô, còn tầm vi mô để cho giới doanh nghiệp đảm nhận và chỉ nên hoạt động ở lĩnh vực cần thiết cho sự tăng trưởng kinh tế mà tư nhân không làm được . Sự quản lý nền kinh tế của nhà nước cần dựa trên cơ sở kết hợp chặt chẽ giữa chính phủ với các nhà kinh doanh để các chính sách của chính phủ đáp ứng được những yêu cầu chính đáng của giới kinh doanh, phục vụ cho việc phát huy tính chủ động sáng tạo của tư nhân và tạo điều kiện thuận lợi cho tư nhân phát triển. Chính phủ cần năng động và linh hoạt trong việc hoạch định và thực hiện chính sách trước sự thay đổi của tình hình. Sẵn sàng loại bỏ những chính sách không đem lại kết quả thiết thực, sớm nhận thức được sai lầm, không dập khuôn, máy móc, giáo điều, cứng nhắc mà dám nhìn thẳng vào sự thật. Để chính sách tín dụng không gây ra những hậu quả xấu nhà nước tăng cường vai trò giám sát của mình thông qua công cụ hệ thống ngân hàng. Nhà nước cần căn cứ vào yêu cầu huy động các nguồn vốn đầu tư trong và ngoaì nước, xây dựng cơ sở hạ tầng và tạo môi trường kinh doanh thuận lợi trong từng giai đoạn cụ thể mà có mức độ can thiệp cho phù hợp . Ngày nay trước sự phát triển của xu thế toàn cầu hoá, khu vực hoá, xu thế hội nhập vào nền kinh tế khu vực và thế giới thì sự can thiệp của nhà nước quá mức sẽ không phù hợp, nhà nước cần để cho cơ chế thị trường tự điều chỉnh. Không thể phủ nhận được ảnh hưởng của năng lực quản lý kinh tế của Nhà nước đối với việc lựa chọn các ngành công nghiệp ưu tiên cũng như đề ra và thực hiện các chính sách khuyến khích, hỗ trợ các ngành này. Sự can thiệp của Nhà nước vào nền kinh tế thông qua các chính sách kinh tế có thể gặp thất bại vì nhiều lý do trong đó có lý do về khả năng điều hành và quản lý của chính phủ không đáp ứng được yêu cầu phát triển của nền kinh tế thị trường. Chính vì vậy, muốn nâng cao hiệu quả chính sách tín dụng cần nâng cao năng lực quản lý của Nhà nước. Để làm được điều này vấn đề đặt ra là cần đào tạo đội ngũ chuyên gia thực sự có năng lực, có phẩm chất chính trị trong lĩnh vực hoạch định chiến lược, phát triển kinh tế xã hội tầm vĩ mô. Đào tạo mới và đào tạo lại đội ngũ cán bộ quản lý, trang bị cho họ những tri thức mới để họ đủ khả năng đề xuất các chính sách quản lý trong cơ chế thị trường. Sa thải những cán bộ thoái hoá biến chất, không còn năng lực, kiên quyết chống lại và loại bỏ tình trạng tham nhũng trong bộ máy quản lý của Nhà nước. Nâng cao năng lực công tác của cán bộ quản lý sẽ cho phép các chính sách của nhà nước đối với phát triển kinh tế nói chung và chính sách tín dụng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá nói riêng được thiết kế đúng đắn và được tổ chức thực hiện tốt để chúng có thể phát huy được tác dụng, tránh tình trạng các chính sách thì hay nhưng chỉ là trên giâý tờ mà không đi được vào được đời sống kinh tế. Nhà nước cần thực hiện cải cách các thủ tục hành chính theo hướng đơn giản hoá, tiến tới thực hiện chế độ “một cửa, một dấu” nhằm tạo điều kiện thuận lợi cho các doanh nghiệp trong hoạt động sản xuất - kinh doanh cũng như người dân trong cuộc sống hàng ngày và xây dựng một hệ thống pháp lý đồng bộ và vững chắc bao gồm hệ thống luật lệ, quy định và các định chế cần thiết cho việc thực thi pháp luật. Chỉ có trên cơ sở tổ chức lại bộ máy quản lý nhà nước theo hướng tinh giản, có hiệu lực thì nhà nước mới có thể thực hiện được vai trò mới của mình trong cơ chế thị trường. 3.3.5. Đảm bảo sự phối hợp của chính sách tín dụng với các chính sách khác . Kinh nghiệm của Hàn Quốc chỉ ra rằng để chính sách tín dụng phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá phát huy được tác dụng của nó trong việc thức đẩy phát triển các ngành công nghiệp mục tiêu nhà nước cần phối hợp sử dụng các công cụ điều tiết khác. Cụ thể là: + Nhà nước cần tiếp tục thực hiện chính sách tỷ giá trên cơ sở cung cầu ngoại tệ của nền kinh tế nhằm thực hiện chính sách tỷ giá linh hoạt trong ngắn hạn và ổn định trong dài hạn, đảm bảo mục tiêu khuyến khích xuất khẩu và tăng dự trữ ngoại hối. Ban hành những qui định để tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng cho hoạt động kinh doanh của các doanh nghiệp, đảm bảo yêu cầu về quản lý ngoại hối nhằm đẩy nhanh tốc độ lưu chuyển vốn ngoại tệ thông qua việc nghiên cứu, áp dụng các công cụ mới trên thị trường ngoại tệ, nhất là các công cụ phòng ngừa rủi ro, hạn chế và tiến tới giảm thiểu nhanh, tối thiểu hóa và ngăn chặn hữu hiệu tình trạng đô la hóa, trên lãnh thổ Việt Nam chỉ sử dụng tiền Việt Nam làm công cụ thanh toán, giao dịch. + Nhà nước cần có những cải cách đối với hệ thống thuế : - Đánh thuế theo tỷ lệ nội địa hoá để hạn chế nhập khẩu và khuyến khích các doanh nghiệp sản xuất trong nước. - Thuế suất đối với các mặt hàng xuất nhập khẩu nói chung, trong đó có sản phẩm công nghiệp nói riêng phải có tính ổn định tương đối, phải được áp dụng trong một thời gian nhất định, không nên thay đối một cách thường xuyên như hiện nay. - Thực hiện sửa đổi về thuế giá trị gia tăng (VAT) và thuế thu nhập doanh nghiệp, xây dựng Luật thuế thu nhập cá nhân với những người có thu nhập cao nhằm tạo sự bình đẳng trong tính thuế. - Đối với những ngành công nghiệp được khuyến khích phát triển và những doanh nghiệp công nghiệp ở khu vực nông thôn, miền núi, Chính phủ nên có chế độ miễn, giảm thuế cụ thể. KẾT LUẬN Hàn Quốc là một trong những quốc gia đã thực hiện công nghiệp hoá rất thành công trong những điều kiện xuất phát điểm thấp về mặt nguồn lực. Một trong những nguyên nhân dẫn đến thành công của sự nghiệp công nghiệp hoá của Hàn Quốc đó là do chính phủ đã sử dụng các công cụ chính sách phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá có hiệu quả mà trong đó chính sách tín dụng đóng vai trò quan trọng. Luận văn đã khẳng định sự cần thiết khách quan và vai trò quan trọng của chính phủ đối với việc định hướng, tạo nguồn lực và tổ chức thực hiện các nhiệm vụ của quá trình công nghiệp hoá và luận giải vai trò của chính sách tín dụng như là một công cụ có hiệu quả mà chính phủ có thể sử dụng phục vụ cho việc thực hiện mục tiêu công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế. Luận văn cũng đã tập trung phân tích làm rõ thực chất của chính sách tín dụng của Hàn Quốc trong từng giai đoạn của thời kỳ công nghiệp hoá và những tác động tích cực cũng như những hậu quả xấu của nó đôí với quá trình phát triển kinh tế của Hàn Quốc nói chung và đối với các doanh nghiệp thuộc khu vực kinh tế tư nhân là những tổ chức được lựa chọn để thực hiện kế hoạch công nghiệp hoá của chính phủ và được hưởng những ưu đãi về tín dụng. Nguyên nhân của cơ bản của thành công của chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc là do nhà nước đã thực hiện được vai trò của mình trong quản lý kinh tế bằng việc tạo dựng được môi trường cạnh tranh cho các tổ chức kinh doanh là đối tượng được hưởng các ưu đãi tín dụng, duy trì được sự giám sát của chính phủ thông qua hệ thống ngân hàng và phối hợp tốt giữa chính sách tín dụng với các chính sách khác, chính phủ cùng chie sẻ rủi ro với các nhà công nghiệp và ngân hàng. Mặc dù chính sách tín dụng của chính phủ Hàn Quốc gây ra một số hậu quả xấu đối với nền kinh tế nhưng có thể khẳng định rằng nó đóng vai trò quan trọng trong việc thực hiện các mục tiêu của công nghiệp hoá và tăng trưởng kinh tế . Chính sách tín dụng có thể được sử dụng như là một công cụ có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. Việt Nam và Hàn Quốc có nhiều điểm tương đồng về bối cảnh thực hiện công nghiệp hoá và mục tiêu công nghiệp hoá. Đây là cơ sở để luận văn đề xuất một số kinh nghiệm có giá trị tham khảo của Hàn Quốc. Đối với Việt Nam, chính sách tín dụng có thể được chính phủ sử dụng như là một công cụ có hiệu quả phục vụ cho sự nghiệp công nghiệp hoá. Tuy nhiên, khi sử dụng công cụ này, cần có cơ chế để tránh những tác động xấu của nó. Việc tìm hiểu kinh nghiệm của Hàn Quốc trong quá trình công nghiệp hoá từ những năm 60-70 đến nay không phải là vấn đề quá cũ, mà vẫn còn mang tính thời sự khi bước vào thế kỷ XXI, Việt Nam vẫn đang ở giai đoạn đầu của thời kỳ công nghiệp hoá. Hy vọng bản luận văn này, dù còn nhiều khiếm khuyết, sẽ tạo được sự quan tâm của các nhà hoạch định chính sách của Việt Nam.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37194.doc
Tài liệu liên quan