Luận văn Đặc điểm truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ

MS: LVVH-VHVN020 SỐ TRANG: 90 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: VĂN HỌC VIỆT NAM TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2008 CẤU TRÚC LUẬN VĂN LỜI CẢM ƠN MỞ ĐẦU 1. LÍ DO CHỌN ĐỀ TÀI 2. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ 3. PHẠM VI NGHIÊN CỨU 4. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU. 5. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN. 6. BỐ CỤC LUẬN VĂN. CHƯƠNG 1: PHẠM HỔ VÀ QUAN NIỆM SÁNG TÁC 1.1. Tiểu sử và sự nghiệp sáng tác. 1.1.1. Tiểu sử. 1.1.2. Sự nghiệp sáng tác. 1.2. Quan niệm sáng tác của Phạm Hổ. 1.2.1. Về thiên chức: nhà văn của thiếu nhi. 1.2.2. Về thế mạnh của nhà văn. 1.2.3. Về cái tình trong viết văn. CHƯƠNG 2: CẢM HỨNG TƯ TƯỞNG TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA PHẠM HỔ 2.1. Những nguồn cảm hứng chính trong truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ. 2.1.1. Cảm hứng về huyền thoại của thiên nhiên. 2.1.2. Cảm hứng về thế giới tình cảm, tâm hồn, trí tuệ của tuổi thơ. 2.2. Sự lí giải thế giới theo con mắt người yêu trẻ CHƯƠNG 3: NGHỆ THUẬT KỂ CHUYỆN CHO THIẾU NHI CỦA PHẠM HỔ 3.1. Nghệ thuật dựng truyện 3.2. Nghệ thuật xây dựng nhân vật 3.3. Nghệ thuật trần thuật 3.4. Giọng điệu KẾT LUẬN TÀI LIỆU THAM KHẢO PHỤ LỤC 1 : CÁC TÁC PHẨM CỦA PHẠM HỔ ĐƯỢC KHẢO SÁT. PHỤ LỤC 2 : KHẢO SÁT MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA PHẠM HỔ THEO MÔ HÌNH CẤU TẠO CỐT TRUYỆN. PHỤ LỤC 3 : THỐNG KÊ VỀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT, BÌNH LUẬN NGOẠI ĐỀ VÀ LỜI VĂN NỬA TRỰC TIẾP TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA PHẠM HỔ. PHỤ LỤC 4 : HỒI ỨC TUỔI THƠ

pdf90 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 5619 | Lượt tải: 4download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc điểm truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ì một cái ngọn mía, bây giờ lại một gốc mía, mà giữa ngày đói, sao ai lại để rơi cái gốc mía đẹp như thế này? ”, “Loài cây mới mọc từ cái gốc mía bị kiến đục rỗng ruột, ngày nay ta gọi là cây Tre. Có lẽ do cái tên cây che mưa che nắng mà ra chăng? Che, che rồi dần dần đọc chệch thành tre, tre” (Hai ông cháu và túp lều dột nát); “Ông cụ nghe con nói trúng ý mình, lòng rất vui nhưng cũng rất lo. Liệu con có làm được công việc nguy hiểm và quan trọng này không ?”, “Hắn biết rằng: cô gái chưa mê hắn thì vẫn có thể làm hại hắn được. Biết đâu người con gái này lại chẳng đến trả thù cho cha mẹ mình, cho anh em mình ?” (Cô gái bán trầm hương); “Chắc các em sẽ hỏi : Nhưng tại sao quả Dứa lại chín vàng mà quả Na thì lúc chín vẫn xanh. Tại sao ruột dứa thì vàng mà múi na thì trắng? Và có em sẽ hỏi: Thế Trang Ly không tạo một giống cây nào giống anh bạn hơi nhát gan của anh Dứa và cô Na ư ?” (Hai anh em nhà trăm mắt); “Vậy thì làm thế nào để cho giống cây mới của mình không bị con chim ác kia đánh cắp được ?” (Những bàn tay nhiều ngón). Giọng điệu trẻ hóa trong truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ còn được tác giả tạo ra nhờ giá trị biểu cảm mà hệ thống các từ ngữ cảm thán và kiểu câu cảm mang lại. Các yếu tố ấy làm thành cái giọng ngạc nhiên, thú vị của trẻ con. Những từ ngữ như : chao ôi, ôi, trời hỡi, ồ… xuất hiện giữa dòng trần thuật của câu chuyện gợi chúng ta hình dung về những biểu hiện tình cảm của trẻ con khi chúng đứng trước một tình huống nào đó của cuộc sống. Người lớn hay có thói quen che giấu xúc cảm nhưng con trẻ thì không, cảm xúc của trẻ luôn tuôn chảy tự nhiên, chân thật, sinh động trong từng nét mặt, cử chỉ và nhất là giọng nói. Phạm Hổ không nhại giọng của trẻ mà ông nói bằng giọng của trẻ một cách tự nhiên, thân mật. Chẳng hạn như: “Người trai trẻ bỗng dừng lại và giụi mắt: Ồ! Sao như ta đã từng đến nơi này! Thôi, thế là ba năm anh đi, anh lại vòng trở về đúng chỗ ngày trước, trở về với con suối Trăm Năm” (Cây một quả); “Mà kìa, sao lại có người xinh đẹp như vậy hỡi trời” (Chuyện nàng Mây); “Chao, tiếng hót của nó nghe mới lạ lùng làm sao! Nghe như thương, như khóc” (Quả tim bằng ngọc); “Cô bỗng khóc nấc lên. Ôi! Cứ tưởng mất hẳn bông hoa, xa mãi nó rồi. Vậy mà bây giờ nó lại đang ở trong tay cô” (Của quý trong lòng đá); “Ừ! hay đấy! Không có thịt thì ăn tạm trứng vậy. Ôi những quả trứng luộc, vừa bùi vừa thơm, đã ngọt lại béo! ” (Những quả ổi biết kêu). Theo chúng tôi, việc Phạm Hổ quyết định chọn giọng điệu trẻ hóa có lẽ bắt nguồn từ ý định muốn xóa đi ranh giới ngăn cách giữa người kể và người nghe người đọc. Cảm giác thân tình, hồn nhiên, tự nhiên, chân thật trong giọng kể ấy rất thích hợp với gu thưởng thức của trẻ em. Và đó cũng là cách Phạm Hổ lạ hóa những câu chuyện cổ tích, đem thêm hương vị lạ cho món ăn cổ tích truyền thống mà các em vốn rất say mê. Không chỉ như thế, Phạm Hổ còn kết hợp trong giọng kể của mình hai chất giọng trái ngược nhau: vừa hồn nhiên, ngây thơ rất trẻ vừa triết lí, suy tư rất già. Giọng kể trong truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ đủ “trẻ” để trẻ em như soi bóng thấy mình nhưng vừa đủ “già” để cho bạn đọc nhỏ tuổi nhận thức các vấn đề quan trọng thiết thực của cuộc sống. Tuy nhiên, nhà văn Phạm Hổ không lên giọng giáo huấn, không quá trang nghiêm, giọng điệu triết lí nhưng gần gũi, suy tư nhưng rất tự nhiên. Giọng điệu triết lí của Phạm Hổ trong các câu chuyện thường xuất hiện nhẹ nhàng trong dòng trần thuật của tác giả như những dấu chấm lửng cần thiết để bạn đọc dừng lại và suy tư cùng nhà văn. Ví dụ trong truyện Tiếng sáo và con rắn, sau khi hai vợ chồng đoàn tụ, người chồng lấy cây sáo trúc ra thổi, Phạm Hổ trong lúc miêu tả âm thanh ấy đã viết những câu văn khiến người đọc phải nghĩ suy: “Tiếng sáo của chàng nghe réo rắt như tiếng của chim, của trời, của sông, của nước nhưng nổi lên rõ hơn cả là tiếng của con người vui mừng được sống trong lẽ phải và tình thương. Ai nghe cũng ngơ ngẩn say mê”. Có lẽ với lứa tuổi của mình, sẽ có em không thích tiếng sáo hoặc cũng có em chưa từng nghe âm thanh ấy, nhưng qua cách vừa kể vừa ngẫm của mình, tác giả giúp bạn đọc nhỏ tuổi hình dung về loại âm thanh mang giá trị hạnh phúc - thứ nhạc điệu của lẽ phải và tình thương. Hoặc trong truyện Hai anh em nhà trăm mắt, Phạm Hổ đã kết thúc truyện bằng những lời bình luận với giọng triết lí rất nhẹ nhàng nhưng sâu sắc: “Có một giống Dứa Dại bên cạnh cây Dứa rất quý kia. Dứa Dại cũng có quả. Quả nó còn to hơn quả dứa quý là khác, nhưng trăm con mắt của quả Dứa Dại thì đều nhắm tịt cả lại vì lo sợ, và ruột của nó thì chỉ những xơ là xơ, vô vị và vô ích”. Nhà văn muốn nhắn nhủ với các em nhỏ rằng không nên là Dứa Dại, dẫu to dẫu cũng có trăm mắt, nhưng không làm được gì có ích cho đời nên rồi cũng sẽ bị bỏ quên. Giọng điệu triết lí của Phạm Hổ không chỉ thể hiện ở lời trần thuật - lời văn bình luận trữ tình mà còn nằm trong cấu trúc của tác phẩm với cách khai triển và sắp đặt chi tiết giàu ý nghĩa. Truyện Quả tim bằng ngọc mở đầu bằng cảnh hai mẹ con nhà nghèo đi ở cho phú hộ, sau những lúc làm việc mệt nhọc: “hai mẹ con chỉ thấy sung sướng khi đêm đến được nằm bên nhau trên mảnh chiếu rách”. Rồi một hôm, vì không vừa lòng, tên chủ đã lấy cái roi mây quật vào lưng em bé: “mà kì lạ quá, tên nhà giàu quật bao nhiêu lằn roi trên lưng đứa con thì bấy nhiêu lằn roi cũng hiện lên trên lưng người mẹ. Từ đó tên nhà giàu đánh con đau ở đâu thì người mẹ đau ở đó, đánh người mẹ đau ở đâu thì đứa con đau ở đó”. Và sau đó, vì cứu một chú chim họa mi, hai mẹ con bị tên chủ gian ác giết chết, nhưng điều kì lạ và cũng là điều đáng suy ngẫm là: “Hai mẹ con chết giống y như nhau, ngực cũng bị một vết thương đâm thủng vào đúng tim và bao nhiêu máu ở tim như đều chảy hết ra ngoài”. Phạm Hổ không cần dùng bất kì một câu văn bình luận nào, chất triết lí trong lời văn của ông tự nhiên thể hiện như cái cách ông nói về chân lí tình mẫu tử. Phạm Hổ buộc mọi người phải suy ngẫm về sợi dây thần giao cách cảm vừa thiêng liêng vừa diệu kì giữa mẹ và con. Phạm Hổ không viết như Êxênin: “Chỉ mẹ là niềm vui, ánh sáng diệu kì. Chỉ mình mẹ nâng con vững bước” (Thư gửi mẹ), cũng không khẳng định như Chế Lan Viên: “Con dẫu lớn vẫn là con của mẹ. Đi hết đời lòng mẹ vẫn theo con” (Con cò), thế nhưng câu chuyện của ông đã đủ nói lên tất cả nội dung vĩ đại và quan trọng ấy trong cuộc sống mỗi con người. Nói tóm lại, tìm hiểu nghệ thuật kể chuyện cho thiếu nhi của Phạm Hổ là một hành trình tìm kiếm hương thơm và âm sắc trong vườn văn mà Phạm Hổ bằng tình yêu dành cho trẻ đã cố công trồng trọt chăm bón. Bước vào khu vườn ấy, người đọc lắng nghe được giọng điệu hồn nhiên, ngây thơ của trẻ và lắng nghe được cả những suy tư triết lí cần có cho cuộc đời rộng bước của các em khi trưởng thành. Có thể nói, việc kết hợp trong truyện hai giọng điệu dường như trái ngược với nhau như thế là một thành công đáng trân trọng của Phạm Hổ. Tất nhiên sẽ có nhiều người nghĩ đó là cách triết lí theo kiểu trẻ con của Phạm Hổ (!?). Nhưng thật ra, người lớn chúng ta chắc cũng cần phải rất nhiều lần nhỏ lại để được cảm nhận được những ý vị lớn lao, ý nghĩa sâu sắc mà giọng điệu triết lí của Phạm Hổ đem đến cho thiếu nhi. Nói như họa sĩ thiên tài Picasso là: “Cần có thời gian lâu dài để trở nên trẻ”. Theo chúng tôi, giọng triết lí trong truyện của Phạm Hổ rất giống với giọng mà Tago - nhà thơ lớn của trẻ em Ấn Độ nói riêng và thiếu nhi thế giới nói chung - người đã trao cho trẻ em cái quyền suy nghĩ về cuộc đời kiểu trẻ con của chúng : “Nhưng con biết trò chơi khác hay hơn. Con là sóng, và mẹ sẽ là bến bờ kì lạ, Con lăn, lăn, lăn mãi rồi sẽ cười vang vỡ tan vào lòng mẹ. Và không ai trên thế gian này biết mẹ con ta ở chốn nào”. (Mây và sóng) Rõ ràng, đứa trẻ trong bài thơ của Ta-go không chiêm nghiệm theo kiểu của Béc-na-sô: “Trong tất cả các kì quan, kì quan đẹp nhất là trái tim người mẹ” nhưng triết lí đơn giản rất trẻ con ấy buộc nhiều người lớn phải thừa nhận: không ở đâu hạnh phúc cho bằng ở bên cạnh mẹ. Gần gũi hơn, chúng ta bắt gặp ở giọng điệu triết lí trong văn xuôi của Phạm Hổ cái chất thơ ngọt ngào, trong trẻo tự nhiên như mạch suối chảy ra những suy tư mà nhà văn muốn trẻ uống lấy: “Cây sung nhiều quả như bà mẹ xưa nhiều con. Quả sung có từ gốc lên đến cành như đàn con xưa bám lấy mẹ từ chân đến vai. Cây sung nghèo túng không tham lam lúc nào cũng rủ bóng xuống che mát cho người cho cá. Quả sung cũng giống như bầu sữa lúc căng và nhựa sung lúc nào cũng trắng như sữa” (Người mẹ nghèo ít gạo nhiều con). Như vậy, chỉ mượn hình ảnh cây sung mà nói được biển đời tình mẫu tử. Người viết chợt nhớ tới cách định nghĩa cũng là triết lí về tình yêu mẹ của một chú bé nhỏ tuổi trong thơ Xuân Quỳnh : “À mẹ ơi, có con dế Luôn trong bao diêm con đây Mở ra là con thấy ngay Con yêu mẹ bằng con dế” (Con yêu mẹ) Thật hồn nhiên và cũng thấm thía biết bao... KẾT LUẬN 1. Truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ là một phần đáng kể trong gia tài văn chương của tác giả. Với hai nguồn cảm hứng lớn là cảm hứng về huyền thoại của thiên nhiên và cảm hứng về thế giới tình cảm, tâm hồn, trí tuệ của tuổi thơ, Phạm Hổ đã thể hiện rõ tâm huyết và tình yêu của mình dành cho thiếu nhi Việt Nam. 1.1. Phạm Hổ không miêu tả lại thiên nhiên một cách đơn thuần mà nhà văn đi kể lại quá trình hoài thai ra chúng như một cuộc hành trình tìm về với huyền thoại xa xưa của tổ tiên loài người. Nghĩa là Phạm Hổ đã huyền thoại hóa, cổ tích hóa những hình ảnh thiên nhiên vốn hết sức quen thuộc trong cuộc sống chúng ta hôm nay. Với mô hình mở đầu bằng một huyền thoại và kết thúc là một loài hoa hoặc loài quả ra đời, Phạm Hổ đã viết nên những trang sử về quá trình hoài thai vừa kì lạ vừa hấp dẫn của thế giới tự nhiên. Thiên nhiên vạn vật dưới cái nhìn của Phạm Hổ như được khoác thêm một chiếc áo mới, mỗi loài hoa loài quả bỗng dưng có thêm một cuộc đời trước đó, trước khi nó trổ thành thiên nhiên thơm thảo cho cuộc đời hôm nay. 1.2. Phạm Hổ mê cây, mê hoa, mê quả nhưng sâu đậm hơn hết là đam mê các em thiếu nhi. Nhà văn viết nhiều về đời sống tình cảm của tuổi thơ, nhất là những tình cảm gia đình. Bên cạnh đó, ông cũng sáng tác những huyền thoại đẹp về tình bạn, tình yêu, tình thầy trò… Thế giới tâm hồn của thiếu nhi còn được Phạm Hổ miêu tả thông qua những ước mơ khám phá và khát vọng hành động kì lạ của lứa tuổi thần tiên, nhất là khi các em biết hòa nhập với cuộc sống thiên nhiên xung quanh. Phạm Hổ cũng rất quan tâm khi đi vào thế giới tư duy, trí tuệ của trẻ em. Trong nhiều câu chuyện, Phạm Hổ khẳng định: những suy nghĩ và quan niệm về cuộc đời của trẻ con không phải lúc nào cũng non nớt, ngây ngô. Các em có trí phán đoán và xem xét riêng, có lí luận riêng và đôi khi làm cho người lớn hết sức bất ngờ, ngỡ ngàng rồi thán phục. 2. Bằng những câu chuyện của mình, Phạm Hổ đưa ra lời giải đáp cho thiếu nhi về thế giới mà các em đang thắc mắc: mọi thứ kì diệu nhất trong cuộc sống hôm nay đều do chính bàn tay con người tạo dựng nên, nguồn gốc của muôn loài chính là ở tình yêu, tình thương và lòng nhân hậu của con người. Mỗi lần cái thiện thắng cái ác, lòng trung hiếu thắng sự bạc bẽo vô ơn, tình thương thắng thù hận, thái độ quên mình thắng thói ích kỉ, tính siêng năng thắng thói lười nhác, sự hiền lành thắng sự hung hăng… thì một loài hoa đẹp, một thứ quả ngon ra đời. Trong truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ, trẻ em đóng vai trò như một điểm nhìn để tác giả tự do tái hiện, cảm nhận, đánh giá, lí giải về tất cả những gì mà các em quan tâm theo cách của riêng chúng. 3. Về nghệ thuật, truyện của Phạm Hổ có những đặc điểm đáng lưu ý sau: 3.1. Thể loại tác giả viết nhiều nhất là cổ tích hiện đại (87%), vì vậy cách dựng truyện của Phạm Hổ rất gần gũi với cách cấu tạo cốt truyện của cổ tích dân gian. Dưới cái nhìn hình thái học truyện cổ tích của V. Propp, chúng tôi tạm xây dựng mô hình cấu tạo cốt truyện trong truyện của Phạm Hổ như sau: nhân vật gặp tai họa - nhân vật gặp gỡ lực lượng thần kì - nhân vật vượt qua thử thách- kết thúc bằng sự hóa thân. 3.2. Phạm Hổ có những cách tân trong lối viết sự tích khá độc đáo và rất mới. Nhà văn chủ tâm phân tích và mô tả để tạo dựng tình huống trong những câu chuyện đồng thời sáng tạo những chi tiết nghệ thuật có vai trò là bước đệm cho sự phát triển của mạch truyện về sau. Phạm Hổ đưa ý thức thời gian của người hiện đại vào trong truyện cổ tích. Đó là thời gian cụ thể, chuyển động theo mạch tâm trạng của nhân vật. Không gian nghệ thuật trong truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ cũng không huyền bí, xa lạ, không phiếm chỉ, mà là bối cảnh sinh hoạt đời thường, là hình ảnh cụ thể về quê hương đất nước Việt Nam. 3.3. Cách xây dựng nhân vật trong truyện của Phạm Hổ rất gần gũi với thi pháp xây dựng nhân vật trong truyện cổ tích dân gian. Nhưng bên cạnh các kiểu nhân vật quen thuộc thường thấy trong cổ tích xưa, Phạm Hổ sáng tạo một số kiểu nhân vật cổ tích mới: kiểu nhân vật có tài văn chương, kiểu nhân vật “có đam mê”, nhân vật thiếu nhi. Đặc điểm chung của các nhân vật trong truyện viết cho thiếu nhi của nhà văn Phạm Hổ là những con người chủ động vượt lên trên hoàn cảnh, ít nhiều được cá tính hóa, nỗi niềm hóa. Còn các nhân vật thần kì như Bụt, Tiên… hiện lên gần gũi, quen thuộc, bình dị, đời thường. 3.4. Truyện cổ tích hiện đại của Phạm Hổ được trần thuật ở ngôi thứ ba (100% truyện), có 2 truyện xuất hiện người trần thuật ngôi thứ nhất xưng “tôi” (Hai ông cháu và túp lều dột nát, Hai anh em nhà trăm mắt), nhưng đó chỉ là thủ pháp dẫn dắt, cách trò chuyện tâm tình giả định với bạn đọc, không phải là phương thức trần thuật chủ quan. Khảo sát truyện ngắn của Phạm Hổ, chúng tôi nhận thấy dẫu là điểm nhìn trần thuật bên trong hay bên ngoài, nhà văn thích chêm vào những đoạn trữ tình ngoại đề ở cuối mỗi truyện (22/ 47 truyện) và sử dụng kiểu lời văn nửa trực tiếp (27/47 truyện). Ngoài ra, Phạm Hổ có xu hướng linh động hóa điểm nhìn trần thuật bên trong các nhân vật. Nhà văn di chuyển điểm nhìn trần thuật từ nhân vật này sang nhân vật khác nhằm làm nổi rõ cảm xúc, nhận thức, tư duy và cả giọng nói bên trong của mỗi nhân vật. 3.5. Khác với Tô Hoài, Nguyễn Huy Tưởng - những cây bút này khi viết lại truyện cổ tích thường tạo một giọng kể điềm đạm, bình thản, ung dung của một người lớn đang kể chuyện cho trẻ - Phạm Hổ kể chuyện cho thiếu nhi bằng giọng của một người rất trẻ. Trẻ nhưng không non, bởi bên cạnh giọng kể của một người trẻ là giọng triết lí, suy tư sâu sắc và thấm thía. 4. Tìm hiểu đặc điểm truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ, chúng tôi nhận thấy những đóng góp không nhỏ của nhà văn vào mảng văn xuôi Việt Nam hiện đại dành cho thiếu nhi: 4.1. Phạm Hổ đã dựng nên một thế giới thiên nhiên đẹp đẽ được ra đời từ tình yêu thương của con người. Bài học về tình yêu cây cỏ, tình nhân ái trong truyện của ông có ý nghĩa lớn trong việc bồi dưỡng những phẩm chất nhân bản cho các thế hệ trẻ thơ. 4.2. Phạm Hổ làm sống lại thế giới cổ tích - một món ăn tinh thần hấp dẫn mà trẻ em lúc nào cũng thích. Cổ tích mới của Phạm Hổ vừa quen nhưng vừa lạ. Những câu chuyện ấy không chỉ làm thỏa mãn nhu cầu thưởng thức của trẻ mà còn đem lại các giá trị thẩm mĩ có khả năng rung động những tâm hồn trẻ thơ. 4.3. So với các cây bút cùng thời, Phạm Hổ đã chọn một lối đi riêng khi ông dành phần lớn tâm huyết để sáng tác cổ tích mới. Quan trọng là tác giả đã có những cách tân trong lối viết sự tích cho thiếu nhi thời hiện đại. Đây là một hướng đi cần ghi nhận và gợi mở một khuynh hướng sáng tác cho các nhà văn hôm nay. 5. Tìm hiểu truyện của Phạm Hổ, chúng tôi cũng có những điều băn khoăn sau: 5.1. So với nhu cầu thưởng thức và sự rộng mở của các phương diện khác nhau trong cuộc sống hiện nay mà thiếu nhi Việt Nam đang đối diện thì truyện của Phạm Hổ còn hạn chế nội dung về thực tế và về các mối quan hệ phức tạp nhiều mặt của đời sống, nhất là thiếu tính cập nhật thời sự và tâm sinh lí trẻ em thời hiện đại. 5.2. Ai cũng biết, yếu tố tưởng tượng vô cùng cần thiết đối với văn học thiếu nhi. Truyện của Phạm Hổ không thiếu những yếu tố tưởng tượng nhưng vì nhà văn cố bám vào hiện thực để miêu tả, lí giải sự ra đời của thiên nhiên hoa quả nên sự tung hoành của trí tưởng tượng còn bị hạn chế. Nói cách khác, chuyện đánh thức tâm hồn bay bổng, kích thích ở các em khát vọng sáng tạo, Phạm Hổ chỉ mới làm được một phần, phần còn lại sẽ là chuyện để dành cho các nhà văn hôm nay. 5.3. Cổ tích dân gian có mô hình chung vì nó là sản phẩm của thời đại riêng “một đi không trở lại”. Cổ tích hiện đại cần những cốt truyện vừa giữ được chất cổ tích nhưng cũng vừa đa dạng và sáng tạo hơn. Làm thế nào mỗi câu chuyện phải là một thế giới có nét hấp dẫn riêng, lôi cuốn riêng đối với bạn đọc thiếu nhi? Câu trả lời vẫn là: “trông chờ các nhà văn trong tương lai” (Trần Hoài Dương). 6. Từ việc tìm hiểu truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ, chúng tôi có những đề xuất nhỏ xem như những gợi mở cho hướng sáng tác của các nhà văn viết cho thiếu nhi hôm nay: 6.1. Văn học dân gian luôn là một kho tư liệu quý cho các nhà văn học tập và phát huy tính sáng tạo phù hợp với yêu cầu thưởng thức của mỗi thời đại. Không chỉ riêng truyện cổ tích, các thể loại khác như thần thoại, truyền thuyết, truyện cười, truyện ngụ ngôn… vẫn còn nhiều khoảng trống hấp dẫn chờ bàn tay làm mới của các nhà văn. 6.2. “Viết cho trẻ là một bài tập khó” (Phan Thị Vàng Anh). Cái khó nảy sinh khi người cầm bút không biết đứng ở điểm nào để có thể thuyết phục được trẻ. Không ít nhà văn bắt lấy cảm xúc và tình cảm trong tuổi thơ của chính mình để sáng tác. Có tác giả đứng trên quan điểm người lớn viết truyện nhằm bảo ban trẻ… Vấn đề cần thiết là làm thế nào cho trẻ thấy được người viết hiểu thế giới của chúng theo cách của chúng? Nhà văn cần phải đứng vào vị trí của trẻ để hiểu tất cả những khát vọng cũng như nhu cầu cần thiết của chúng. Có như vậy, tác phẩm mới thực sự hấp dẫn con trẻ. 6.3. Một tác phẩm hay là tác phẩm mà trong ấy trẻ em bắt gặp cả một thế giới đầy hành động, màu sắc, âm thanh, sự biến ảo… Trẻ em không thích những trò chơi bày sẵn mà muốn tham gia vào trò chơi ấy, dẫu chỉ là trong tưởng tượng. Người viết cần bắt đúng tâm lí của trẻ em như tò mò, thích quan sát, nghe ngóng, hồi hộp, phỏng đoán, phiêu lưu… 6.4. Mỗi tác phẩm viết cho thiếu nhi cần có một đời sống với môi trường thẩm mĩ, đạo đức lành mạnh. Nhưng tất cả những nội dung giáo dục tích cực ấy phải được chuyển tải một cách không gượng ép. Nhà văn cần học thái độ tôn trọng bạn đọc thiếu nhi. 7. Trong lúc nghiên cứu, chúng tôi cố gắng đánh giá một cách hệ thống, khách quan và toàn diện mảng truyện viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ, nhưng chắc sẽ còn nhiều vấn đề cần phải được bàn bạc và suy nghĩ sâu hơn. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. A. Li-Kum (2000), Thế giới quanh ta - Kiến thức bách khoa phổ thông dành cho trẻ em, tập một, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 2. An-đéc-xen (2005), Truyện cổ An-đec-xen, Nxb Văn học, Hà Nội. 3. Tạ Duy Anh (2000), Nghệ thuật viết truyện ngắn và kí, Nxb Thanh niên, Tp.Hồ Chí Minh. 4. Assen Bossev (1995), “Janko - nhạc sĩ và tình hữu nghị”, Tạp chí Văn học 5/1995, tr.47- 48. 5. Nguyễn Nhật Ánh (2005), Truyện cổ tích dành cho người lớn, Nxb Kim Đồng, Tp.Hồ Chí Minh. 6. Nguyễn Nhật Ánh (2007), Cho tôi xin một vé đi tuổi thơ, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh. 7. Lại Nguyên Ân (1999), 150 thuật ngữ văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 8. Hoàng Văn Cẩn (2006), Dạy học tác phẩm văn học dành cho thiếu nhi, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh. 9. Nguyễn Đổng Chi (2000), Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam, tập 1, tập 2 (in lần 8), Nxb Giáo dục, Hà Nội. 10. Nguyễn Đình Chỉnh (2006), Sư phạm học tiểu học, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh. 11. Vũ Khắc Chương (2000), Nghệ thuật kể chuyện trong tác phẩm Nam Cao, Nxb Văn học, Hà Nội. 12. Chu Xuân Diên, “Truyện cổ tích dưới mắt nhà khoa học”, Tạp chí nghiên cứu văn học dân gian số 11/ 2000. 13. Chu Xuân Diên (1995), Thi pháp truyện cổ tích, Nxb Giáo Dục, Tp.Hồ Chí Minh. 14. Lê Tiến Dũng (2003), Giáo trình lí luận văn học, phần tác phẩm văn học, Nxb Đại học quốc gia , Tp.Hồ Chí Minh. 15. Nguyễn Xuân Đức (2003), Những vấn đề thi pháp văn học dân gian, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 16. G.N. Pôxpêlôp (1998), Dẫn luận nghiên cứu văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 17. Lê Đạt, Lê Minh Hà (2006), Truyện cổ viết lại, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh. 18. Hoàng Ngọc Hiến (1999), Năm bài giảng về thể loại, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 19. Nguyễn Thái Hòa (2000), Những vấn đề thi pháp của truyện, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh. 20. Tô Hoài (1993), “Văn học cho thiếu nhi hôm nay”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.4. 21. Tô Hoài (1998), Tuyển tập văn học thiếu nhi, tập 2, Nxb Văn học, Hà Nội. 22. Tô Hoài (1998), Ba chuyện cổ tích (Đảo Hoang, Nhà Chữ, Chuyện nỏ thần), hai tập, Nxb Kim Đồng, Tp.Hồ Chí Minh. 23. Phạm Hổ (1962), Vườn xoan, Nxb Văn học, Hà Nội. 24. Phạm Hổ (1982), Những ô cửa những ngả đường, Nxb tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 25. Phạm Hổ (1990), Người vợ lẽ, Nxb Tổng hợp, Bình Định. 26. Phạm Hổ (1993), “Làm sao để viết cho các em hay hơn”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.29-31. 27. Phạm Hổ (1994), Lửa vàng lửa trắng lửa nâu, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 28. Phạm Hổ (1995), Cất nhà giữa hồ, Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 29. Phạm Hổ (1995), Tuyển tập Chuyện hoa chuyện quả, Nxb Phụ Nữ, Hà Nội. 30. Phạm Hổ (1998), Lời cầu xin cuối cùng, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 30. Phạm Hổ (2000), Chú bò tìm bạn, Nxb Kim Đồng, Tp.Hồ Chí Minh. 32. Phạm Hổ (2001), Nàng tiên nhỏ thành ốc (kịch), Nxb Kim Đồng, Hà Nội. 33. Phạm Hổ (2003), Cây bánh tét của người cô, Nxb Kim Đồng, Tp.Hồ Chí Minh. 34. Phạm Hổ (2005), Chuyện hoa chuyện quả, Nxb Kim Đồng, Tp.Hồ Chí Minh. 35. Mộng Huyền (1996), Truyện cổ tích thế giới chọn lọc, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 36. Trần Mạnh Hưởng (2005), Luyện tập về cảm thụ văn học ở tiểu học, Nxb Giáo dục, Tp.HCM. 37. Hoài Khánh, Nhà thơ Phạm Hổ trong kí ức của tôi, hoaikhanh.vnweblogs.com. 38. Trần Đăng Khoa (tuyển chọn), Tế Hanh (giới thiệu) (1999), Tuyển tập Phạm Hổ, Nxb Văn học, Hà Nội. 39. Lê Nhật Ký (2005), “Phạm Hổ - người kể chuyện cổ tích về hoa quả”, Thông báo khoa học, ĐH Quy Nhơn số 5/ 2005, tr.15-18. 40. Lê Nhật Ký (2005), “Phạm Hổ thơ viết cho lứa tuổi nhi đồng”, Thông báo khoa học, Đại học Quy Nhơn, số 31/ 2005, tr.12-15. 41. Lê Nhật Ký (2006), Phạm Hổ - Một lối đi riêng trong truyện cổ viết lại, 42. Viết Linh (2005), H.C. An-đec-xen Người kể chuyện thiên tài (truyện), Nxb Thanh Niên, Tp.Hồ Chí Minh. 43. Phạm Phương Liên, Thiên nhiên trong thơ viết cho thiếu nhi của Phạm Hổ, 44. Lê Quang Long - Nguyễn Thị Thanh Huyền (1994), Chuyện lạ có thật về thực vật, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh. 45. Lê Quang Long (2006), Từ điển tranh về các loài cây, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh. 46. Nguyễn Văn Long, Lã Nhâm Thìn (2006), Văn học Việt Nam sau 1975 những vấn đề nghiên cứu và giảng dạy, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh. 47. Phương Lựu (1997), Lí luận văn học, tái bản lần thứ 1, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 48. Lã Thị Bắc Lý (2000), Truyện viết cho thiếu nhi sau năm 1975, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 49. Lã Thị Bắc Lý (2003), Giáo trình văn học trẻ em, Nxb Đại học sư phạm, Hà Nội. 50. Nguyễn Đăng Mạnh (2002), Con đường đi vào thế giới nghệ thuật của nhà văn, tái bản lần 3, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 51. M.B.Khrapchenko (2002), Những vấn đề lí luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia, Hà Nội. 52. Gia Mạnh ( 2006), Truyện cổ tích về các loài cây, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 53. Mikhai Ilin (1995), “Tôi đã trở thành nhà văn viết cho thiếu nhi như thế nào?”, Tạp chí văn học 5/1995, tr.50. 54. Vũ Tú Nam, Phạm Hổ, Bùi Hiển (2004), Văn miêu tả và kể chuyện, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 55. Tăng Kim Ngân (1994), Cổ tích thần kì người Việt - đặc điểm cấu tạo cốt truyện, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 56. Nguyên Ngọc (1986), “Phạm Hổ với Chuyện hoa, chuyện quả của anh”, tham luận hội thảo về ba nhà văn chuyên viết cho thiếu nhi Nguyễn Huy Tưởng, Tô Hoài, Phạm Hổ tại Hà Nội năm 1986. 57. Nguyên Ngọc (1995), “Viết cho trẻ em hôm nay càng khó hơn”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.3- 4. 58. Hữu Ngọc (dịch) (1983), Truyện cổ Grim, Nxb Văn học, Hà Nội. 59. Mai Ngọc (tuyển) (2005), Truyện cổ tích hay nhất thế giới viết cho thiếu nhi, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 60. Trần Đức Ngôn (1996), Văn học thiếu nhi Việt Nam, Nxb Trường ĐHSP I, Hà Nội. 61. Vương Trí Nhàn (1980), Sổ tay người viết truyện ngắn, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam, Hà Nội. 62. Nhiều tác giả (1993), “Văn học cho thiếu nhi trên thế giới”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.60-63. 63. Nhiều tác giả (1999), Nghệ thuật kể chuyện cho trẻ, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 64. Nhiều tác giả (2001), Hoàng tử mặt trời: Trên những nẻo đường cổ tích, Nxb Phụ nữ, Hà Nội. 65. Nhiều tác giả (2002), Văn học và phương pháp cho trẻ tiếp xúc với văn học, Giáo trình đào tạo giáo viên THSP mầm non, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 66. Rô-đa-ri Gian-ni (2000), Truyện cổ tích hiện đại, Nxb Văn hóa thông tin, Hà Nội. 67. Trần Đình Sử - Nguyễn Khắc Phi (2004), Từ điển thuật ngữ văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 68. Trần Đình Sử (1993), Một số vấn đề thi pháp học hiện đại, tài liệu BDTX chu kì 1992-1996 cho giáo viên văn cấp 2 phổ thông, Nxb Bộ giáo dục và đào tạo, Hà Nội. 69. Phạm Bá Tân (2004), “Đóng góp của Phạm Hổ cho một thể loại văn học thiếu nhi”, Nghiên cứu văn học số 9/2004, tr.42-46. 70. Vân Thanh (1982), Truyện viết cho thiếu nhi dưới chế độ mới, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội. 71. Vân Thanh, Nguyên An (2002), Bách khoa thư văn học thiếu nhi Việt Nam, tập một, Nxb Từ điển bách khoa, Hà Nội. 72. Phương Thảo (tuyển) (2003), Truyện cổ tích về những loài hoa, Nxb Giáo dục, Tp.HCM. 73. Nguyễn Quang Thân (1993), “Văn học hành trang đường đời cho trẻ thơ”, Tạp chí văn học số 5-1993, tr.6-7. 74. Phong Thu (2005), Tuyển tập truyện viết cho thiếu nhi từ sau cách mạng tháng 8, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh. 75. Phong Thu (2006), Truyện ngắn dành cho tuổi nhi đồng, Nxb Giáo dục, Tp.Hồ Chí Minh. 76. Nguyễn Huy Tưởng (1966), Tìm mẹ, Nxb Văn học, Hà Nội. 77. Nguyễn Huy Tưởng (2004), Truyện viết cho thiếu nhi, Nxb Thanh Niên, Tp.Hồ Chí Minh. 78. Tzvetan Todorov (2005), Thi pháp văn xuôi, Nxb ĐH sư phạm, Hà Nội. 79. Hồng Vân (1996), Chuyện cổ tích cho em, Nxb Trẻ, Tp.Hồ Chí Minh. 80. Véra C. Barclay (1993), “Truyện cho trẻ em”, Tạp chí văn học số 5/1993, tr.49. 81. V.IA. Prốpp (2003), Tuyển tập V.IA.PROPP, tập 1, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. PHỤ LỤC 1 CÁC TÁC PHẨM CỦA PHẠM HỔ ĐƯỢC KHẢO SÁT. 1. Những bàn tay nhiều ngón 2. Cây chanh quả vàng 3. Cây một quả 4. Tiếng sáo và con rắn 5. Quả tim bằng ngọc 6. Những con ốc kì lạ 7. Cái ô đỏ 8. Ruột vàng hạt lắm 9. Em bé và Rồng con 10. Chuyện nàng Mây 11. Những thanh gươm xanh 12. Con cua lửa 13. Cô bé và ông Táo 14. Ba chiếc áo ba màu 15. Em bé hái củi và chú hươu con 16. Tép lên cây 17. Một người con có hiếu 18. Chim Lưu Ly 19. Cái kéo kì lạ 20. Cô em gái biết lo xa 21. Người ăn trộm đi nhầm nhà 22. Cô gái thêu tài và chàng trai dệt giỏi 23. Hai ông cháu và túp lều dột nát 24. Mùi hương kì lạ 25. Những bông hoa hình mũi kim 26. Ngôi đền đỏ 27. Những người con hiếu thảo 28. Hai vợ chồng và con voi quý 29. Những bông hoa mới ở Hồ Thơm 30. Cô gái bán trầm hương 31. Dòng sữa của người chị 32. Màu áo, màu hoa 33. Cơm cho chó ăn 34. Ăn lá mà nhả ra vàng 35. Hai anh em nhà trăm mắt 36. Người mẹ nghèo ít gạo nhiều con 37. Cây lạ quả ngon 38. Em bé hay cười 39. Cây đàn và bầu rượu của người thầy 40. Quả có nhiều khía 41. Của quý trong lòng đá 42. Những quả ổi biết kêu 43. Cái áo choàng lông cáo 44. Khóm dứa lá không gai 45. Chọn rể quý 46. Hạt ngày, hạt đêm 47. Bài thi nhập học PHỤ LỤC 2 KHẢO SÁT MỘT SỐ TÁC PHẨM CỦA PHẠM HỔ THEO MÔ HÌNH CẤU TẠO CỐT TRUYỆN. Truyện Nhân vật gặp tai họa hoặc thử thách. (1) Nhân vật gặp gỡ lực lượng thần kì. (2) Nhân vật vượt qua tai họa, thử thách. (3) Kết thúc bằng sự hóa thân. (4) Những bàn tay nhiều ngón - Cuộc thi tìm giống cây mới. - Con chim ác mổ phá quả quý. - Giống cây được đứng giải nhất. - Cây chuối. Cây chanh quả vàng - Giặc dữ kéo tới, tên tướng giặc có phép tinh. - Quất lên đường đuổi giặc. - Quất xin vua đúc cho một cây roi sắc ba cạnh nhỏ như cây mây nhưng dài bằng cây tre. * Vua ở đây là hiện thân cho lực lượng thần kì vì vua vốn sở hữu một cây chanh quả bằng vàng. - Đường roi thứ ba cắt ngang cổ giặc. - Vua ban cho Quất cây chanh quả vàng. - Dân gian lấy tên Quất đặt cho cây => Cây quất. Cây một quả - Anh chàng trẻ tuổi yêu cô gái chăn tằm nhưng bố mẹ cô gái không chấp nhận. - Anh nằm mơ gặp bà cụ áo xanh chỉ cho đi tìm loài quả hạnh phúc làm tan đi lòng hờn giận. - Sau ba năm, anh hái được quả quý đem về. - Cha mẹ cô gái chấp nhận mối duyên của hai người. - Anh đem cây một quả về trồng, quả chín vàng ươm ra trăm quả, nghìn quả. => Cây mơ. Tiếng sáo và - Con rắn lục yêu người chồng nên - Chàng tìm gặp một ông cụ nổi - Con rắn không nhận ra => Hoa thiên lý. con rắn biến thành hình người vợ để lừa chàng. tiếng là tài giỏi trong việc tìm ra chuyện phải trái ở trên đời. - Ba cuộc thử thách. người chồng nên hiện nguyên hình. - Vợ chồng sống bên nhau hạnh phúc. Quả tim bằng ngọc - Em bé người ở thả con chim họa mi của lão nhà giàu. - Chim họa mi nói tiếng người. - Hai vợ chồng nhà giàu chết. - Mẹ con em bé chết hóa thân thành quả loòng boong. Những con ốc kì lạ - Anh học trò nhà giàu ngu dốt ganh tị với hai người học trò nghèo thông minh nên tìm mọi cách hãm hại bạn. - Người thầy cho những con ốc roi thần kì: học giỏi thì nó sáng lên như đèn và giúp cho thành đạt. - Cha con lão nhà giàu và ông vua ác chết. - Hai người học trò nghèo thành đạt, lấy nhau sống hạnh phúc. - Hai người học trò nghèo chết hóa thân thành cây roi. Cái ô đỏ - Búp bị liệt, Cành muốn em hết bệnh. - Cành lên núi tìm Bụt. - Cành gặp Bụt và xin Bụt giúp. - Bụt thử thách Cành may cái ô đỏ và đổi chân cho em. - Búp và Cành được lành lặn. - Bụt cầm ô đỏ làm ra hoa râm bụt. Ruột vàng hạt lắm - Lũ lụt, bão, đói rét. - Bí và Mít đi tìm thức ăn. - Bí và Mít gặp bà tiên cho quả lạ. - Mít vì siêng năng, hiền lành nên có giống hạt trồng ăn ngon ngọt. - Bí vì lười biếng nên chỉ - Quả mít. - Quả bí ngô. có giống hạt ăn có mùi hôi nồng. Em bé và rồng con - Tên ăn cướp và con quạ tinh cướp con mắt của rồng. - Em bé phải tìm lại đôi mắt cho rồng con. - Bà Tiên ở núi Ngũ Sắc chỉ : chôn mắt rồng một gang tay, mười ngày tưới sữa, mười ngày tưới mật. - Rồng con sáng mắt. - Cây nhãn. Chuyện nàng Mây - Nàng Mây hiền lành bị công chúa Thanh Hoa ganh ghét. - Ba thử thách: làm bèo đen thành trắng như mây, chắp rễ bèo thành sợi chỉ dài, nhét cuộn chỉ dài vào vỏ quả hồng. - Bà cụ trông vườn cho lời khuyên. - Ốc nhỏ, nhện nâu, nhện ông, ong chúa và ong vàng giúp nàng Mây. - Nàng Mây hoàn thành nhiệm vụ và trở nên xinh đẹp hơn. - Công chúa vì tức giận nên càng xấu xí và chết. - Quả bông vải. Cô bé và ông táo - Con quái vật đầu người mình báo và đầu người mình trăn xuất hiện quấy nhiễu cuộc sống người dân. - Cô bé thay cha nhận lời giúp đỡ bà con làng xóm trừ quái vật. - ông Táo. - Quái vật bị tiêu diệt nhưng cô bé chết. - Cô bé chết hóa thân thành hoa mai vàng. Em bé - Lão đồ tể muốn - Chú hươu cứu - Lão đồ tể - Hươu chết hái củi và chú hươu con bắt chú hươu, người bạn của em bé nghèo. - Cậu bé bị lão chủ truy đuổi và tìm cách giết hại. sống em bé. * Hươu là lực lượng thần kì vì có khả năng cứu sống em bé, hiểu được tiếng người. chết. - Em bé trưởng thành, lập gia đình sống hạnh phúc. trong chờ đợi và hóa thân thành cây hoa đại. Tép lên cây - Tướng giặc hung ác giết hại người dân vô tội và anh cả. - Bốn anh quyết tâm giết giặc. - Năm anh chị em tài giỏi: anh cả rèn giỏi, anh hai giỏi thơ văn, cô em thư ba khâu vá giỏi, anh tư có tài bơi lội, em út tài bắn giỏi. - Tên tướng giặc bị tiêu diệt. - Tên cô em thứ ba đặt tên cho thứ quả kì diệu: quả bưởi. Cái kéo kì lạ - Chú bé muốn mua cái kéo cắt nắng để sưởi ấm cho bà qua mùa đông lạnh giá. - Ông lão bán kéo và lời dặn thần kì. - Em bé cắt được nắng sưởi ấm cho bà và mọi người. - Cây hoa cải vàng. Cô gái thêu tài và chàng trai dệt giỏi (1)Lời thách cưới: dệt mười thước lụa không một chỗ đứt nối và tìm nhuộm một màu chỉ hồng trăm năm. (2) Tên vua độc ác bắt cô vợ vào cung. (1) Én dẫn đường, chàng trai gặp bà Tiên lo việc thêu thùa. (2) Mười bà Tiên ở rặng núi Phượng, Én sống lại. (1) Cô gái nhận lời lấy chàng trai. (2) Tên vua độc ác chết, người vợ sống lại. - Cây hoa đào. Hai ông cháu và (1) Ông lão già sống một mình cô (1) Thần Đất hứa giúp đỡ. (1) Chú bé nghèo xuất túp lều dột nát đơn nghèo khổ mong muốn có người trò chuyện. (2) Nạn đói xảy ra, hai ông cháu chia nhau tìm cái ăn. hiện, hai ông cháu sống yêu thương gắn bó. (2) Chú bé tìm được thức ăn đem về thì ông đã mất. - Cây tre. Mùi hương kì lạ - Cô Mộc xinh đẹp bị quỷ Bùn Đen bắt, anh Trà lên đường cứu vợ. - Đất, đá, con dơi, ngôi sao giúp đỡ cô Mộc. - Anh Trà tiêu diệt quỷ và cứu được cô Mộc. - Thần Trang Ly. - Cây hoa mộc. Những bông hoa hình mũi kim - Cuộc thi chọn người may tài nhất. - Chàng trai may tài và cô gái may giỏi. - Cả hai cùng giải nhất và thành vợ chồng. - Thần Trang Ly. - Cây hoa cỏ may. Những bông hoa mới ở hồ Thơm - Hai chị em mồ côi hát hay bị con trai vị quan to háo sắc bắt giam ở hồ Thơm. - Cô em trao cho chị túi thần kì làm tên con quan không thể đụng vào người. - Bà chúa hồ Thơm. - Hai chị em sống lại. - Hoa sen * Một số lưu ý: + Nếu nhân vật chính là vị thần thì không có giai đoạn 2, nếu nhân vật chính là kiểu nhân vật tài giỏi thì họ chính là lực lượng thần kì. + Lực lượng thần kì có thể hiện diện trong nhiều tư cách để giúp đỡ nhân vật chính, có khi chỉ là người bình thường nhưng sở hữu trí tuệ của thần thánh. + Giai đoạn 3 sau khi lực lượng ác bị tiêu diệt, có khi nhân vật chính sẽ chết nhưng đó là cái chết của chiến thắng, nên nhân vật sẽ được hóa thân để có thể sống muôn đời. + Giai đoạn cuối: Truyện kết thúc bằng cách ấy tên nhân vật chính đặt cho cây hoặc hoa. Trong nhiều chuyện, nhân vật không chết, không hóa thân mà thần Tiêu Ly, thần Trang Ly (thuộc gia phả thần Cây) xuất hiện và tạo ra giống cây mới dựa trên nguyện vọng của các nhân vật chính. + Trong một vài câu chuyện, nhân vật sau khi trải qua thử thách lần một (1) lại tiếp tục gặp thử thách lần hai (2). Theo cách gọi của V. Prốp thì truyện ấy có hai tiến trình. PHỤ LỤC 3 THỐNG KÊ VỀ ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT, BÌNH LUẬN NGOẠI ĐỀ VÀ LỜI VĂN NỬA TRỰC TIẾP TRONG TRUYỆN VIẾT CHO THIẾU NHI CỦA PHẠM HỔ. ĐIỂM NHÌN TRẦN THUẬT STT TRUYỆN BÊN NGOÀI BÊN TRONG LINH ĐỘNG BÌNH LUẬN NGOẠI ĐỀ LỜI VĂN NỬA TRỰC TIẾP 1 Những bàn tay nhiều ngón X X X 2 Cây chanh quả vàng X X 3 Cây một quả X X 4 Tiếng sáo và con rắn X X 5 Quả tim bằng ngọc X X X X 6 Những con ốc kì lạ X X 7 Cái ô đỏ X X X 8 Ruột vàng hạt lắm X X 9 Em bé và Rồng con X X 10 Chuyện nàng Mây X X X 11 Những thanh gươm xanh X X 12 Con cua lửa X 13 Cô bé và ông Táo X 14 Ba chiếc áo ba màu X 15 Em bé hái củi và chú hươu con X X X X 16 Tép lên cây X X 17 Một người con có hiếu X X X X 18 Chim Lưu Ly X X 19 Cái kéo kì lạ X X 20 Cô em gái biết lo xa X 21 Người ăn trộm đi nhầm nhà X 22 Cô gái thêu tài và chàng trai dệt giỏi X X X X 23 Hai ông cháu và túp lều dột nát X X 24 Mùi hương kì lạ X X X 25 Những bông hoa hình mũi kim X X 26 Ngôi đền đỏ X 27 Những người con hiếu thảo X 28 Hai vợ chồng và con voi quý X X X 29 Những bông hoa mới ở Hồ Thơm X X X 30 Cô gái bán X X X trầm hương 31 Dòng sữa của người chị X X 32 Màu áo màu hoa X 33 Cơm cho chó ăn X 34 Ăn lá mà nhả ra vàng X X 35 Hai anh em nhà trăm mắt X X 36 Người mẹ nghèo ít gạo nhiều con X 37 Cây lạ quả ngon X X 38 Em bé hay cười X X 39 Cây đàn và bầu rượu của người thầy X X 40 Quả có nhiều khía X 41 Của quý trong lòng đá X X X X 42 Những quả ổi biết kêu X X 43 Cái áo choàng lông cáo X X X 44 Khóm dứa lá không gai X X 45 Chọn rể quý X X 46 Hạt ngày hạt đêm X X 47 Bài thi nhập học X X X TỔNG 20/47 27/47 6/47 22/47 27/47 PHỤ LỤC 4 HỒI ỨC TUỔI THƠ Hồi còn bé, lắm khi mùa hè chưa về, chúng tôi, lũ nhóc trong xóm, đã có ý mong chờ các cô ấy đến, các cô bán xu xoa ấy mà! Và khi nghe có tiếng gọi ở cổng trước hay ở phía sau nhà "Xu xoa ơi! Xu xoa!" là mấy anh em chúng tôi mừng rơn, chạy đi xin tiền ăn xu xoa. Nhưng cũng đôi khi, mùa hè đến rồi, mà chẳng thấy bóng dáng cô bán xu xoa đâu cả. Xu xoa có lẽ là món ăn ngon nhất và rẻ nhất trong mấy tháng hè nóng bức. Và hình như trời sinh ra các cô ấy để đi bán xu xoa. Tôi chưa hề thấy trong suốt tuổi nhỏ của mình một người đàn ông nào đi bán xu xoa cả. Chỉ lác đác có vài bác gái, tuổi không cao lắm, cũng đi bán xu xoa thôi. Bây giờ nhớ lại tôi mới đoán là, đi bán xu xoa, cần nhất là phải có hai bàn tay thật mềm, thật dẻo. Mà đàn ông thì làm sao có được đôi bàn tay mềm dẻo như các cô. Buổi trưa hôm ấy, mấy anh em chúng tôi đang nằm ngủ lơ mơ trên cái chõng lớn kê gần ngay bên cửa sổ thì bất ngờ em gái tôi bỗng chồm dậy, lay lay tay tôi và bảo, vẻ xúc động: - Anh Mười ơi! Nghe kia kìa! Tôi chồm dậy theo nó và hướng tai ra phía cổng trước nhà tôi. Những tiếng "loách - xoách! loách - xoách" từ phía đó vẳng đến nghe rất rõ. Đúng là tiếng dao đang cắt xu xoa! Cả bốn anh chị em chúng tôi cùng kéo nhau chạy ra ngõ giữa trời nắng rồi rẽ vào cái đường luồng nhà bác Trảy... Đường luồng nhà bác Trảy gần như suốt ngày được bóng tre che mát. Cô bán xu xoa đã có mặt ở đó từ lúc nào. Vây quanh cô đã có bốn năm người, con nít có, người lớn có người đang bưng bát xu xoa ăn, người đang đợi... Gánh hàng cô bán xu xoa thật đơn giản, gọn gàng. Nhưng không phải là nhẹ đâu nhé. Tôi đã có lần thử nhấc lên mà không nhấc nổi. Trong cái quang đầu gánh bên này là một cái nồi bầu bằng đất nung chín, nửa dưới chín tím, nửa trên chín đỏ. Hai phần ba cái nồi bầu bầu đựng nước trong veo, trong đó khi dỡ các nắp ra sẽ thấy nổi lơ lửng, những tảng xu xoa mầu trắng đục. Trong cái quang đầu gánh bên kia là một cái thúng, to hơn cái nồi bầu đựng xu xoa một chút. Trong cái thúng lại có một cái chậu đựng nước, trên mặt nước nổi lềnh bềnh đoạn lá chuối non cho nước đỡ sóng sánh khi gánh đi. Trên mặt thúng là một cái mẹt, và chung quanh là những cái bát nằm úp sấp trông rất ngoan ngoãn. Kìa cô bán xu xoa đang một tay cầm cái tô và con dao, một tay ngửa ra, chọc xuống nước để rình đón lấy một tảng xu xoa vui vẻ trôi nằm trong lòng bàn tay cô bán xu xoa. Một tảng, hai tảng rồi ba tảng. Những tảng xu xoa rời khỏi mặt nước nằm rung nhẹ trong lòng bàn tay trắng muốt của cô bán xu xoa, sung sướng như những đứa bé ngụp lặn ở dưới nước, được trồi người lên đứng thở không khí một cách thoải mái và hứng thú. Bàn tay cô bán xu xoa vừa thả mấy tảng xu xoa vào lòng cái tô, đã nhanh nhẹn cầm lấy con dao sắc và nhọn chém những nhát thật nhanh, thật gọn và rất dứt khoát vào các tảng xu xoa, tiếng "loách xoách!" lập tức nổi lên. Con dao như bay múa nhìn thật vui và đẹp mắt. Và lạ lùng chưa, mấy tảng xu xoa vừa trắng đục đã biến ra thành rất nhiều mảnh xu xoa bé nhỏ nhìn trong suốt tưởng như có thể nhìn từ bên này sang bên kia được. Cô bán xu xoa bây giờ mới đặt nhanh con dao nhỏ lên mặt cái mẹt rồi đưa tay mở cái nắp hũ đựng đường mật. Từ trong lòng hũ nhô lên hiện ra một cái vồ con bằng gỗ bé tẹo... chung quanh cái vồ con ấy lai láng những mật đường; chúng tụ lại, chảy thành một dòng mật mầu vàng óng như cánh kiến. Cô bán xu xoa lại khéo léo dùng cái vồ rải mật lên tô xu xoa, vẽ những vòng tròn lớn, nhỏ rồi những đường dài ngoằn ngoèo nhìn rất lạ mắt. Nhìn tô xu xoa đã thấy muốn kề môi húp luôn. Phải, ăn xu xoa người ta không cần đến thìa, dĩa gì cả, cứ bưng mà húp dần bát xu xoa cho đến hết. Nhìn cách mọi người ăn xu xoa thật là vui, ai cũng như biến thành trẻ con: mật đường cứ bám lấy quanh mồm, già trẻ đều phải thè lưỡi ra liếm quanh môi cho sạch. Mật đường có khi dính cả vào râu các cụ già. Có cụ ăn xong phải xin cô bán hàng một tô nước để rửa râu cho sạch. Xu xoa mát và thơm. Hương vị có thoảng một chút mùi tanh rất quen thuộc và hiền lành của biển. Mọi người đang vui vẻ ăn xu xoa, bỗng có tiếng hát trong cổng nhà bác Trắc vẳng ra: “Xu xoa ít vốn nhiều lời Anh về bỏ vợ, theo người bán xoa”. Mọi người cùng cười ồ cả lên. Cụ già lớn tuổi nhất trong đám ăn xu xoa liền cất giọng hỏi: - Đứa nào hát đó? Có giỏi thì ra đây hát cho cô bán xoa nghe luôn. Một anh thanh niên cao lớn từ trong ngõ nhà bác Trắc đi ra. Anh liền hò lên một lần nữa: “Xu xoa ít vốn nhiều lời Anh về bỏ vợ, theo người bán xoa”. Cô bán xoa liền nhoẻn miệng cười rồi nói luôn: - Chưa vợ thì còn theo được chứ có vợ rồi thì không ai cho theo đâu! Đừng có mà hòng! Mọi người lại cười ồ lên lần nữa. Đấy, ăn xu xoa cạnh cái ngon, còn có những câu vui như vậy đó. Làm sao xa quê mà không nhớ xu xoa! Cũng các cô xu xoa kể chuyện cho nghe thì để có xu xoa cho các cô gánh đi bán ở các làng gần biển, phải có người đi ra biển, lặn lội đi vớt những đám rong biển tên gọi là rau câu. Và vì công việc nặng nhọc, người đi vớt rau câu, phần lớn là đàn ông... Sau này lớn lên, sống xa làng quê, chúng tôi thỉnh thoảng vẫn nhớ đến cái món xu xoa được ăn dưới bóng mát các lùm tre, buổi trưa xế, hiu hiu có ngọn gió biển từ xa thổi về. Chúng tôi lại được ăn một thứ xu xoa cao cấp tên gọi đông sương. Vâng, đông sương là từ xu xoa, người ta tinh chế ra. Đông sương ăn cũng rất ngon và rất sang. Nhưng theo tôi nó thua xu xoa ở cái chỗ, ăn đông sương không còn thấy thoảng cái mùi tanh rất quen thân của biển, không được có dịp để nhớ lại những người đàn ông đi vớt rau câu ở ven biển và các cô gái làng quê gánh xu xoa đi bán xu xoa có đôi bàn tay mềm mại, trắng muốt cùng tiếng loách xoách, loách xoách vang lên dưới các lùm tre... Và cuối cùng là câu hát: “Xu xoa ít vốn nhiều lời Anh về bỏ vợ, theo người bán xoa”. mà ở quê tôi, hầu như ai ai cũng thuộc. Nửa đêm tỉnh giấc. Tôi không còn nhớ rõ lần ấy có phải đúng là lần đầu tiên tôi ra ngủ trên bãi biển Quy Nhơn hay không. Chỉ biết chắc chắn đó là lần đầu tiên giữa đêm khuya, tôi đã thức giấc một mình trước biển. Đêm ấy tôi ôm cái chiếu con được cuộn tròn đi theo anh Tề. Anh Tề làm thợ ở một ga-ra ô-tô gần đấy và rất quen thân với tôi. Chúng tôi ra hơi muộn. Tôi phải học bài cho xong, mùa thi sắp tới. Anh Tề phải thức làm thêm vì có một cái xe con cần phải sửa xong gấp. Phần lớn những người ra ngủ biển vẫn còn thức. Tiếng rao "Ai đậu phộng rang!". "Ai chè đỗ đen!" nổi lên ở đây, ở kia giọng con gái, con trai xen lẫn. Đậu phộng rang thường được gói vào trong một cái bao giấy cuộn tròn giống hình một con ốc nhọn lớn. Chè đỗ đen có pha tí gừng cay cay, thơm thơm, ngồi trên cát, có gió thổi lộng, không hiểu sao ăn thấy ngon hơn ở nhà rất nhiều. Tôi trải chiếc chiếu nhỏ bên cạnh chiếc chiếu anh Tề. Cát trắng chỉ đợi có thế. Cứ trải chiếu xuống là đã thấy cát tràn vào ở bốn góc chiếu. Hình như cát cũng thích được ngồi, được nằm trên chiếu! Nhiều tốp trẻ bắt còng đêm, đang xách đuốc đuổi theo những con vật bé bỏng hay hoảng sợ, nhất là khi thấy có ánh lửa. Chúng gọi nhau, la hét ầm ỹ. Thỉnh thoảng lại reo to lên khi bắt được một chú còng. Anh Tề nằm xuống một lúc là ngủ say. Tôi ngủ sau anh nhưng cũng chẳng biết rõ là sau bao lâu. Tôi giật mình thức giấc. Điều đầu tiên tôi cảm nhận được là gió đang thổi mát bên trên người tôi và hình như chỉ có mình tôi thức dậy. Tôi nằm im nhắm mắt mà vẫn nghe thấy được cái trống trải, vắng lặng kỳ lạ ở quanh mình. Chính cái trống trải, vắng lặng ấy lại làm tôi tỉnh ngủ hẳn. Tôi từ từ ngồi dậy. Dưới kia, cách tôi chừng vài chục bước, những con sóng vẫn ra ra, vào vào, hết xuống lại lên và vẫn vỗ ì ầm lúc to, lúc nhỏ... Gió từ ngoài khơi xa lồng lộng thổi vào nghe rõ hơn, như thấy được cả hình dáng của luồng gió chạy. Những cây phi lao, cây dừa ở phía trong kia, sát đường xe chạy, ngọn đong đưa, cây này reo, cây kia múa... Trên khoảng không vốn đã cao rộng, giờ này như càng kéo lên cao, nên càng thấy vời vợi bao la... Trên đó, những vì sao vẫn đang nhấp nháy như đang bận nghĩ điều gì... Thì ra ban đêm, chỉ có con người ngủ, còn vạn vật đều thức. Tôi bỗng cảm thấy hơi buồn và rờn rợn... Tất cả những gì gần gũi sống động, tiếng rao bán đậu phộng, chè đỗ đen, tiếng đám trẻ reo bắt còng đêm mà tôi vừa thấy, vừa nghe cách đây chẳng bao lâu cả, lúc này đều như đã lùi đến tận đâu đâu, xa lắm, không thể nào với tới được nữa. Tất cả đều lại như chưa từng có, hoặc đều như đã chết hết cả rồi... Tôi càng thấy rợn hơn. Tôi vội đưa tay sờ lấy vai anh Tề. Vai anh âm ấm. Lập tức tôi thấy đỡ sợ hẳn đi và yên tâm trở lại. Tôi lại ngồi im, lắng nghe tiếng sóng, tiếng gió. Tôi chợt cảm nhận ra một đôi điều mới khác... Hình như ngoài những gì tôi thường thấy, thường nghe, còn có những gì khác nữa mà chỉ lúc này sóng mới tâm sự, gió mới thầm thì... Khơi gợi biết bao là kỷ niệm... với chỉ những ai đang thức giữa đêm khuya. Mà hiện giờ chỉ có tôi đang thức giấc giữa đêm khuya. Tôi bỗng cảm thấy hay hay và vui vui. Người tôi cứ lâng lâng như có thể bay mãi lên cao, có thể tan ra, tan ra hòa vào trong trời, trong biển... Cùng một lúc, tôi cảm đoán rất rõ điều này: Nếu bây giờ tất cả mọi người đang ngủ vùng thức dậy, thậm chí chỉ cần một mình anh Tề thức dậy, tôi sẽ lập tức không còn được những cảm giác rất mới lạ, rất thú vị mà tôi vừa nói trên... Sau này, sống nhiều năm tháng hơn trong đời một con người, mỗi lần nhớ lại cái đêm ngủ trên bãi biển Quy Nhơn, giữa khuya thức giấc một mình, tôi lại nghiệm ra rằng: con người rất sợ cô đơn, thậm chí có thể chết vì cô đơn, nhưng cũng có những giây phút con người rất cần đến sự cô đơn, và thích ngồi một mình, đi dạo một mình, ngủ một mình... để có được cảm giác mình nghe được đất trời và những gì cao lớn rõ hơn, và cũng từ đó, tự nghe thấy được mình rõ hơn... Gió biển Quy Nhơn. Lúc còn bé, tôi nghe mọi người thường gọi Quy Nhơn là Giã. Xuống Quy Nhơn thì nói là xuống Giã. Thuở ấy, tôi học ở trường làng. Lâu lâu tôi mới được theo má tôi đi xuống Giã một chuyến. Mỗi lần được đi tôi vui sướng vô cùng. Chúng tôi thường đi xe ngựa. Chiếc xe nhìn khá cao so với tôi, lại cứ hơi chúc nghiêng ra phía sau nên người lên xe ngồi cứ giơ tay bíu lấy một chỗ nào đó ở phía trước, cho khỏi bị tụt lùi. Từ Bình Định xuống Giã, tôi thấy khá xa. Người đánh xe ngựa lúc lúc lại tróc tróc lưỡi để giục ngựa chạy nhanh và thỉnh thoảng lại cho cái gốc của cây roi mây chạm vào cái bánh xe đang lăn gấp. Lập tức những tiếng "lách cách, lách cách" kêu rất đều, rất to vang lên nghe thật vui. Người đi phía trước xe vội vàng dạt ngay qua một bên, nhường đường cho xe chạy. Lần ấy xe chúng tôi vừa chạy đến Phủ Mới thì ai đó ngồi ở phía trước bỗng thốt lên: - Tới đây thì nghe thấy gió dưới Giã thổi lên rồi đó. Mát chưa! Tôi và mọi người trên xe đều thấy mát. Và chú ý nhìn, tôi thấy tóc ai cũng bay phơ phất ra phía sau, nhìn rất hay. Mấy phút sau, lại cũng cái giọng lúc nãy cất lên: - Bây giờ cứ thử liếm môi mà coi! Có phải thấy mằn mặn không? Muối trong gió biển đó! Tôi và mọi người lại liếm môi và thấy có vị mặn thật. Tôi càng thích và phục người nào đó đã mách chúng tôi - mách những điều tuy giản dị mà lại rất thú vị kia. Từ đó về sau, mỗi lần xuống Giã, tôi lại mong chóng đến Phủ Mới để được hưởng cái mát của ngọn gió biển từ Giã thổi lên. Tôi có cảm giác như ngọn gió từ dưới đó đã cố tình chạy lên tận đây để đón mừng tất cả những ai xuống thăm Giã... Về sau lớn lên cũng có khi tôi nghĩ: chưa chắc đến Phủ Mới, người xuống Giã mới đón nghe được làn gió mát kia. Mà có thể sớm hơn cũng nên. Mặc dù thế, tôi vẫn cứ muốn nghe theo đúng cái lời mách mà tôi đã được biết lần đầu lúc còn bé và vẫn cứ muốn xem như là phải đến Phủ Mới nghe thấy cái mát của ngọn gió từ Giã chạy lên. Sau này tôi được xuống ở hẳn dưới Quy Nhơn để ăn học. Suốt ngày đêm tôi được sống trong ngọn gió biển và nghe tiếng sóng vỗ lúc nhỏ, lúc to vì nhà tôi ở ngay sát biển. Tôi đã sống rất nhiều năm trong ngọn gió ấy, với rất nhiều kỷ niệm, vui cũng có, buồn cũng có... Nhưng điều rất lạ là bây giờ, cứ mỗi lần nhắc đến gió biển Quy Nhơn, không hiểu sao tôi vẫn cứ nhớ đến cái cảm giác lâng lâng ở trong người khi gặp được ngọn gió từ dưới Giã chạy lên đến tận Phủ Mới để đón tất cả những ai xuống thăm Giã. Và mãi mãi, tôi thầm cảm ơn ai đó đã mách cho tôi được biết cái điều rất bình thường nhưng lại rất gợi cảm này. Chắc người đó cũng không hề ngờ rằng trong đời mình với một câu nói tưởng như không đâu đã gieo vào lòng đứa bé là tôi, một kỷ niệm suốt đời nhớ mãi… Phạm Hổ

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHVHVN020.pdf