Luận văn Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu

MS: LVVH-LLVH013 SỐ TRANG: 114 NGÀNH: VĂN HỌC CHUYÊN NGÀNH: LÝ LUẬN VĂN HỌC TRƯỜNG: ĐHSP TPHCM NĂM: 2010 MỞ ĐẦU I. LÝ DO CHỌN ĐỀ TÀI Khuynh hướng văn xuôi trữ tình, giàu chất thơ là một dòng chảy của văn học Việt Nam hiện đại mà Đỗ Chu là một ngòi bút tiêu biểu. Đây là một kiểu văn xuôi – thơ hay nói như nhà văn Nga C. Pauxtốpki là “chất thơ của văn xuôi” rất đáng được lưu tâm nghiên cứu. Đỗ Chu là một nhà văn, một người lính trong cuộc đấu tranh chống Mỹ cứu nước. Với khối lượng sáng tác không dồi dào nhưng đã để lại một ấn tượng đẹp trong lòng độc giả.Trong sáng, trữ tình và lãng mạn với các truyện ngắn đầu tay như Hương cỏ mật, Ráng đỏ, Phù sa, Mùa cá bột ngòi bút ấy càng trở nên dịu dàng, đằm thắm, sâu sắc hơn với Mảnh vườn xưa hoang vắng và Một loài chim trên sóng. Gần đây sự xuất hiện của hai tập tùy bút Tản mạn trước đèn (2005) và Thăm thẳm bóng người (2008) đã tập trung sự chú ý của giới nghiên cứu phê bình và độc giả. Khi người ta đã quen với một Đỗ Chu truyện ngắn trữ tình thì ông lại bức phá với hai tập tùy bút dày công lực. Cái duyên tùy bút của Đỗ Chu thăng hoa ở độ tuổi thâm trầm, để ông có dịp bộc lộ rõ nét một cái “tôi” tinh tế, sâu sắc, đầy chất triết lý. Dù ở thể loại truyện ngắn hay tùy bút, người ta đều bắt gặp một tâm hồn giàu chất thơ của nhà văn. Trải qua hơn 40 năm văn nghiệp, Đỗ Chu không chỉ khẳng định vị trí văn chương của mình ở Giải thưởng nhà nước về Văn học nghệ thuật (2001), Giải thưởng Văn học Asean (2004) về truyện ngắn mà còn ở Giải thưởng Hội nhà văn Việt Nam (2005) với tập tùy bút Tản mạn trước đèn. Do đó, nhìn nhận, đánh giá tài năng, và nghiên cứu đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu để hoàn thiện chân dung một tác giả là điều cần thiết. Tác phẩm và tên tuổi của Đỗ Chu thăng trầm qua từng giai đoạn lịch sử. Nhiều người biết và ấn tượng về Đỗ Chu. Song để nghiên cứu một cách có hệ thống các sáng tác của nhà văn cũng như khái quát toàn diện đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu thì còn thấy hiếm. Rải rác các bài phát biểu và nghiên cứu trên báo, tạp chí và một số ít sách nghiên cứu thiết nghĩ chưa đủ khẳng định sức sống của một cây bút văn xuôi giàu chất thơ như Đỗ Chu. Luận văn mong tiếp nối cái phần còn để ngỏ ấy. II. GIỚI HẠN ĐỀ TÀI VÀ PHẠM VI NGHIÊN CỨU Đỗ Chu sáng tác tập trung nhất là vào hai mảng truyện ngắn và tùy bút. Do đó luận văn đi sâu khảo sát và nghiên cứu hai thể loại này - hai thể loại đóng vai trò khẳng định phong cách và tên tuổi Đỗ Chu trên văn đàn. Với đề tài Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu, người viết đi vào tìm hiểu, phân tích các tác phẩm trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật nhằm khái quát lên đặc trưng, phong cách của nhà văn. Với một số lượng tác phẩm không dồi dào, luận văn cố gắng tập hợp, khảo sát tất cả các tuyển tập truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu đã in thành sách hoặc đăng rải rác trên các báo và tạp chí từ năm 1962 cho đến nay. III. LỊCH SỬ VẤN ĐỀ Từ năm 1962, khi những truyện ngắn đầu tay của Đỗ Chu ra đời, văn đàn đã xôn xao tán tụng. Nối tiếp những thành công từ các truyện đầu tay đó, các tuyển tập truyện ngắn của Đỗ Chu đã ra đời. Có tuyển tập hay, được chú ý, có tuyển tập cũng “tàm tạm” nhưng cũng có tác phẩm không mấy gây ấn tượng nên dần chìm vào quên lãng. Tuy nhiên tất cả thống nhất ở một điểm: truyện Đỗ Chu giàu chất thơ, văn phong trang nhã, cẩn trọng trong từng câu chữ. Đề cập đến đặc điểm truyện ngắn Đỗ Chu, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh đã có một bài nghiên cứu về Truyện ngắn của Đỗ Chu khá cụ thể và chi tiết in trên Tác phẩm mới (17/9/1971). Ông phân tích cách lựa chọn đề tài, hệ thống nhân vật, bút pháp miêu tả nhân vật, kết cấu, cốt truyện, ngôn ngữ và khả năng phản ánh hiện thực trong truyện ngắn của Đỗ Chu. Về cách xây dựng nhân vật, ông cho rằng: “Mặc dù hoàn cảnh khác, tâm lý khác nhưng nhân vật của Đỗ Chu đều có một cái lõi tính cách giống nhau” :“đều có những phẩm chất tốt đẹp và rất đáng yêu.” [33,tr.437] Và vì thế nhân vật thuộc vào loại “ít hoạt động, mà nặng yêu thương, tâm sự, hồi tưởng”. [33, tr.443 ] Lý giải về điều này, giáo sư Nguyễn Văn Hạnh cho rằng: “nói chung cái nhìn của anh đang là một cái nhìn đậm màu sắc lý tưởng, khuôn định; nguồn sống chủ yếu của tác phẩm anh đang là tâm hồn, một tâm hồn khá nhạy cảm, có thể nói là tài hoa, nó đang được “phân thân” vào hầu hết các nhân vật và những bức tranh thiên nhiên mà anh miêu tả”. [33, tr.441] Về khả năng phản ánh hiện thực trong truyện ngắn của Đỗ Chu, giáo sư cho rằng : “Đỗ Chu ít phân tích xã hội, không nhìn thấy hoặc né tránh những tình huống phức tạp.” Sự hạn chế này dẫn đến “khả năng xây dựng nhiều loại tính cách, cũng như sức khái quát, nói chung còn yếu”, “cốt truyện, kết cấu đều đơn giản, tự nhiên.” Cũng do tự nhiên, “thoải mái”nên Đỗ Chu ít chú ý đến cốt truyện và kết cấu. Tác phẩm vì thế có khi “không cân đối, lỏng lẻo, dàn trải”. Tuy nhiên giáo sư Nguyễn Văn Hạnh khen sự “giản dị và tự nhiên” trong văn phong của Đỗ Chu : “Một nét rất đáng quý trong sáng tác của Đỗ Chu là tính chất giản dị và tự nhiên. Giản dị và tự nhiên trong kết cấu, trong nghệ thuật dẫn dắt câu chuyện, trong giọng văn, trong lời văn.” Những đoạn văn xúc động và giàu chất thơ có thể gần với phong cách của Nam Cao, Nguyễn Đình Thi, Nguyên Ngọc, và xa hơn nữa là Sêkhốp, Pauxtốpki, Aimatốp nhưng “Đỗ Chu vẫn có cái tươi mát, bồi hồi riêng biệt của anh”. [33, tr.446 –tr.449] Ngô Thảo trong bài nghiên cứu Văn học về người lính có phân tích, đánh giá giá trị nội dung và nghệ thuật của những tác phẩm viết về người lính, trong đó có Đỗ Chu. Ngô Thảo nhìn nhận Đỗ Chu là nhà văn có phong cách trữ tình. Ngay từ những tác phẩm đầu tay, Đỗ Chu đã biểu hiện “một bản sắc riêng, một phong cách văn học đã chín Hiện thực được lĩnh hội thể nghiệm và biểu hiện qua góc độ trữ tình bởi sự nhào nặn bằng chất men riêng của tâm hồn người viết.” [71, tr.44] Bên cạnh đó, Ngô Thảo cũng đã chỉ ra điểm mạnh, điểm yếu của nhà văn. Mạnh là ở chỗ Đỗ Chu thể hiện rất hay những ấn tượng, cảm xúc, những phong tục và không khí nông thôn. Nhưng hạn chế là ở khả năng bao quát đời sống rộng lớn. Trước những biến động quyết liệt của hiện thực (cuộc chiến tranh phá hoại mở rộng), ngòi bút của ông trở nên “lúng túng”, không còn giữ thế chủ động khi phản ánh. “Anh viết khá nhiều về các trận đánh, các con đường mặt trận, những người ở tuyến trước, nhưng mọi thứ ở đây vẫn có cái gì ngẫu nhiên, cá biệt.”[71, tr.45] Ngô Thảo cũng đã nhấn mạnh : “Cái phần hay của Đỗ Chu chưa có nhiều người đạt tới nhưng cái phần còn yếu của anh lại đang là chỗ mạnh của nhiều người viết khác.” [71, tr.44 - tr.45] Ma Văn Kháng, Nguyễn Trí Nguyên cũng đã từng bày tỏ quan niệm về lối văn giàu chất thơ của Đỗ Chu. Trong Sổ tay truyện ngắn, Ma Văn Kháng đã khen Ráng đỏ của Đỗ Chu tiêu biểu cho lối văn nhẹ nhàng, đơn giản mà thấm sâu, có khả năng lưu lại được cái dư ba trong lòng người : “Tóm lại, quan niệm truyện ngắn phải có cái gì bay bay một tí, không nên mơ màng quá mà trần trụi quá cũng không ổn. [ ] Tôi thích những truyện có một cốt truyện thực, lại phải có một cái bóng đằng sau, giúp cho người đọc liên tưởng sang nhiều chuyện khác. Ví dụ Ráng đỏ (Đỗ Chu), Chiếc lá (Bùi Hiển) [58, tr.66] Nguyễn Trí Nguyên cũng nhận thấy ở nhà văn Đỗ Chu phảng phất nét “thơ mộng”, trữ tình như những trang văn của A. Đô-đê : “Đọc những truyện ngắn của Đỗ Chu, điều đáng mừng là tìm lại được phong cách văn học, âm hưởng thơ mộng trong truyện ngắn giàu hồi ức của anh, những ấn tượng có ở truyện ngắn của A.Đô-đê.” [61, tr.116] Trái lại, Nguyễn Quang Sáng lại tỏ ra không thích với lối “câu dầm, ngâm nga từng câu từng chữ” của Đỗ Chu. Ông phục cách nhà văn Đỗ Chu gia công, cẩn trọng trong từng con chữ của mình nhưng không thích đi theo cách viết của Đỗ Chu: “Tôi phục ông nhưng tôi vẫn viết theo cách của tôi.” [58, tr.40] Văn Chinh từng dành nhiều sự ưu ái cho phong cách văn xuôi lãng mạn trữ tình của Đỗ Chu và xem đó như “một đám mây lạ” làm thức dậy cái đẹp, cái thơm thảo trong hồn người: “Một chút lãng mạn Pháp, một chút cổ điển Nga và một chút lý tưởng hóa Nga Xô-viết đã như những đám mây lạ được làn gió chuyển mùa làm nên mưa xuân trên vùng quê văn hóa màu mỡ là Kinh Bắc, khiến hạt mầm nghệ sĩ vẫn còn phong kín trong lòng đứa con rồi ra sẽ làm vinh dự cho quê hương, một đứa trẻ buồn nỗi con côi pha lẫn niềm bâng khuâng vị thành niên đã bật lên truyện Hương phù sa, Mùa cá bột, Chiến sĩ quân bưu, Đường qua nhà, Thành phố bên kia cầu vẫn với những nhân vật đầy trìu mến, nhiều tài hoa nhưng cũng lặng lẽ, quả cảm, chúng đều khiến thức dậy cái đẹp, cái thơm thảo trong lòng người đọc để ta có thể yên tâm gọi đó là chùm Hương cỏ mật.” [7] Chỉ đến Mảnh vườn xưa hoang vắng, Văn Chinh mới khẳng định tài năng của Đỗ Chu. Ông đánh giá cao về lối viết thung dung, tự nhiên và giàu nhạc điệu: “Đỗ Chu là nhà văn có năng lực làm chủ ngòi bút của mình. Truyện của anh thường có bố cục công phu, nghiêm túc. Văn mạch đi thung dung, nhàn nhã, tự nhiên mà như những trái chín cây. Văn anh giàu biểu cảm, duyên dáng nhưng không ẻo lả. Dù truyện dài trăm trang nhưng đều nằm gọn hết trong một nhạc điệu trầm và trang trọng, làm tĩnh tâm bạn trước khi tiếp nhận những tư tưởng sắc sảo, cao thượng.” [7] Nhiều người dành tình yêu mến cho tuyển tập Phù sa của Đỗ Chu. Vương Trí Nhàn trong bài nghiên cứu Một cuộc gặp gỡ để lại nhiều cảm tình đã có những đánh giá cao về tập truyện ngắn đầu tay này. Ông cho rằng văn phong Đỗ Chu có “duyên” và có “một sắc thái riêng”: “Cái duyên của câu văn, cách bố trí khi dài khi ngắn, âm điệu bằng trắc thế nào, Đỗ Chu gần như có được từ bản năng. Những truyện Mùa cá bột, Đường qua nhà nhỏ xinh như một bài thơ, đọc xong lại muốn đọc lại.” [57, tr.20] Và các truyện ngắn đều cho thấy “một sắc thái riêng trong chất văn Đỗ Chu”. [57, tr.21] Tuy về mặt hình thức, Vương Trí Nhàn cho là “không chặt chẽ, kể lan man”. [57, tr.22] Nhưng ông nhấn mạnh “vẻ duyên dáng thì không vì thế mà giảm sút”. [57, tr.22] Về nhân vật thì ông khá thống nhất với các nhận xét khác, “chưa có nhân vật nào đủ hình đủ bóng, chưa có con người nào khả dĩ vượt khỏi trang sách chuyện trò cùng chúng ta”. [57, tr.25] Bởi vì “hoạt động tâm lý chưa bật lên thành cá thể có linh hồn riêng”. [57, tr.25] Và cuối cùng ông kết luận rằng “nhân vật duy nhất trong các truyện ngắn từ trước đến nay của Đỗ Chu chính là bản thân tác giả”. [57, tr.25] Còn Phan Thị Minh Thư lại khen ngợi Phù sa về cách sắp xếp, bố trí tình tiết truyện như một người chỉ huy dàn dựng trận địa khéo : “Một truyện ngắn bình thường nhưng vừa đủ số chữ cần thiết, “vào ra” truyện đúng lúc, chính xác ở cả mỗi ngắt đoạn.” [84, tr.94 ] Khi nhìn nhận và tổng kết lại tình hình văn xuôi Việt Nam năm 2002, Nguyễn Hòa đã đánh giá cao sự đóng góp của Đỗ Chu cho nền văn học nước nhà. Tác giả cho rằng Đỗ Chu là người có bút lực dồi dào, văn phong trang hoàng và đẹp đến chuẩn mực. “Nhìn vào giải thưởng Hội nhà văn năm 2001, có thể nhận thấy nổi lên là sự có mặt của Đỗ Chu với tập truyện ngắn Một loài chim trên sóng. Đỗ Chu viết không nhiều nhưng anh lại là một trong số hiếm hoi những cây bút mà chúng ta vẫn gọi là “viết có văn”- nghĩa là trang viết khiến người ta thấy hay, thấy nhớ, thấy đọng lại đôi điều.” [37] Cũng như Phan Cự Đệ, Nguyễn Trí Nguyên, Nguyễn Hòa đã xếp Đỗ Chu vào “hệ những nhà văn rất chú trọng đến vẻ đẹp của câu chữ, như các bậc tiền bối Thạch Lam, Hồ Dzếnh. Bút lực của ông không mấy dồi dào nhưng họ viết chậm và kỹ, câu văn nghiêng về cái đẹp mảnh mai.” [37] Nguyễn Thanh Tú lại có một bài viết về Đặc điểm kết cấu truyện ngắn Đỗ Chu đăng trên báo Văn nghệ quân đội năm 2003. Đọc Tuyển tập truyện ngắn Đỗ Chu xuất bản năm 2003, Thanh Tú phát hiện ra một kết cấu riêng, mang dấu ấn của Đỗ Chu rõ nét: “Tuyển tập đã thể hiện một phong cách văn xuôi Đỗ Chu trữ tình, đậm chất thơ, tinh tế, tài hoa mà theo chúng tôi điều này thể hiện rõ nhất ở đặc điểm kết cấu rất riêng, mang rõ dấu ấn Đỗ Chu”. [88, tr.98] Thanh Tú đi vào phân tích hình thức “truyện lồng trong truyện khá đặc sắc” qua một số truyện tiêu biểu. Sự lan man tưởng chừng như là nhược điểm của Đỗ Chu lại là “đặc điểm trong hệ thống các câu chuyện được kể”. Và chính kết cấu này cũng quy định một giọng điệu trong văn xuôi của Đỗ Chu: “giọng tâm tình thân mật”. Nguyễn Thanh Tú khẳng định : “Đỗ Chu là người viết sớm và sớm tạo cho mình một cách viết riêng, một giọng điệu riêng.” [88, tr.98] Thạc sĩ Lê Hương Thủy đã có một bài nghiên cứu khá cụ thể về Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu in trên tạp chí Nghiên cứu văn học số 9 năm 2006. Trong bài viết này, Lê Hương Thủy đề cập đến cảm hứng sáng tác, đề tài, hệ thống nhân vật, và cách dẫn dắt chuyện của Đỗ Chu. Trước 1975, cảm hứng lãng mạn cách mạng là nguồn mạch chính trong các truyện ngắn của ông. Nguồn mạch này chi phối đến hệ đề tài, khiến Đỗ Chu thiên về khai thác cái đẹp, chất thơ trong đời sống. Nó biểu hiện ở vẻ đẹp tâm hồn, thế giới tinh thần phong phú của nhân vật, cách nhìn về thiên nhiên và cách phản ánh hiện thực đời sống. Tuy nhiên từ sau năm 1975, cảm hứng bi kịch trở nên đậm đặc. Nhân vật của ông trở nên đời hơn, và cũng có phần nghiệt ngã hơn. Nhiều mảng tối của đời sống được lật xới lên.Tuy nhiên dù viết về bi kịch thì các tác phẩm của ông vẫn lấp lánh niềm tin và lạc quan. Về kỹ thuật viết truyện, Lê Hương Thủy đánh giá cao cách dẫn chuyện tự nhiên, nhưng cốt truyện thì đơn giản. “Không chú trọng vào việc khai thác những yếu tố bất ngờ, những khúc quanh của số phận, truyện của Đỗ Chu thường ít có những tình huống lắt léo, và vì thế khó kể lại rành mạch theo trình tự của cốt truyện thông thường. Nhiều truyện ngắn hấp dẫn người đọc bởi cách dẫn chuyện, kể, tả và độc thoại nội tâm.” [81, tr.123 ] Và cuối cùng theo Lê Hương Thủy, điều khiến truyện ngắn của Đỗ Chu đến được và lắng lại với người đọc là bởi “lối văn giàu xúc cảm, ở chất giọng trữ tình, ở sự tạo kết những giá trị văn hóa trên những trang viết và ý thức đổi mới ngòi bút.” [81, tr.126] Phan Cự Đệ trong cuốn Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử - Thi pháp - Chân dung đã giới thiệu cho độc giả một chân dung truyện ngắn Đỗ Chu. Trong bài nghiên cứu này, Phan Cự Đệ phân tích sở trường và sở đoản trong truyện ngắn của Đỗ Chu. Bài nghiên cứu tập hợp các ý kiến đánh giá về Đỗ Chu cũng như phát biểu của các nhà văn xoay quanh vấn đề truyện ngắn và quá trình sáng tác, các bước chuyển mình, thay đổi của truyện ngắn Đỗ Chu. Phan Cự Đệ trân trọng xếp Đỗ Chu vào danh sách các nhà văn có “phong cách trữ tình” và phân hạng ông là học trò của Thạch Lam, Nguyễn Thành Long và C. Pautốpxki và A. Đôđê: “Đỗ Chu là một nhà văn viết truyện ngắn có phong cách – phong cách trữ tình. Nếu được phép nhân hạng thì ông là học trò của Thạch Lam, Nguyễn Thành Long (các nhà văn Việt Nam) và C. Pautopxki (nhà văn Nga) và A. Đô-đê (nhà văn Pháp). Phong cách trữ tình của Đỗ Chu tạo nên một kiểu văn xuôi giàu chất thơ.” Phan Cự Đệ phát hiện ra sở trường của Đỗ Chu : “ Có thể nói Đỗ Chu là nhà văn mạnh về trực giác”. Bởi lẽ Đỗ Chu “có cái nhìn đời tươi xanh, lãng mạn, thơ mộng, biết rung động trước những biến thái nhỏ nhất, linh diệu nhất của đời sống.” [23, tr.744] Vì thế khi đọc truyện ngắn Đỗ Chu, người đọc như được sống trong một không khí truyện đặc thù, cái không khí được tạo nên bởi cảm giác – cảm xúc rất mạnh của nhà văn. Điều này tạo nên sắc điệu, giọng điệu trữ tình của truyện ngắn Đỗ Chu. Ông cho rằng văn của Đỗ Chu “có vẻ dềnh dàng, nhấm nháp, nhàn tản, thiếu tính nhập cuộc” nhưng đó không phải là một nhược điểm mà là “một đặc điểm thuộc về “tạng” nhà văn”. [23, tr.744] Ông đi sâu phân tích “lối văn có nhịp điệu” của Đỗ Chu. Câu văn trong truyện ngắn Đỗ Chu “đan xen ngắn, dài làm cho câu chuyện được kể lại cũng “khúc khuỷu”, “nhiều nhánh rẽ” song vẫn có “sợi chỉ đỏ” xâu chuỗi. Đó chính là “cái tứ của truyện”. Phan Cự Đệ còn đi vào phân tích chứng minh kỹ thuật viết truyện ngắn của Đỗ Chu. Ông đánh giá “Đỗ Chu là cây truyện ngắn có nghề, hay nói cách khác nhà văn rất chú ý đến kỹ thuật truyện ngắn. Đỗ Chu khi viết truyện ngắn rất chú ý, dụng công tô đậm cái mở đầu và kết thúc. Bắt đầu từ việc tìm tứ, tìm cảm hứng tổ chức một “trận đánh”, làm sao tạo ra sức chứa và sức nổ ở kết thúc.” [23, tr.751] Chuyển sang thể loại tùy bút, trong những năm đầu của thế kỷ XXI, độc giả bàn tán nhiều về hai tập tùy bút Thăm thẳm bóng người và Tản mạn trước đèn của Đỗ Chu. Có khá nhiều bài viết, bài cảm nhận trên báo, tạp chí và mạng Internet khen chê về hai tập tùy bút này như bài viết của Hoàng Ngọc Hiến, Lý Hoài Thu, Thu Hà, Thạch Linh, Phan Huy Dũng, Nguyễn Hòa, Nguyễn La, Hà Khải Hưng, Tô Hoàng, Nguyễn Thanh Kim Tuy nhiên đó chỉ là những cảm nhận, suy nghĩ mang tính cá nhân và tính tin tức thời sự. Tùy bút của Đỗ Chu chưa được đặt trong dòng chảy của tùy bút Việt Nam để phân tích, so sánh và tìm ra đặc trưng riêng. Đa số các tác giả đều cho rằng Đỗ Chu đến với thể tùy bút như một sự hối thúc tự nhiên để trải nghiệm vốn sống, vốn hiểu biết cùng những suy tư, trăn trở của mình trước sự đổi thay của đất nước, con người, cuộc đời và nghề văn Đỗ Chu “hiểu rành rẽ từng khúc quanh của dòng sông văn học, lúc này đang chứng kiến một thời kỳ mới của sáng tác với rất nhiều bề bộn, lẫn lộn cái thực, cái giả chen nhau, cái đích thực và cái thời thượng xem ra không dễ phân biệt.” [22, tr.57] Phan Huy Dũng khi giới thiệu về Tập tùy bút Tản mạn trước đèn đã khen sự tài hoa, tinh tế trong văn phong Đỗ Chu: “Ta được gặp lại ở Tản mạn trước đèn vẫn một Đỗ Chu thời Hương cỏ mật, Mùa cá bột – người từng thể hiện rất tinh tế, tài hoa những cảm xúc ân tình ân nghĩa trong đời sống cộng đồng, đưa lại cho độc giả một cảm giác ấm áp, tin yêu. Thời thế bây giờ khác xưa khá nhiều, vậy mà vẫn giữ được phần lớn cách nhìn ấy và giọng văn ấy, xét ở một khía cạnh nào đó, có thể nói người viết tỏ ra rất tin ở mình hay nói cách khác là có bản lĩnh.” [22, tr.60] Phan Huy Dũng nhấn mạnh bản lĩnh văn hóa, những trăn trở về nghề văn và nghệ thuật của nhà văn: “Khi viết Tản mạn trước đèn, ông muốn đặt lại và tái khẳng định vấn đề trách nhiệm của nhà văn đối với vận mệnh đất nước, bản lĩnh văn hóa của người viết, sự cô đơn của nghệ sĩ trên hành trình đi tìm cái đẹp, sự tỉnh táo cần thiết của một nhà văn giữa muôn nẻo đường sáng tạo để làm sao thoát khỏi mê lầm.”[22, tr.57] Thạch Linh nhận thấy vốn sống văn hóa thâm sâu và lối viết tùy bút nhẹ nhàng, sâu lắng của Đỗ Chu : “Đỗ Chu giấu cả trong mình một kho văn hóa dân gian, bác học, lịch sử, huyền tích, cái trông thấy và cái nghe thấy, cái sống và cái ngẫm, trộn tất cả vào mình rồi rút ra bằng những câu văn như kể chuyện mà như tâm sự, giãi bày, khiến cho những điều ông nói ra được đọng lại day dứt, ngậm ngùi, có cả những điều khó nói cũng được ông nói ra nhẹ nhàng, sâu lắng.” [52] Về phương diện nghệ thuật, Hà Khải Hưng khi nhận xét về tập Thăm thẳm bóng người đã khẳng định vẻ đẹp ngôn ngữ và phong cách trữ tình đằm thắm trong các trang tùy bút của Đỗ Chu: “Ngoài việc cài cắm được nhiều thông tin văn hóa, xã hội , ông còn chú trọng đến những khoảng lặng của cảm xúc và đặc biệt rất chăm chú đến vẻ đẹp và sức bật của câu văn”. [41] Ông nhận ra tạng cảm xúc “vừa trữ tình lại vừa hóm hỉnh”. “Giọng kể của tác giả sắc mà vẫn ngọt, có chỗ lem lém, cả cười nhưng cũng lắm chỗ chạnh buồn, chua chát kết hợp nhuần nhị chất văn lẫn chất báo.” [41] Đỗ Đức đánh giá cao sự “sắc sảo” trong văn phong Đỗ Chu qua tập Thăm thẳm bóng người. Đó là lối văn thanh thoát, nhẹ nhàng nhưng cũng không kém phần sang trọng : “Một lối viết mới mẻ, thanh thoát và đầy tự tin, rất vững vàng như thể người luyện võ nay đã đạt tới bậc vô chiêu”. Và Thăm thẳm bóng người là một tác phẩm thăm thẳm tình người. Sắc sảo đến độ, đằm thắm đến độ, giản dị thế và sang trọng thế.” [24, tr.9] Nguyễn Hòa trong bài nghiên cứu Văn chương – hy vọng về những điều tốt đẹp đã ca ngợi văn phong Đỗ Chu như sau : “Văn Đỗ Chu viết kỹ, đẹp cả về giọng điệu lẫn những suy tưởng nhân tình.” [36] Lối viết văn mượt mà, nhịp điệu câu văn khoan thai được Nguyễn Hòa ca ngợi: “Đoạn văn nào cũng đầy ắp chi tiết, phập phồng hơi thở đời sống, chốc chốc tác giả lại chêm vào đó cái nhìn sắc sảo, những câu đúc kết dẫu chưa phải hoàn toàn là chân lý thì cũng rất khoáng đạt, độc đáo Đặc biệt là, dẫu chủ đề có lan man, song tiết tấu câu văn vẫn luôn rộn ràng, cuốn hút người đọc.” [41] Bên cạnh đó, Nguyễn Hòa cũng chỉ ra nét hạn chế trong lối văn miên man dàn trải dễ gây nhàm chán cho người đọc : “Tùy bút Đỗ Chu “thường được mở đầu một cách “chật vật” với những luận đề dài dòng, khô khan, dễ làm người ta ngại đọc.” [36] Nhìn chung, truyện ngắn và cả tùy bút Đỗ Chu đều có những điểm mạnh, điểm yếu riêng. Người đọc khen cũng nhiều và chê cũng không ít. Song cái chê cũng nhẹ nhàng vì theo họ đó thuộc về “tạng” nhà văn, là đặc trưng riêng trong phong cách. Tuy nhiên tựu trung lại vẫn thấy thống nhất ở một điểm: dù là truyện hay tùy bút thì đều thể hiện một văn phong trữ tình, đằm thắm, câu văn đẹp và chuẩn mực. Tuy nhiên, những bài viết, bài nghiên cứu vừa trình bày trên một số mang tính nhận định khái quát, hoặc riêng lẻ một tập truyện hay một tập tùy bút nào đó, hay công phu hơn là đã đi vào nghiên cứu mảng truyện ngắn như Lê Hương Thủy, Thanh Tú và Phan Cự Đệ. Thật sự vẫn chưa thấy những công trình nghiên cứu đi vào khảo sát các đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu trong một thể thống nhất. Người viết lựa chọn đề tài Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu nhằm tìm ra đặc điểm nội dung, nghệ thuật và dấu ấn riêng của một cây bút văn xuôi cũng ít nhiều có đóng góp vào nền văn học nước nhà qua gần nửa thập kỷ qua. IV. ĐÓNG GÓP CỦA LUẬN VĂN Luận văn tập trung tìm hiểu truyện ngắn và tùy bút của Đỗ Chu với mong muốn góp phần khẳng định giá trị đặc sắc của mỗi thể loại đồng thời góp phần đi tìm đặc trưng nghệ thuật của Đỗ Chu trong dòng chảy của văn xuôi Việt Nam hiện đại. V. PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU Trong phạm vi đề tài này, người viết sử dụng phương pháp hệ thống – cấu trúc, phương pháp phân tích – tổng hợp, phương pháp so sánh. Trước hết chúng tôi tổng hợp các công trình hoặc các bài nghiên cứu có liên quan đến vấn đề đặc trưng văn xuôi nghệ thuật của Đỗ Chu. Sau đó thu thập những bài phê bình, nghiên cứu trên các sách, báo có đề cập đến cuộc đời và sự nghiệp sáng tác của Đỗ Chu, đặc biệt lưu ý đến những bài viết đánh giá các phương diện nội dung và nghệ thuật truyện ngắn của nhà văn.Trên cơ sở đó người viết đi vào khảo sát, nghiên cứu và giải quyết các vấn đề đã đặt ra theo quan điểm của mình một cách khách quan, nghiêm túc. Phương pháp phân tích – tổng hợp được sử dụng nhằm cụ thể hoá, sau đó khái quát hóa các nội dung của vấn đề đã nêu. Người viết sử dụng các cơ sở lý luận về phong cách nghệ thuật, đặc điểm truyện ngắn và tùy bút nói chung làm nền tảng vững chắc cho việc phân tích các tác phẩm cụ thể. Phương pháp so sánh được vận dụng để đối chiếu đặc trưng văn xuôi Đỗ Chu với đặc trưng của những nhà văn khác cùng thời hoặc ở các giai đoạn văn học trước trong nước và cả thế giới. Phương pháp này giúp người viết có cái nhìn toàn diện về mặt tích cực và hạn chế, đổi mới hoặc chưa đổi mới của tác phẩm Đỗ Chu so với các tác phẩm khác. Phương pháp hệ thống quy định nghiên cứu các phương diện của đặc trưng văn xuôi Đỗ Chu như là một chỉnh thể nghệ thuật, có sự tương tác, có mối quan hệ logíc. VI. KẾT CẤU CỦA LUẬN VĂN Luận văn bao gồm 3 chương : Chương 1: Sự nghiệp sáng tác và quan niệm về văn học của Đỗ Chu Chương 2: Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu Chương 3: Đặc trưng tùy bút Đỗ Chu

pdf114 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2409 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đặc trưng văn xuôi nghệ thuật Đỗ Chu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
.” [19, tr.176] Trước mùa xuân mới của đất nước, Đỗ Chu đã tổng kết và thẳng thắn chỉ ra những mặt tồn đọng và hạn chế đã kéo ghì một đất nước đi xuống. Ông đề cập đến một vấn đề mang tầm quốc tế ảnh hưởng đến Việt Nam đó là “cơn bão tiền tệ, là sự khủng hoảng kinh tế mang quy mô toàn cầu, nó đã được hình thành và nổi lên dữ dội ở ngay chính các nước trong khu vực chúng ta.” Ông bình luận tính chất của nó “tưởng như vô hình nhưng lại có sức tàn phá còn nguy hại hơn gấp bội”. [19, tr.251] Những vấn đề trên được phản ánh ngay sau khi sự kiện quan trọng ấy diễn ra nên mang tính kịp thời và sát thực. Điều đó chứng tỏ ngòi bút Đỗ Chu luôn phản ứng nhạy bén trước diễn biến phức tạp của xã hội. 3.1.4.2 Những vấn đề nóng bỏng của xã hội Nhìn lại năm vừa qua, không thể không nhắc đến tình trạng thiên tai lũ lụt hoành hành thế giới và ập đến Việt Nam. Vấn đề thiên tai, bão lụt cũng đã được Đỗ Chu nhắc đến trong tùy bút Hoa trước thềm văn và Tản mạn trước đèn : “Suốt mùa hạ và mùa thu, cả khu vực miền Trung gặp bão lụt lớn, một cơn bão lụt mang ý nghĩa thế kỷ với sức tàn phá lớn hơn bất kỳ một trận bom nào trong thời chiến. Đây cũng là một bài học đau xót cho sự tàn phá môi trường sinh thái kéo dài liên miên…” [19, tr.251] Bên cạnh thiên tai, bão lũ là tình trạng đất nước trong thời buổi kinh tế thị trường: sức ép dân số, sự ô nhiễm môi trường, các tệ nạn xã hội và sự suy đồi đạo đức, sự xuống cấp và thoái hóa trong giáo dục. Cái nhiễu loạn của xã hội được Đỗ Chu phản ánh như sau : “mới sáng ra…mà tiếng còi xe, tiếng người inh ỏi, huyên náo cả một vùng. Sức ép dân số không ai là không cảm thấy …một ông trẻ báo bán từ đâu khuyệnh khoạng hiện ra, chiếc loa điện gắn trên ghi đông xe đạp oang oang chạy những tin tức sốt dẻo nghe mà nổi gai ốc. Ở đâu đó vừa triệt phá hoàn toàn một ổ mại dâm trá hình có quy mô cấp tỉnh, và ở đâu đó có chuyện quan tòa thông đồng với phạm nhân, luật sư bào chữa tống tiền thân chủ của mình…” [19, tr.267] Đó là chuyện báo chí. Còn chuyện hiển hiện ngay ra trước mắt Đỗ Chu những lối sống mờ ám – nảy sinh trong thời buổi mở cửa: “Trên con đê sông Hồng nay đã thành đường phố, nhà tầng mọc lên nhấp nhô, phần lớn là nhà nghỉ, cửa đóng im ỉm, nom rất bí hiểm. Nhà nào cũng có treo biển đề tên, cái là Hoa Hồng, Bông Sen, cái là Hoa Mua, Hoa Sim, cái là Chiều Tím, Đêm Sương…Những chữ mập mờ khơi gợi, nghe nửa bẩn nửa sạch, nửa tin cậy nửa rất đáng nghi ngờ, giống như những ông bà trẻ buổi trưa từ các nhiệm sở gọi nhau đi ăn cơm bụi xong là dắt nhau qua đó.” [19, tr.152] Những tệ nạn xã hội đang ảnh hưởng tiêu cực đến đời sống văn hóa tinh thần của nhân dân. Trong thời kỳ đổi mới, bên cạnh những thay đổi tích cực, cởi mở về đời sống kinh tế, văn hóa, còn có không ít những tiêu cực phát sinh. Tệ nạn xã hội đã thâm nhập và ẩn náu ở từng thôn, làng, ngõ xóm như cái làng Niềm vốn trước đây rất giàu bản sắc văn hóa. Đĩ điếm, tiêm chích ma túy rình rập thế hệ trẻ. Một bé gái chừng 15 hay 16 tuổi đã có lối sống buông thả, vô tâm, không chồng, hai lần sinh con hai lần đem đi bán mà không hề thấy xót xa, không hề có cảm giác tội lỗi. Cô bé ấy còn buông những câu dạy khôn thể hiện sự sành điệu, sành đời : “Chú là nhà văn mà lẩn thẩn thế, theo kịp làm sao được bước đi của thời đại, bị cuộc sống bỏ tụt hậu là cái chắc”. [19, tr.321] Trước một thực trạng như thế, thử hỏi ai không thấy trăn trở và yên lòng? Ngược dòng lịch sử, Đỗ Chu bàn về “cái sự học”. Ông cha ta luôn quan tâm, chăm lo cho đạo học ngày một vững bền, bởi “nhìn vào thịnh suy của Đạo học mà thấy ra sự thịnh suy của xã tắc”. Sự hưng thịnh của một quốc gia không chỉ phụ thuộc vào tầng lớp trí thức hiền tài, “giường cột” của đất nước mà còn chủ yếu phụ thuộc vào trình độ dân trí chung. “Nó vừa là cái trần nền, một khi cái trần và cái nền đều còn thấp thì hết thảy đặt trên nó đều thấp theo, không thể tính đến chuyện nhảy vọt chặn đầu đi tắt bỏ qua giai đoạn, tính toán thế là tự lừa mình”. [21, tr.309] Chính vì vậy ngay từ những năm tháng mới giành được độc lập, tự do, thành lập nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, Bác Hồ đã kêu gọi toàn dân đồng loạt bắt tay vào tiêu diệt “giặc đói và giặc dốt”. Phong trào bình dân học vụ được phát động sâu rộng trong quần chúng đã đạt được những kết quả khả quan. Đỗ Chu đã nhắc lại bài học thực tiễn đó trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Ông nhấn mạnh giáo dục đào tạo, nâng cao trình độ dân trí là cần thiết và trở thành quốc sách. Nhưng đào tạo, giáo dục như thế nào là một vấn đề quan trọng, phức tạp và nan giải hơn. Đỗ Chu đề cập đến nạn “bằng giả bằng thật” trong xã hội và đưa ra ý kiến thiết thực : “Cần phải biết xem người từ công việc họ làm, chỉ xem người qua bằng cấp, qua các danh hiệu thì chưa đủ, rất dễ hời hợt, giáo điều, là mắc vào lối nhìn duy hình thức, rất dễ bị mắc lừa.”[19, tr.256] Tuy nhiên, “sự học là cả đời”, vì vậy chúng ta cần phải hội đủ tính kiên trì, bản lĩnh, trách nhiệm, ý chí và nghị lực : “Không chỉ cần có tinh thần trách nhiệm cao...mà còn cần phải có đầy đủ lòng dũng cảm,...ý chí và nghị lực, phải có đức hy sinh lớn, phải có cái phẩm chất nhẫn của những tri thức có tầm nhìn xa.” [19, tr.261] Nhưng cái quan trọng nữa là cần phải có định hướng, mục tiêu, nhìn thấu được cái đích để biết phải bắt đầu từ đâu. Đỗ Chu đã nhắc đến hai nhân vật tiêu biểu trong lịch sử dân tộc ta là Chu Văn An và Lê Quý Đôn. Qua đó ông muốn : “Đề cao thực học, coi trọng những giá trị thật, khắt khe đòi hỏi ở chính mình, đấy là những phẩm chất quý báu trong Đạo học.” [19, tr.262] Nhìn lại đồ thị giáo dục của nước nhà, Đỗ Chu chạnh buồn. Ông lo lắng, trăn trở, muốn tìm một “lối ra” cho nền giáo dục nước nhà. Điều này không dễ dàng vì Đỗ Chu nhìn thấy “sự bế tắc và bất cập của một mô hình xã hội lạc hậu có tính hệ thống.” [19, tr.266] Việc chọn mặt gửi vàng trong giáo dục là điều tối cần thiết, như Đỗ Chu đã phân tích : “Chọn lựa những cái gì để dạy là vô cùng khó. Người ta gọi nó là lập chương trình, là công việc của các ông thầy lớn, không phải bạ ai cũng gọi về giao phó được.” [19, tr.265] Đấy là sự coi trọng người hiền tài. Đỗ Chu đã từng khẳng định vai trò của những bậc trí giả, những hiền tài trong công cuộc xây dựng đất nước : “ Một đám đông ầm ĩ sẽ chẳng đi đến đâu nếu trong đó không có những trí giả. Một người hay lo bằng kho người hay làm là thế. Cho nên một khi đã dám coi rẻ người hiền tài thì sự lú lẫn, sự hỗn loạn ắt sẽ là một thực trạng không sao tránh khỏi.” [19, tr.130] Cho nên Đỗ Chu đã nêu lên quan điểm của mình cho sự nghiệp giáo dục nước nhà. Ngành giáo dục cần quan tâm đến chất lượng và hiệu quả của công tác đào tạo. Đó là phải tìm hiểu các học trò ưu tú, từng đạt danh hiệu cao trong các kỳ thi quốc gia, quốc tế, xem giờ họ đang làm gì, ở đâu, đã đóng góp gì cho đất nước khi họ trưởng thành. Điều này cần thiết để không lãng phí, chảy máu chất xám. Giáo dục suy thoái thì đạo đức, nhân phẩm con người cũng sẽ tụt dốc không phanh hãm. Đỗ Chu phê phán và cảnh báo về sự suy thoái nhân phẩm : “Văn hóa của chúng ta những ngày này đang có những biểu hiện rất đáng báo động, chung quy nó là sự suy thoái nhân phẩm, là dấu hiệu hoảng hốt trong đời sống tinh thần, và cái ác đang có nguy cơ bị o bế, nó tìm thấy những điều kiện để lên men.” [19, tr.193] Đỗ Chu vạch ra những sa sút phẩm hạnh của một bộ phận không nhỏ cán bộ trong Đảng. Đó chính là nguyên nhân của nạn tham nhũng, thói hoang phí ngông cuồng, thói cửa quyền kiêu ngạo, mất dân chủ, bất chấp mọi đạo lý và nhiều khi đi tới bất nhân, bất nghĩa. Đây quả là những thách thức lớn trên con đường đổi mới. Nguyên nhân của sự sa sút đó như Đỗ Chu đã nhận ra là do quyền lực vạn năng của đồng tiền trong đời sống hiện tại. Đỗ Chu nhìn thấy sự lên ngôi độc tôn của đồng tiền : “Đợi đến lúc nó sẽ là đầu tiên ở mọi việc, mọi chỗ, ấy sẽ là lúc hỏng bét, hỏng không cứu vãn.” [19, tr.129] Và vì đồng tiền mà có những thực tế đáng buồn : “Nhiều năm tháng vừa qua chúng ta cũng lại đã từng có lúc bất chấp cả truyền thống nề nếp, bất chấp những giá trị thật sự là rất tốt đẹp.” [19, tr.130] Có những cán bộ đánh mất lương tri, lòng tự trọng, sẵn sàng phạm pháp để đổi lấy sự giàu sang. Những kẻ như thế “lên voi xuống chó nhưng cảnh nhà sung túc lắm, ông chồng đi tù nhưng mà tiền bạc vẫn cất kín ở nhà…hy sinh đời bố củng cố đời con là cách sống ông đã kiên trì lựa chọn.” [21, tr.261] 3.2 Chất truyện và chất thơ trong tùy bút Đỗ Chu Có thể thấy tùy bút, truyện ngắn, tiểu thuyết đều thuộc thể loại văn xuôi tự sự. Điểm giống nhau là các thể loại này đều có sự tham gia của yếu tố truyện kể. Tuy nhiên tùy bút lại thiên về tự sự trữ tình. Do đó chất truyện trong tùy bút không đậm đặc như truyện ngắn và tiểu thuyết. Người viết tùy bút khác các nhà viết truyện ngắn, tiểu thuyết ở chỗ : kể chuyện bằng cảm xúc. Họ không tuân thủ theo logic sự kiện thông thường của tác phẩm văn xuôi tự sự mà tuân thủ theo quy luật cảm xúc. Khảo sát các tập tùy bút, nổi bật lên hết là chất truyện và chất thơ – hai yếu tố đặc trưng cho phương thức biểu hiện nghệ thuật của Đỗ Chu. 3.2.1 Chất truyện trong tùy bút Đỗ Chu 3.2.1.1 Nghệ thuật kể chuyện Những trang tùy bút của Đỗ Chu hầu hết là những câu chuyện kể về đất, về người, chuyện xưa, chuyện nay, chuyện nhân tình thế thái. Thông qua những câu chuyện kể ấy mà bộc lộ những cảm xúc, suy tư, trăn trở của mình. Chính sự xuất hiện của yếu tố truyện này là điểm nhấn để mạch cảm xúc của Đỗ Chu không trôi miên man. Những câu chuyện kể được đặt để đúng chỗ khiến các trang tùy bút thêm phần sinh động, lôi cuốn, làm nổi bật chủ đề tác phẩm. Có được điều này là do nghệ thuật kể chuyện rất có duyên của Đỗ Chu. Đỗ Chu rất có tài kể cho thật tự nhiên, linh hoạt, khéo léo cài cắm những chi tiết “đắt” để làm không khí cho truyện kể của mình. Ông kể rất thật, rất chi tiết về cuộc đời, những tấm gương anh dũng trong chiến đấu và hăng say trong lao động sản xuất, những hy sinh mất mát, những hoàn cảnh khó khăn… Đặc biệt là các câu chuyện kể hài hước, hóm hỉnh về nghề văn, giới văn nghệ sĩ luôn mang đến những sự thú vị, bất ngờ cho độc giả. Trong tác phẩm Trời Điện Biên mây trắng, nhân tường thuật chuyến đi của các văn nghệ sĩ ra thăm lại Điện Biên, Đỗ Chu chen vào kể chuyện mình bị “nhầm lẫn với các vị nổi tiếng”. Người ta nhầm Đỗ Chu với Chu Văn – nhà văn viết Bão Biển. Còn một cô giáo ở Điện Biên nhằm Đỗ Chu với Chu Lai. Vì sự nhầm lẫn mà ông được đón tiếp nồng hậu. Sau mẩu chuyện khôi hài là triết lý vừa hóm hỉnh nhưng cũng vừa thấm thía của Đỗ Chu : “Tôi thấy tủi thân quá, mới nghỉ, không khéo lần này về cũng phải chịu khó quay ra học lấy vài nốt nhạc thử sức xem sao. Nhưng lại nghĩ, ở đời, không phải thấy người ta ăn khoai cũng vác mai đi đào.” [21, tr.93] Hay trong tùy bút Quê ngoại, nhân chuyến đi của Đỗ Chu về phủ Thuận Thành cùng Nguyễn Khải, đang thao thao bất tuyệt về Mả Thằng Ăn Mày, một địa danh ở phủ Từ Sơn, Đỗ Chu tạt ngang kể chuyện nhà văn Nguyên Hồng. Một lần cụ Nguyên Hồng ghé qua Mả Thằng Ăn Mày, hỏi Đỗ Chu, đống mả này giống cái gì trên đời. Đỗ Chu chưa kịp trả lời thì cụ Nguyên Hồng đã tủm tỉm cười và trả lời “nó giống đời thằng nhà văn chúng ta đấy.” [21, tr.94] Thông qua những câu chuyện về các các văn nghệ sĩ trên, bao giờ cũng thể hiện một thái độ, một cách cảm, cách nghĩ và một triết lý nào đó của Đỗ Chu về nhân sinh hay về trách nhiệm của nhà văn, sứ mệnh của văn học nghệ thuật…. Những chuyện xưa tích cũ cũng được Đỗ Chu viện dẫn vào các tác phẩm của mình tạo ra một không khí cổ xưa và huyền thoại. Nó góp phần chuyển tải những triết lý của nhà văn với cuộc sống. Trong tùy bút Hoa bờ giậu, Đỗ Chu kể chuyện cụ Nguyễn Công Hoan đến trao gươm báu cho nhà bảo tàng lịch sử. Nhưng chính thái độ hạch sách tra khảo, kê khai lý lịch, giấy tờ khiến cụ ngán ngẩm, ôm gươm quay trở về. Cụ tặng lại vật báu cho cụ Nguyễn Tuân vì cho rằng “vật quý phải tầm quý nhân”. Nhân câu chuyện này, Đỗ Chu nhắc lại tích “vua Sở đánh rơi cung, người Sở nhặt được cung” để đề cao giá trị của người biết trân trọng, gìn giữ những giá trị lịch sử. [21, tr.12] Để ca ngợi một cá tính thơ độc đáo và bản lĩnh như Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu đã ví con người ấy như “cây sáo sô lô” trong dàn hợp xướng thơ ca. Con người dám tiên phong trong việc đổi mới nghệ thuật, bước kịp bước tiến của thời đại. Vì thế trong đám đông, Phạm Tiến Duật không nhạt nhòa lẫn lộn. Nhân nói chuyện đám đông và cá tính thơ Phạm Tiến Duật, Đỗ Chu viện dẫn chuyện xưa rất khéo và rất ý nghĩa : “Xưa có ông vua rất thích nghe cả dàn sáo cùng thổi, như thế mới thật vang lừng….”. [21, tr.67] Ngoài cổng thành người ôm sáo tìm tới vẫn ngày một nhiều để được gọi vào chơi trong dàn nhạc vĩ đại kia. Đến khi vua cha băng hà, người con lên kế vị. Anh ta lệnh từ nay chỉ nghe từng người thổi sáo, không nghe cả dàn hợp xướng nữa. Lệnh vừa ban xuống đã thấy đám nhạc công lủi đi hết chỉ còn lại mươi bóng. Đỗ Chu chỉ bình một câu ngắn gọn nhưng hàm súc : “Lâu nay họ thường nghĩ muốn thổi sáo chỉ việc mấp máy mồm là quá đủ.” [21, tr.68] Chính những tuồng xưa tích cũ được đặt để đúng chỗ tạo thêm phong vị cho những trang tùy bút Đỗ Chu. Ngôn ngữ kể và tả cũng làm cho tùy bút Đỗ Chu giàu chất truyện. Câu chuyện tình của Trường và Châm trong tùy bút “Bên kia sông Hồng” được kể rất lôi cuốn và bất ngờ. Đoạn Châm tình cờ gặp Trường ở ga Gôi sau bao năm anh vào chiến trường, bặt tin tức. Như có một linh tính mách bảo “…không hiểu sao cô thấy lòng dạ bồn chồn quá…Nghe thấy có người gọi tên mình rồi, ngẩng lên nhìn thấy đúng là anh Trường đang đứng ngay trước mặt, vậy mà cứ ngớ ra không tin ngay đó là thật”. [14, tr.68] Nhân vật Thục Trinh trong tùy bút “Kìa đàn hồng hạc” hiện lên rõ nét qua ngôn ngữ miêu tả: “Trong số đó có một cô gái chưa đầy hai chục tuổi, nom hiền khô, duyên dáng lạ lùng. Con gái từ rừng ra mà nước da đỏ hồng, dáng dấp lại đoan trang con nhà gia giáo, một cô gái nội thành tiếng Sài Gòn êm nhẹ…” [19, tr.9] Sự tự nhiên và đời thường trong cách kể cũng khiến các trang tùy bút của ông gần gũi với cuộc sống. Đỗ Chu kể về nhà văn Mai Ngữ với một giọng điệu như trêu cợt nhưng thật sự là rất yêu thương: “Trông bộ dạng còm rom thế mà gớm, ăn mặc thì xềnh xoàng như thằng ăn mày, lúc nào cũng bước thấp bước cao như đứa không nhà cửa, nhưng hỏi ra mới rõ nhà nó là tòa ngang dãy dọc…” [19, tr.140] Có thể thấy sự đan xen rất rõ chất truyện trong các trang tùy bút rất giàu chất thơ của Đỗ Chu. Thông qua nghệ thuật kể chuyện, các trang tùy bút của nhà văn như gần với bạn động hơn bởi cách kể chuyện rất có duyên mà vẫn giữ được sự tự nhiên, không trau chuốt cầu kỳ. Ngoài nghệ thuật kể chuyện, nghệ thuật xây dựng nhân vật cũng khiến các trang tùy bút của Đỗ Chu thấm đẫm chất truyện kể. 3.2.1.2 Nghệ thuật xây dựng nhân vật Nhân vật trong tùy bút Đỗ Chu được khắc họa rõ nét qua sự cá thể hóa ngôn ngữ một cách sinh động. Trong tùy bút Vòm trời quen thuộc, khi trận B52 của Mỹ trút xuống thủ đô Hà Nội, hai chị em bé Hà đã bị mắc kẹt trong đống đổ nát. Đỗ Chu đã thể hiện sự hoang mang sợ hãi của hai chị em qua đoạn đối thoại sau: “Thằng Cường nằm sấp trên nền gạch, quờ hai tay về phía trước tìm chị nhưng em chỉ thấy những tảng gạch và những thanh sắt lạnh lẽo. Em không khóc nữa – chả khóc, không có chị Hà ở đây khóc thì ai dỗ. Em lấy sức gọi to hơn nữa: -Chị Hà ơi, tối mất rồi! Một tiếng đáp lại yếu ớt từ trong bóng tối: -Chị đau lắm, khát nước lắm, em gọi mẹ bới cầu thang đi. Thằng Cường gọi mẹ đến khản cả cổ. Nó cũng thấy khát nước ghê gớm. Tiếng cuốc bới hầm ở trên mỗi lúc nghe một rõ hơn. Một tia sáng rọi xuống. Thế là sắp bò ra được rồi. -Cho cháu nước, các bác ơi! Một chai nước được đưa lách qua các tảng bê-tông lớn, thằng Cường với lấy. Nó nhấp thử ngay một ngụm, à phải rồi, chai nước ở trên cái xe bò ban nãy. -Chị Hà ơi, có nước đây, chị uống đi, chị đừng chết nữa nhé! Mọi bận Hà vẫn thường giả vờ ngủ quên để dọa đứa em khi thấy nó khóc dai. Nhưng lần này không phải Hà vờ nữa, một thanh dầm đã đè lên người em quá lâu.” [14, tr.80] Trong một số tác phẩm, Đỗ Chu còn sử dụng dòng độc thoại nội tâm để khắc họa nội tâm và tính cách nhân vật. Tác phẩm Ghi chép ở Ban Mê kể câu chuyện xúc động về người chiến sĩ xích vệ năm xưa nay tìm về với mảnh đất Tây Nguyên đầy ký ức. Nơi ấy ông đã từng chiến đấu, và sống những năm tháng tù đày cơ cực. Hành trình tìm về vùng đất này là tìm về trả nợ những người đã cưu mang, cứu sống ông như hai ông cháu người dân tộc Y Bí Alêô. Đỗ Chu ghi lại những xúc cảm dạt dào của ông Đắc khi tìm về chốn xưa qua dòng độc thoại nội tâm. Cảnh đổi thay, người xưa xa vắng. Người xích vệ ngẩn ngơ nhớ đến đồng đội cũ . Nghe bài Độc huyền cầm của một anh bạn nhạc sĩ, ông Đắc cảm thấy xót xa, thương cho sự cô đơn, lẻ loi của mình: “Độc huyền cầm buồn lắm mấy ai tri ân, độc huyền cầm lẻ loi bay ngang cánh chim hồng, bất phong kỳ tả tơi, Lĩnh Nam cầm lả lơi, khách anh hùng còn ai tri âm, độc huyền cầm, gió mây ngàn bể đông cũng thu về một bóng, tráng sĩ ngồi lặng câm tri âm độc huyền cầm”.[19, tr.25] Đôi khi ông Đắc tự hỏi tại sao mình lại thương nhớ mảnh đất Tây nguyên này? Phải chăng phần đời trai trẻ của ông đã nằm lại nơi đây, cả đứa con trai của ông cũng chết trên mảnh đất này mà chưa tìm thấy xác. Chính mảnh đất thiêng liêng này đã nợ ông một món nợ lớn. Đôi lúc buồn cho thân phận, ông tự buông xuôi : “Thôi thì mặc kệ đời, nước trôi thuyền trôi, ta đâu phải người đội đá vá trời. Hãy cứ cố mà sống thêm lấy dăm mười năm thử xem đời sẽ đi về đâu.” [19, tr.25] Nhưng ông đã mang lòng thương nhớ vùng đất Tây Nguyên này: “Con người ta rất có thể sinh một nơi, chết một nơi và suốt đời lại mang lòng thương nhớ một nơi khác.” [19, tr.25] Và ông đành phải tự tìm thấy niềm vui bằng việc nâng niu những ký ức : “Như là số phận vậy, hạnh phúc mà ta tìm thấy ở nơi này có lẽ không gì khác hơn là ta đã biết yêu thương nó.” [19, tr. 44] Nét thành công trong nghệ thuật xây dựng nhân vật của Đỗ Chu còn thể hiện ở chỗ ông đã vẽ lên chân dung của các văn nghệ sĩ một cách sinh động. Tập tùy bút Thăm thẳm bóng người và Tản mạn trước đèn phác họa chân dung của rất nhiều nghệ sĩ, tri thức nổi tiếng vốn được giới cầm bút hoặc giới chuyên môn nể trọng. Tuy vẽ chân dung không phải là cái đích hướng tới của Đỗ Chu nhưng ẩn bên trong các nét vẽ thần thái đó, tác giả muốn gửi gắm những trăn trở về hoạt động sáng tạo hay nhận thức nghệ thuật. Mỗi nhân vật là một thần thái riêng, một cá tính, phong cách riêng. Thông qua các câu chuyện làng văn mà Đỗ Chu kể, chân dung của các văn nghệ sĩ hiện lên sống động. Một Nguyễn Tuân tài hoa, mà tính cách chỉ tóm gọn trong hai từ “dáng kiêu” và “cốt kiêu”; một Nguyễn Khải thông minh và tỉnh táo, dám làm dám chịu; một Kim Lân quê mùa, mộc mạc và hồn hậu; một Chế Lan Viên uyên bác, duy lý, nhưng đôi khi cả nghĩ và dễ tủi thân; một Hoàng Cầm lãng mạn và hồn nhiên nhưng bên trong luôn chất chứa nhiều u uẩn và nỗi niềm xa xăm…. Hãy xem tính cách của nhà văn Nguyễn Minh Châu hiện rõ qua vài dòng miêu tả : “Anh nghển cổ lên như vừa chợt nghe thấy tiếng ai đang thì thầm, rồi anh nhìn thấy người đang ngồi xung quanh, nở một nụ cười buồn bã. Không ai có cái cười vô duyên hơn anh. Rồi bằng một giọng nằng nặng khê khê của người vùng biển Quỳnh Lưu, anh bắt đầu độc thoại.” [19, tr.145] Mỗi tính cách, mỗi chân dung văn nghệ sĩ là mỗi cuộc đời của họ. Nó mang lại cho người đọc những thú vị riêng khi tìm đến những trang tùy bút Đỗ Chu. Đỗ Chu đang viết chuyện về cuộc đời của họ. Điều đó khiến các trang tùy bút của ông thấm đẫm chất truyện nhưng cũng giàu chất thơ. 3.2.2 Chất thơ trong tùy bút Đỗ Chu Tùy bút thiên về phản ánh đời sống theo con mắt chủ quan của người viết. Do đó yếu tố cảm xúc chiếm vai trò quan trọng. Nhân vật trữ tình thường là nhân vật “tôi”, mang đậm dấu ấn phong cách cá nhân của tác giả. Cái “tôi” trữ tình trong tùy bút được xem là một yếu tố chuyển tải chất thơ. Bởi vì nó trực tiếp bộc lộ thế giới cảm xúc của nhà văn – nhân vật trữ tình của tác phẩm. Đồng thời nó cho phép ghi nhận, nắm bắt mọi sắc thái của cuộc sống và tâm hồn con người trong sự tinh tế, nhạy cảm nhất. Có thể nhận thấy chất thơ thể hiện qua cái “tôi” của nhà văn, vẻ đẹp của ngôn ngữ và các thủ pháp nghệ thuật. 2.2.2.1 Cái “tôi” trữ tình của nhà văn Phan Huy Dũng nhận xét rằng các trang tùy bút của Đỗ Chu “thâm trầm, uyên áo và sâu xa.” [22, tr.61] Nó có thể “ám ảnh” người ta bởi tâm trạng người viết, bởi giọng văn, cách nghĩ, bởi một vài chi tiết mà khi hồi tâm lại cứ ngơ ngác không biết nó được viết ra từ đoạn nào, để làm gì? Có được điều này là do những trang tùy bút của Đỗ Chu miên man trong dòng cảm xúc của chủ thể trữ tình. Ta bắt gặp một cái tôi dạt dào cảm xúc, cái tôi hoài cổ và cái tôi ưu tư thời cuộc qua các trang tùy bút của ông. Cái “tôi” dạt dào cảm xúc thể hiện tập trung qua tập tùy bút Những chân trời của các anh. Đó là tâm trạng yêu thương, tự hào, hạnh phúc, ngưỡng vọng, căm hờn, đau xót…Một tập hợp cung bậc xúc cảm tề tựu ở đây. Nhân vật “tôi” kể về những sự kiện trọng đại của đất nước, về những chiến sĩ dũng cảm chiến đấu và hy sinh, về những người chung tay xây dựng cuộc sống mới, về những công trình vĩ đại của đất nước đang mọc lên….Từ đó nhà văn bộc lộ cảm quan của mình trước mùa xuân mới của dân tộc. Một lời ru cũng đủ sức làm lay động trái tim chàng trai đang hân hoan trước cuộc đời mới : “Những lời ru chỉ một lần thoáng nghe mà đủ sức đi vào lòng ta mãi mãi khiến ta cảm thấy đất dưới chân nóng bỏng, và khẩu súng vác trên vai bỗng trở nên nhẹ nhõm. Và lòng ta dịu mát, e ấp một niềm vui về một ngày mai đất nước nở hoa”. [14, tr. 97] Thêm một mùa xuân, lại thêm một tuổi đời, nhà văn Đỗ Chu bồi hồi nghĩ về trách nhiệm của mình đối với đất nước : “Tôi tự hỏi mình, anh đang ở tuổi bốn mươi, anh nghĩ gì về chính anh, nghĩ gì về đất nước? Nghĩ gì về những ngày đã qua và những năm tháng đang đến? Nghĩ gì về lẽ sống, về kiếp người, về cái có thể và cái không thể, cái hữu hạn và cái vô hạn, niềm vui và nỗi buồn, hạnh phúc và đau khổ, của anh và của nhân dân anh? [14, tr.105] Cái “tôi” hoài cổ thể hiện xuyên suốt qua các trang tùy bút của Đỗ Chu. Có thể nói Đỗ Chu là một con người vọng cổ. Không chỉ trong truyện mà cả tùy bút, các nhân vật của ông đều chất chứa một vùng thương nhớ về những ngày đã xa. Ta cảm nhận được tình cảm da diết và lâng lâng của tác giả khi hoài niệm về quá khứ: “Đêm mùa xuân dìu dịu hương cây, hương lá, dìu dịu những nỗi niềm, những ý tưởng, tôi bồi hồi tìm về tổ ấm, về với một mảnh vườn xưa thân ái của mình.” [14, tr.87], trong nỗi niềm bâng khuâng về tuổi thơ đã trôi qua : “Tuổi thơ tôi đang lùi xa dần theo năm tháng như chiếc thuyền nan đang khuất dần vào cõi vô cùng, đến một lúc sẽ như một cánh chim bay lẫn vào mây khói chỉ còn để lại cái bóng của nó trong sóng hồ, trong đáy một vũng nước đọng dưới lòng khe.” [21, tr.267] Thấp thoáng trong các trang tùy bút luôn là cái tôi hoài vọng về tuổi thơ, một tuổi thơ trong vắt như một giấc mơ cổ tích : “Đêm nằm trằn trọc khó ngủ, tôi mong sẽ có một lần được trở lại giấc mơ của tuổi thơ. Bà lão ngồi trong một mái lều dưới bóng cây đa cổ tích, mau mắn xếp những trái thị chín vàng lên mặt chõng, vó ngựa gõ dập dồn và chị Tấm từ sau khung cửa khoan thai bước ra trong xiêm áo ngày hội. Rồi bàn chân con gái ngượng ngùng ướm lên chiếc hài vương giả. Bóng chị đi ẩn hiện sau bờ giậu đầy bướm hoa, mùi thị chín ngào ngạt một vùng non nước”. [21, tr.19] Đặc biệt trong hai tập tùy bút Thăm thẳm bóng người và Tản mạn trước đèn. Cái “tôi” này thường biểu hiện tâm trạng ngậm ngùi, xót xa, nuối tiếc, hụt hẫng và ngỡ ngàng khi tìm lại các dấu vết xưa.Ta thấy bóng dáng một Đỗ Chu với cái tôi xê dịch, thích tìm về lối xưa, cảnh cũ. Đó là hình ảnh một thi nhân miên man đi tìm những bóng người, bóng cảnh thăm thẳm. “Lớn lên tôi có một thời thích lang thang trong nhiều xóm ngõ của làng Niềm để tìm dấu xưa, hay đứng ngẩn ngơ trước một cái cổng lớn có đắp chữ Nho làm Đại tự, có mảnh sân lớn lát gạch Bát Tràng, có ao sen, có hòn non bộ, có bóng hoàng lan, hỏi liệu đây có phải là nhà bà Hồng, bà Tuyết ngày xưa không, người ta lắc đầu bảo đây là nhà ông Phán Cư, con cháu giờ đang ở bên Pháp, bên Mỹ không thấy ai buồn về nhòm ngó nữa.” [19, tr.357] Đỗ Chu nhắc nhiều đến bến sông Tương. Bến sông ấy hóa ra là vẻ đẹp xưa mà một đời nhà văn kiếm tìm. Nó chỉ còn trong hoài niệm về quá khứ, hoặc trong thi ca xưa. Ta bắt gặp cái “tôi” tương tư một bến sông Tương thấp thoáng qua trang tùy bút của ông: “Đêm đêm trước đèn mình thức với mình, tôi vẫn mông lung đi tìm cái dòng Tương muôn thưở ấy. Tôi vẫn tin là đang có nó, nó vẫn đang chảy trong lòng đời sống dân tộc. Nó là dòng sông của thi ca, là tình yêu, là nguồn cảm hứng vô tận để chúng ta sống và sáng tạo, là nguồn trí tuệ đáng tin cậy nhất trong sứ mệnh dẫn đường.” [19, tr 272] “Gánh vàng đi đổ sông Ngô Đêm nằm mơ tưởng đi mò sông Tương” Suốt một đời nhà văn đi tìm sông Tương mà vẫn chưa gặp nó. “Ở vùng chúng tôi có tổng Tiêu Giang, lại có xã Tương Giang. Ngờ rằng sông Tiêu Tương nằm ngay chỗ ấy. Sen súng um tùm ven bờ tre, trong ruộng lúa, ao chuôm, đầm lầy. Có thể đấy là dấu vết của dòng sông cổ tích chăng. Đám trẻ thì bảo chẳng có sông Tương, nó ở bên Tàu, người già thì kể có sông Tương nhưng nó chỉ là một con ngòi nhỏ, hát mãi, kể mãi mà thành. Nhiều năm tôi đi xa, nhưng đi xa mấy rồi có lúc cũng phải quay về, mỗi lần trở về là lại một lần qua nơi ấy, là lại phải bận tâm nghỉ tới một dòng sông nay đã biến mất ngay trước mắt mọi người, từ lúc nào không hay.” [19, tr 264] Ta bắt gặp con người nặng nợ với vẻ đẹp xưa… Cái tôi ưu tư thời cuộc cũng thể hiện đậm nét qua các trang tùy bút Đỗ Chu. Nhà văn trầm mặc suy tư về các vấn đề lớn của đất nước, dân tộc. Tản mạn trước đèn là hình ảnh một con người ngồi dưới ngọn đèn mờ tỏ, trải lòng mình ra trang giấy. Ngọn đèn soi rõ tâm can con người. Nhân vật “tôi” ngẫm ngợi về cuộc đời, về dòng chảy thời gian với bao buồn vui của kiếp người: “Trong bóng những người thân có bóng ta, ta tìm thấy mình trong đó. Lũ trẻ lớn lên lại sẽ có buồn vui của riêng chúng, những bài hát của riêng chúng, còn ta vẫn đang có những bài hát của mình, một thời của mình.” [21, tr.168] Đỗ Chu hay trăn trở về số kiếp của con người : “Không thiếu những kiếp sống tẻ nhạt, thời gian trôi qua vô vị, nhưng cũng không thiếu những cuộc đời đằm thắm, một ngày qua là một ngày tự hào về con đường mình đã chọn…Có nhiều cuộc đời ngắn ngủi, đi qua nhanh chóng như một vệt sao băng giữa trời, vậy mà cứ sáng chói lòa trong tâm khảm mỗi người.” [14, tr.116] Cái tôi ưu tư trầm mặc soi xét các giá trị của bản thân là hình ảnh luôn trở đi trở lại trong các trang tùy bút Đỗ Chu. Trong tùy bút Thăm thẳm bóng người, nhà văn tự vấn mình: “Suốt đêm tôi thức ngắm những trái bưởi cuối mùa lặng lẽ tỏa hương trên chiếc bàn đá có đặt cốt của bà. Những cành bưởi chỉ to bằng cổ tay người chứ có là bao. Và tôi tự thấy phải hỏi mình, liệu đời mình có sánh nổi cây bưởi kia không.” [21, tr.120] Dấu ấn chủ thể trữ tình là một đặc trưng không thể thiếu của thơ. Đỗ Chu biến những trang tùy bút của mình thành những trang thơ khi bộc bạch cái “tôi” đầy xúc cảm dào dạt. Qua cái “tôi” ấy ta bắt gặp chân dung tinh thần của nhà văn - một con người tinh tế, giàu yêu thương và nặng lòng với quê hương, đất nước. 2.3.2.2 Chất thơ trong ngôn ngữ tùy bút Ở địa hạt thể ký có thể xem Nguyễn Tuân là người rất kỳ công trong việc lựa chọn, sáng tạo và vận dụng ngôn từ. Vì thế ông được mệnh danh là bậc thầy của ngôn ngữ. Còn Đỗ Chu là người được đánh giá cao về văn phong và được coi là nhà văn luôn chú trọng tới vẻ đẹp và “sức bật” của câu văn. Chính vì thế mà Tô Hoàng đã nhận xét: “Người khó tính cũng phải thừa nhận, ở Đỗ Chu văn phong trang hoàng, có những đoạn đẹp đến chuẩn mực.” [39] Ngôn ngữ của Đỗ Chu tươi đẹp, hiền hòa chứ không cốt phô diễn cá tính mạnh mẽ như nhà văn Nguyễn Tuân. Về phương diện này, Đỗ Chu gần với Hoàng Phủ Ngọc Tường và Vũ Bằng hơn. Nhưng cái phần “chuẩn mực” thì hiếm ai bì với nhà văn Đỗ Chu. Vẻ đẹp trong ngôn ngữ của ông thể hiện ở cách sử dụng ngôn từ giàu chất thơ như đã phân tích trong phần truyện ngắn. Nhưng điều đặc biệt trong tùy bút của Đỗ Chu là sự vận động, phát triển trong ngôn từ . Ở tập tùy bút đầu tay Những chân trời của các anh, ngôn từ đẹp như luôn có cánh vút bay cùng cảm hứng sử thi lâng lâng. Đó là thứ ngôn từ miêu tả và biểu hiện mượt mà, giàu sắc thái, cảm xúc. Đặc biệt ông thường sử dụng một hệ ngôn từ rất trang trọng, đề cập đến các vấn đề lớn như Đảng, cách mạng, lẽ sống, dân tộc, thời đại, cốt cách Việt Nam, dân tộc Việt Nam, chiến tranh, hòa bình, máu, nước mắt, mùa xuân, tuổi trẻ, sức trẻ, nhân dân, Tổ quốc Việt Nam, sức mạnh Việt Nam, sức mạnh nhân dân, khuôn mặt đất nước, thế kỷ, thời đại, nô lệ, xiềng xích….Hệ ngôn từ rất phù hợp phản ánh không khí thời đại sau chiến thắng mùa xuân năm 1975. Con người cảm xúc trước những vấn đề rất trọng đại của đất nước mà chắp bút. Cũng chính vì vậy mà ngôn từ của ông mang vẻ đẹp trang hoàng và mẫu mực. Ở hai tập tùy bút sau, ngôn từ Đỗ Chu nhanh chóng tiếp cận thời kỳ đổi mới, trở nên đa dạng, linh hoạt và mang chất “đời” nhiều hơn. Với vốn văn hóa phong phú, vốn sống và tài viết văn của mình, Đỗ Chu đã kết hợp nhuần nhụy những kiến thức “đông, tây, kim, cổ”. Chính điều này khiến văn phong ông vừa truyền thống vừa hiện đại, vừa hiện thực vừa lãng mạn, vừa dí dỏm, hài hước vừa đằm thắm, trữ tình. Khảo sát hệ ngôn từ trong tùy bút Đỗ Chu, có thể thấy các dạng sau: -Ngôn ngữ biểu cảm mang tính văn học: Tác giả sử dụng các hình tượng, biểu tượng mang tính ẩn dụ, so sánh giàu liên tưởng: “Dòng chảy của một nền văn học chẳng khác nào dòng chảy của một con sông mẹ. Trong quá trình đi tới nó đã diễn ra nhiều hình thế, đôi khi phức tạp. Lúc thì thắt mình lại làm nên ghềnh thác, lúc mở lòng ra đón nhận phụ lưu, sau nhiều uốn lượn nó tỏa nhánh gặp biển. Nơi ấy là cửa sông mênh mang bờ bãi, rất dễ ngỡ ngàng, dễ bị ngợp khi muốn nhận hướng….” [19, tr.217] Nói về cốt cách Việt Nam trên đất Thái, ông so sánh những con người ấy là “những con chim Lạc lìa đàn”, “là hạt giống Việt” luôn biết lưu giữ truyền thống văn hóa: “Họ là những con chim Lạc lìa đàn còn biết lưu lại dấu vết chân móng của mình trên tang trống đồng cổ tích, là những con chim Lạc lúc vỗ cánh bay đi trăm ngả vẫn còn biết để bóng dáng mình ở lại với nước non”. [21, tr.27] Đỗ Chu còn xác lập được những khái niệm văn chương mới, gọi tên các sự vật hiện tượng bằng những từ ngữ rất “đắt” : “Các nhà văn mới mỗi người một vẻ, họ giống như những trái núi nằm đấy, ngày ngày ai cũng trông thấy, ấy vậy mà càng ngắm lại càng thấy lạ. Mỗi ngày lại thấy thêm ở họ lộ ra một cái mới. Cái mới không phải ở cá tính riêng, cá tính dẫu thế nào cũng chỉ là cái dáng kiêu, phần ta cần tìm ở họ là cái cốt kiêu.” [21, tr.84] Những con chữ bình thường được nhà văn tách ghép, kết hợp và đặt nó vào một quan hệ mới, lập tức tạo ra một trường nghĩa mới, đầy sáng tạo. Đỗ Chu như đánh thức tiềm năng của từng con chữ khiến nó không yên vị ở đời sống nghĩa bình thường nó vốn có. -Ngôn ngữ cổ xưa: Văn Đỗ Chu mang phong vị cổ kính. Có được điều này là do nhà văn sử dụng hệ thống ngôn từ cổ xưa kết hợp với việc viện dẫn các câu đối chữ Nho, câu văn thơ chữ Hán, và sự cắt nghĩa, lý giải chúng. Tất cả tạo cho các trang tùy bút phảng phất không khí cổ xưa. Ông cũng thường xuyên sử dụng các thuật ngữ, từ cổ khi bàn về đạo đức, lối sống của các bậc hiền triết xưa: “Cụ Khổng Tử dặn nan đắc hồ đồ, nghĩa là người quân tử khó lòng mắc vào những chuyện hồ đồ, nhưng đến thời Tống, một ông họa sĩ nổi tiếng là Trịnh Bản Kiều đã mạn phép mà bổ sung thêm một ý tôi cho là hóm, ông ấy bảo tiểu hồ đồ tiên, nghĩa là cũng nên có chút hồ đồ mới hay, tiên ở đây là cái vui thánh hiền.” [21, tr.78] Tùy bút của Đỗ Chu hay luận bàn về chữ Hán và chuyện văn chương: “Mỗi lối thảo đẹp một vẻ, duyên dáng ý tứ là cách Khuê nữ bộ xuân, mãnh liệt bất chấp là Thiếu niên cự phách…Rung rinh lay động như con giun cựa mình là khi xuân tới, như con rắn lột xác lúc thu về là cách Xuân dận thu xà, còn như nhìn vào thấy đám chữ ùn ùn ngổn ngang mà vẫn có hàng có lối như đám phu kiện đang tiến trên đường thì được gọi là Kiệu phu trạch đạo…” [21, tr.77] Tóm lại, sự phong phú và đa dạng trong ngôn từ đã tạo ra một văn phong trang hoàng, đẹp nhưng vẫn mộc mạc, giản đơn; triết lý nhưng vẫn nhẹ nhàng, không khô khan; trữ tình đằm thắm nhưng vẫn hóm hỉnh, vui tươi. 3.3 Giọng điệu Trong Hồi ký và bút ký thời kỳ đổi mới, Lý Hoài Thu nhận định : “Do sự cởi mở, phong phú về mặt phong cách và cá tính sáng tạo từ sau đổi mới, mỗi tác giả lại mang đến cho thể loại một giọng điệu riêng của mình.” [79, tr.84] Sự chuyển hướng từ cái nhìn sử thi sang cái nhìn hiện thực phức hợp, đa chiều của văn học thời kỳ đổi mới đã giúp cho Đỗ Chu cảm nhận cuộc sống ở nhiều cung bậc khác nhau, mang đến sự đa sắc trong giọng điệu. Người viết đi vào khảo sát các giọng điệu làm nguồn mạch phản ánh bức tranh hiện thực đa dạng của Đỗ Chu : giọng sử thi hào hùng, giọng chiêm nghiệm suy tư, giọng hài hước, hóm hỉnh. 3.3.1 Giọng sử thi hào hùng Trong những năm đổi mới, tập tùy bút Những chân trời của các anh còn thấm đượm tinh thần lãng mạn cách mạng, giọng điệu chủ đạo vẫn là giọng sử thi hào hùng. Cuộc sống sau chiến tranh còn nhiều khó khăn nhưng ta vẫn bắt gặp một tâm hồn, chất giọng bay bổng, vút cao đầy lạc quan: “Đất nước sinh sôi những công trường, những nhà máy, những con đường vượt rừng, những con đường qua biển. Đất nước sinh sôi như những thế hệ nối nhau biết cắm lá cờ đỏ lên dinh lũy cuối cùng của sự nghèo đói và lạc hậu của những cách sống quẩn quanh và ti tiện. Để hùng dũng và bay lên, để khuôn mặt nhân dân bừng sáng hơn bao giờ hết.” [14, tr.51] Giọng đầy khí thế hào hùng, quyết chiến quyết thắng khi viết về cuộc chiến đấu bảo vệ biên giới phía Bắc năm 1979: “Ta nhân danh Tổ quốc. Nhân dân Đảng ta, nhân danh sức mạnh vô địch của chủ nghĩa xã hội, của anh em đồng chí. Lại những năm tháng trường kỳ gian khổ, lại những ngày vất vả lao lung, nhưng có hề gì, một khi ta đã hiểu đời ta không thể nào sống nổi nếu phải quay về kiếp người nô lệ….[.. ] Tự lòng ta sâu thẳm vang lên, át mọi thứ kèn thứ súng, vang lên hai tiếng Việt Nam, Việt Nam, Việt Nam muôn năm.” [14, tr.28] Để tạo ra chất giọng sử thi này, Đỗ Chu đã sử dụng các cấu trúc đảo câu, điệp ngữ nhằm nhấn mạnh một giọng điệu mạnh mẽ, dứt khoát: “Chưa bao giờ hết khó khăn, chưa bao giờ không nghèo túng, nhưng quả thật cũng chưa bao giờ không gan góc và bền bỉ”. [14, tr.25] Niềm vui vỡ òa ra khi đất nước, làng quê thay đổi. Điệp ngữ “không còn bao lâu nữa” lặp đi lặp lại như một khúc tráng ca đầy niềm tin và hy vọng: “Tất cả giờ đã thay đổi, bây giờ nơi đó là một công trình nhiệt điện. Một nhà máy nhiệt điện có cỡ không còn bao lâu nữa sẽ ra đời. Không còn bao lâu nữa phố phường, làng mạc gần xa quanh đây đều sẽ bừng lên, quê hương chúng ta bừng lên, bóng tối bị dồn đuổi, đói nghèo dốt nát bị dồn đuổi.” [14, tr.86] Đảo ngữ cùng với điệp cấu trúc “Đã +động từ” khẳng định một cách dứt khoát và tự tin những thành quả mà dân tộc Việt Nam, đất nước Việt Nam đã đạt được. Giọng văn mạnh mẽ, dứt khoát: “Đã sống lại mãnh liệt một dân tộc vốn hôm qua còn quằn quại, đã nghiêm trang một khuôn mặt nhân hậu vốn hôm qua còn tăm tối. Đã thu về một mối giang sơn vốn từ bao nhiêu thế kỷ trước vẫn luôn luôn bị giằng xé tả tơi và hồn nước, hồn người, tên nước và tên người , tất cả đã hiện về trong tự do.” [14, tr.96] Bên cạnh đó Đỗ Chu còn sử dụng các kiểu câu mệnh lệnh, cầu khiến : “Ấm dần lên đi những ngón tay trẻ thơ mảnh mai. Hé dần lên đi, rực sáng lên đi những nụ hoa lặng lẽ.” [14, tr.104] 3.3.2 Giọng chiêm nghiệm suy tư Là nhà văn luôn gắn bó với đời sống xã hội, trăn trở với những vấn đề bức xúc của thời đại, Đỗ Chu thường hay suy tư và triết lý. Lý Hoài Thu đã có nhận xét : “Trong tùy bút của Đỗ Chu, người đọc lại bắt gặp một thứ ngôn từ giản dị, chân phương, nhẹ nhàng song vẫn đượm chất triết lý, suy tư.” [79, tr.85] Ông ngẫm nghĩ triết lý về sự đời : “Đã có nhiều cái hôm qua đúng mà hôm nay thành sai…Ngẫm cái khôn cái dại của loài người cũng là chuyện dễ hiểu, cho nên các cụ thường chép miệng nói “chó dại có mùa người dại quanh năm”, là rất nhân tình thế thái.” [19, tr.297] Ông suy tư trăn trở về nghề văn: “Với những ai cầm bút thì chỉ những trang văn là ở lại với đời. Nếu gọi nó là nghề thì liệu có nghề nào lắm chênh vênh như nghề này nữa không? Chênh vênh đấy nhưng bền vững đấy. Chênh vênh như sự sống, bền lâu như sự sống.” [19, tr.217] Đây chính là một kiểu độc thoại nội tâm giàu tâm huyết, thể hiện sự gắn bó với cuộc sống, luôn muốn đặt vấn đề với đời và với chính mình. Tản mạn trước đèn là cõi lòng của con người ngồi trước ngọn đèn bày tỏ những băn khoăn, trăn trở về vận mệnh đất nước, dân tộc và bản thân mình. Còn trong Thăm thẳm bóng người, Đỗ Chu lặn lội đi tìm những bóng người “thăm thẳm”. Ông chìm trong dòng suy tư miên man về con người, về văn chương, nghệ thuật. Ta bắt gặp một giọng chiêm nghiệm suy tư man mác chảy tràn qua các trang văn. Đây là giọng điệu chủ đạo xuất hiện hầu hết trong tùy bút Đỗ Chu, kể cả trong tập Những chân trời của các anh. Dẫu trong tập tùy bút đầu tay này, giọng điệu sử thi vẫn là giọng chủ đạo. Song sau những phút hào hứng, nhiệt thành, lòng người lắng lại ngẫm ngợi về những mất mát, hy sinh, về trách nhiệm của bản thân với đất nước. Vì thế ta vẫn cảm nhận được một giọng văn suy tư, trăn trở. 3.3.3 Giọng hài hước, hóm hỉnh Tùy bút của Đỗ Chu đề cập đến những vấn đề bức xúc, đáng cảnh báo của xã hội. Song ta không thấy ở nhà văn một giọng điệu luận tội gay gắt, đả phá hay phê phán thẳng tay. Dẫu sao Đỗ Chu vẫn là một ông cụ hiền lành, lại kết hợp với văn phong vốn đã rất trữ tình, dịu ngọt nên ta chỉ thấy một giọng điệu hài hước, hóm hỉnh. Có mỉa mai, có lên án thì cũng không quá thẳng tay bốp chát vào mặt. Đỗ Chu phản ánh những vấn đề bức xúc, những hạn chế, bất cập ở các lĩnh vực văn hóa, giáo dục, điện ảnh. Chính việc lựa chọn câu từ đắt địa, hàm súc, lối nói nửa như thật nửa như đùa khiến ai đọc lên cũng thấy tức cười. “Diễn viên nói chung là xinh, nhưng thường hay bị lột quần, xé áo, mà lại hay ngất nữa, mà Nam Bộ gọi là “té xỉu”.[19, tr.156] hay “sở dĩ chưa làm nổi những bộ phim lịch sử nói về đời Lý, đời Trần, là do đến một con ngựa cho ra ngựa chúng ta cũng thiếu.” [19, tr.156] Đỗ Chu đã chêm vào một câu mỉa mai : “ Hay nhỉ, nhưng lịch sử dân tộc chúng ta đâu có phải bắt đầu từ mấy con ngựa”. [19, tr.157] Kể chuyện mình hoặc chuyện giới văn nghệ sĩ thì duyên lạ. Nói về những chuyện không nên nói, khó nói, nhạy cảm để nói thì rất khéo dùng từ. Đôi khi chỉ gợi và lấp lửng để người đọc tự suy luận: chuyện Phạm Tiến Duật, Kim Lân, Chế Lan Viên…..Cách kể chuyện khề khà, tự nhiên, lôi cuốn người đọc bởi sự hóm hỉnh, duyên dáng của mình. Nhìn chung, trong sự nghiệp của Đỗ Chu, bên cạnh truyện ngắn, tùy bút tuy không chiếm số lượng lớn nhưng thực sự là những trang viết mang đậm dấu ấn cá nhân, thể hiện ý thức, quan niệm nghệ thuật của một cây bút giàu tài năng và tâm huyết. Đây cũng là một lĩnh vực khẳng định tên tuổi và vị trí xứng đáng của ông trên văn đàn. Nó giúp bạn đọc hiểu thêm về thế giới tâm hồn của nhà văn, hiểu thêm những con người tài năng và nhân cách sáng ngời trong làng văn sĩ. Ông là người tiếp bước xứng đáng các bậc đàn anh như Nguyễn Tuân, Vũ Bằng, Tô Hoài, Nguyên Ngọc, Hoàng Phủ Ngọc Tường…bằng một bản lĩnh văn hóa vững vàng, một trí tuệ uyên thâm, một trái tim mẫn cảm, một ngòi bút nhiệt huyết, đầy trách nhiệm và một văn phong chuẩn mực. Với các tuyển tập tùy bút của mình, Đỗ Chu muốn khẳng định ông luôn đồng hành cùng cái đẹp, đồng hành cùng với vận mệnh dân tộc, đất nước, đồng hành cùng nhịp sống gấp gáp, đầy sôi động nhiều cơ hội nhưng cũng nhiều thử thách ngày hôm nay. KẾT LUẬN Đỗ Chu rất Việt Nam. Cũng như Tô Hoài, văn của ông thuần Việt và không lai tạp. Đọc văn của ông cẩn trọng như đọc văn Tô Hoài. Chúng ta có thể tìm thấy dưới những câu văn của ông sức nặng của đời sống, sự chiêm nghiệm. Đỗ Chu có vóc dáng của con người dày công lực mà không lên gân lên sức. Sự dụng văn của ông bình nhiên tỏa sáng. Đời sống hôm nay chảy trôi mải miết trong dòng thông tin và tốc độ sống nhanh nhạy, cũng bừa bộn và khốc liệt hơn nên ít người đọc văn Đỗ Chu hay văn phong kiểu của C. Pautôpxki thuở trước. Có thể đó là “một món quà xa xỉ với một số người”. Nhưng nếu ai đã bước vào thế giới văn chương Đỗ Chu sẽ thấy cái “bát ngát”, “thăm thẳm” và “miên man” cuốn hút tâm hồn người. [40] Số phận của mỗi nhà văn sau cùng đều tùy thuộc vào sự thẩm định chín chắn của bạn đọc, ở nhiều thời. Các thang bậc giá trị của văn học đáng tin cậy nhất cũng là từ sự thẩm định đó mà ra. Chả ai có thể tự thổi phồng, cũng chả ai dìm dập nổi. “Chẳng có ai tẻ nhạt ở trên đời” – Nhà thơ Nga Eptusenkô đã viết như vậy. Quả thực, trong tâm hồn mỗi con người, nhất là những người có cuộc sống trải nghiệm phong phú, thì dường như đều ẩn chứa những “mỏ quặng”. Dường như có một hành trình tiếp nối. Đỗ Chu trăn trở đi tìm cái đẹp giữa cuộc đời rộng lớn. Còn người đời đau đáu lật tìm cái đẹp trong những trang văn giàu chất thơ của ông để gắng hiểu một con người, một phong cách. TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Nguyễn An (2009), Phiên bản Đỗ Chu, báo Văn nghệ Công an, số (107). 2. M.Bakhtin (1992), Lý luận và thi pháp tiểu thuyết, Bộ Văn hóa thông tin và thể thao Trường viết văn Nguyễn Du, Hà Nội. 3. Vũ Bằng (2000), Thương nhớ mười hai, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội 4. Vũ Bằng (2000), Tuyển tập Vũ Bằng, Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 5. Nguyễn Thị Bình (2007), Văn xuôi Việt Nam- Những đổi mới cơ bản, Nxb Giáo dục. 6. Ngô Vĩnh Bình (1993), Đỗ Chu với “Mảnh vườn xưa hoang vắng”, trong sách Nẻo vào văn học, Nxb Văn học. 7. Văn Chinh (2001), Nhà văn Đỗ Chu: Con người phải được yêu mến và kính trọng, Báo Văn nghệ, số (7) 8. Đỗ Chu (1965), Hương cỏ mật, Nxb Văn học, Hà Nội. 9. Đỗ Chu (1969), Vòm trời quen thuộc, Nxb Thanh niên , Hà Nội. 10. Đỗ Chu (1973), Đám cháy trước mặt, Nxb Thanh niên , Hà Nội. 11. Đỗ Chu (1976), Một công việc rất thiêng liêng, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số (8). 12. Đỗ Chu (1977), Trung Du, Nxb Văn học, Hà Nội. 13. Đỗ Chu (1982), Phù Sa, Nxb Văn học, Hà Nội. 14. Đỗ Chu (1986), Những chân trời của các anh, Nxb Quân đội nhân dân. 15. Đỗ Chu (1985), Tháng Hai, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 16. Đỗ Chu (1989), Mảnh vườn xưa hoang vắng, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam. 17. Đỗ Chu (2001), Một loài chim trên sóng, Nxb Văn học, Hà Nội. 18. Đỗ Chu (2003), Đỗ Chu truyện ngắn tuyển tập, Nxb Hội Nhà Văn, Hà Nội. 19. Đỗ Chu (2006), Tản mạn trước đèn, Nxb Hội Nhà văn, Hà Nội. 20. Đỗ Chu (2006), Phù sa, Nxb Kim Đồng. 21. Đỗ Chu (2008), Thăm thẳm bóng người, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 22. Phan Huy Dũng (2007), Đỗ Chu chiêm nghiệm về nghề văn và nghệ thuật, Tạp chí Nhà văn, số tháng 3. 23. Phan Cự Đệ (2007), Truyện ngắn Việt Nam, Lịch sử - Thi pháp – Chân dung, Nxb Giáo dục. 24. Đỗ Đức (2008), Ngày xuân đọc “Thăm thẳm bóng người” của Đỗ Chu, Báo Văn nghệ, số (10). 25. Hà Minh Đức (1972), Thơ và mấy vấn đề trong thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Khoa học xã hội, HN. 26. Hà Minh Đức (chủ biên) (2007), Lý luận Văn học, Nxb Giáo dục, HN. 27. Nguyễn Hải Hà, Nguyễn Thị Bình (1995), Quan niệm nghệ thuật về con người trong văn xuôi Việt Nam hiện đại, Chương trình KHCN cấp NN KX – 07, Đề tài KX – 07 - 01, Hà Nội 28. Nguyễn Thị Hồng Hà (2004), Đặc trưng tùy bút Nguyễn Tuân, luận án Tiến sĩ Ngữ Văn, Bộ giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn TP.Hồ Chí Minh. 29. Thu Hà, Đỗ Chu: Tản mạn trước đèn, 30. Lê Bá Hán, Trần Đình Sử, Nguyễn Khắc Phi (2003), Từ điển thuật ngữ Văn học, Nxb Giáo dục, Hà Nội. 31. Nguyễn Văn Hạnh, Huỳnh Như Phương (1995), Lý luận văn học, vấn đề và suy nghĩ, Nxb Giáo dục, HN. 32. Nguyễn Văn Hạnh (2002), Truyện ngắn Đỗ Chu, trong sách Văn học, văn hóa – Vấn đề và suy nghĩ, Nxb Khoa học Xã hội. 33. Hoàng Ngọc Hiến (2008), “Thăm thẳm bóng người” – một thành tựu, Tạp chí nhà văn, số (11) 34. Đỗ Đức Hiểu, Nguyễn Huệ Chi (chủ biên) (2004), Từ điển Văn học (bộ mới), Nxb Thế giới, HN. 35. Nguyễn Hòa, Văn chương - Hy vọng về những điều tốt đẹp, 36. Nguyễn Hòa, Văn xuôi 2002 – Một đoạn đường gập ghềnh, 37. Tô Hoài (1977), Sổ tay viết văn, Nxb Tác phẩm mới, HN. 38. Tô Hoàng (2006), Nhà văn Đỗ Chu trong tâm trí bạn bè, Báo Văn nghệ Công an số 27/2. 39. Tô Hoàng (17/05/2009), Đỗ Chu: Nhà văn binh nhì của chúng tôi, 40. Hà Khải Hưng, Dấu ấn Đỗ Chu trong “Thăm thẳm bóng người”, 41. Hà Khải Hưng, Nhà văn Đỗ Chu: Dù được nhớ tới ở thể loại nào cũng là quý, 42. Phan Hồng Giang (1968), Đọc “Phù sa” của Đỗ Chu – Nghĩ đôi điều về nguồn gốc sức mạnh của con người và nghệ thuật của chúng ta, Tạp chí Văn học số (1). 43. Nguyễn Kiên (1996), Về chất thơ trong truyện ngắn, Tạp chí Văn học, số (3). 44. Nguyễn Văn Kha (2006), Đổi mới quan niệm về con người trong truyện Việt Nam 1975- 2000, Nxb Đại học Quốc gia TP. Hồ Chí Minh. 45. Khrapchenkô, M. B (1978), Cá tính sáng tạo của nhà văn và sự phát triển của văn học, Nxb Tác phẩm mới, Hà Nội. 46. Khrapchenkô, M. B (2002), Những vấn đề lý luận và phương pháp luận nghiên cứu văn học, Nxb Đại học quốc gia Hà Nội. 47. Nguyễn Thanh Kim, Nhà văn Đỗ Chu – Không thích sự ầm ĩ, theo Tiền Phong, 48. Nguyễn La, Cái tôi trong tùy bút, 49. Thạch Lam (1988), Tuyển tập Thạch Lam, Nxb Văn học, Hà Nội. 50. Thạch Lam (1988), Hà Nội băm sáu phố phường, Nxb Văn nghệ, TP.HCM. 51. Thạch Linh, Đỗ Chu: “Thăm thẳm bóng người”, 52. Nguyễn Văn Long (2002), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục. 53. Phương Lựu (chủ biên) (1997), Lí luận văn học, Nxb Giáo dục. 54. Nguyễn Đăng Mạnh (2001), Nhà văn tư tưởng và phong cách, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội. 55. Lê Thị Hồng Minh (2006), Luận án Ký Hoàng Phủ Ngọc Tường, Chuyên ngành Văn Học Việt Nam, Bộ giáo dục và Đào tạo, Trường Đại học sư phạm TP. Hồ Chí Minh. 56. Vương Trí Nhàn (1986), Một cuộc gặp gỡ để lại nhiều cảm tình (Đỗ Chu và tập truyện ngắn Phù sa), trong sách Bước đầu đến với văn học, Nxb Tác phẩm mới. 57. Vương Trí Nhàn (2001), Sổ tay truyện ngắn, Nxb Văn nghệ Thành phố Hồ Chí Minh. 58. Nguyên Ngọc (1991), Văn xuôi Việt Nam: Thử thăm dò đôi nét về quy luật phát triển, Tạp chí văn học số (4) 59. Nguyên Ngọc (2005), Một giai đoạn sôi động của văn xuôi trong thời kỳ đổi mới, Tạp chí Xưa và Nay, số (227-228). 60. Nguyễn Trí Nguyên (1981), Một cuộc thảo luận về truyện ngắn, Tạp chí Văn nghệ quân đội, số (10). 61. Pauxtôpxki, K (2007), Bông hồng vàng và Bình minh mưa (Kim Ân và Mộng Quỳnh dịch), Nxb Văn học, Hà Nội. 62. Pauxtôpxki, K (2004), Một mình với mùa thu (Phan Hồng Giang giới thiệu), Nxb Văn hóa Thông tin, Hà Nội. 63. Hoàng Phê (chủ biên) (1998), Từ điển Tiếng Việt, Viện ngôn ngữ học, Nxb Đà Nẵng. 64. Huỳnh Như Phương (1991), Văn xuôi những năm 80 và vấn đề dân chủ hóa nền văn học, Tạp chí văn học số (4) 65. G.N Pôxpêlôp (chủ biên) (1998), Dẫn luận nghiên cứu Văn học, NXB Giáo dục 66. Hồng Thanh Quang (2004), Nhà văn Đỗ Chu: Cô đơn được càng tốt, Theo báo an ninh thế giới cuối tháng, 67. Nguyễn Hưng Quốc (1989), Nghĩ về thơ, Báo văn nghệ quân đội, số (9). 68. Sài Gòn giải phóng (2004), Nhà văn Đỗ Chu: Bề dày của mỗi tác giả là uy tín văn học, 69. Nguyễn Hoàng Sơn (2002), Từ một điểm nhìn, Tạp chí Nhà văn, số tháng 5. 70. Trần Đình Sử (2002), Văn học và thời gian, Nxb Đại học Quốc gia, Hà Nội 71. Ngô Thảo (2003), Văn học về người lính, Nxb Quân đội nhân dân. 72. Bùi Việt Thắng (1991), Văn xuôi gần đây và quan niệm về con người, Tạp chí Văn học số (4). 73. Bùi Việt Thắng (2000), Một bước đi của truyện ngắn, Tạp chí Nhà văn, số tháng 1. 74. Bùi Việt Thắng (2000), Truyện ngắn - Những vấn đề lý thuyết và thực tiễn thể loại (chuyên luận), NXB Đại học Quốc gia, HN. 75. Bùi Việt Thắng (2004), Văn học Việt Nam thế kỷ XX, NXB Giáo dục, HN. 76. Thể thao & Văn hóa (2004), Đỗ Chu: Phải biết xấu hổ mới viết hay được, 77. Nguyễn Thành Thi (1999), Đặc trưng truyện ngắn Thạch Lam, Nxb Giáo dục. 78. Bích Thu (1995), Những dấu hiệu đổi mới của văn xuôi từ sau 1975 qua hệ thống môtip chủ đề, Tạp chí Văn học số (4). 79. Lý Hoài Thu (2008), Hồi ký và bút ký thời kỳ đổi mới, Tạp chí nghiên cứu văn học, số (10). 80. Lê Thủy (2005), Đỗ Chu với tùy bút, Báo lao động, ngày 06/02. 81. Lê Hương Thủy (2006), Đặc trưng truyện ngắn Đỗ Chu, Tạp chí nghiên cứu văn học, số (9). 82. Đỗ Lai Thúy (1999), Từ cái nhìn văn học, Nxb Văn hóa dân tộc, Hà Nội. 83. Đỗ Lai Thúy biên soạn (2001), Nghệ thuật như là thủ pháp, Nxb Hội nhà văn, Hà Nội. 84. Phạm Thị Minh Thư (2002), Cũng một loài chim trên sóng, Báo Văn Nghệ quân đội, số (552). 85. Trần Thức (2002), Tuyển tập Hoàng Phủ Ngọc Tường 2, Nxb Trẻ, TP.Hồ Chí Minh. 86. Ti-mô-phê-ep (1962), Nguyên lý lý luận Văn học, Nxb Văn học Hà Nội, tập 1. 87. Doãn Trang (1996), Băng Sơn với những Tùy bút Hà Nội, báo Lao động xã hội, số (41). 88. Nguyễn Thanh Tú (2003), Đặc điểm kết cấu truyện ngắn Đỗ Chu, Báo Văn nghệ quân đội, số (586). 89. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập I, Nxb Văn học, Hà Nội. 90. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập II, Nxb Văn học, Hà Nội. 91. Nguyễn Tuân (1996), Tuyển tập Nguyễn Tuân, tập III, Nxb Văn học, Hà Nội. 92. Việt báo (2003), Đỗ Chu: Hình như tôi vẫn dấu tôi,

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfLVVHLLVH013.pdf