Luận văn Đánh giá kết quả hoạt động cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám, Bắc Giang

- Luôn nâng cao đạo đức, phẩm chất và trình độ chuyên môn cho đội ngũ CBTD: học tập văn bản pháp luật, nâng cao kiến thức pháp luật, bồi dưỡng kiến thức thị trường, nghiệp vụ thông qua các lớp chuyên đề do tỉnh và ngân hàng tổ chức. Từng bước tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, thường xuyên phát động và sơ kết thi đua nêu gương tốt đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm những CBTC có sai phạm. Thực tế hiện tại NHNo&PTNT khu công nghiệp đã xảy ra một số hiện tượng: + Một số CBTD khi làm việc đã không kiểm soát sát sao, để xảy ra hiện tượng cùng một hoá đơn nhưng được giải ngân tới tận 3 lần. Có những món giải ngân trị giá hàng tỷ đồng nhưng chứng từ chỉ là bảng kê. - Cần có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức xây dựng và thẩm định dự án đối với CBTD, cách tiếp cận và phân tích dự án cho vay. CBTD vừa phải là người thẩm định dự án, vừa là người tư vấn cho dự án xin vay. Đây là điều kiện rất quan trọng để Ngân hàng tiếp cận và mở rộng đầu tư cho phát triển kinh tế trên địa bàn. Một thực tế hiện nay là trình độ CBTD của NHNo&PTNT khu công nghiệp còn nhiều hạn chế. Số CBTD có trình độ đại học, trên đại học và có kinh nghiệm thực tế còn quá ít. Hiện nay còn quá nửa nhân viên phòng tín dụng mới chỉ là nhân viên hợp đồng. Tổng số CBTD đã biên chế chỉ có 4 người. - Ngân hàng cần đa dạng hoá các mức lãi suất huy động và áp dụng lãi suất ở nhiều thời hạn khác nhau, tăng cường tiếp thị và nâng cao dịch vụ phục vụ để huy động lãi suất đầu vào thấp nhưng vẫn huy động được nhiều, vẫn đáp ứng mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay tạo điều kiện cho phát triển kinh tế địa phương. Hiện nay lãi suất huy động của NHNo&PTNT khu công nghiệp vẫn chưa thực sự hấp dẫn khách hàng, trong khi lãi suất cho vay thì vẫn được đánh giá là cao hơn các ngân hàng khác cùng hoạt động trên địa bàn.

doc94 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1742 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá kết quả hoạt động cho vay tại ngân hàng nông nghiệp và phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám, Bắc Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
thể năm 2007, dư nợ nhóm 2 chiếm 38,2% tổng dư nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5. Đến năm 2008, dư nợ nhóm 2 tăng lên chiếm 47,7% tổng dư nợ nhóm 2 đến nhóm 5. Nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 là nhóm nợ có kết cấu vừa mang yếu tố định lượng vừa mang yếu tố định tính khá cao và vừa có yếu tố điều hành chi phối. Đây là nhóm nợ tiềm ẩn nợ xuất rất lớn. Tỷ lệ và xu hướng biến động của nợ nhóm 2 trong cơ cấu này dự báo sự tiềm ẩn một lượng nợ xấu khá lớn nếu như ngân hàng không có sự giám sát chặt chẽ và có biện pháp xử lý kịp thời đối với nhóm nợ này. Dư nợ nhóm 3, 4 đều chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong tổng dư nợ và có sự biến động không đáng kể. Riêng nợ nhóm 5 có sự biến động tương đối mạnh, năm 2007 nợ nhóm 5 chiếm 10,2% tổng dư nợ từ nhóm 2 đến nhóm 5 song năm 2008 đã tăng lên chiếm 31,3%. Sự biến động này dự báo một khả năng mất vốn tương đối cao trong nhóm nợ quá hạn. Như vậy NHNo&PTNT khu công nghiệp cần có các biện pháp tích cực để thu hồi nợ. Có thể nói cơ cấu dư nợ theo trạng thái nợ là tương đối hợp lý, chất lượng tín dụng đã đạt được chỉ tiêu kế hoạch đề ra hàng năm. Các khoản nợ quá hạn phát sinh chủ yếu do sử dụng vốn chưa đúng mục đích, hoạt động kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến việc thu hồi vốn không kịp thời để trả nợ cho NHNo&PTNT khu công nghiệp. 3.3.3. Đánh giá kết quả hoạt động cho vay 3.3.3.1. Mối tương quan giữa huy động vốn và sử dụng vốn Trong hoạt động ngân hàng, nếu như huy động vốn là điều kiện cần thì sử dụng vốn là điều kiện đủ cho sự phát triển của ngân hàng. Huy động và sử dụng vốn là hai nhiệm vụ chủ yếu của ngân hàng thương mại và giữa chúng có mối quan hệ mật thiết tác động qua lại lẫn nhau. Việc tăng trưởng nguồn vốn là điều kiện để quyết định mở rộng hoạt động cho vay, chủ động đáp ứng nhu cầu vay vốn của khách hàng. Do vậy mà sự phối hợp đồng bộ, nhịp nhàng ăn khớp của 2 nghiệp vụ này luôn là cơ sở vững chắc để hoạt động ngân hàng diễn ra thuận lợi. Ngân hàng huy động để cho vay, nếu như huy động nhiều mà không cho vay được thì sẽ đưa ngân hàng tới chỗ làm ăn thua lỗ, phá sản. Sử dụng vốn có hiệu quả sẽ bù đắp được chi phí huy động vốn và đem lại lợi nhuận cho ngân hàng. Vì lẽ đó mà bên cạnh việc coi trọng công tác huy động vốn thì việc sử dụng vốn cũng là một vấn đề hết sức phải quan tâm. Mối tương quan giữa nguồn vốn huy động được và tình hình sử dụng vốn của Ngân hàng khu công nghiệp được thể hiện qua bảng 3.11 Theo quy định của NHNN, thì nguồn vốn khi huy động được sau khi trừ đi các khoản phải trích lập dự trữ thanh toán và dự trữ bắt buộc thì phần còn lại mới được đem đi cho vay. Bảng 3.11: Mối quan hệ giữa nguồn vốn huy đông và sử dụng vốn (2006 - 2008) Chỉ tiêu 2006 2007 2008 NVHĐ (Tỷ. đ) Cho vay (Tỷ. đ) Tỷ lệ tài trợ NVHĐ (Tỷ. đ) Cho vay (Tỷ. đ) Tỷ lệ tài trợ NVHĐ (Tỷ. đ) Cho vay (Tỷ. đ) Tỷ lệ tài trợ Tổng cộng 399 236 - 675 489 - 1.267 1.179 - 1. Ngắn hạn 275 - - 486 - - 671 - - - Dự trữ thanh toán 25 - - 49 - - 67 - - - Dự trữ thanh toán bắt buộc 36 - - 58 - - 27 - - - Nguồn vốn ngắn hạn 214 178 120,2 379 404 93,8 577 1.080 53,4 2. Trung và dài hạn 124 - - 189 - - 596 - - - Dự trữ thanh toán 11 - - 4 - - 48 - - - Dự trữ thanh toán bắt buộc 2,5 - - 4 - - 1 - - - Nguồn vốn trung và dài hạn 110,5 58 190,5 181 85 212,9 547 99 552,5 (Nguồn: Báo cáo tình hình huy động và sử dụng vốn hàng năm của phòng Kế toán ngân quỹ) - NVHĐ: Nguồn vốn huy độn Qua bảng số liệu trên ta có thể thấy, NHNo&PTNT khu công nghiệp là một ngân hàng khá chủ động về vốn, năm 2006, nguồn vốn ngắn hạn huy động được đã đáp ứng được trên 137,5% nhu cầu ngắn hạn của khách hàng. Năm 2007, mặc dù tổng nguồn vốn ngắn hạn huy động có sự tăng lên so với năm 2006, song sự tăng lên đó cũng chỉ đáp ứng được 114,5% nhu cầu vay vốn của khách hàng trong đó nguồn vốn trung- dài hạn có sự tăng trưởng vượt bậc, đã đáp ứng được trên 212,9% nhu cầu vay của khách hàng. Điều này là do năm 2007, nhu cầu vay trung-dài hạn của khách hàng giảm đi, trong khi đó nhu cầu vay ngắn hạn lại tăng lên rõ rệt. Trong năm 2008, nhu cầu vay ngắn hạn tăng mạnh, do vậy mà lượng vốn ngắn hạn huy động được không đủ để đáp ứng nhu cầu vay ngắn hạn của khách hàng. Trong khi đó nhu cầu vay dài hạn thì không có sự thay đổi lớn, lượng vốn trung- dài hạn huy động được đã không sử dụng hết vào mục đích cho vay trung- dài hạn, ngân hàng chuyển sang cho vay ngắn hạn. Xu hướng này hoàn toàn phù hợp với sự biến động của lãi suất trong giai đoạn năm 2008. 3.3.3.2. Mức độ tăng trưởng Tốc độ tăng trưởng của hoạt động cho vay là yếu tố đo lường sự phát triển của hoạt động tín dụng. Tốc độ tăng trưởng càng cao thì tiềm lực kinh tế và vị thế của ngân hàng đó càng mạnh. Tuy nhiên không phải lúc nào chỉ số đo lường đó cao cũng là dấu hiệu tốt. Tốc độ tăng trưởng tín dụng phải phù hợp với tăng trưởng vốn huy động thực tế và đạt được mục tiêu tín dụng đề ra từ đầu năm và nằm trong khả năng kiểm soát chất lượng tín dụng, đảm bảo nhu cầu vốn khả dụng cho các nhu cầu thanh toán, giảm thiểu rủi ro trong kinh doanh tiền tệ. Tình hình tăng trưởng tín dụng của NHNo&PTNT khu công nghiệp được thể hiện như sau: Bảng 3.12: Kết quả hoạt động tín dụng từ năm (2006 - 2008) Chỉ tiêu 2006 2007 so với 2006 2008 so với 2007 Tỷ. đ Tỷ. đ +/- % Tỷ. đ +/- % 1. Thu nhập 15 28 13 86,7 54 26 92,8 - Thu lãi từ hoạt động cho vay 15 26 11 73,3 52 26 100,0 2. Chi phí 13 25 12 92,3 54 29 116,0 - Chi phí sử dụng vốn vay 9 10 1 11,1 34 24 240,0 3. Thu nhập ròng từ hoạt động cho vay 6 16 10 166,7 18 2 12,5 (Nguồn: Báo cáo tổng kết kinh doanh hàng năm, phòng Kế toán ngân quỹ) Qua bảng số liệu trên ta thấy thu lãi từ hoạt động tín dụng luôn chiếm tỷ trọng trên 90% trong tổng thu nhập hàng năm của NHNo&PTNT khu công nghiệp và tốc độ tăng trưởng hàng năm khá cao và ổn định qua các năm, tốc độ tăng trưởng bình quân đạt trên 80%/năm. Điều này chứng tỏ quy mô cho vay đã được mở rộng, đồng thời công tác thu lãi vay hàng tháng cũng được thực hiện rất tốt và duy trì khá ổn định. Chi phí huy động vốn đạt tốc độ tăng trưởng đỉnh điểm vào năm 2008 với tốc độ tăng 240% so với năm 2007. Có sự tăng đột biến này là do năm 2008, NHNo&PTNT khu công nghiệp đã lao vào cuộc chạy đua lãi suất huy động đầu vào, giai đoạn này lãi suất liên tục tăng cao (đã có thời điểm lãi suất huy động tăng kịch trần tới gần 19%/năm) và duy trì trong thời gian khá dài. Sự tăng lên của lãi suất đầu vào đã làm giảm tốc độ tăng của doanh thu ròng từ hoạt động cho vay . Trước sự biến động của lãi suất đầu vào như vậy thì để duy trì và ổn định năng lực tài chính, NHNo&PTNT khu công nghiệp đã điều chỉnh lãi suất cho vay linh hoạt theo diễn biến của thị trường, tháng 6/2008 đứng trước tình hình huy động lãi suất đầu vào tăng quá cao, ngân hàng đã thoả thuận với khách hàng để điều chỉnh tăng lãi suất đối với dư nợ cũ. Cuối quý III/2008, khi nền kinh tế có xu hướng chuyển từ lạm phát sang thiểu phát, NHNN đã chuyển từ thắt chặt sang nới lỏng, lãi suất cơ bản được cắt giảm liên tục. Lãi suất thị trường bắt đầu giảm mạnh, nhất là lãi suất cho vay. Bên cạnh việc giảm lãi suất cho vay đối với các khoản cho vay mới, ngân hàng còn thực hiện giảm lãi suất đối với dư nợ cũ để chia sẻ với khách hàng, đồng thời thực hiện nhiều chính sách ưu đãi lãi suất cho các doanh nghiệp nhỏ và vừa, doanh nghiệp hoạt động xuất khẩu, doanh nghiệp phục vụ nông nghiệp, nông thôn và các hộ sản xuất nông lâm, ngư nghiệp. Vơi phương châm làm việc như vậy đã đem lại cho NHNo&PTNT khu công nghiệp những kết quả tốt trong hoạt động tín dụng. Mặc dù đứng trước sự khó khăn của nền kinh tế, song tốc độ tăng trưởng cả về quy mô lẫn chất lượng tín dụng vẫn được duy trì khá ổn định qua các năm. 3.3.3.3. Tình hình nợ xấu Theo nhận định của phó giám đốc một ngân hàng quốc doanh- Ngân hàng bị đánh giá là có tỷ lệ nợ xấu cao nhất nhìn nhận vấn đề nợ xấu khá khả quan: “Vấn đề không phải là nó nghiêm trọng đến mức nào mà là phải xử lý như thế nào. Áp lực tăng trưởng tín dụng cao để hỗ trợ cho tăng trưởng kinh tế là một trong những cản trở đối với việc giảm mạnh tỷ lệ nợ xấu”. Điều này có nghĩa là muốn giảm tỷ lệ nợ xấu, nâng cao chất lượng tín dụng thì buộc các ngân hàng phải thắt chặt tín dụng. Tuy nhiên điều này sẽ làm cho doanh số cho vay của các ngân hàng giảm mạnh, doanh nghiệp sẽ thiếu vốn kinh doanh, nền kinh tế sẽ dẫn tới suy thoái. Nhìn nhận vấn đề nợ xấu một cách đúng đắn, ban giám đốc NHNo&PTNT khu công nghiệp đã có nhiều biện pháp để giảm thiểu tỷ lệ nợ xấu, nâng cao chất lượng hoạt động cho vay. Kết quả đã làm cho tỷ lệ nợ xấu giảm mạnh qua các năm. Cụ thể như sau: - Năm 2006, tổng nợ xấu là 10.064 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 6,8% tổng dư nợ - Năm 2007, tổng nợ xấu là 7.610 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 2,9% tổng dư nợ - Năm 2008, tổng nợ xấu là 6.750 triệu đồng, chiếm tỷ lệ 1,9% tổng dư nợ Biểu đồ 3.2: Biểu đồ thể hiện dư nợ xấu năm 2006 - 2008 Nợ xấu đã có xu hướng giảm dần qua 3 năm, điều này cho thấy chất lượng tín dụng của ngân hàng đang ngày càng được củng cố. NHNo&PTNT khu công nghiệp đã có sự chỉ đạo sâu sát trong việc phân tích, đánh giá chất lượng các khoản vay, hạn chế việc đảo nợ, cho vay lại. Hầu hết các món vay quá hạn đều được chuyển sang nợ quá hạn kịp thời để theo dõi và đánh giá. Theo đánh giá của ngân hàng thế giới đối với các nước đang phát triển như Việt Nam thì tỷ lệ nợ xấu ở mức dưới 5% là có thể chấp nhận được. Với tỷ lệ nợ xấu như trên vẫn nằm trong sự kiểm soát được của NHNo&PTNT khu công nghiệp và không vượt quá ngưỡng dự kiến kế hoạch đã đề ra. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu là do khách hàng chưa thực hiện đúng cam kết trả nợ gốc và lãi theo hợp đồng tín dụng. Một số khách hàng sử dụng vốn sai mục đích hoặc kinh doanh kém hiệu quả dẫn đến nợ quá hạn phát sinh. Trong năm 2008, chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, một số doanh nghiệp làm ăn thua lỗ, không có khả năng trả nợ như hạn đã ký trong hợp đồng, NHNo&PTNT khu công nghiệp phải gia hạn nợ cho các doanh nghiệp này nhằm chia sẻ khó khăn cho các doanh nghiệp này. Đồng thời do ảnh hưởng của mưa lũ đã làm tổn hại đến hoạt động sản xuất nông nghiệp, gây mất mùa, nông dân không có thu nhập nên không trả được nợ cho ngân hàng. Thực hiện quyết định số 493/TD-NHNN về việc phân loại nợ và trích lập dự phòng rủi ro, NHNo&PTNT khu công nghiệp đã quyết tâm chỉ đạo việc tiến hành rà soát lại các khoản nợ, phân tích đánh giá và phân loại nợ theo đúng quy định kịp thời để có biện pháp thu hồi, xử lý kịp thời, hạn chế rủi ro xảy ra. 3.3.3.4. Tình hình trích lập dự phòng rủi ro và thu hồi nợ xấu Việc phân loại nợ xấu có ý nghĩa hết sức quan trọng để đảm bảo an toàn hoạt động cho chi nhánh. Thông qua việc phân loại này, NHNo&PTNT khu công nghiệp tiến hành trích lập quỹ dự phòng và xử lý rủi ro, đồng thời tìm ra các biện pháp để thu hồi nợ xấu. Tình hình thực hiện trích lập dự phòng rủi ro và thu hồi nợ xấu được thể hiện qua bảng sau: Bảng 3.13: Tình hình trích lập dự phòng và thu hồi nợ xấu ĐVT: Triệu đồng Chỉ tiêu 2006 2007 2008 KH TH KH TH KH TH 1. Trích lập dự phòng 1500 1.890 1.895 2.274 2.100 4.667 2. Thu nợ đã xử lý rủi ro 1.220 1.500 1.387 1.534 1.879 1.879 3. Thu hồi nợ xấu 700 880 655 950 6.058 6.058 4. Tỷ lệ nợ xấu (%) 8,0 6,8 6,0 2,9 5,0 1,9 (Nguồn: Báo cáo thường niên của phòng Kế hoạch kinh doanh) KH: Kế hoạch TH: Thực hiện Ngân hàng đã chấp hành nghiêm túc các quy định về phân loại nợ, trích lập dư phòng và xử lý rủi ro tín dụng theo quyết định 636/QĐ-HĐQT-XLRR, chỉ đạo các cán bộ tín dụng rà soát, chỉnh sửa dữ liệu trên hệ thống IPCAS thực hiện phân loại nợ theo liên ngân hàng, đảm bảo không xảy ra trường hợp một khách hàng có nhiều nhóm nợ hoặc không phân loại vào nhóm nợ có mức độ rủi ro cao nhất. Ba năm qua NHNo&PTNT khu công nghiệp luôn hoàn thành vượt mức kế hoạch các chỉ tiêu trích lập dự phòng rủi ro, thu nợ đã xử lý rủi ro và thu hồi nợ xấu. 3.3.3.5. Quản lý hoạt động cho vay Trong hoạt động cho vay vốn, vấn đề lo ngại nhất của ngân hàng là những rủi ro tài chính và các biến động của thị trường như giá ngoại tệ lên xuống, đồng nội tệ mất giá, thị trường bất động sản tụt dốc, giá cả tăng cao…Điều này đòi hỏi các ngân hàng phải quản lý sát sao hoạt động cho vay. Nền kinh tế thị trường vận động, biến đổi hàng ngày nên các ngân hàng phải thường xuyên theo dõi kịp thời diễn biến của các thị trường hàng hoá, thị trường tiền tệ, thị trường tài chính, thị trường chứng khoán, sản lượng các sản phẩm chủ yếu của các ngành kinh tế khác, các chính sách ưu đãi tài chính, đầu tư xuất nhập khẩu, tỷ giá hối đoái, lãi suất thuế, các đạo luật mới ban hành… và những biến động liên quan trực tiếp đến người gửi tiền và người vay tiền, đến chính hoạt động kinh doanh của ngân hàng. Điều này đòi hỏi từng CBTD phải nhanh nhạy trong việc nắm bắt thông tin để có được các hợp đồng cho vay có hiệu quả cao.         Đổi mới công nghệ, hiện đại hoá hoạt động ngân hàng, tái cơ cấu lại hoạt động nhằm nâng cao chất lượng hoạt động dịch vụ, nâng cao năng lực cạnh tranh và thích ứng với yêu cầu hội nhập đang là một nhiệm vụ trọng tâm của cả hệ thống ngân hàng Việt Nam trong giai đoạn hiện nay. Trong đó, việc tái cơ cấu lại nợ, từng bước lành mạnh hoá khả năng tài chính đang là một yêu cầu bức thiết để các tổ chức tín dụng – ngân hàng khẳng định vị thế của mình trên thương trường, đáp ứng nhu cầu lành mạnh hoá thị trường tài chính - tiền tệ nước nhà. Đặc biệt trong đó hoạt động tín dụng không ngừng được phát triển cả về qui mô và chất lượng. Đổi mới công nghệ, hiện đại hoá hoạt động nghiệp vụ và sản phẩm dịch vụ, công tác tín dụng là nhân tố không thể thiếu để củng cố công tác này. Đồng thời, hoàn thiện quy trình cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng đáp ứng các chuẩn mực quốc tế đang là một đòi hỏi khách quan của các tổ chức tài chính, tín dụng ngân hàng Việt Nam trong lộ trình tái cơ cấu nợ nhằm từng bước lành mạnh hoá tình hình tài chính của mình. NHNo&PTNT khu công nghiệp Đình Trám là một ngân hàng cấp 3 của NHNo&PTNT với nhiều lợi thế so sánh: qui mô nguồn vốn lớn, mạng lưới hoạt động rộng khắp các địa bàn toàn quốc, có được mối quan hệ truyền thống với khách hàng, v.v... Ngân hàng đang có điều kiện để khẳng định giữ vị trí then chốt tại địa bàn nông nghiệp và nông thôn trên địa bàn huyện Việt Yên - Bắc Giang, là một kênh cung cấp nguồn vốn tín dụng và dịch vụ thanh toán chủ yếu trong tiến trình hiện đại hoá nông nghiệp và nông thôn Việt Nam. Theo quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống AGRIBANK được ban hành kèm theo quyết định số 72/QĐ-HĐQT-TD ngày 31/3/2002 của hội đồng quản trị, các sản phẩm và dịch vụ tín dụng AGRIBANK đang cung cấp bao gồm: cho vay từng lần; cho vay theo hạn mức tín dụng; cho vay theo dự án đầu tư; phương thức cho vay trả góp; phương thức cho vay thông qua nghiệp vụ phát hành và sử dụng thẻ tín dụng; phương thức cho vay hợp vốn (đồng tài trợ). Hiện nay ngân hàng đã áp dụng được 3 hình thức cho vay đó là: cho vay từng lần, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay theo dự án đầu tư. Sau mỗi một hợp đồng cho vay đã ký kết thì ngân hàng luôn có sự theo dõi sát sao hoạt động kinh doanh, tình hình sử dụng vốn vay của khách hàng.         Hiện nay, quy trình chấm điểm tín dụng và phân loại khách hàng tại ngân hàng đang được thực hiện theo hướng dẫn tại công văn số 1406/NHNo-TD ngày 23/5/2007. Theo đó, căn cứ vào tính chất khác nhau giữa các nhóm khách hàng vay vốn, ngân hàng đã phân chia các khách hàng vay thành hai nhóm là doanh nghiệp và cá nhân (bao gồm cá nhân và hộ gia đình). Mô hình phân loại khách hàng đang được áp dụng tại NHNo&PTNT khu công nghiệp tương đối đơn giản, đối với doanh nghiệp bao gồm 5 nhóm chỉ tiêu cơ bản, trong đó có 4 chỉ tiêu định lượng phản ánh tình hình tài chính của khách hàng vay vốn, mức độ uy tín trong quan hệ đối với ngân hàng: chỉ tiêu lợi nhuận; chỉ tiêu tỷ suất tự tài trợ; hệ số khả năng thanh toán nợ ngắn hạn; chỉ tiêu nợ xấu tại ngân hàng; chỉ tiêu định tính phản ánh mức độ chấp hành pháp luật của doanh nghiệp. Quy trình cho vay được soạn thảo với mục đích giúp cho quá trình cho vay diễn ra thống nhất, khoa học, hạn chế, phòng ngừa rủi ro và nâng cao chất lượng tín dụng, góp phần đáp ứng ngày một tốt hơn nhu cầu vay vốn của khách hàng. Quy trình này cũng xác định người thực hiện công việc và trách nhiệm của các cán bộ có liên quan trong quá trình cho vay. Quy trình cho vay được bắt đầu từ khi CBTD tiếp nhận hồ sơ khách hàng và kết thúc khi kế toán viên tất toán - thanh lý hợp đồng tín dụng, được tiến hành theo ba bước: (i) Thẩm định trước khi cho vay; (ii) Kiểm tra, giám sát trong khi cho vay; (iii) Kiểm tra, giám sát, tổ chức thu lãi tín dụng và thu hồi nợ. Mặc dù đã đạt được những kết quả khả quan, nhưng vẫn còn một số tồn tại trong quy trình thẩm định và cho vay: Một là, số liệu sử dụng để làm căn cứ thẩm định chưa đầy đủ, thiếu chính xác hoặc không khách quan làm tăng nguy cơ đánh giá sai lệch về khách hàng vay vốn và hiệu quả của dự án, phương án. Nguyên nhân do ngân hàng còn hạn chế trong việc thu thập và lưu trữ thông tin về khách hàng cũng như các thông tin kinh tế, xã hội cần thiết khác cho quá trình thẩm định. Một kênh hữu ích có thể tham khảo thông tin là trung tâm thông tin tín dụng CIC của NHNN nhưng thông tin không được thường xuyên cập nhật hoặc không đầy đủ, đặc biệt là đối với khách hàng quan hệ tín dụng lần đầu. Mặt khác, trong quá trình thẩm định, các báo cáo tài chính, luận chứng kinh tế kỹ thuật do khách hàng lập và cung cấp nên tính chính xác và khách quan của các tài liệu này rất khó được kiểm chứng. Việc thẩm định thường dựa trên những thông tin chủ quan do khách hàng cung cấp. Trừ trường hợp thật cần thiết, không phải lúc nào Ngân hàng cũng có điều kiện để mời các tổ chức chuyên môn tái thẩm định để xác định tính chính xác của những tài liệu này. Hai là, quy trình thẩm định và cho vay còn một số điểm chưa hợp lý, liên quan đến việc phân cấp trách nhiệm của cán bộ thẩm định. Một điểm yếu của quy trình thẩm định và cho vay hiện nay là CBTD vẫn thực hiện cả ba khâu cơ bản trong quá trình cho vay là: tiếp xúc khách hàng, thẩm định phương án vay vốn, giải ngân và thu nợ. Đây là trách nhiệm nặng nề đối với CBTD nhưng cũng là cơ hội để một số ít CBTD thoái hoá, biến chất lợi dụng để móc ngoặc với khách hàng vay vốn, cố tình làm sai lệch thông tin để thu lợi cá nhân, tăng nguy cơ phát sinh rủi ro tín dụng. Cuối cùng, cơ chế bảo đảm tiền vay và việc định giá tài sản bảo đảm (TSBĐ) trong quá trình thẩm định hồ sơ vay đóng một vai trò hết sức quan trọng nhưng việc xem xét, đánh giá tài sản, quản lý TSBĐ, các chuẩn mực về tài sản mà NHTM Việt Nam nói chung và NHNo&PTNT khu công nghiệp nói riêng đang áp dụng vẫn còn ở mức sơ khai. Nhận thức về quyền lựa chọn TSBĐ của cán bộ ngân hàng còn chưa đầy đủ. Việc định giá đôi khi được thực hiện một cách chiếu lệ và mang tính thủ tục, đặc biệt đối với các TSBĐ là công trình xây dựng hoặc dây chuyền máy móc thiết bị. Ngân hàng không phải lúc nào cũng có thể tham vấn ý kiến của các tổ chức định giá chuyên nghiệp. Trong một số trường hợp, cán bộ tín dụng cố ý cấu kết với khách hàng để nâng khống giá trị TSBĐ, thu lợi cá nhân. Từ thực tiễn trên, yêu cầu hoàn thiện qui trình cho vay và nâng cao chất lượng tín dụng đã trở thành yêu cầu nội tại cho sự phát triển bền vững của hoạt động kinh doanh ngân hàng. Trong điều kiện hiện tại, song song với việc đẩy mạnh hoạt động đổi mới công nghệ, hiện đại hoá ngân hàng, đẩy nhanh tốc độ triển khai dự án hiện đại hoá ngân hàng và hệ thống thanh toán, phát triển dịch vụ thanh toán khong dùng tiền mặt, mở rộng dịch vụ thanh toán và tín dụng qua thẻ ATM theo lộ trình chung của NHNN, NHNo&PTNT khu công nghiệp còn phải chú trọng tìm ra các giải pháp để quản lý tốt hoạt động cho vay của ngân hàng. Ngân hàng luôn chú trọng xây dựng các chính sách cho vay nhằm thu hút khách hàng. Đối với những khách hàng có quan hệ tín dụng lâu dài với ngân hàng, và vay vốn với khối lượng lớn, thì NHNo&PTNT khu công nghiệp luôn có chính sách ưu đãi về thời hạn, lãi suất… đáp ứng nhu cầu về vốn kinh doanh của họ. Ngân hàng luôn có sự điều chỉnh lãi suất linh hoạt cho từng đối tượng và phương thức cho vay, phù hợp với điều kiện thực tế, tạo điều kiện thuận lợi cho khách hàng… 3.3.3.6. Những kết quả Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám, tỉnh Bắc Giang đã đạt được trong hoạt động cho vay * Những kết quả đạt được xét về phía khách hàng vay vốn Với đặc điểm hoạt động trên một khu công nghiệp mới thành lập, nên NHNo&PTNT khu công nghiệp hiện phải đương đầu với rất nhiều khó khăn thách thức bởi thị trường chủ lực của ngân hàng là lĩnh vực nông nghiệp, nông thôn một lĩnh vực tiềm ẩn nhiều rủi ro khó lường. Đặc biệt năm 2008, lại càng có nhiều biến động hơn, từ giá nông sản, xăng dầu, sắt thép đến giá vàng, USD, lãi suất ngân hàng đều tăng giảm thất thường cùng với một mạng lưới cạnh tranh dày đặc của các NHTM trên địa bàn tỉnh Bắc Giang đã gây ảnh hưởng không nhỏ đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Với đối tượng khách hàng truyền thống là hộ nông dân, để thuận tiện cho việc giao dịch, chi nhánh đã đặt 4 điểm giao dịch trên địa bàn 4 xã khác nhau với phương châm hoạt động ưu tiên tập chung vốn đầu tư cho các hộ nông dân thực hiện chuyển đổi cơ cấu giống, cây trồng, vật nuôi phù hợp, cho vay các dự án áp dụng giống mới có năng suất cao, cho vay xây dựng đường giao thông nông thôn và lắp đặt hệ thống điện sinh hoạt, sản xuất cho bà con nông dân, góp phần cải thiện đời sống nhân dân lao động. Đối với các hộ có xu hướng làm kinh tế trang trại, hay chuyển từ hộ kinh doanh cá thể sang hình thức doanh nghiệp có nhu cầu vốn lớn, ngân hàng đã có sự ưu tiên giải quyết mọi nhu cầu vay vốn ngắn hạn và trung hạn để phát triển sản xuất nhằm thúc đẩy nhanh tiến trình công nghiệp hoá- hiện đại hoá nông nghiệp, nông thôn, tạo cơ sở khai thác hữu hiệu tiềm năng nông nghiệp tỉnh Bắc Giang, gia tăng giá trị hàng hoá trong nông thôn, tạo công ăn việc làm cho người lao động. Ngân hàng đã có quan hệ giao dịch với nhiều doanh nghiệp trên địa bàn khu công nghiệp và địa bàn thành phố Bắc Giang. Trong giai đoạn khó khăn do khủng hoảng kinh tế, ngân hàng đã có sự điều chỉnh giảm lãi suất, mở rộng cho vay để giúp các doanh nghiệp thao gỡ khó khăn về vốn, tiếp tục đi vào sản xuất. Một số doanh nghiệp thép trên địa bàn đang đứng trên bờ vực phá sản do sự trượt giá, không có vốn làm ăn, nay lại được vay vốn ngân hàng để đi vào sản xuất và đang có xu hướng ổn định hơn. * Những kết quả đã đạt được xét về góc độ nền kinh tế Nhờ có sự cho vay vốn của ngân hàng, mà các hoạt động sản xuất kinh doanh đã được phát triển. Trong những năm qua, ngân hàng đã đồng hành cùng bà con nông dân phát triển kinh tế địa phương, giảm đói nghèo. Đến nay hầu hết đã không còn hộ nghèo, đời sống người dân ngày một cao hơn. Từ chỗ là những người đi vay vài triệu đồng để về chăn nuôi, cày cấy, đến nay nhiều hộ đã trở thành những người cho ngân hàng vay vốn. Từ nguồn vốn vay ngân hàng, họ đầu tư kỹ thuật vào sản xuất, năng suất lao động ngày một cao hơn, đến nay không chỉ dừng ở mức đủ ăn, đủ mặc, mà họ còn có tiền dư gửi tiết kiệm. Từ khoản tiền dư đó, ngân hàng đã thu hút nông dân gửi tiết kiệm để mở rộng nguồn vốn kinh doanh cho mình, đồng thời cũng tạo thêm thu nhập cho người dân. NHNo&PTNT khu công nghiệp đã không ngừng tung ra các sản phẩm huy động vốn hấp dẫn, luôn có sự điều chỉnh lãi suất kịp thời để thu hút khách hàng. Bằng những sự lỗ lực đó, lượng khách hàng đến với ngân hàng ngày một đông hơn, ngân hàng đang dần khẳng định được uy tín cũng như vị thế của mình trên địa bàn tỉnh Bắc Giang. Không chỉ tăng về lượng khách hàng gửi tiền, mà lượng khách hàng đến vay vốn cũng ngày một tăng lên. Hiện ngân hàng đã và đang tạo được uy tín với hầu hết các doanh nghiệp trên địa bàn khu công nghiệp. Điều này giúp cho ngân hàng luôn hoàn thành tốt chức năng là một trung gian tài chính, điều hoà nguồn vốn từ nơi thừa sang nơi thiếu, tránh tình trạng lãng phí vốn. * Những kết quả hoạt động cho vay mà NHNo&PTNT khu công nghiệp đã đạt được Trong những năm qua NHNo&PTNT khu công nghiệp đã tích cực chủ động trong việc huy động vốn từ dân cư, từ các tổ chức kinh tế, từ khoán chỉ tiêu nguồn vốn đến từng cán bộ (kể cả cán bộ hợp đồng) theo từng tháng, thực hiện tốt biện pháp về huy động vốn như: tuyên truyền, quảng cáo, tiếp thị, khuyến mãi, tiếp cận kịp thời các dự án đề bù giải toả mặt bằng… để huy động nguồn tiền nhàn rỗi trong dân cư vào ngân hàng. NHNo&PTNT khu công nghiệp đã triển khai kịp thời các nghiệp vụ ngoại tệ như: chi trả kiều hối, chuyển tiền nhanh Western Union… để thu hút khách hàng gửi tiền bằng ngoại tệ. Dư nợ tăng có kiểm soát, chất lượng tín dụng ngày càng được củng cố. Công tác tự kiểm tra được tổ chức thường xuyên, kịp thời. Mở rộng các hình thức đầu tư vốn, chú trọng đến cho vay các loại hình doanh nghiệp, cho vay theo hạn mức tín dụng, cho vay thông qua tổ vay vốn. Công tác hạch toán kế toán chính xác, phục vụ khách hàng nhanh chóng, thuận tiện đáp ứng được các yêu cầu nhiệm vụ. Làm tốt các dịch vụ thanh toán chuyển tiền, chi trả kiều hối… Công tác ngân quỹ luôn luôn được quan tâm, coi trọng hàng đầu, đảm bảo tuyệt đối an toàn, không để xảy ra hiện tượng mất tiền. Năm 2008, NHNo&PTNT khu công nghiệp đã đạt được một số kết quả đáng khích lệ trong hoạt động cho vay qua tổ đề án 1700/NHNo-TD: ngân hàng khu công nghiệp có 02 xã, 14 tổ, 818 thành viên với tổng dư nợ 9.852 triệu đồng (trong đó nợ xấu là 78 triệu đồng). Nhìn chung công tác cho vay theo hình thức này đã phát huy tốt hiệu quả. Hoạt động cho vay xuất khẩu cũng đã có những bước tiến mới. Năm 2008, NHNo&PTNT khu công nghiệp có 113 khách hàng với tổng dư nợ 2.650 triệu đồng, trong đó nợ xấu có 02 khách hàng với số dư nợ 24 triệu đồng. Nguyên nhân phát sinh nợ xấu này là do người đi lao động chưa kịp gửi tiền về để thanh toán nợ theo sự phân kỳ trong hợp đồng vay vốn. Vấn đề tín dụng đối với hộ nông dân cũng đã đạt được các kết quả đáng kể. NHNo&PTNT khu công nghiệp đã đa dạng hoá đối tượng cho vay, tạo điều kiện cho hộ nông dân thoả mãn nhu cầu về vốn. Ngoài sản xuất kinh doanh, hộ nông dân còn được cho vay khi có nhu cầu vốn để đầu tư vào các lĩnh vực phi nông nghiệp như: xuất khẩu lao động, mua ô tô, xe máy để phục vụ sản xuất và đời sống, xây dựng, sửa chữa nhà, khắc phục khó khăn trong sản xuất, đời sống (như thiên tai, dịch bệnh gia súc, gia cầm…). Ngân hàng đã nâng mức vốn vay không cần thế chấp tài sản đối với hộ nông dân dừ 500.000 đồng năm 1991 tới thời điểm hiện nay là: 30 triệu đồng/hộ với các hộ có sản phẩm hàng hoá thực tế. 50 triệu đồng/hộ với hộ nuôi trồng, sản xuất giống thuỷ sản có dự án khả thi. 20 triệu đồng/món đối với người đi xuất khẩu lao động ở nước ngoài. Được thế chấp bằng chính tài sản vay vốn nếu để mua xe ôtô, xe máy. Nhìn chung các khách hàng vay vốn dự án của NHNo&PTNT khu công nghiệp đều phát huy hiệu quả kinh tế, thúc đẩy được sản xuất và kinh doanh của các ngành trên địa bàn tỉnh. Khu vực công nghiệp, nông nghiệp nông thôn ngày càng phát triển, tạo ra nhiều sản phẩm cho xã hội. Các hộ gia đình được ngân hàng cho vay vốn rất phấn khởi và luôn ý thức đến việc trả lãi và trả nợ gốc đúng hạn. 3.4. Những hạn chế, nguyên nhân trong hoạt động cho vay và những vấn đề đặt ra để Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp tiếp tục thực hiện trong giai đoạn năm 2009 về hoạt động tín dụng 3.4.1. Những hạn chế trong hoạt động cho vay và nguyên nhân ảnh hưởng tới kết quả hoạt động cho vay của NHNo&PTNT khu công nghiệp Đình Trám, Bắc Giang 3.4.1.1. Những hạn chế trong hoạt động cho vay - Nguồn vốn huy động được phần lớn là từ dân cư chính vì thế mà chi phí huy động vốn lớn. - Nợ xấu mặc dù chiếm tỷ lệ thấp, và nằm trong giới hạn cho phép của NHNo&PTNT Việt Nam song còn tiềm ẩn nhiều rủi ro tài chính. - Chất lượng thẩm định cho vay còn nhiều hạn chế, thể hiện qua việc thẩm định các phương án, dự án sản xuất kinh doanh, phân tích đánh giá các hệ số tài chính trên báo cáo tài chính của doanh nghiệp, xác định giá trị tài sản đảm bảo là dây truyền, máy móc thiết bị. - Việc kiểm soát chứng từ của khách hàng khi giải ngân chưa thực sự sát sao. Cụ thể CBTD đã để xảy ra hiện tượng một hoá đơn khách hàng dùng để giải ngân cho 2 hay 3 món nhận nợ, có những món giải ngân đến hàng tỷ đồng nhưng chứng từ chỉ là bảng kê. - NHNo&PTNT khu công nghiệp có thị phần hoạt động còn chiếm tỷ lệ khá khiếm tốn. Số lượng khách hàng là các tổ chức kinh tế còn chưa nhiều, chủng loại khách hàng chưa đa dạng. Khách hàng truyền thống của ngân hàng đối với cả công tác huy động vốn và công tác cho vay đều là hộ nông dân. Hầu hết các tổ chức kinh tế đến giao dịch với NHNo&PTNT khu công nghiệp đều là các doanh nghiệp vừa và nhỏ, doanh nghiệp ngoài quốc doanh, hợp tác xã. Do đó mà quy mô vốn cho vay trên một khách hàng là chưa nhiều. - Việc điều chỉnh lãi suất cho vay đôi khi còn nhiều bất cập đối với một số doanh nghiệp, ảnh hưởng đến hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Cụ thể đối với trường hợp của công ty TNHH Liên Doanh Việt Hàn như sau: Ngày 5/7/2008 công ty đã nhận được thông báo của NHNo&PTNT khu công nghiệp về việc thay đổi lãi suất tiền vay: từ ngày 11/06/2008, lãi suất cho vay vốn nội tệ được áp dụng đối với tất cả các khách hàng còn dư nợ đến ngày 10 tháng 6 năm 2008 điều chỉnh là 1,75%/tháng trên toàn bộ số dư nợ hiện còn. Đây là một vấn đề bất cập vì việc xác định lãi suất phải trên cơ sở sự thoả thuận của hai bên, nhưng ngân hàng chỉ đơn phương điều chỉnh và yêu cầu các khách hàng phải thực hiện. Ngày 3/12/2008, NHNN đã ban hành Quyết định số 2948/QĐ-NHNN về mức lãi suất cơ bản bằng VNĐ giảm từ 11%/năm xuống còn 10%/năm, lãi suất cho vay tối đa của các tổ chức tín dụng (TCTD) bằng VNĐ đối với khách hàng giảm từ 16,5% xuống 15%/năm. Ngày 19/12/2009, NHNN ban hành tiếp quyết định số 3161/QĐ-NHNN quy định mức lãi suất cơ bản bằng đồng Việt Nam là 8,5%/năm, theo đó lãi suất cho vay của tổ chức tín dụng không vượt quá 12,75%/năm. Gần đây mức lãi suất cơ bản do ngân hàng nhà nước công bố theo quyết định 172/QĐ-NHNN ngày 23/01/2009 là 7,0%/năm. Như vậy mức lãi suất tối đa các NHTM được phép áp dụng cho vay là 10,5%/năm, và NHNo&PTNT khu công nghiệp cũng nằm trong diện phải tuân thủ quy định về lãi suất cho vay nói trên. Mặc dù NHNN đã có văn bản giảm lãi suất cơ bản từ ngày 3/12/2008 nhưng đến gần 3 tháng sau kể từ khi có quy định mới về lãi suất công ty vẫn chưa được điều chỉnh lãi suất theo như quy định. Điều này đã khiến cho công ty gặp rất nhiều khó khăn về tài chính trong giai đoạn khủng hoảng kinh tế. - Trình độ chuyên môn nghiệp vụ và tin học của một số cán bộ còn hạn chế, lúng túng trong cách vận hành chuyển đổi chương trình IPICAS. - Thủ tục cho vay còn một số vấn đề bất cập: với đối tượng vay là các doanh nghiệp thì báo cáo tài chính của doanh nghiệp chưa thực sự đảm bảo đủ độ tin cậy, số liệu không chính xác, gây khó khăn trong công tác thẩm định và đánh giá kết quả cho vay cũng như không đủ độ tin cậy để ngân hàng quyết định cho vay tín chấp. 3.4.1.2. Nguyên nhân ảnh hưởng tới kết quả hoạt động cho vay * Môi trường kinh tế - Ngân hàng đang làm việc trong môi trường cạnh tranh gay gắt. Thời điểm từ 21/11/2008, các ngân hàng đồng loạt có sự điều chỉnh giảm lãi suất. Ngân hàng đã điều chỉnh giảm lãi suất cho vay đối với các hộ nông dân từ 12-14%/năm, cho vay doanh nghiệp vừa và nhỏ là 13%, cho vay thông thường là 13,5-14,5%/năm. Cùng với sự giảm lãi suất của NHNo&PTNT khu công nghiệp thì Ngân hàng Đầu tư và Phát triển cũng giảm lãi suất cho vay VNĐ đối với xuất khẩu, doanh nghiệp nhỏ và vừa và lĩnh vực ưu tiên khác là 13%/năm, cho vay thông thường là 14%-14,8%/năm. Ngân hàng Công thương cũng giảm lãi suất cho vay đối với hộ sản xuất, xuất khẩu và lĩnh vực ưu tiên khác là 12,5%/năm, cho vay đối với khách hàng uy tín là 12%/năm, cho vay thông thường là 135-14,5%/năm… - Môi trường kinh tế, môi trường đầu tư hiện nay chưa ổn định do ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế năm 2008. - Sự cạnh tranh gay gắt giữa các Ngân hàng thương mại trên địa bàn, sự gia tăng của các kênh huy động vốn như hệ thống NHTM nhà nước, NHTM cổ phần, kho bạc nhà nước, Bảo hiểm Nhân Thọ, Tiết kiệm bưu điện… không chỉ bằng lãi suất mà còn bằng cả các dịch vụ tiện ích hấp dẫn. - NHNo&PTNT khu công nghiệp chưa có sự tham gia bảo hiểm tiền gửi cho khách hàng. - Sự phát triển kinh tế trên địa bàn huyện Việt Yên chủ yếu tập trung vào sản xuất nông nghiệp, đời sống nông dân chưa cao. Khu công nghiệp mới được thành lập là một cơ hội về việc làm cho lao động trên địa bàn huyện song sự hoạt động chưa có hiệu quả cao, đang còn gặp nhiều khó khăn đây là một hạn chế cho công tác huy động vốn của ngân hàng. * Công tác tổ chức của NHNo&PTNT khu công nghiệp - Trụ sở chính của NHNo&PTNT khu công nghiệp chưa có phải đi thuê trụ sở của doanh nghiệp khác do đó ảnh hưởng lớn đến công tác giao dịch với khách hàng. - Tuy mạng lưới hoạt động rộng, có nhiều phòng giao dịch rải rác tại địa bàn các xã song số lượng CBTD biên chế còn ít, chỉ chiếm khoảng 50%. Trình độ cán bộ tín dụng chưa cao, số lượng cán bộ nhân viên có trình độ trên đại học, đại học còn hạn chế. * Chính sách tín dụng - Công tác thanh toán qua ngân hàng chưa được mở rộng và tạo thuận lợi đối với các hộ nông dân. Chưa thực hiện được việc gửi tiền một nơi rút tiền ở nhiều nơi lên chưa thu hút được nhiều lượng tiền nhàn rỗi trong dân chúng. -Ngân hàng chưa thực sự coi trọng các giải pháp về Marketing được xem như là công cụ quản lý hiện đại trong nền kinh tế thị trường. Việc tuyên truyền, phổ biến các chính sách quy trình nghiệp vụ đến người dân chưa được coi trọng đúng mức, cán bộ ngân hàng chưa chủ động tiếp cận với người dân để huy động và cho vay vốn. - Lãi suất cho vay: khách hàng vay vốn rất nhạy cảm với lãi suất cho vay. Sự ảnh hưởng của lãi suất đến kết quả hoạt động cho vay như thế nào chúng ta cùng phân tích mối tương quan giữa lãi suất cho vay và doanh số cho vay. Mối tương quan giữa lãi suất cho vay và doanh số cho vay. Năm 2008, kinh tế thế giới suy giảm mạnh, hàng loạt các định chế tài chính hàng đầu thế giới lâm vào khủng hoảng. Nền kinh tế Việt Nam phải đối mặt với nhiều thách thức, tình hình tài chính, tiền tệ và thị trường chứng khoán thiếu ổn định. Trong bối cảnh đó, hoạt động của NHNo&PTNT khu công nghiệp nói riêng và AGRIBANK nói chung vẫn duy trì và tăng trưởng ổn định. Trong bối cảnh khó khăn của nền kinh tế, với mục tiêu chung của NHNo&PTNT Việt Nam là ngăn ngừa lạm phát, ổn định kinh tế vĩ mô, đảm bảo an sinh xã hội và tăng trưởng kinh tế bền vững. Chính vì vậy từ tháng 7 năm 2008, thực hiện sự chỉ đạo của ngân hàng cấp trên, NHNo&PTNT khu công nghiệp đã thực hiện 12 lần giảm lãi suất cho vay từ 20,5%/năm xuống còn 10,5%/năm, thấp hơn mức lãi suất trước thời kỳ lạm phát. Đặc biệt ngân hàng đã có sự ưu đãi đối với các đối tượng khách hàng truyền thống là các hộ sản xuất với việc giảm lãi suất của tất cả các hợp đồng tín dụng có lãi suất rất cao trong thời kỳ lạm phát trước đây còn 12-14%/năm, cho vay doanh nghiệp nhỏ và vừa, xuất khẩu và các lĩnh vực ưu tiên khác là 13%/năm, cho vay thông thường là 14,5%/năm… Với việc giảm lãi suất cho vay như vậy, ngân hàng đã chấp nhận giảm lợi nhuận và các quỹ, chung tay chia sẻ khó khăn với khách hàng. Với phương châm như vậy, doanh số cho vay của Ngân hàng đã đạt được một số kết quả đáng kể và kết quả này sẽ được thể hiện qua biểu đồ 3.3: Biểu đồ 3.3: Mối quan hệ giữa lãi suất cho vay và doanh số cho vay năm 2008 Ghi chú: LSCH: lãi suất cho vay DSCH: doanh số cho vay Qua biểu đồ ta có thể rút ra nhận xét: Doanh số cho vay và lãi suất cho vay có quan hệ tỷ lệ nghịch. Khi lãi suất cho vay tăng cao thì khách hàng sẽ hạn chế việc vay vốn và tận dụng tối đa nguồn vốn tự có. Tại thời điểm tháng 6 và tháng 7 năm 2008 là khi lạm phát cao, lãi suất cho vay của NHNo&PTNT khu công nghiệp tăng kịch trần 1,6%/tháng và 1,7%/tháng thì cũng là thời điểm doanh số cho vay của ngân hàng đạt mức thấp nhất. Khi lãi suất tăng cao, các doanh nghiệp là nơi chịu nhiều ảnh hưởng nhất. Năm 2008, lãi suất cho vay của NHNo&PTNT khu công nghiệp nói riêng và của các NHTM nói chung đã có nhiều biến động, sự biến động đó đã dẫn đến một hậu quả là: + Thời điểm lãi suất cho vay tăng quá cao, dẫn đến hiệu quả sản xuất kinh doanh của hầu hết các doanh nghiệp đã bị giảm sút, nhiều doanh nghiệp bị thua lỗ, khả năng trả nợ bị suy giảm. + Lãi suất cho vay tăng cao, cùng với nguồn cung tín dụng bị hạn chế đã dẫn đến tình trạng hầu hết các doanh nghiệp buộc phải cơ cấu lại hoạt động sản xuất kinh doanh, cắt giảm việc đầu tư, thu hẹp quy mô và phạm vi hoạt động. + Nhiều doanh nghiệp có quy mô nhỏ, vốn ít không chịu đựng được mức lãi suất cao, không có khả năng huy động để duy trì hoạt động sản xuất kinh doanh đã phải ngừng hoạt động, giải thể và phá sản. Điển hình công ty TNHH Liên Doanh Việt Hàn vốn là một khách hàng có quan hệ thân thiết với ngân hàng, năm 2008 do chịu ảnh hưởng của khủng hoảng kinh tế, giá phôi thép giảm hơn một nửa, lãi suất vay ngân hàng tăng cao. Giai đoạn từ tháng 6 đến tháng 12 năm 2008, công ty phải giảm bớt tốc độ sản xuất và vay thêm ngân hàng khu công nghiệp 6 tỷ để trang trải mọi chi phí. Kết quả là dư nợ ngân hàng ở thời điểm cuối năm 2008 lên đến 36 tỷ đồng. Bước sang năm 2009, bằng nhiều biện pháp của Chính phủ và NHNN, mặt bằng lãi suất đã liên tục được điều chỉnh giảm, nguồn cung tín dụng được nới lỏng, cùng với chính sách kích cầu thông qua hỗ trợ lãi suất vay vốn phục vụ sản xuất kinh doanh cho các doanh nghiệp, hoạt động sản xuất kinh doanh của các doanh nghiệp đã có dấu hiệu phục hồi trở lại, nhu cầu vay vốn của doanh nghiệp cũng như số tiền giải ngân cho các doanh nghiệp đã có sự tăng trưởng trở lại. NHNo&PTNT khu công nghiệp đã sát cánh cùng tháo gỡ khó khăn với các khách hàng, tạo mọi điều kiện cho khách hàng trả nợ cũ và nhận nợ mới để được hưởng hỗ trợ lãi suất. Các doanh nghiệp nhanh chóng ổn định sản xuất, xây dựng các phương án sản xuất kinh doanh mới để vay thêm vốn ngân hàng, có tiền các doanh nghiệp nhanh chóng trả các khoản nợ có mức lãi suất cao mặc dù chưa đến hạn. Sự chia sẻ khó khăn của NHNo&PTNT khu công nghiệp đã giúp các doanh nghiệp giảm bớt khó khăn về vốn. Tính đến hết ngày 30/3/2009, các khoản vay được hỗ trợ lãi suất 4% của Ngân hàng là 55.947 triệu đồng, và có doanh nghiệp đã được hỗ trợ đến 20 tỷ đồng, một số doanh nghiệp đã được hỗ trợ 100% các khoản vay ngân hàng. Với sự điều chỉnh giảm lãi suất cho vay, doanh số cho vay của NHNo&PTNT khu công nghiệp 3 tháng đầu năm 2009 đã có sự tăng trưởng mạnh, điều này cho thấy khách hàng vay vốn rất nhạy cảm với lãi suất, đặc biệt là các doanh nghiệp. Khi lãi suất tăng cao, các doanh nghiệp tận dụng triệt để nguồn vốn tự có, hạn chế vay vốn ngân hàng. Nhưng khi có sự điều chỉnh của Chính phủ, lãi suất cho vay giảm cộng thêm được hỗ trợ 4%, các doanh nghiệp đua nhau vay tiền để mở rộng sản xuất kinh doanh, đua nhau trả các khoản nợ có lãi suất cao mặc dù chưa đến hạn. Việc đảo nợ liên tục của các doanh nghiệp đã khiến cho doanh số cho vay cũng như doanh số thu nợ của ngân hàng 3 tháng đầu năm 2009 tăng mạnh so với năm 2008. 3.4.2. Những vấn đề đặt ra để tiếp tục thực hiện trong giai đoạn năm 2009 của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám về hoạt động tín dụng Để mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động vấn đề con người là quan trọng mang tính quyết định. NHNo&PTNT khu công nghiệp cần tạo điều kiện cho đội ngũ cán bộ quản lý có điều kiện học thêm, để nâng cao trình độ học vấn và năng lực quản lý điều hành, tiêu chuẩn hoá đôi ngũ cán bộ lãnh đạo. Cần bổ sung những cán bộ có năng lực, trình độ, có đạo đức tốt cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Mặc khác tăng cường đào tạo lại những cán bộ tín dụng hiện có, nhằm nâng cao nhận thức, năng lực đáp ứng yêu cầu nhiệm vụ được giao trong điều kiện của nền kinh tế thị trường hiện nay. Lập các chương trình cụ thể cho từng quý, từng năm nhằm thực hiện thắng lợi mục tiêu kế hoạch kinh doanh của từng năm đề ra. Tổ chức tập huấn nghiệp vụ cho vay, có chế độ bảo đảm tiền vay cho đội ngũ cán bộ tín dụng. Đây là công tác quan trọng để giữ vững và nâng cao chất lượng hoạt động cho vay trong thời gian tới. Hàng năm có sự xét thưởng cho các cán bộ tín dụng có thành tích vào dịp tổng kết cuối năm, trên cơ sở hoàn thiện các tiêu chí để đánh giá đúng thực chất thành tích của họ nhằm tạo không khí thi đua, phân đấu để hoàn thành xuất sắc các chỉ tiêu kinh doanh đề ra. Thực hiện nghiêm túc việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, việc trích lập và sử dụng quỹ dự phòng rủi ro, việc kiểm tra, xét duyệt các khoản nợ rủi ro nghiêm túc, đảm bảo chế độ quy định, nhằm làm lành mạnh tài chính, giảm nợ quá hạn. Thực hiện tốt biện pháp phòng ngừa và hạn chế rủi ro trong hoạt động cho vay như: thẩm định kỹ khách hàng trước khi vay, thực hiện đúng các quy trình nghiệp vụ cho vay và quản lý tiền vay. Tổ chức phân tích chất lượng hoạt động cho vay (mỗi năm ít nhất 2 lần vào 6 tháng và cuối năm) nhằm tìm biện pháp mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động cho vay, đảm bảo kinh doanh an toàn và hiệu quả. Bên cạnh việc mở rộng và nâng cao chất lượng hoạt động cho vay thì công tác tuyên truyền, công tác tiếp thị đối với các doanh nghiệp trên địa bàn phải được coi trọng để thu hút khách hàng đặc biệt là các khách hàng lớn, nhằm nâng dần tỷ trọng dư nợ cho vay trong cơ cấu dư nợ. Với chủ đề kinh doanh “củng cố và nâng cao chất lượng tín dụng”, ngân hàng đã đặt ra các chỉ tiêu cụ thể cần đạt được trong năm 2009 như sau: * Nguồn vốn phấn đấu đến 31/12/2009 đạt 196.018 triệu đồng, trong đó: - Nguồn vốn nội tệ đạt 168.667 triệu đồng, tăng tối thiểu 17% so với năm 2008 - Nguồn vốn ngoại tệ đạt 1,514 ngàn USD, tăng tối thiểu 17% so với năm 2008 * Sử dụng vốn tổng dư nợ đến 31/12/2009 phấn đấu đạt: - Dư nợ nội tệ thông thường đạt 402.367 triệu đồng, tăng tối thiểu 15% so với năm 2008. -Dư nợ ngoại tệ đạt 530 ngàn USD tăng tối thiểu 513% so với năm 2008. * Cơ cấu đầu tư: mở rộng đầu tư cho các dự án cụm công nghiệp, các khách hàng sản xuất kinh doanh lớn và ưu tiên cho các lĩnh vực sản xuất nông nghiệp, ngư nghiệp. * Tỷ lệ nợ xấu: dưới 3% tổng dư nợ hữu hiệu. * Tỷ lệ cho vay trung dài hạn chiếm trên 19% tổng dư nợ cho vay. * Tỷ lệ cho vay doanh nghiệp chiếm trên 65% tổng dư nợ cho vay. * Thu lãi tiền vay đạt từ 95% số lãi phải thu trở lên, tìm mọi biện pháp tăng thu dịch vụ khác. * Thu dịch vụ ngoài tín dụng đạt 450 triệu đồng. * Về tài chính chênh lệch thu nhập trừ chi phí chưa có lương tăng tối thiểu 50% so với năm 2008. Phấn đấu đủ quỹ thu nhập, hệ số tiền lương theo quy định, đảm bảo thu nhập cho cán bộ ngành. PHẦN IV: KẾT LUẬn và kIẾN NGHỊ 4.1. Kết luận 1. Hoạt động cho vay của NHNo&PTNT khu công nghiệp đã phần nào đáp ứng được nhu cầu vốn, lãi suất, kỳ hạn hợp lý cho hoạt động sản xuất kinh doanh của các đối tượng khách hàng trên địa bàn khu công nghiệp nói riêng và của các khách hàng có quan hệ tín dụng với ngân hàng nói chung. 2. NHNo&PTNT khu công nghiệp đã thực hiện tốt chức năng là một trung gian tài chính đảm bảo sự điều hoà nguồn vốn cho nền kinh tế, huy động triệt để các nguồn tiền nhàn rỗi để luân chuyển đến những nơi thiếu vốn một cách kịp thời. 3. Hoạt động cho vay vốn NHNo&PTNT đã đảm bảo được sự phù hợp giữa quy mô, cơ cấu nguồn vốn với quy mô, cơ cấu hoạt động cho vay, đảm bảo an toàn về vốn, an toàn thanh khoản và đem lại cho ngân hàng mức lợi nhuận tối đa có thể. Cụ thể như sau: Quy mô hoạt động cho vay tiếp tục có sự ổn định, tăng trưởng mạnh vững chắc, cơ cấu dư nợ có sự chuyển đổi mạnh mẽ. Ngân hàng đã cho vay đầu tư vào tất cả các lĩnh vực, ngành nghề, thành phần kinh tế. Trong đó tập chung chủ yếu vào hai đối tượng là cho vay hộ sản xuất (bình quân chiếm khoảng 46,2% tổng doanh số cho vay) và khối doanh nghiệp ngoài quốc doanh trên địa bàn (bình quân chiếm khoảng 50,4%). Dư nợ ba năm tương đối ổn định, tốc độ tăng bình quân đạt 54,1%. Doanh số cho vay có tốc độ tăng trưởng nhanh phù hợp với tốc độ tăng trưởng doanh số cho vay. Tỷ lệ nợ quá hạn, nợ xấu đạt mức cho phép đảm bảo an toàn tín dụng, thu nhập từ hoạt động tín dụng tăng trưởng mạnh, chiếm trong phần lớn tổng thu nhập của ngân hàng. Bên cạnh những mặt đã đạt được thì vẫn còn tồn tại một số hạn chế trong hoạt động cho vay: + Hình thức cho vay còn đơn điệu, hoạt động cho vay vốn trung dài hạn của NHNo&PTNT khu công nghiệp còn rất khiêm tốn, mức vốn cho vay dài hạn chiếm một tỷ lệ rất nhỏ trong cơ cấu nguồn vốn cho vay + Lãi suất cho vay còn được đánh giá là cao so với các ngân hàng khác trên địa bàn và sư điều chỉnh lãi suất đôi khi còn chậm trễ. 4.2. Kiến nghị đối với Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám- Bắc Giang - Luôn nâng cao đạo đức, phẩm chất và trình độ chuyên môn cho đội ngũ CBTD: học tập văn bản pháp luật, nâng cao kiến thức pháp luật, bồi dưỡng kiến thức thị trường, nghiệp vụ thông qua các lớp chuyên đề do tỉnh và ngân hàng tổ chức. Từng bước tiêu chuẩn hoá đội ngũ cán bộ, thường xuyên phát động và sơ kết thi đua nêu gương tốt đồng thời có biện pháp xử lý nghiêm những CBTC có sai phạm. Thực tế hiện tại NHNo&PTNT khu công nghiệp đã xảy ra một số hiện tượng: + Một số CBTD khi làm việc đã không kiểm soát sát sao, để xảy ra hiện tượng cùng một hoá đơn nhưng được giải ngân tới tận 3 lần. Có những món giải ngân trị giá hàng tỷ đồng nhưng chứng từ chỉ là bảng kê. - Cần có kế hoạch bồi dưỡng kiến thức xây dựng và thẩm định dự án đối với CBTD, cách tiếp cận và phân tích dự án cho vay. CBTD vừa phải là người thẩm định dự án, vừa là người tư vấn cho dự án xin vay. Đây là điều kiện rất quan trọng để Ngân hàng tiếp cận và mở rộng đầu tư cho phát triển kinh tế trên địa bàn. Một thực tế hiện nay là trình độ CBTD của NHNo&PTNT khu công nghiệp còn nhiều hạn chế. Số CBTD có trình độ đại học, trên đại học và có kinh nghiệm thực tế còn quá ít. Hiện nay còn quá nửa nhân viên phòng tín dụng mới chỉ là nhân viên hợp đồng. Tổng số CBTD đã biên chế chỉ có 4 người. - Ngân hàng cần đa dạng hoá các mức lãi suất huy động và áp dụng lãi suất ở nhiều thời hạn khác nhau, tăng cường tiếp thị và nâng cao dịch vụ phục vụ để huy động lãi suất đầu vào thấp nhưng vẫn huy động được nhiều, vẫn đáp ứng mở rộng cho vay và hạ lãi suất cho vay tạo điều kiện cho phát triển kinh tế địa phương. Hiện nay lãi suất huy động của NHNo&PTNT khu công nghiệp vẫn chưa thực sự hấp dẫn khách hàng, trong khi lãi suất cho vay thì vẫn được đánh giá là cao hơn các ngân hàng khác cùng hoạt động trên địa bàn. - Ngân hàng cần có biện pháp thúc đẩy huy động vốn trung dài hạn, để mở rộng cho vay trung dài hạn. Trong giai đoạn hiện nay để chống suy thoái kinh tế, Chính phủ đã tiếp tục có gói kích cầu hỗ trợ lãi suất đối với cho vay trung dài hạn. Vì vậy, để cạnh tranh được với các ngân hàng khác trên địa bàn, ngân hàng cần có những biện pháp tích cực huy động và mở rộng cho vay trung dài hạn. Hoạt động cho vay trung dài hạn của NHNo&PTNT khu công nghiệp còn rất hạn chế. Có những doanh nghiệp vay với hạn mức tín dụng là 40 tỷ đồng nhưng lại toàn bộ là vay vốn lưu động ngắn hạn. Điều này sẽ gây rất nhiều khó khăn trong công tác trả nợ của khách hàng. TÀI LIỆU THAM KHẢO Hồ Diệu, “Tín dụng ngân hàng”, NXB Thống kê, Hà Nội, 2001. Nguyễn Duệ , “Quản trị ngân hàng”, NXB Thống kê, Hà Nội, 2001. Trần Đình Định, “Những quy định của pháp luật về hoạt động tín dụng”, NXB Văn Hoá - Thông tin, Hà Nội, 2006. Vũ Văn Hoá , “Lý thuyết tiền tệ”, NXB Tài Chính, Hà Nội, 1996. Tô Kim Ngọc, “Giáo trình lý thuyết Tiền tệ - Ngân hàng”, NXB Thống kê, Hà Nội, 2004. Nguyễn Thị Luận, “Đánh giá hoạt động tín dụng tại Ngân hàng Nông nghiệp & Phát triển nông thôn Yên Mỹ - Hưng Yên”, Khoá luận tốt nghiệp, Đại học Nông nghiệp Hà Nội, 2008. Lê Văn Tư, “Tiền tệ Tín dụng ngân hàng”, NXB Thống kê, Hà Nội, 1997. Fredic S.Mishkin, “Tiền tệ Ngân hàng và Thị trường tài chính”, NXB Khoa học và Kỹ thuật, Hà Nội, 1995. “Luật Ngân hàng nhà nước, Luật các Tổ chức tín dụng”, NXB Công An nhân dân, Hà Nội, 2004. “Từ điển thuật ngữ Tài chính Tín dụng”, NXB Tài chính, Hà Nội, 1996. Ngân hàng nhà nước Việt Nam, “Quyết định số 72 về việc quy định cho vay đối với khách hàng của Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn Việt Nam”, 1999. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Quyết định số 1627 về việc ban hành quy chế cho vay của Tổ chức tín dụng đối với khách hàng ”, 2001. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Quyết định số 493 về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động ngân hàng của Tổ chức tín dụng”, 2005. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Quyết định số 18 về việc sửa đổi, bổ sung một số điều quy định về phân loại nợ, trích lập và sử dụng dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của Tổ chức tín dụng”, 2007 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Quyết định số 131 về việc hỗ trợ lãi suất cho các tổ chức, cá nhân vay vốn ngân hàng để sản xuất kinh doanh do Thủ tướng Chính phủ ban hành”, 2009. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Quyết định số về việc ban hành kế hoạch hành động của Ngân hàng Nhà nước Việt Nam để triển khai thực hiện các giải pháp tiền tệ, tín dụng và ngân hàng”, 2009 Ngân hàng Nhà nước Việt Nam, “Thông tư số 03 về việc cho vay bảo đảm bằng cầm cố giấy tờ có giá đối với ngân hàng”, 2009. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám, Bắc Giang, “Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh các năm 2006”. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám, Bắc Giang, “Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh năm” 2007. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám, Bắc Giang, “Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh” 2008. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám, Bắc Giang, “ Cân đối tổng hợp”, 2006. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám, Bắc Giang, “Cân đối tổng hợp”, 2007. Ngân hàng Nông nghiệp và Phát triển nông thôn khu công nghiệp Đình Trám, Bắc Giang, “Cân đối tổng hợp”, 2008.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • docBAO CAO HOAN CHINH.doc
Tài liệu liên quan