Luận văn Đánh giá tác động của sự phát triển thuỷ sản lên tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân Việt Nam

Qua quá trình nghiên cứu đề tài gồm 3 chương, những tác động tích cực và tiêu cực đã đượcphân tích rõ để chúng ta có một đánh giá chân thực và toàn diện hơn về tác động của sự phát triển thuỷ sản tới tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân Việt nam. Đồng thời xuất phát từ kết quả nghiên cứu kết hợp với định hướng, mục tiêu chiến lược cho 10 năm tới mà nhà nước giao cho ngành thực hiện, đề tài cũng đã đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề. Các giải pháp này mang tính chất là các giải pháp lớn để từ đó có thể triển khai cụ thể hơn. Nếu các giải pháp này được thực thi một cách đồng bộ thì những định hướng và mục tiêu chiến lược cho 10 năm tới chắc chắn sẽ đạt được. Trong tình hình phát triển chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn của ngành như hiện nay thì thực hiện những giải pháp đã nêu là hết sức cần thiết và cấp bách để ngành phát triển theo đúng quĩ đạo tiếp tục là ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân . Đó cũng là ý kiến chỉ đạo của thủ tướng Phan Văn Khải trong hội nghị tổng kết tỡnh hỡnh thực hiện kế hoạch năm 2002 và bàn các chỉ tiêu, biện pháp hoàn thành kế hoạch năm 2003 do Bộ Thuỷ sản tổ chức tại Hà Nội vào tháng 1/2003 : “Với kim ngạch xuất khẩu hơn 2 tỷ USD trong năm 2002, ngành thuỷ sản đang khẳng định vị trí mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân. Sắp tới, bộ cần chỉ đạo các đơn vị thành viên tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, tăng cường tính cạnh tranh cho sản phẩm theo hướng thật quyết liệt và cụ thể, đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường”.

doc82 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1132 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đánh giá tác động của sự phát triển thuỷ sản lên tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân Việt Nam, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
u ngành Thuỷ sản còn diễn ra mạnh mẽ trong nội bộ của các tiểu ngành, các lĩnh vực sản xuất kinh doanh ngành thuỷ sản: bên cạnh quá trình dịch chuyển dần từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ thì quá trình chuyển dịch cơ cấu tàu thuyền, cơ cấu nghề nghiệp, cơ cấu sản lượng khai thác cũng có sự thay đổi theo hướng ngày càng hiện đại. Khả năng khai thác được phát triển, khai thác bước đầu gắn với bảo vệ nguồn lợi và bảo vệ môi trường, bảo vệ an ninh quốc phòng. Trong chế biến thuỷ sản, có sự lớn dần về quy mô sản xuất, công nghệ, trình độ kỹ thuật ở các cơ sở chế biến. Các dây chuyền chế biến ngày càng hiện đại hoá theo hướng phát triển công nghệ mới. An toàn thực phẩm trong chế biến thuỷ sản được chú trọng, các mặt hàng chế biến đã được các thị trường khó tính như Mỹ, EU chấp nhận. Cơ cấu đối tượng nuôi cũng có sự chuyển dịch theo hướng phát triển nuôi các loài thuỷ hải sản có giá trị kinh tế cao. Diện tích nuôi trồng thuỷ sản ngày càng mở rộng đóng góp một phần không nhỏ vào chuyển dịch cơ cấu kinh tế nông nghiệp nông thôn (Theo nghị quyết 09 NQ-CP ngày 15/6/2000), nhờ việc chuyển một bộ phần diện tích đất đai đang canh tác nông nghiệp, trồng lúa, làm muối kém hiệu quả-sang nuôi trồng thuỷ sản. Việc đưa thành công kỹ thuật nuôi hải sản trên vùng cát ven biển đã mở ra một tiềm năng và triển vọng mới cho việc phát triển vùng nuôi tôm và các loại hải sản khác theo phương thức công nghiệp, nhất là đối với vùng duyên hải dọc theo bờ biển miền trung. Khả năng này vừa mang lại ý nghĩa đẩy nhanh tốc độ phát triển nuôi tôm, hải sản thâm canh, sử dụng những tài nguyên xưa nay bỏ phí, vừa có ý nghĩa thiết thực trong chiến lược xoá đói, giảm nghèo đồng thời cũng là một giải pháp hữu hiệu nhằm cải tạo và bảo vệ môi trường ven biển. + Xoá đói giảm nghèo và tạo công ăn việc làm : Một trong những đóng góp không thể không kể đến của ngành Thuỷ sản cho nền kinh tế quốc dân Việt Nam đó là những đóng góp về giải quyết công ăn việc làm và xoá đói giảm nghèo. Nếu trung bình một tàu thuyền giải quyết được việc làm cho 5 lao động thì 90.762 tàu thuyền cả thủ công (số liệu năm 2001) đã tạo ra công ăn việc làm và thu nhập cho khoảng 450.000 lao động cộng với hơn 400.000 hộ ở 28 tỉnh ven biển điều tra được ta thấy ngay một con số lao động khổng lồ được thu hút vào ngành Thuỷ sản. Ngoài ra, trong lĩnh vực dịch vụ, cơ khí hậu cần và thương mại cũng có hàng chục ngàn lao động tìm được kế sinh nhai. Trong điều kiện nền kinh tế nước ta còn đơn điệu và tỷ lệ thất nghiệp cao, ít việc làm trong các ngành kinh tế đặc biệt là các vùng nông thôn thì đây quả là một đóng góp không nhỏ. Ngành Thuỷ sản đã làm dịu đi sức ép giải quyết việc làm cho quốc gia (mỗi năm nước ta phải giải quyết việc làm cho khoảng 1,4 triệu lao động). Với tình hình thực tế của những năm gần đây và những năm tới thì lực lượng lao động thuỷ sản còn tiếp tục tăng. Trong chiến lược phát triển thuỷ sản giai đoạn 1996-2010 tổng số việc làm thường xuyên trong ngành thuỷ sản sẽ tăng lên tới 1,6 triệu người và ước khoảng 500.000-700.000 người tham gia lao động không thường xuyên trong ngành Thuỷ sản, nâng tổng số người sống bằng nghề kinh tế Thuỷ sản lên khoảng 6 triệu. Như vậy là chiếm khoảng 1/7 trong tổng số 40,3 triệu người trong độ tuổi lao động của cả nước. Một con số thật ấn tượng vì GDP của ngành chưa đầy 1/20 GDP của cả nước. Bảng 11 : Tình hình thu hút thêm lao động qua các năm vào ngành Thuỷ sản Đơn vị: người. Năm Ngành 1991 1995 2000 2001 2002 Toàn ngành 50.000 90.000 98.000 125.000 120.000 Khai thác 37.000 72.000 78.500 89.700 82.250 Nuôi trồng 9.420 12.500 12.000 27.200 25.200 Chế biến-DVTS 3.580 3.500 7.500 8.100 12.550 Nguồn : Bộ Thuỷ sản Tốc độ tăng trưởng cao cộng với nhiều thuận lợi về thị trường tiêu thụ, nên thu nhập của đại đa số lao động thuỷ sản tăng lên. Đặc biệt nuôi trồng thuỷ sản phát triển tới tận các vùng sâu, vùng xa, không những cung cấp chất dinh dưỡng, đảm bảo an ninh thực phẩm mà còn góp phần xoá đói giảm nghèo. Hoạt động nuôi trồng thuỷ sản đã góp phần giải quyết việc làm và nâng cao thu nhập, đặc biệt là ở các cộng đồng nông thôn là nơi ít có cơ hội việc làm lúc nông nhàn mà nguồn lao động lại rất dư thừa. Kết quả điều tra cho biết, những hộ có làm nghề thuỷ sản kết hợp với các nghề khác thường có mức thu nhập bình quân đầu người cao hơn các hộ không làm thuỷ sản. Bảng 12 : Thu nhập bình quân đầu người các vùng Đơn vị: đồng. Hộ có làm thuỷ sản Hộ không làm thuỷ sản TNBQ đầu người miền Bắc 2.273.000 1.550.000 TNBQ đầu người miền Trung 1.470.000 1.208.000 TNBQ đầu người miền Nam 3.140.000 2.075.000 Nguồn : Bộ Thuỷ sản Bên cạnh những mặt tích cực là tạo được nhiều công ăn việc làm và thu hút được nhiều lao động thì trong thời gian qua mặt tiêu cực cũng phát sinh từ đây: ngành Thuỷ sản hiện quá đông người tham gia nên hiệu suất và hiệu quả ngày càng giảm và gây ra tình trạng thừa lao động. Bảng 13 : Thu nhập bình quân đầu người cả nước và của ngành thuỷ sản ( Tính theo giá cố định 1994) Năm Dân số cả nước ( Nghìn người) Dân số thuỷ sản ( Nghìn người ) GDP cả nước** ( triệu USD) GDP Thuỷ sản (triệu USD) GDP bình quân đầu người cả nước (USD/người) Tốc độ tăng trưởng (%) GDP bìnhquân đầu người thuỷ sản (USD/người) Tốc độ tăng trưởng (%) 1995 71.985,5 1.391 12.617,2 339,4 175,3 - 244,1 - 1996 73.166,6 1.464 13.795,6 353,3 188,6 7,57 241,4 -1,10 1997 74.346,0 1.528 14.920,2 356,7 200,7 6,44 233,5 -3,26 1998 75.526,3 1.558 15.780,3 372,1 208,9 4,11 238,9 2,30 1999 76.596,8 1.706 16.533,6 386,2 215,9 3,31 226,4 -5,21 2000 77.635,0 1.790(*) 17.655,8 430,9 227,4 5,36 240,8 6,34 2001 78.686,0 1.873(*) 18.872,4 476,8 239,8 5,46 254,6 5,73 1995-2001 5,36 0,70 * Số liệu sơ bộ . ** Tính theo tỷ giá 1USD = 15.500 VNĐ. Nguồn : Niêm giám thống kê Phân tích bảng trên ta thấy trong khi thu nhập bình quân đầu người cả nước ngày càng tăng thì thu nhập bình quân đầu người của ngành thuỷ sản tăng không đáng kể nếu không muốn nói là không tăng. Tính trung bình cả giai đoạn 1995-2001, trong khi GDP bình quân đầu người cả nước tăng 5,36% thì GDP bình quân đầu người ngành thuỷ sản chỉ tăng có 0,7% , một con số thật đáng buồn. Đó là một thực trạng mà nếu như chỉ nhìn vào bề ngoài của sự phát triển nhanh chóng của ngành như hiện nay thì người ta có thể cho là sai lầm . Nhưng đó là sự thật bởi vì tốc độ tăng trưởng GDP của ngành không tăng kịp với tốc độ gia tăng lao động trong ngành . Một mặt do tỷ lệ sinh cao, một mặt do tốc độ gia tăng cơ học vào ngành rất lớn . Bên cạnh đó trong khai thác cũng như nuôi trồng thì mức độ rủi ro quá cao khiến cho nhiều người rơi vào cảnh bần cùng và tất nhiên cũng có nhiều người phất lên nhờ gặp may. Lợi ích của tăng trưởng chủ yếu rơi vào tay chủ tàu, chủ nậu, chủ vựa trong khai thác cũng như tư thương trong thương mại thuỷ sản chính vì vậy mà bất bình đẳng trong thu nhập nội bộ ngành có xu hướng tăng lên. Có mức chênh lệch lớn giữa thu nhập bình quân của các hộ nghèo so với hộ giàu: + Miền Bắc : 6,3 lần. + Miền Trung : 2,5 lần. + Miền Nam : 9,6 lần. Rõ ràng là hoạt động nuôi trồng thuỷ sản là một hoạt động đòi hỏi đầu tư rất lớn. Vốn để đâù tư vào nuôi trồng thuỷ sản thường là vốn vay ngân hàng hay vay của họ hàng bè bạn. Trình độ nuôi còn kém, thiếu kinh nghiệm, nhiều nơi nuôi tự phát ồ ạt. Dịch bệnh hay thiên tai xảy ra làm người nuôi thất thoát nặng, dẫn đến nợ nần, mất ổn định xã hội, ngân hàng, những người cho vay, cộng đồng cũng bị thiệt hại. Hơn thế nữa, thua nỗ một vụ, nợ tới hàng chục triệu đồng, người nông dân thường lại phải đi vay mượn thêm để nuôi tiếp vì không còn cách nào khác sinh lợi nhuận bằng nuôi trồng thuỷ sản đủ để trả nợ. Và đã có rất nhiều nông dân bị bần cùng hoá vì mắc phải vòng luẩn quẩn như vậy. Ngoài ra, hoạt động nuôi trồng thuỷ sản cũng làm mất đi kế mưu sinh của một bộ phận dân cư ven biển: cộng đồng ven biển thường sống dựa vào khai thác nguồn lợi tự nhiên trên các bãi triều, trong rừng ngập mặn, và các vùng biển nông. Khi các diện tích đó bị khoanh vùng cho nuôi trồng thuỷ sản, người nghèo không có cơ hội nuôi trồng thuỷ sản (không đủ vốn) sẽ bị mất hay bị cắt giảm nguồn lợi sống của mình. c. Môi trường: Những thành tựu to lớn mà ngành Thuỷ sản trong thơi gian vừa qua là hết sức to lớn và đáng ca ngợi nhưng cái giá phải trả cho thành tựu ấy không hề rẻ chút nào. Các hệ sinh thái biển và ven bờ phong phú đa dạng của Việt Nam đang bị đe dọa nghiêm trọng. Việt Nam đã mất đi khoảng 80% diện tích rừng ngập mặn. Các đầm nuôi tôm là một trong những nguyên nhân chủ yếu dẫn đến sự phá huỷ này. Hậu quả của nó là hết sức tai hại. Một khi rừng ngập mặn được chuyển sang nuôi trồng thuỷ sản thì tất cả các môi trường sinh sống của các loài sinh vật trong đó mất đi, các chức năng về sinh thái khác cũng hoàn toàn bị biến mất, kéo theo đó là hàng loạt các tác động môi trường khác như suy giảm đa dạng sinh học trực tiếp của vùng triều và vùng ven bờ, giảm nguồn lợi tự nhiên. Một khi hệ sinh thái kiểu này bị mất đi, dù có khôi phục trở lại thì mức độ đa dạng sinh học sẽ không bao giờ phục hồi lại như mức ban đầu. Ngoài ra, quá trình dẫn nước mặn cung cấp cho các đầm nuôi ở sâu trong đất liền là tác nhân thúc đẩy hiện tượng nhiễm mặn đất canh tác. Mà đối với canh tác nông nghiệp lúa nước thì nước mặn là một thảm hoạ. Sự xâm nhập của nước biển vào các khu vực cửa sông nơi diễn ra các hoạt động nông nghiệp và thuỷ sản đã gây ảnh hưởng không nhỏ cho môi trường nhất là những vùng chưa có đê bao hoặc gần chân đê, gây chua hóa, phèn hoá, nhiễm mặn ở các đầm ao nước ngọt và ruộng lúa. Quá trình nắn chỉnh dòng chảy của kênh mương cấp thoát nước ở vùng cửa sông, ven biển làm tai biến môi trường tự nhiên. Khi nước triều dâng hoặc mưa lũ thì hậu quả thật khó lường. Nguồn nước tháo ra từ các trại nuôi thuỷ sản có chứa 2 sản phẩm phụ chủ yếu là: các chất dinh dưỡng và các chất rắn lơ lửng, dẫn đến làm giảm chất lượng nguồn nước tự nhiên và lây lan dịch bệnh. Vấn đề sử dụng ngư cụ và phương pháp đánh bắt có hại vẫn còn tiếp diễn mặc dù pháp lệnh phát triển và bảo vệ nguồn lợi thuỷ sản đã được công bố từ năm 1989: hầu hết các ngư cụ được sử dụng trong thực tế đều vi phạm qui định về kích thước mắt lưới. Do kích thước mắt lưới quá nhỏ nên tỷ lệ cá tạp trong mẻ lưới cao; các ngư cụ hủy diệt nhiều cá con vẫn hoạt động như các nghề đăng, đáy cửa sông, te đẩy, các phương thức đánh bắt có hại vẫn chưa được ngăn chặn. Việc đánh mìn, xung điện xẩy ra ở nhiều nơi, sử dụng chất độc Xianua để đánh bắt thuỷ sản đang là những nguy cơ không kiểm soát được. Điều này dẫn đến việc triệt phá nguồn lợi, sát hại các loại hải sản còn non và môi trường sinh sống của chúng. Khoảng 96% các dải san hô ngầm của Việt Nam hiện đang bị đe doạ nghiêm trọng bởi các hoạt động đánh cá mang tính chất huỷ diệt như thế. Đánh bắt quá mức và việc phá huỷ các dải san hô và rừng ngập mặn đã dẫn đến sụt giảm mạnh năng suất đánh bắt, đe doạ sự phát triển bền vững của ngành Thuỷ sản. 2. Lượng hoá tác động của sự phát triển thủy sản tới tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân. a. Tác động của sự phát triển thuỷ sản tới thu nhập quốc dân + Hàm xu hướng đánh giá mức độ tác động của sự tăng trưởng Thuỷ sản đến tăng trưởng nền Kinh tế quốc dân : Trước hết ta xem xét mối quan hệ giữa tăng trưởng GDP cả nước và tăng trưởng GDP thuỷ sản: 1.000 -.175 . .607 11 11 -.175 1.000 .607 . 11 11 Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N GROW_TOTAL GROW_FISH GROW_TOTAL GROW_FISH Correlations Biểu 3 : Tương quan giữa tăng trưởng GDP cả nước và tăng trưởng GDP thuỷ sản Kết quả cho thấy hệ số tương quan quá nhỏ 0,175 chứng tỏ giữa tăng trưởng GDP cả nước và tăng trưởng GDP thuỷ sản không có mối liên hệ tương quan đáng kể. Như thế có nghĩa là không tồn tại một quan hệ đáng tin cậy giữa tăng trưởng GDP cả nước và tăng trưởng GDP thuỷ sản. Ta có thể đi tới kết luận ảnh hưởng của thuỷ sản tới toàn nền kinh tế là không đáng kể mặc dù nó đem lại hơn 1/10 thu nhập ngoại tệ cho đất nước và giải quyết được rất nhiều công ăn việc làm. Vì không tồn tại mối quan hệ tương quan về tốc độ tăng trưởng nên ta tiếp tục xem xét mối quan hệ giữa GDP cả nước và GDP ngành thuỷ sản. Kết quả hồi qui như sau: Hình 2 : Đồ thị của hàm GDPKTQD = a * GDPN + b. GDP_TOTA GDP_FISH 8000 7000 6000 5000 4000 400000 300000 200000 100000 Observed Linear Biểu 4 : Kết quả hồi quy tuyến tính với GDP cả nước là biến phụ thuộc , GDP thuỷ sản là biến độc lập Correlations 1.000 .966 ** . .000 12 12 .966 ** 1.000 .000 . 12 12 Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N GDP_TOTALA GDP_FISHH GDP_TOTALLO GDP_FISHH Correlation is significant at the 0.01 level (2-tailed). **. Hình 3 : Kiểm tra các vi phạm giả thiết Dựa trên các thông tin do SPSS mang lại ta có thể nhận xét như sau : - Mối quan hệ giữa GDP cả nước và GDP ngành nông nghiệp có mối liên hệ rất chặt chẽ .( Hệ số tương quan là 0,966) - Hàm hồi quy nhận được là : GDP_TOTAL = - 65438,9 + 50,099*GDP_FISH hay GDPKTQD =- 65438,9 + 50,099*GDPN Hàm hồi qui nói lên rằng mỗi khi GDP của ngành thuỷ sản tăng thêm 1 đồng thì GDP của cả nước tăng thêm 50,099 đồng . Các hệ số của hàm hồi qui đều có ý nghĩa thống kê và đạt tiêu chuẩn về dạng hàm và phân phối chuẩn (Std.dev = 0,95 ) tuy nhiên hàm lại vi phạm các giả thuyết : phương sai bằng nhau, tính độc của sai số , giả định tuyến tính ( thể hiện các trên các đồ thị phần dư các phần dư chuẩn hoá không có phân phối ngẫu nhiên ; thống kê Durbin-Watson quá thấp 0,422 ). Có thể giải thích các lỗi trên một phần là do dữ liệu dùng để xử lý không đủ lớn hoặc là thiếu biến ( một biến là GDP thuỷ sản chưa giải thích hết được sự biến động của GDP cả nước ). Các lỗi xuất hiện làm cho hàm hồi qui ở trên không có ý nghĩa thống kê . Như vậy ta đi đến kết luận là giữa GDP cả nước và GDP ngành thuỷ sản có mối tương quan rất chặt chẽ song giữa chúng không có mối quan hệ tuyến tính . + Hệ số co dãn đo tác động của tốc độ tăng trưởng ngành đến tốc độ tăng trưởng của nền Kinh tế quốc dân : Bảng 14 : Hệ số co dãn của GDP cả nước theo GDP của ngành thuỷ sản Năm Tốc độ tăng trưởng cả nước (%) Tốc độ tăng trưởng thuỷ sản (%) Hệ số co dãn 1995 9,54 8,18 1,16 1996 9,34 4,09 2,28 1997 8,15 0,97 8,40 1998 5,76 4,30 1,33 1999 4,77 3,80 1,25 2000 6,79 11,60 0,58 2001 6,89 10,60 0,65 2002 7,05 6,52 1,08 Bình quân giai đoạn 1995-2002 1,40 Kết quả tính toán cho thấy hệ số co dãn bình quân giai đoạn 1995-2002 của GDP cả nước theo GDP thuỷ sản là 1,4 . Con số này nói lên rằng trong giai đoạn đang xét, mỗi khi thuỷ sản tăng trưởng thêm được 1% thì tốc độ tăng trưởng cả nước tăng 1,4% . b. Tác động của sự phát triển thuỷ sản tới mức tiết kiệm- đầu tư : Để so sánh hiệu quả đầu tư của ngành thuỷ sản và của cả nền kinh tế ta dựa vào các dữ liệu đã biết ở trên để tính hệ số ICOR cho từng năm và cả giai đoạn 1995-2002 . Kết quả tính toán được thể hiện trên hai bảng sau : Bảng 15: Hệ số ICOR của cả nước Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Cả giai đoạn GDP hiện hành ( tỷ đồng) 228.892 272.036 313.623 361.016 399.942 444.139 485.109 538.000 3.042.757 Đầu tư phát triển (tỷ đồng) 72.474 87.394 108.370 117.134 131.170 147.633 163.500 180.400 1.008.075 Tốc độ tăng trưởng (%) 9,54 9,34 8,15 5,76 4,77 6,79 6,89 7,05 7,62 Ipt/ GDP 31,66 32,12 34,55 32,44 32,79 33,24 33,70 33,53 33,13 ICOR 3,31 3,43 4,23 5,63 6,87 4,89 4,89 4,75 4,34 Bảng 16 : Hệ số ICOR của ngành thuỷ sản Năm 1995 1996 1997 1998 1999 2000 2001 2002 Cả giai đoạn GDP hiện hành ( tỷ đồng) 6.664 9.771 10.130 11.598 12.651 14.906 16.645 20.340 102.705 Đầu tư phát triển (tỷ đồng) 532,3 627,7 1.036,9 1.747,2 2.913,2 3.715,5 5.013 5.870 21.455,8 Tốc độ tăng trưởng (%) 8,18 4,09 0,97 4,3 3,8 11,6 10,6 6,52 5,25 Ipt/ GDP 7,98 6,42 10,23 15,06 23,02 24,92 30,11 28,85 20,89 ICORts 0,97 1,57 10,55 3,50 6,05 2,14 2,84 4,42 3,97 Từ hai bảng trên ta nhận được kết qủa hệ số ICOR của cả nước và ngành thuỷ sản trong giai đoạn 1995-2002 tương ứng là các con số 4,43 và 3,97 . Những con số này nói lên rằng muốn GDP cả nước tăng thêm 1 đồng thì toàn nền kinh tế cần đầu tư thêm 4,43 đồng , còn muốn GDP của ngành thuỷ sản tăng thêm một đồng thì ngành chỉ cần đầu tư thêm 3,97 đồng nghĩa là chỉ bằng 90% so với cả nước . Như vậy các con số đã nói lên rằng hiệu quả đầu tư của ngành thuỷ sản cao hơn hiệu quả đầu tư chung của toàn nền kinh tế. Mặt khác theo nghiên cứu của Bộ Tài chính thì Việt Nam nên duy trì hệ số ICOR trong khoảng 3-4 là tốt nhất. Như vậy, hệ số ICOR của ngành thuỷ sản ở mức 3,97 như trên đã góp phần kéo hệ số ICOR của cả nước về mức chuẩn. c. Tác động của sự phát triển thuỷ sản tới thu nhập xuất nhập khẩu và phát triển thương mại quốc tế : Tương tự như khi đánh giá tác động của mức độ tác động của sự tăng trưởng Thuỷ sản đến tăng trưởng nền Kinh tế quốc dân ta cũng xem xét mối quan hệ giữa tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cả nước và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản . Kết quả như sau : Biểu 5 : Tương quan giữa tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cả nước và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản. Correlations 1.000 .337 . .310 11 11 .337 1.000 .310 . 11 11 Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N Pearson Correlation Sig. (2-tailed) N GROWEXTOTAL GROWEXFISH GROWEXTOTAL TO GROWEXFISH Như vậy hệ số tương quan bằng 0,337 đã nói lên rằng giữa giữa tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cả nước và tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản không có mối quan hệ tương quan đáng kể. Nghĩa là mức ảnh hưởng của tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu ngành thuỷ sản không có ảnh hưởng đáng kể tới giữa tốc độ tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu cả nước . Tiếp tục quá trình đánh giá tác động của sự phát triển thuỷ sản tới thu nhập xuất nhập khẩu ta thực hiện Hồi qui hàm : Yx = a + b.x Trong đó: x : tổng thu từ xuất khẩu của ngành Y : tổng thu từ xuất khẩu của cả nước Ta được kết quả như sau : Hình 4 : Đồ thị hàm Yx = a + b.x EX_TOTAL EX_FISH 3000 2000 1000 0 20000 10000 0 Observed Linear Biểu đồ 6 : Kết quả hồi quy hàm Yx = a + b.x Từ kết quả trên ta có những nhận xét sau : + Hệ số tương quan giữa kim ngạch xuất khẩu cả nước và kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản là 0,968 .Giá trị này cho biết rằng giữa kim ngạch xuất khẩu cả nước và kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản có mối quan hệ thuận khá chặt chẽ + Hàm hồi qui do SPSS ước lượngđược là EX_TOTAL = 946,128 + 8,516*EX_FISH . Hay Yx = 946,128 + 8,516.x Ta có thể giải thích hàm này như sau : mỗi khi ngành thuỷ sản tăng thêm được 1 đồng đôla xuất khẩu thì cả nước sẽ xuất khẩu thêm một lượng hàng hoá có giá trị 8,516 đôla . + Tuy nhiên thống kê Durbin- Watson cho kết quả 0,527 quá thấp ( chứng tỏ có hiện tượng tự tương quan) và hằng số trong hàm hồi quy không có ý nghĩa thống kê cho nên hàm hồi qui như trên không chấp nhận được . Như vậy ta có thể kết luận rằng tuy kim ngạch xuất khẩu cả nước và kim ngạch xuất khẩu thuỷ sản có mối tương quan rất tốt nhưng quan hệ giữa chúng không phải là hồi quy tuyến tính . Chương III : Kết quả nghiên cứu và giải pháp I. Kết quả nghiên cứu : Qua những phân tích và đánh giá định tính và định lượng ở trên chúng ta có thể rút ra những kết luận cơ bản sau : - Tác động của sự phát triển ngành thuỷ sản lên tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân về mặt lượng là không đáng kể , mà chủ yếu là về mặt chất. Đó là những đóng góp về chuyển dịch cơ cấu kinh tế, giải quyết công ăn việc làm và hiệu quả đầu tư. Những đóng góp này là quan trọng cho tăng trưởng của cả nước trong dài hạn. - Ngành thuỷ sản đã có những đóng góp vượt mức chỉ tiêu do nhà nước đặt ra cho ngành . - Ngành thuỷ sản chưa phát triển tương xứng với tiềm năng của nó . Xét trong từng khía cạnh của tăng trưởng kinh tế mà chúng ta đang nghiên cứu thì kết quả cụ thể như sau : 1. Về đầu tư phát triển : Hiệu quả đầu tư của ngành cao hơn hiệu quả đầu tư chung của cả nước . Điều này có thể được giải thích là vì chiếm giữ vai trò chủ đạo của ngành là khu vực kinh tế tư nhân mà thành phần chính là hộ gia đình và doanh nghiệp tư nhân .( Đầu tư của khu vực này chiếm trên 60% so với tổng đầu tư phát triển toàn ngành ). So với các khu vực khác thì khu vực tư nhân thường năng độngvà hiệu quả hơn. Mặt khác nó đặc biệt thích hợp với những đặc điểm kinh tế-xã hội nghề cá của Việt nam . Những lí do trên có thể giải thích tại sao hiệu quả đầu tư của ngành cao hơn hiệu quả đầu tư chung của cả nước . Tuy nhiên , đầu tư của ngành cũng còn nhiều bất cập . Đầu tư tư nhân thì tự phát, thiếu qui hoạch còn đầu tư nhà nước vừa thiếu vừa dàn trải, dẫn đến không hiệu quả . Điều này có thể dẫn đến những hạn chế nghiêm trọng cho sự phát triển của ngành trong giai đoạn tiếp theo . 2. Về thu nhập xuất khẩu và phát triển thương mại quốc tế : - Ngành đã có những đóng góp rất lớn về thu nhập ngoại tệ cho đất nước . Chiếm 1/10 tổng kim ngạch xuất khẩu cả nước. Tuy nhiên tốc độ tăng trưởng xuất khẩu của ngành không có ảnh hưởng đáng kể đến tốc độ tăng trưởng xuất khẩu chung của cả nước . Điều này cũng dễ hiểu bởi ngành thuỷ sản cũng chỉ là ngành mang tính chất nông nghiệp . Sản phẩm của nó có hàm lượng công nghệ và giá trị gia tăng thấp . Giá trị kim ngạch xuất khẩu cao chủ yếu là do tăng trưởng về số lượng chứ chưa phải là giá trị gia tăng ( Cơ cấu sản phẩm giá trị gia tăng chỉ là 35% ). Chưa có những thương hiệu lớn chiếm lĩnh thị trường thế giới. - Với lượng kim ngạch xuất khẩu mà ngành thuỷ sản đem lại, Việt Nam đã vươn lên đứng thứ 10 trong những nước xuất khẩu thuỷ sản lớn nhất thế giới . Tuy nhiên , thành tích này vẫn chưa tương xứng với tiềm năng của ngành . Có thể nói tiềm năng của ngành thuỷ sản Việt nam thuộc loại lớn nhất Đông Nam á song xuất khẩu thuỷ sản Việt Nam mới chỉ đứng thứ tư trong khu vực. Tỉ số giữa chiều dài Việt Nam là 0,016 gấp hơn 2 lần so với 0,0007 của Thái Lan nhưng giá trị xuất khẩu của Việt nam chỉ đứng thứ 4 so với vị trí thứ 2 của Thái Lan . - Đóng góp lớn nhất của ngành trong phát triển thương mại quốc tế là làm cho thế giới biết thêm về tiềm năng thương mại quốc tế của Việt Nam không chỉ là dầu thô,dệt may, gạo … mà Việt nam có thể trở thành bạn hàng lớn trên rất nhiều mặt hàng. 3. Về thu nhập quốc dân : - Mặc dù có những đóng góp rất lớn về huy động nguồn lực vào đầu tư, xóa đói giảm nghèo và đặc biệt là đem lại nhiều thu nhập ngoại tệ cho đất nước nhưng tác động của ngành đối với tăng trưởng kinh tế cả nước là không đáng kể. Có thể giải thích đơn giản là vì qui mô của ngành còn quá nhỏ qui mô toàn nền kinh tế ( GDP ngành chỉ xấp xỉ 3% GDP của toàn nền kinh tế ). - Tốc độ tăng trưởng ngành là tương đối cao nhưng vẫn chưa tương xứng với tiềm năng . Không xét trên phạm vi toàn nền kinh tế vì qui mô của ngành còn quá nhỏ nhưng xét trong pham vi ngành nông nghiệp thì tỷ trọng của ngành thuỷ sản tăng lên rất chậm . Làm cho cơ cấu của toàn ngành nông nghiệp chậm chuyển dịch . Tỷ trọng nông nghiệp thuần túy vẫn chiếm hơn 80% tổng giá trị gia tăng toàn ngành . - Sự phát triển là điều đáng mừng nhưng tăng trưởng quá nóng , tự phát và thiếu ổn định là điều đáng lo đối với ngành thuỷ sản . Sự phát triển ồ ạt , thiếu tính toán và quản lý nhà nước ngay từ đầu đã có những tác động tai hại đến môi trường cũng như những lãng phí về đầu tư . Cũng cần phải nói đến là lợi ích do tăng trưởng đem lại không được phân phối công bằng cho mọi nhân khẩu ngành .Bất bình đẳng có xu hướng tăng lên . Ngành giải quyết được rất nhiều sức ép giải quyết việc làm cho cả nước nhưng số lượng lao động hiện nay đã quá dư thừa . Điều này làm cho năng suất và hiệu quả của ngành có xu hướng giảm . Tóm lại, ngành đang ở trong thời kì phát triển tốt song trong quá trình phát triển đã phát sinh những tồn tại ảnh hưởng đến sự phát triển bền vững. II. Chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010. 1. Nhận thức và quan điểm phát triển thuỷ sản đến năm 2010. Quán triệt đường lối phát triển kinh tế xã hội của Đảng, trên tinh thần tiếp tục đẩy mạnh công cuộc đổi mới của đất nước, để góp phần thực hiện được các mục tiêu kinh tế- xã hội đề ra trong năm 2010, trong đó chỉ tiêu thu nhập bình quân đầu người dự kiến đạt 1.000 USD, đảm bảo cho ngành thuỷ sản hội nhập được với kinh tế khu vực và thế giới, ý thức được yêu cầu gắn kết giữa phát triển sản xuất đa dạng với bảo vệ chủ quyền vùng biển và an ninh quốc phòng, ngành thuỷ sản cần phát triển theo các quan điểm định hướng cơ bản sau đây: - Ngành thuỷ sản nước ta trong 15-20 năm nữa vẫn lấy xuất khẩu làm động lực phát triển, coi xuất khẩu là hướng phát triển mũi nhọn và ưu tiên số một, lấy các thị trường các nước có nền kinh tế phát triển cao( Bắc Mỹ, Nhật Bản, EU) và Trung Quốc (Bao gồm cả Hồng Kông) là các thị trường chính, đồng thời coi thị trường trong nước là một thị trường đang phát triển đầy tiềm năng với những đòi hỏi ngày càng cao về sự phong phú và chất lượng. - Phải coi phát triển kinh tế thuỷ sản là một trong những hướng đi chủ đạo của kinh tế biển và ven biển, là một trong những định hướng hiệu quả và nhiều triển vọng nhất của việc chuyển đổi cơ cấu kinh tế nông nghiệp và nông thôn, nhằm góp phần phát triển kinh tế- xã hội, cải thiện đời sống của cư dân và thay đổi bộ mặt của nông thôn, đặc biệt là các vùng ven biển theo hướng công nghiệp hoá, hiện đại hoá, tăng cường tiềm lực an ninh quốc phòng. - Phát triển kinh tế thuỷ sản phải dựa trên tiêu chuẩn cơ bản là hiệu quả và bền vững. Hiệu quả là động lực và thước đo cho sự phát triển. Hiệu quả được thể hiện ở mức độ lợi nhuận và tổng thu nhập trên một đơn vị đất đai canh tác thủy sản và trên một đồng vốn đầu tư, năng xuất lao động tính bằng giá trị. Sự bền vững phải được xem xét toàn diện trên mọi phương diện: Kinh tế (Giữ được hiệu quả kinh tế lâu dài); môi trường( Phù hợp với các điều kiện sinh thái, không gây ô nhiễm môi trường, không làm suy thoái các nguồn lợi tự nhiên) và xã hội (Không gây mâu thuẫn và tranh chấp, phải được đại bộ phận nhân dân đồng tình), kinh tế- xã hội (Thu hút chuyển giao công nghệ và vốn từ nước ngoài, đời sống vật chất và tinh thần của người dân ngày một được cải thiện hơn...). - Ngành kinh tế thuỷ sản chỉ có thể phát triển mạnh có hiệu quả, có khả năng cạnh tranh cao và bền vững trên cơ sở thực thi các chính sách đầu tư và quản lý đúng đắn phù hợp với các điều kiện và tính chất đặc thù của ngành đồng thời phát huy mạnh mẽ hiệu lực quản lý của nhà nước kết hợp với tính tích cực và sáng tạo của mọi tầng lớp nhân dân, mọi thành phần kinh tế tham gia và ngành thuỷ sản. Mọi chính sách và chiến lược phát triển ngành đều phải xuất phát từ những đánh giá về lợi thế so sánh và tiềm năng của đất nước. - Tạo điều kiện thuận lợi nhất để thu hút mọi thành phần kinh tế trong đó lấy kinh tế nhà nước làm bà đỡ cho quá trình phát triển, coi kinh tế tư nhân là lực lượng cơ bản, áp dụng những công nghệ thích hợp với trình độ của quan hệ sản xuất ấy, nhằm tạo nhiều việc làm, tăng thu nhập cho ngư dân và cho nền kinh tế quốc dân góp phần và công cuộc xoá đói giảm nghèo của đất nước. - Chuyển đổi cơ cấu kinh tế nghề cá trong mọi lĩnh vực khai thác, nuôi trồng, dịch vụ mạnh hơn nữa theo định hướng hướng mạnh vào xuất khầu, công nghiệp hoá, hiện đại hoá ngành thuỷ sản. - Để tiến đến một nghề cá hiện đại cần phát triển kinh tế thuỷ sản Việt Nam theo định hướng kết hợp kế hoạch hoá với thị trường, kết hợp giữa sự phát triển phù hợp với đặc thù sinh thái và kinh tế- xã hội của các vùng, các địa phương trên cơ sở lợi ích toàn cục trong các chương trình thống nhất. - Kết hợp tăng cường quản lý nghề cá theo những chiến lược quốc gia thông nhất với phi tập trung hoá việc quản lý nghề cá nhằm gắn bó chặt chẽ những ngư dân, những người nuôi trồng, những người trực tiếp hưởng lợi với các hành động quản lý, biến những người trực tiếp hưởng lợi trở thành những người chủ thực sự, có đầy đủ quyền lực và nghĩa vụ đối với những tài nguyên và nguồn lợi thuỷ sản. - Hội nhập với nghề cá thế giới và khu vực là định hướng tất yếu. Mọi luật lệ, các quy định và cách hành xử của nghề cá nước ta phải phù hợp với những công ước và luật pháp quốc tế và khu vực; mọi điều kiện sản xuất và kinh doanh như môi trường cho sản xuất và kinh doanh của ngành, các điều kiện vệ sinh và an toàn thực phẩm..., phải được cải thiện cho phù hợp và đáp ứng với những đòi hỏi của các thị trường. 2. Các mục tiêu của chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010. a. Mục tiêu tổng quát. Mục tiêu chiến lược vĩ mô quan trọng nhất là huy động tổng hợp mọi tiềm năng để có thể phát triển ngành thuỷ sản nhằm đóng góp có hiệu quả vào nền kinh tế quốc dân và nâng cao các điều kiện kinh tế xã hội của ngư dân. Cụ thể là: + Không ngừng tăng phần đóng góp của ngành thuỷ sản vào công cuộc phát triển kinh tế- xã hội đất nước bằng việc tăng cường xuất khẩu, gia tăng thu nhập ngoại tệ và nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế, giải quyết được nhiều công ăn việc làm và nâng cao thu nhập, mức sống của các cộng đồng dân cư sống dựa vào nghề cá. Trên cơ sở phát triển kinh tế biển và các vùng ven biển, hải đảo góp phần tích cực và thiết thực vào sự nghiệp bảo vệ an ninh và chủ quyền của tổ quốc. + Đóng góp tích cực vào đảm bảo an ninh thực phẩm quốc gia, nâng cao mức dinh dưỡng của nhân dân bằng cách góp phần tăng mức cung cấp sản phẩm thủy sản cho các thị trường trong nước và tạo điều kiện thuận lợi để người dân có thể tiếp cận được với mọi loại thực phẩm thuỷ sản. + Đưa ngành thuỷ sản trở thành một ngành kinh tế được công nghiệp hoá, hiện đại hoá có luận cứ khoa học chắc chắn cho phát triển và áp dụng công nghệ sản xuất hiện đại, tiên tiến và thích hợp, nhằm không những tạo ra hiệu quả kinh tế cao, phát huy những lợi thế so sánh mà còn góp phần đẩy mạnh quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. + Xây dựng một ngành thuỷ sản được quản lý tốt nhằm đạt được sự phát triển ổn định, bền vững cho hiện nay và trong tương lai. b. Các mục tiêu cụ thể: - Không tăng sản lượng khai thác nhiều trong thời kỳ 2000- 2010 giữ mức từ 1.200.000- 1.400.000 tấn/ năm (ở đây chỉ tính riêng cho khai thác cá, tôm, mực). Tăng nhanh sản lượng nuôi trồng thuỷ sản từ 10- 13 % /năm. - Kim ngạch xuất khẩu tăng với tốc độ trung bình khoảng từ 10-15%/ năm, trong đó giai đoạn 2000-2005 tăng khoảng 12-15%/ năm, giai đoạn 2005- 2010 là 10- 12%/ năm. Giá trị xuất khẩu tương ứng là 3,0- 3,5 tỷ USD năm 2005 và 4,5- 5 tỷ USD năm 2010. - Số lao động trực tiếp và phục vụ cho nghề cá tăng trung bình 2- 3%/ năm; 3.500.000 lao động (2000), 4.200.000 lao động (2005) và 4.700.000 lao động (2010). Trong đó lao động nuôi trồng thuỷ sản và lao động chế biến thuỷ sản tăng gấp 2 lần so với năm 2000. Lao động khai thác giảm nhẹ. III. Giải pháp cho sự phát triển bền vững và thực hiện chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010. Kết quả nghiên cứu đã làm sáng tỏ những tác động tích cực cũng như tiêu cực của ngành thuỷ sản đối với tăng trưởng kinh tế. Còn chiến lược phát triển thuỷ sản đến năm 2010 đưa ra những mục tiêu vĩ mô và vi mô cần phải thực hiện trong 10 năm tới. Sau đây là những giải pháp để phát huy những mặt tích cực và hạn chế những tiêu cực đó nhằm thực hiện thành công chiến lược phát triển đến năm 2010. 1. Tăng cường năng lực thể chế. - Xác định và thiết lập cơ sở và khuôn khổ pháp luật để quản lý sự phát triển nghề cá. Từng bước đưa sự phát triển ngành vào quĩ đạo, khắc phục tình trạng phát triển tự phát, manh mún đặc biệt ở các tiểu ngành và các lĩnh vực sản xuất kinh doanh. - Tăng cường năng lực hành chính của ngành từ trung ương đến địa phương. Củng cố một bước hệ thống quản lý nhằm phân cấp và nâng cao hiệu lực quảnlý trên các địa phương mà trước hết là các địa phương trọng điểm nghề cá. Tăng cường năng lực lập dự án và giải ngân để thực hiện các dự án phát triển các ngành lĩnh vực trọng điểm. Xây dựng các trung tâm dự báo nguồn lợi (Cả về nguồn lợi khai thác và nguồn lợi nuôi trồng), dự báo nhu cầu thị trường (trong nước và quốc tế) và khả năng nội lực để phát triển ngành thuỷ sản. 2. Chuyển đổi cơ cấu kinh tế : a. Phát triển công nghiệp thuỷ sản và công nghiệp hoá, hiện đại hóa ngành thuỷ sản : Khuyến khích đầu tư những ngành công nghiệp trọng yếu làm hạt nhân và điểm tựa cho các ngành công nghiệp yểm trợ cho nghề cá và là tiền đề cho đô thị hoá , công nghiệp hoá và hiện đại hóa các vùng nông thôn ven biển . Làm cho những ngành đó có được sự hấp dẫn để phát triển nhanh chóng thành những ngành có sức cạnh tranh cao. Có thể dùng các biện pháp chinh sách sau : bảo trợ cho công nghệ sản xuất trong nước về giống, thức ăn và công nghiệp yểm trợ cho nghề cá ( lưới , thiết bị nuôi ), hỗ trợ thuế, ưu đãi tín dụng , bảo hiểm, lập quĩ trợ giá , mở rộng thị trường, khu chế xuất thuỷ sản , khuyến khích mối liên kết giữa công ty mẹ và hệ thống các xí nghiệp vừa và nhỏ . b. Đầu tư hợp lý phát triển cơ cấu ngành thuỷ sản : -Theo mục tiêu chuyển dịch cơ cấu ngành cần đầu tư mạnh vào các ngành, các lĩnh vực kinh doanh mũi nhọn làm động cơ cho việc chuyển dịch; đầu tư hạn chế vào các lĩnh vực đã ở mức giới hạn không cần mở rộng về qui mô và chất lượng. Phải khai thác hiệu quả các nguồn vốn, quán triệt quan điểm “nguồn vốn trong nước là quyết định, nguồn vốn nước ngoài là quan trọng”. -Đầu tư vào khai thác xa bờ để chuyển dịch cơ cấu từ nghề lộng sang nghề khơi đồng thời đầu tư phát triển nuôi trồng thuỷ sản để nâng cao giá trị và sản lượng của ngành nuôi trồng bù đắp việc ổn định mức khai thác từ 1.200.000 đến 1.400.000 tấn của ngành khai thác đến năm 2010. Trong khai thác xa bờ cần đầu tư vốn kỹ thuật nhằm chuyển đổi cơ cấu tàu thuyền, cơ cấu ngư cụ đánh bắt; trong chế biến thuỷ sản nhấn mạnh đầu tư vào việc nghiên cứu và tạo giống; trong chế biến thuỷ sản đầu tư thay đổi dây chuyền sản xuất, hiện đai hoá công nghệ chế biến. 3. Phát huy sức mạnh của các thành phần kinh tế : -Tiếp tục xây dựng quan hệ sản xuất trong ngành thuỷ sản, phát triển nền kinh tế nhiều thành phần. Tạo điều kiện và sân chơi bình đẳng cho mọi thành phần kinh tế tham gia sản xuất kinh doanh hàng thuỷ sản, ở đây đặc biệt chú ý khuyến khích các dạng kinh tế trang trại và những chủ doanh nghiệp khai thác hải sản, các chủ tư nhân có qui mô lớn trong thương mại thuỷ sản như chủ nậu, chủ vựa. Đưa kinh doanh vào hệ thống kinh doanh hiện đại theo kiểu doanh nghiệp công nghiệp và thương mại. Xoá bỏ kiểu buôn bán qui mô nhỏ , phân tán như hiện nay . Tuy nhiên, hệ thống doanh nghiệp thương mại vừa và nhỏ tư nhân phù hợp với nghề cá đa loài và phân tán ở nước ta. Cần khuyến khích các tổ chức này hình thành ở mọi vùng nông thôn nghề cá ven biển . - Củng cố một số quốc doanh giữ vai trò chủ đạo trong dịch vụ công ích ; ứng dụng, chuyển giao công nghệ mới; đào tạo cán bộ và hướng dẫn các thành phần kinh tế khác hoạt động theo đúng đường lối của Đảng, chính sách của nhà nước; tạo điều kiện để hỗ trợ các thành phần kinh tế, bổ sung cho nhau cùng phát triển; khuyến khích phát triển hợp tác xã kiểu mới và các hình thức kinh tế hợp tác trong sản xuất kinh doanh thuỷ sản ( khai thác , nuôi trồng, chế biến, dịch vụ, thương mại …) . 4. Tổ chức triển khai quy hoạch : -Tổ chức triển khai quy hoạch sau khi qui hoạch tổng thể của ngành được Chính phủ thông qua, cần khẩn trương tiến hành chỉ đạo các địa phương rà soát qui hoạch của từng địa phương cho phù hợp với qui hoạch chung. - Để thống nhất sự phát triển ngành nuôi trồng thuỷ sản theo một qui hoạch chung với việc gìn giữ môi trường sinh thái bền vững , Bộ Thuỷ sản cần phối hợp với địa phương tổ chức xét duyệt dự án khả thi và các địa phương chịu trách nhiệm triển khai thực hiện dự án . 5. Huy động các nguồn vốn cho phát triển thuỷ sản : Đối với nguồn vốn trong nước : + Khuyến khích các thành phần kinh tế phát triển sản xuất-kinh doanh xuất nhập khẩu thuỷ sản để thúc đẩy và thu hút nguồn vốn đầu tư cho lĩnh vực này. +Xây dựng các chinh sách liên quan đến việc bảo lãnh tín dụng cho nuôi trồng thuỷ sản , lấy tài sản hình thành làm thế chấp và tín chấp cho vay lần đầu tạo vốn lưu động . + Tổ chức huy động vốn vay từ ngân hàng thông qua các trung gian đầu tư và người sản xuất kinh doanh thuỷ sản phải tiếp xúc với các nguồn vốn tín dụng một cách gián tiếp thông qua trung gian đầu tư. Theo hình thức này, ngân hàng có thể tham gia phối hợp cùng đầu tư hoặc cho các công ty lớn trong các thành phần kinh tế khác nhau vay những khoản tiền lớn để đầu tư vào các lĩnh vực thuỷ sản mà họ thấy có hiệu quả cao như xây dựng cơ sở hạ tầng cho các vùng nuôi tập trung, các khu công nghiệp sản xuất giống tập trung. Đến lượt mình các công ty trung gian sau khi đầu tư có thể dùng các hình thức cho vay bằng hiện vật, cho thuê hoặc bán trả chậm …cho người sản xuất kinh doanh thuỷ sản trực tiếp . + Nhà nước cần có những chính sách ưu đãi về vốn cho các khu vực còn gặp nhiều khó khăn như vùng ven biển, hải đảo, vùng giáp biên ; đầu tư mạnh vào các vùng trọng điểm nghề cá như đồng bằng sông Cửu Long, Nam Trung Bộ. Đối với nguồn vốn nước ngoài : + Cần hoàn thiện cơ sở đầu tư, các định chế quản lý, mở rộng các hoạt động tư vấn đầu tư, tạo môi trường hấp dẫn hơn, sớm xem xét và có quyết định hợp tác đầu tư khai thác, chế biến- dịch vụ và thương mại thuỷ sản với các nước . + Khẩn trương xây dựng một số khu kinh tế mở có quy chế riêng tại một số đảo hoặc vùng ven biển như khu chợ cá, dịch vụ thuỷ sản . + Xây dựng cơ chế khuyến khích đâù tư 100% vốn nước ngoài hoặc liên doanh, liên kết vào những lĩnh vực đòi hỏi công nghệ cao như : Chế biến, sản xuất giống, nuôi biển… 6. Tăng cường các nỗ lực về khoa học công nghệ cho phát triển ngành . - Trước mắt tập trung vào lựa chọn và du nhập các khoa học công nghệ tiên tiến của nước ngoài phù hợp với phát triển nghề cá nhất là sản xuất các mặt hàng thuỷ sản có giá trị thương mại cao, kỹ thuật khai thác hải sản xa bờ … Đầu tư nguồn lực trước hết cho công tác điều tra nguồn lợi thuỷ sản , nghiên cứu các vấn đề kinh tế- qui hoạch, quản lý nghề cá cho giai đoạn công nghiệp hoá, hiện đại hoá. - Chuyển giao nhanh chóng các tiến bộ khoa học kỹ thuật cho sản xuất. - Nâng cấp các cơ sở nghiên cứu, đào tạo trở thành các cơ sở có trang thiết bị hiện đại có đủ năng lực nghiên cứu giải quyết các vấn đề về công nghệ, về quản lý nguồn lợi, quản lý môi trường và an toàn vệ sinh. - Nghiên cứu, ứng dụng khoa học – công nghệ phải biết lựa chọn cho phù hợp với điều kiện thực tế từng địa phương trong từng vùng, phù hợp với trình độ sản xuất trong từng tiểu ngành, từng lĩnh vực sản xuất kinh doanh, mang tính thiết thực, xuất phát từ đòi hỏi của thực tế sản xuất và định hướng chuyển dịch cơ cấu ngành. Phải có sự kết hợp chặt chẽ, phối hợp đồng bộ giữa đơn vị thực hiện dự án (cơ quan ở địa phương) và cơ quan chuyển giao công nghệ nhằm đảm bảo thực hiện thành công dự án, đồng thời huy động được đội ngũ cán bộ khoa học – kỹ thuật của địa phương tham gia, tạo điều kiện để cán bộ địa phương tiếp cận với tiến bộ mới. Sự phối hợp đó là nòng cốt để đưa tiến bộ kỹ thuật vào thực tế cuộc sống và trở thành lực lượng sản xuất trực tiếp. Thấm nhuần tư tưởng chỉ đạo của Thủ tướng Chính Phủ trong việc liên kết hữu cơ “4 nhà” đó là nhà nông (nghề ruộng bao hàm cả ngành Thuỷ sản), nhà khoa học, nhà nước và nhà doanh nghiệp nhằm trực tiếp đột phá trong sản xuất kinh doanh ngành Thuỷ sản đặc biệt trong chuyển dịch cơ cấu ngành từ nay đến năm 2010. - Hoàn thành công nghệ và tăng trưởng năng lực các cơ sở sản xuất giống đặc biệt là tôm và các loài hải sản có giá trị. Dần dần đáp ứng nhu cầu cả nước về số lượng và chất lượng để phát triển ngành nuôi trồng Thuỷ sản nhằm đạt được mức chuyển dịch cơ cấu ngành. Mạnh dạn đầu tư đổi mới thiết bị, công nghệ các cơ sở chế biến, bảo quản sản phẩm Thuỷ sản, nâng cao chất lượng và tính cạnh tranh của sản phẩm. - Tiếp tục phát triển và ứng dụng công nghệ thông tin vào các lĩnh vực sản xuất, kinh doanh, quản lý…nhằm cung cấp kịp thời thông tin về biến động thị trường, từng bước khắc phục hiện tượng “thiếu thông tin” của người sản xuất. Tránh tình trạng sản xuất vượt quá nhu cầu dẫn đến phải chuyển đổi đối tượng nuôi trong nuôi trồng Thuỷ sản điều này rất lãng phí về mọi mặt từ vốn đầu tư đến đào tạo nguồn lao động để có thể nuôi được các loài thuỷ, hải sản khác. - Triển khai công nghệ - khoa học vào các ngành, lĩnh vực cần tốc độ tăng trưởng mạnh trong giai đoạn tới, như trong khai thác xa bờ, nuôi trồng Thuỷ sản, chế biến thuỷ sản. Từng bước hiện đại hoá cơ cấu tàu thuyền (về công suất máy và kỹ thuật đánh bắt), cơ cấu ngư cụ đánh bắt. Chính khoa học – công nghệ mới tạo ra những loại tàu có công suất lớn có khả năng đánh bắt xa bờ trong khoảng thời gian dài với các công cụ đánh bắt hiện đại tiên tiến. Đưa công nghệ đặc biệt là công nghệ sinh học vào vấn đề tạo giống và nhân giống các loài Thuỷ sản, hải sản có giá trị và có nhu cầu tiêu dùng cao. 7. Giải pháp về thị trường. - Trước hết phải nâng cao tính cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường về giá cả và chất lượng. Muốn vậy cần phát triển vùng nguyên liệu tập trung với qui mô hợp lý, đảm bảo đúng qui trình kỹ thuật sản xuất nhằm tạo ra nguyên liệu đồng đều với số lượng đủ lớn. Các cơ quan chức năng ở địa phương và trung ương cần có chiến lược nghiên cứu tìm hiểu, khai thác thị trường trong và ngoài nước để tiêu thụ sản phẩm hàng hoá cho ngư dân. Đồng thời chủ động hợp tác khuyến khích các tổ chức kinh tế tham gia vào việc thiết lập các mạng lưới thu mua rộng khắp nhằm thu mua trực tiếp từ ngư dân, bao tiêu được nhiều sản phẩm thuỷ sản hàng hoá đảm bảo chất lượng . Vì các sản phẩm thuỷ sản có đặc tính mau ươn chóng thối cộng thêm khí hậu nhiệt đới ẩm của Việt Nam . Cần đầu tư phát triển các cơ sở chế biến với công nghệ tiên tiến để tạo ra những sản phẩm có giá trị đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của thị trường . Trong việc phát triển nuôi trồng thuỷ sản cần nắm bắt rõ thị trường và những đòi hỏi thực sự của thị trường để không xảy ra các trường hợp không chấp nhận , trả lại sản phẩm khi hàng đã xuất sang các nước . - Mở rộng phát triển thị trường cả trong nước và nước ngoài tận dụng vị trí tối đa của vùng ven biển, thế mạnh của sản phẩm thuỷ sản để tăng cường giao lưu kinh tế . ổn định thị trường truyền thống , thúc đẩy mở rộng thị trường tiềm năng lớn như EU, Bắc Mỹ, Trung Quốc; tìm cách xâm nhập các thị trường mới như Trung và Nam Phi, các nước ARập …Tìm kiếm lợi thế cạnh tranh trên thị trường cho từng loại mặt hàng, lợi dụng đồng bộ các yếu tố địa lý, thương mại, ngoại giao, truyền thống …Tuy nhiên phải chọn yếu tố chất lượng giá cả làm lợi thế cạnh tranh là chủ yếu. Tìm hiểu rõ thị trường về đối tượng mặt hàng sản phẩm thuỷ sản để xem xét đánh giá nếu nguồn khai thác đã cạn kiệt, sản lượng khai thác giảm mà nhu cầu thị trường lớn thì phải đẩy mạnh nuôi trồng thuỷ sản cả trong việc nghiên cứu tạo giống và nâng cao sản lượng. - Từng bước cơ cấu lại các doanh nghiệp để phân lập các doanh nghiệp có đủ khả năng tham gia vào thị trường Thuỷ sản, sự hạn chế chỉ tham gia vào “thị trường” Thuỷ sản phải diễn ra trong một thời gian biểu nhất định. Kiên quyết dẹp bỏ những xí nghiệp làm ăn thua lỗ triền miên khó có khả năng khôi phục để tạo ra điều kiện cho sự phát triển và cạnh tranh lành mạnh. Cần đầu tư phát triển các doanh nghiệp nhằm tạo ra sự phát triển trong các ngành mũi nhọn, mặt hàng mũi nhọn trong xuất khẩu. - Tăng cường công tác tiếp thị, triển lãm nhằm quảng bá các sản phẩm có khả năng xuất khẩu của ngành. Xúc tiến nghiên cứu tiến tới đăng ký thương hiệu sản phẩm trên trường quốc tế. Tạo dựng và duy trì trạng thái thị trường có lợi cho ngành Thuỷ sản bảo đảm tính hiệu suất của việc phân phối vốn, đất đai: ví dụ chính sách sử dụng đất đai lâu dài, chính sách hình thành trang trại lớn chấp nhận hình thành chủ trang trại và công nhân làm thuê trong vùng nông thôn ven biển. Nên hạn chế quá nhiều người có thể tham gia vào phát triển nghề cá mà phát triển doanh nghiệp có trọng điểm nhằm không những phát triển bền vững mà còn đảm bảo sự phát triển có hiệu quả cao của các doanh nghiệp. Cũng tương tự như trong nuôi trồng thuỷ sản: không ưu tiên phát triển manh mún, trong chế biến Thuỷ sản không nên phát triển dàn trải. 8. Giải pháp về đào tạo nguồn nhân lực. - Muốn đạt được mục tiêu chuyển dịch cơ cấu đã đặt ra thì nguồn nhân lực để phát triển các ngành, các lĩnh vực trọng tâm cần được đào tạo để đáp ứng nhu cầu. Thực trạng hiện nay hầu hết các tỉnh vùng hay cả nước đều thiếu cán bộ kỹ thuật có trình độ để trực tiếp chỉ đạo sản xuất, nhất là ngành nuôi trồng Thuỷ sản. Bởi vậy, cần có những chế độ đãi ngộ cụ thể để thu hút cán bộ kĩ thuật vào ngành Thuỷ sản, tham gia trực tiếp vào quá trình sản xuất, kinh doanh. Đầu tư cho công tác đào tạo cán bộ địa phương ven biển và bồi dưỡng, đào tạo lại đội ngũ cán bộ hiện có (để cập nhật những tiến bộ mới) vừa thiết thực lại dễ bố trí ổn định cuộc sống. Để có thể chuyển dịch cơ cấu từ khai thác gần bờ sang khai thác xa bờ và nuôi trồng thuỷ sản, vấn đề đào tạo nguồn nhân lực là rất quan trọng. Phải đào tạo trình độ chuyên môn, kĩ thuật tay nghề cho đội ngũ lao động dư thừa trong khai thác hải sản gần bờ để họ có khả năng chuyển đổi sang xa bờ hoặc phát triển nghề nuôi biển. Không chỉ vậy, ở đây còn phải có những chính sách về vốn để phát triển sản xuất ở các lĩnh vực, nghề mới. - Muốn nguồn nhân lực trong ngành Thuỷ sản về lâu dài có chất lượng cao phải đưa ra các chương trình đào tạo dài hạn bằng việc nâng cao trình độ văn hoá cho người dân ven biển. Đây không chỉ là nhiệm vụ trong chiến lược phát triển ngành Thuỷ sản mà còn là chiến lược phát triển nền kinh tế từ nay đến năm 2002. Đào tạo nguồn nhân lực gắn với việc giáo dục không những thông tin về nguồn lợi Thuỷ sản, khả năng khai thác hiện đại…để từ đó tạo ra xu thế chuyển dịch cơ cấu ngành xuất phát từ từng hộ ngư dân, người lao động. Ngoài ra, Bộ Thuỷ sản và nhà nước cần kết hợp triển khai hệ thống các giải pháp khác để đưa ra các ngành, các lĩnh vực sản xuất tập trung phát triển theo đúng nhu cầu phát triển của nó trong thời kỳ hội nhập hiện nay. Kết luận Q ua quá trình nghiên cứu đề tài gồm 3 chương, những tác động tích cực và tiêu cực đã đượcphân tích rõ để chúng ta có một đánh giá chân thực và toàn diện hơn về tác động của sự phát triển thuỷ sản tới tăng trưởng của nền kinh tế quốc dân Việt nam. Đồng thời xuất phát từ kết quả nghiên cứu kết hợp với định hướng, mục tiêu chiến lược cho 10 năm tới mà nhà nước giao cho ngành thực hiện, đề tài cũng đã đề xuất các giải pháp để giải quyết vấn đề. Các giải pháp này mang tính chất là các giải pháp lớn để từ đó có thể triển khai cụ thể hơn. Nếu các giải pháp này được thực thi một cách đồng bộ thì những định hướng và mục tiêu chiến lược cho 10 năm tới chắc chắn sẽ đạt được. Trong tình hình phát triển chứa đựng nhiều yếu tố bất ổn của ngành như hiện nay thì thực hiện những giải pháp đã nêu là hết sức cần thiết và cấp bách để ngành phát triển theo đúng quĩ đạo tiếp tục là ngành kinh tế mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dân . Đó cũng là ý kiến chỉ đạo của thủ tướng Phan Văn Khải trong hội nghị tổng kết tỡnh hỡnh thực hiện kế hoạch năm 2002 và bàn cỏc chỉ tiờu, biện phỏp hoàn thành kế hoạch năm 2003 do Bộ Thuỷ sản tổ chức tại Hà Nội vào tháng 1/2003 : “Với kim ngạch xuất khẩu hơn 2 tỷ USD trong năm 2002, ngành thuỷ sản đang khẳng định vị trớ mũi nhọn trong nền kinh tế quốc dõn. Sắp tới, bộ cần chỉ đạo cỏc đơn vị thành viờn tiếp tục đẩy mạnh sản xuất, tăng cường tớnh cạnh tranh cho sản phẩm theo hướng thật quyết liệt và cụ thể, đảm bảo hiệu quả kinh tế – xã hội và bảo vệ môi trường”. Danh mục tài liệu tham khảo Tạp chí : 1. TS.Hà Xuân Thông , “ Thủy sản : lợi thế, định hướng và cơ hội cho một thời kỳ phát triển”, Tạp chí Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 291 /2002. 2. TS.Nguyễn Quang Thái, “ Đầu tư và hiệu quả đầu tư những năm 1995-2001”, Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế số 286 /2002. Sách : 1. TS.Hà Xuân Thông : “Cơ sở lý luận của việc chuyển dịch cơ cấu kinh tế trong ngành thuỷ sản” , Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản- 2000. 2. TS.Hà Xuân Thông :” Tổng quan về ảnh hưởng của quá trình đổi mới lên sự phát triển của ngành thuỷ sản Việt nam” , Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản – Hà nội 5/1998. 3. Kĩ sư. Lê Xuân Nhật : “Đánh giá tác động của khoa học công nghệ cho tăng trưởng kinh tế trong chế biến thuỷ sản xuất khẩu”, Hà nội- 2/2003 4. Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản: “ Dự thảo Qui hoạch tổng thể ngành thuỷ sản đến năm 2010”- Hà nội 4/2002 5. Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản : “Chương trình khai thác hải sản xa bờ thời kỳ 2002-2010”– Hà nội 5/2002. 6. Viện kinh tế và qui hoạch thuỷ sản : “Báo cáo tổng kết ngành thuỷ sản giai đoạn 1991-2002”. 7. Báo cáo cuối cùng : “Đánh giá tác động môi trường phục vụ qui hoạch nuôi trồng thuỷ sản giai đoạn 2002- 2010”, Hợp tác giữa Bộ Thuỷ sản và DANIDA tháng 9/1996 . 8. Báo cáo cuối cùng :“ Đánh giá địa lý, xã hội và KT-XH của ngành thuỷ sản Việt nam”, Hợp tác giữa Bộ Thuỷ sản và DANIDA tháng 9/1996 . 9. Báo cáo cuối cùng : “ Về kỹ thuật tài chính và kinh tế ngành khai thác và nuôi trồng thuỷ sản Việt nam ”, Hợp tác giữa Bộ Thuỷ sản và DANIDA tháng 9/1996 . 10. PGS.TS. Nguyễn Công Diệm, “Đổi mới chính sách tài chính phục vụ Công nghiệp hoá- hiện đại hoá”, năm 1998. 11. Kinh tế Việt nam đổi mới, những phân tích và đánh giá quan trọng, NXB Thống kê Hà nội 2002. 12. Niên giám thống kê 1999, 2000, 2001. 13. Giáo trình Kinh tế phát triển tập I và II – NXB Thống Kê 2000 14. Giáo trình Dự báo phát triển kinh tế-xã hội – Khoa Kinh tế và Phát triển –Hà nội 2002 . 15. Bài giảng kinh tế lượng , trường Đại học KTQD, NXB Thống kê 2/2001. 16. ứng dụng SPSS for Windows để xử lý và phân tích dữ liệu nghiên cứu, NXB Khoa học và kỹ thuật 1997. Mục lục Trang Lời cam đoan Tôi xin cam đoan, luận văn này là do tôi tự tìm hiểu và nghiên cứu độc lập, không có sự sao chép các bài viết và đề tài nghiên cứu của các cơ quan, tổ chức và các cá nhân khác. Tôi xin chịu hoàn toàn trách nhiệm về lời cam đoan này. Sinh viên Nguyễn Thành Nam

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc37002.doc
Tài liệu liên quan