Luận văn Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty Phát triển xuất nhập khẩu và Đầu tư VIEXIM

Đầu tư phát triển là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư phát triển đúng hướng và có hiệu quả sẽ tạo ra năng lực mới làm chuyển đổi cơ cấu các thành phần kinh tế, các vùng và các lãnh thổ theo hương CNH-HĐH đất nước. Với ý nghĩa và tầm quan trọng này trong 10 năm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1991-2000 Đảng và Nhà nước ta đã tập trung chỉ đại ưu tiên giành nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tăng nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật Có thể nói mỗi doanh nghiệp bước vào nền kinh tế thị trường và hội nhập với nền kinh tế đều cảm nhận ngay được áp lực ngày càng lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó doanh nghiệp muốn tồn tại phải tiến hành đầu tư. Cùng với xu hướng đó trong thời gian qua Công ty Xuất nhập khẩu và đầu tư VIEXIM đã không ngừng cố gắng đẩy mạnh hoạt động đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy kết quả đạt được còn khiêm tốn nhưng đã góp phần vào sự phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động, góp phần thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên so với yêu cầu đòi hỏi lớn trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế thì Công ty cần phải cố gắng khắc phục những bất hợp lý còn tồn tạiđể đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước và nước ngoài.

doc90 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1415 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Đầu tư nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty Phát triển xuất nhập khẩu và Đầu tư VIEXIM, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ài vào trong Công ty. Là một doanh nghiệp Nhà nước Công ty thực hiện đầy đủ nghĩa vụ chế độ bảo hiểm đối với các thành viên trong Công ty và nhiều khi khuyến khích nhân viên bằng lương. Lương bình quân các nhân viên Công ty theo bảng sau: Bảng 11: Tiền lương của nhân viên trong công ty Đơn vị: triệu đồng Năm 1997 1998 1999 2000 2001 Thu nhập bình quân 0,85 1 1,05 1,1 1,15 Nguồn: Báo cáo tình hình nguồn lương của Công ty VIEXIM Như vậy, so với nhiều doanh nghiệp khác thì lương bình quân tương đối cao. Tuy nhiên, do vai trò nguồn nhân lực trong quá trình sản xuất tạo ra sản phẩm mới thì đây là vấn đề đáng quan tâm của Công ty, làm sao nâng cao chất lượng lao động, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường. 3. Hoạt động đầu tư vào hàng dự trữ. Đối với một doanh nghiệp có chức năng nhập khẩu lắp ráp linh kiện xe máy như Công ty VIEXIM thì việc bảo quản hàng hoá trong kho là điều kiện quan trọng có tác dụng trực tiếp đến hoạt động xuất bán. Việc mất mát, suy giảm chất lượng sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến chất lượng sản phẩm. Vì vậy, việc bảo quản hàng hoá trong kho là việc cần thiết của Công ty đặc biệt là hàng hoá nhập khẩu về mà chưa lắp ráp tiêu thụ ngay. Chính vì thế, Công ty đã chú trọng đến công tác này tại các xưởng ở xí nghiệp lắp ráp( thuê của nhà máy xe lửa Gia Lâm) gồm có 2 xưởng: Xưởng 1: 650m2 Xưởng 2: 55 m 2. Kho : 1000 m2. Qua mỗi đợt hàng Công ty đều tiến hành kiểm tra xác định lượng đặt hàng tại thời điểm đáp ứng nhu cầu của khách hàng bao nhiêu là tối ưu, để từ đó xác định được số lượng sản phẩm lắp ráp tránh tình trạng đặt hàng quá nhiều gây ứ đọng nguồn vốn. Bảng 12: Số lượng hàng dự trữ năm 2001 STT Chỉ tiêu Đơn vị Tổng số 1 Sl nhập khẩu Bộ Linh kiện 71.000 2 Nửa thành phẩm Xe 2.250 3 Thành phẩm Xe 3.325 Như vậy hàng năm sản phẩm tồn kho tương đối lớn, tuy nhiên hoạt động đầu tư này đã có tác dụng điều hoà.Trong thời điểmkhi thị trường có những biến động trong mức bán ra, mức bán ra thấp doanh nghiệp sản xuất nhiều hơn mức bán ra và chuyển hàng dôi ra thành hàng tồn kho. Khi mức bán ra cao, doanh nghiệp sản xuất ít hơn mức bán ra và bù đắp phần hàng hoá thiếu hụt bằng hàng tồn kho. Bên cạnh đó việc dự trữ hàng tồn kho giúp doanh nghiệp hoạt động hiệu quả hơn như việc doanh nghiệp có đủ các sản phẩm mẫu tại các cửa hàng để chào hàng đáp ứng yêu cầu của khách hàng, có điều kiện bổ sung nguồn hàng khi mức tiêu thụ đột ngột tăng lên. Như vậy, đầu tư vào hàng dự trữ sẽ tạo điều kiện cho các doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh một cách thuận lợi. IV.Đánh giá kết quả hoạt động đầu tư và khả năng cạnh tranh của Công ty xuất nhập khẩu và đầu tư VIEXIM. 1. Một số thuận lợi. Qua các năm hoạt động Công ty đã chứng tỏ khả năng hoạt động kinh doanh của mình được thể hiện qua các thành tích sau: -Là một doanh nghiệp Nhà nước được tiếp nhận về sở thương mại của UBND TP Hà Nội và được xếp hạng là doanh nghiệp loại 1. - Công ty có một vị trí khá ổn định trên thị trường. - Công ty có một mạng lưới phân bố rộng rãi. - Có quan hệ tốt đẹp với các đối tác cung cấp nhập khẩu linh kiện xe máy Trung Quốc. - Hoạt động sản xuất kinh doanh trong thời gian qua có hiệu quả cao. - Tổ chức tiến hành sản xuất với quy trình công nghệ khoa học, đảm bảo phục vụ tốt nhu cầu sản xuất kinh doanh đáp ứng nhu cầu người tiêu dùng. Chất lượng sản phẩm của Công ty được người tiêu dùng tín nhiệm và ưa dùng, đa dạng về chủng loại. - Công tác quản lý chất lượng chặt chẽ, tỷ lệ sai hỏng các sản phẩm xe máy ngày càng giảm. - Đội ngũ cán bộ công nhân trình độ ngày càng nâng cao. - Đạt nhiều thành tích: đạt cúp sen vàng vì là đơn vị dẫn đầu chỉ tiêu sử dụng lao động kinh doanh xuất nhập khẩu. Huy chương vàng xe gắn máy hiệu DRAGON 2000, tặng bằng khen sản phẩm được người tiêu dùng ưa thích; sở thương mại tặng giấy khen năm 2001 vì có thành tích trong sản xuất kinh doanh.Toàn bộ những kết quả đạt được của Công ty trong thời gian qua đã tạo đièu kiện cho Công ty có khả năng cạnh tranh trên thị trường, đánh bật các đối thủ khác kết quả của đầu tư được thực hiện tổng hợp qua bảng số liệu sau Bảng 11: Kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty (Đơn vị triệu đồng) Stt Chỉ tiêu 1997 1998 1999 2000 2001 1 Doanh thu 33.671 16.894 20.000 176.157 168.000 2 Lợi nhuận 301 686 242 2.596 1.800 3 Nộp ngân sách 12.367 14.434 7.647 76.805 35.572 4 Kim ngạch nhập khẩu (triệu USD) 2,3 4,2 4,799 8,397 10,089 5 Mức thu nhập bình quân 0,85 1,00 1,05 1,1 1,15 6 Thị phần 2 3,5 2,75 5,01 4,82 7 Số vòng quay vốn sản xuất kinh doanh 4,72 4,85 5,7 9,78 9,33 8 Số vòng quay của vốn lưu động 19,27 23,2 25,29 30,5 28,2 9 Doanh lợi/Vốn sản xuất kinh doanh 0,06 0,95 0,92 1,18 0,98 Nguồn: Báo cáo tổng kết hoạt động cuối năm của Công ty Quá trình đầu tư của Công ty đã tạo ra kết quả đáng mừng thể hiện rõ nhất vào năm 2000 với lợi nhuận2.598 triệu VND tăng 972% so với năm 1999, Điều này đông nghĩa với doanh thu tăngnăm 1999 chỉ có20.000 triệu VND đến năm 2000 doanh thu đạt 176.157 triệu VND tăng 781%, số vòng quay của vốn sản xuất kinh doanh từ năm 1997 đến năm 1999 có giảm song không đáng kể nổi bật nhất là sự tăng của vốn sản xuất kinh doanh năm 2000 đạt 9,78 tăng so với năm gần nó năm 1999 là 4,06 vòng, gấp 2,07 lần so với năm 1997 các chỉ tiêu khác đều tăng mạnh vào năm 2000 và có chiều hướng giảm vào năm 2001. Cũng chính vì năm 2000 công ty đã xác định cho mình một phương hưóng đầu tư đúng đắn và thu được lợi nhuận cao. Tuy rằng vào năm 2001 các chỉ tiêu tài chính không gia tăng song đây là sự chững lại do một phần tác động cuả yếu tố bên ngoài như những quy định của nhà nước về mặt hàng xe máy và những nguyên nhân từ trong doanh nghiệp để chuẩn bị cho một công cuộc đầu tư mới. Tuy nhiên bên cạnh những thành tích và thế mạnh trên đã làm tăng uy tín của Công ty trên thị trường, Công ty còn có những khó khăn nhất định. 2. Một số khó khăn của Công ty. - Hoạt động mạng lưới đại lý hiệu quả còn chưa cao. - Khả năng tiếp nhận thông tin phản hồi trên thị trường kém. Do Công ty VIEXIM là doanh nghiệp hoạt động thiên về thương mại nhiều hơn nên nguồn vốn huy động trong Công ty lớn. Chính vì thế, việc sử dụng hiệu quả nguồn vốn và vấn đề huy động về nguồn vốn vẫn đang là vấn đề cần giải quyết trong Công ty. - Mạng lưới tiêu thụ sản phẩm. Tuy rộng xong sự phối hợp giữa Công ty, các chi nhánh , các đại lý chưa chặt chẽ, chưa có hiệu quả. Công ty chưa chủ động trong công tác tiêu thụ mà vẫn chờ khách hàng đến nhiều hơn là tìm đến khách hàng. Điều này chứng tỏ Công ty không chú trọng tới nghiên cứu thị trường, xúc tiến bán hàng, yếu kém trong chính sách sản phẩm, chính sách giá cả và chính sách cạnh tranh. Mạng lưới tiêu thụ ảnh hưởng tới khả năng tiêu thụ sản phẩm của Công ty, chính vì sự yếu kém này dẫn tới có lúc Công ty phải ngừng lắp ráp, công suất không sử dụng hết. Xưởng lắp ráp ngừng hoạt động ảnh hưởng tới việc làm của người lao động và doanh thu của Công ty. - Hoạt động xúc tiến khuếch trương. Các hoạt động xúc tiến khuyếch trương của Công ty kể cả chi phí lẫn hiệu quả khó có thể so sánh với các hãng khác có vốn đầu tư nước ngoài cũng như các hãng có tiếng trên thị trường như Honda, Suzuki, Yamaha, Vimep…các hãng này là những hãng nổi tiếng, nhiều kinh nghiệm với chương trình quảng cáo rầm rộ giới thiệu sản phẩm của mình đã được sự chú ý của khách hàng tới sản phẩm đó. Quảng cáo được thực hiện trên các phương tiện thông tin đại chúng như TV, báo, đài, pano…tiến hành khuyến mại sản phẩm kèm theo. Chi phí cho các hoạt động quảng cáo các hãng này chiếm khoảng 2% doanh thu mỗi năm vì vậy so với các hãng trên Công ty vẫn chưa có chính sách quảng cáo rộng rãi. Các hoạt động quảng cáo của Công ty trên báo, băng rôn chưa gây được sự chú ý của đông đảo khách hàng. Việc thu thập thông tin kém về thị trường và đối thủ cạnh tranh dẫn tới việc Công ty dần mất khách hàng truyền thống. - Cơ sở vật chất kỹ thuật. Đầu tư vào cơ sở vật chất, thiết bị,máy móc, công nghệ với tiến độ chậm.ít chú ý tới việc nghiên cứu công nghệ, dây truyền lắp ráp từ đó dẫn tới đầu tư không đúng hướng, đầu tư mỏng,dàn trải, hầu hết đầu tư qua các năm chú trọng vào điều kiện làm việc cho công nhân viên. Việc chuẩn bị vật tư, thiết bị,linh kiện cho hoạt động lắp ráp có khi không đúng tiến độ do từ phía các đối tác như hàng về chậm. Các cơ sở vật chất tài sản cố định của Công ty là thuê 100%, với 2 xưởng lắp ráp ở Gia Lâm và khu trụ sở chính ở 34 Lý Nam Đế. Do đó hàng năm chi phí cho tiền thuê nhà cửa, kho tàng chiếm phần lớn chi phí của hoạt động sản xuất kinh doanh, ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh của Công ty. - Vấn đề quản lý hàng dự trữ. Quá trình quản lý hàng dự trữ có nhiều thiếu sót. Việc tiếp nhận và bảo quản linh kiện xe máy nhập khẩu còn có nhiều thiếu hụt, mất mát, nhiều khi còn làm ảnh hưởng tới chất lượng hàng nhập khẩu, chi phí đầu tư cho hàng dự trữ hàng năm chủ yếu tập trung vào thuê nhà cửa, kho hàng, do đó vấn đề dự trữ chưa được quan tâm đúng mức mặc dù đây là doanh nghiệp hoạt động sản xuất kinh doanh mang tính chất thương mại là chủ yếu. Như vậy, Công ty cần phải khắc phục điểm yếu này- nguồn nhân lực. Cán bộ quản lý, công nhân của Công ty hầu hết là có tuổi nghề thấp, lực lượng kỹ thuật thiếu , dàn trải. Tính kỹ luật và tinh thần trách nhiệm của lực lượng kỹ thuật chưa đáp ứng được với nhu cầu mở rộng kinh doanh của Công ty. Trình độ của cán bộ Công ty còn hạn chế, chưa có tầm nhìn xa chỉ bó hẹp trong trách nhiệm được giao. Bên cạnh đó Công ty cũng chưa có chiến lược đào tạo cũng như các chương trình đào tạo nhằm nâng cao kiến thức về kỹ thuật, marketing cho đội ngũ kinh doanh. Lực lượng và trình độ đội ngũ cán bộ công nhân viên đặc biệt ở một số khâu then chốt như kinh doanh tiếp thị, kỹ thuật còn mỏng. Tâm lý đội ngũ bán hàng chưa năng động vẫn mang tư tưởng thời bao cấp , thụ động trong cạnh tranh, chưa đặt khách hàng đúng vị trí của nó. Các nhân viên thụ động trong tiếp nhận thông tin từ bên ngoài, tuy rằng Công ty cũng có hệ thống truy cập thông tin bên ngoài qua Internet. Tất cả những nguyên nhân trên ảnh hưởng đến khả năng cạnh tranh của doanh nghiệp, giảm thị phần của doanh nghiệp trên thị trường. Để khắc phục tình trạng trên vấn đề ở đây phải giải quyết như thế nào chương III sẽ đề cập đến vấn đề này. Chương III Một số giải pháp đầu tư nhằm nâng cao sức cạnh tranh trong Công ty phát triển xuất nhập khẩu và đầu tư VIEXIM. I. Định hướng phát triển của Công ty. 1. Mục tiêu của Công ty. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường buộc các doanh nghiệp phải cạnh tranh. Nó như một quy luật chọn lọc mà ở đó những kẻ mạnh mới chiến thắng. Những doanh nghiệp nào có định hướng đúng đắn, nắm bắt được cơ hội kinh doanh thì mới tồn tại và phát triển và ngược lại. Như các doanh nghiệp khác Công ty VIEXIM cũng theo đuổi mục tiêu lợi nhuận, vị thế, an toàn, thị trường, thế lực, quan hệ, uy tín… cụ thể như sau: *Về lợi nhuận: Lợi nhuận là mục tiêu hàng đầu của Công ty, trong thời gian 5 năm tới Công ty đặt ra mục tiều phấn đấu nâng mức lợi nhuận. Mức lợi nhuận dự kiến cua Công ty đạt được vào năm 2006 là 10 tỷ VND. Trong đó lợi nhuận từ kinh doanh nhập khẩu linh kiện xe máy là 7,4 tỷ VND, lợi nhuận từ hoạt động liên doanh là 1,6 tỷ VND. Để đạt được mức lợi nhuận như đã đề ra thì trung bình hàng năm mức lợi nhuận bình quân của Công ty phải đạt được khoảng 1,3 tỷ VND. Trong những năm tới Công ty cần phải đẩy mạnh các hoạt động sản xuất kinh doanh, tăng doanh thu, mở rộng thị trường, giảm các chi phí bất hợp lý. *Về thị trường. Trong thời gian tới bên cạnh các mục tiêu về lợi nhuận thì Công ty cũng phải phấn đấu đạt mục tiêu về thị trường. Hiện tại thị trường nhập khẩu của Công ty là từ Trung Quốc, trước đó là từ Nhật Bản, Hàn Quốc, Thái Lan, Lào. Mục tiêu của Công ty là tiếp tục giữ mối quan hệ với các thị trường trên, ngoài ta Công ty còn hướng tới một số thị trường nhập khẩu khác như Đài Loan, Liên Bang Nga, Các nước SNG, Italia. Việc mở rộng thị trường nhập khẩu sang các nước khác giúp công ty không bị động trong việc tìm kiếm nguồn cung ứng, hơn nữa Công ty còn có thể đa dạng hoá các sản phẩm của mình. Thị trường tiêu thụ sản phẩm trong nước của Công ty hiện nay chủ yếu là các tỉnh thuộc khu vực phía Nam như TPHCM, Bình Dương, Đồng Tháp…Trong thời gian tới Công ty tìm kiếm nguồn tiêu thụ sản phẩm của mình tại các tỉnh miền Bắc và miền Trung, tiến hành cải tạo các chi nhánh, cửa hàng vốn có tại các tỉnh thành phố như Lạng Sơn, Thái Nguyên, Quảng Ninh, Quảng Bình, Đắc Lắc, và mở thêm một số cửa hàng mới. *Vị thế của Công ty. Vị thế, danh tiếng của Công ty được phấn đấu nâng lên trong thời gian tới. Hiện nay Công ty là thành viên của hiệp hội xe đạp, xe máy Việt Nam là một trong 56 đơn vị lắp ráp xe máy, ô tô trong cả nước. Trong thời gian tới Công ty phấn đấu để trở thành một trong 20 Công ty đứng đầu trong lĩnh vực nhập khẩu linh kiện xe máy trong nước. Công ty dự kiến sẽ nâng cấp, đầu tư thêm vào hệ thống dây truyền lắp ráp xe máy nhằm trở thành một trong những đơn vị có dây truyền lắp ráp hiện đại trong nước. Công ty phấn đấu để sản phẩm của mình được biết đến trên toàn quốc, danh tiếng của Công ty không ngừng nâng cao. Uy tín của Công ty ngày càng lớn, và Công ty sẽ chiếm một vai trò quan trọng trong việc cung cấp sản phẩm xe máy. 2. Phương hướng hoạt động của Công ty. Trước tình hình kinh doanh hiện nay, Công ty đưa ra một số phương hướng kinh doanh trong thời gian tới nhằm có thể giành được ưu thế trong cuộc cạnh tranh ngày càng khốc liệt trên thị trường xe máy. - Kinh doanh nhập khẩu và khai thác thị trường xe máy trong nước, dần vươn ra thị trường nước ngoài. Việc chiếm lĩnh thị trường trong nước là mục tiêu chủ yếu trong tình hình cạnh tranh gay gắt hiện nay, đây là thị trường có nhiều tiềm năng mà Công ty chưa khai thác hết. Cùng với việc đời sống nhân dân được nâng cao thì nhu cầu sử dụng xe máy trong đi lại ngày càng tăng lên. Người tiêu dùng trong nước không chỉ đòi hỏi xe rẻ, mà còn phải chất lượng cao, kiểu dáng phong phú hợp thời trang và điều kiện ở Việt Nam. Vì thế, để khai thác tốt hơn thị trường trong nước thì Công ty cần chú ý đến việc đưa ra được sản phẩm có giá cả và chất lượng hợp lý. Tuy nhiên, trong thời gian tới bên cạnh việc mở rộng và phát triển thị trường trong nước thì Công ty cũng có hướng đưa sản phẩm của mình ra nước ngoài( Đặc biệt là các nước trong khu vực). -Hợp tác liên doanh liên kết với các đơn vị để có được các sản phẩm có chất lượng cao, giá cả phù hợp. Thực tế hiện nay việc liên doanh, liên kết giữa các Công ty ngày càng phổ biến. Liên kết sẽ giúp cho các doanh nghiệp có khả năng tăng sức cạnh tranh, mở rộng sản xuất, nâng cao vị thế của mình trên thương trương. Hiện nay Công ty VIEXIM đang liên doanh với tập đoàn Lifan Trung Quốc trong lĩnh vực sản xuất linh kiện xe máy nhằm đáp ứng nhu cầu của Công ty tăng tỉ lệ nội địa hoá và cung cấp sản phẩm ra nước ngoài. Công ty đang nghiên cứu khả năng liên kết với các hãng chế tạo động cơ để xây dựng liên doanh sản xuất động cơ xe máy tại Việt Nam. -Kinh doanh nhập khẩu, nhận uỷ thác và làm các dịch vụ kinh doanh xuất nhập khẩu Có nhiều doanh nghiệp không có khả năng, hoặc không muốn trực tiếp nhập khẩu, vì thế xuất nhập khẩu là hoạt động có thể mang lại lợi nhuận cho Công ty. Mặt khác trong quá trình kinh doanh có những nguồn vốn kinh doanh nhàn rỗi, cơ sở hạ tầng, kho bãi nhà xưởng để không, Công ty có thể tiến hành cho thuê để có thu lợi nhuận. Tiến hành mở rộng mặt hàng, ngành hàng kinh doanh, đa dạng hoá các hoạt động sản xuất kinh doanh. Bên cạnh việc kinh doanh nhập khẩu linh kiện xe máy thì trong thời gian tới Công ty có chủ trương mở rộng, đa dạng hoá ngành hàng kinh doanh. Không dừng lại ở việc kinh doanh nhập khẩu linh kiên xe máy mà Công ty còn tiến hành kinh doanh các mặt hàng khác mang lợi nhuận mà khả năng Công ty có thể làm được. II. Một số giải pháp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong Công ty xuất nhập khẩu và Đầu tư VIEXIM. Là một doanh nghiệp chuyên sâu về sản xuất kinh doanh xe máy, trong thời gian qua Công ty đã khẳng định vị trí của mình và đã đưa ra thị trường hiệu DRAGON có uy tín đạt nhiều giải thưởng và huy chương vàng tại các triển lãm và các hội chợ trong nước. Tuy nhiên, theo định hướng phát triển ngành công nghiệp xe máy của Việt Nam thì từ năm 2002, việc duy trì và phát triển ngành hàng truyền thống gặp nhiều khó khăn do chính sách về xe máy thiếu ổn định, thiếu vốn và mặt bằng để đầu tư. Theo quy đinh tại thông tư số 92/2002/TTLT- BTC-BCV-TCHQ và quyết định của bộ công nghiệp (thực hiện từ 7/2002 thì điều kiện cần và đủ cho một doanh nghiệp sản xuất lắp ráp phải có nhà xưởng hiện đại với diện tích tối thiểu là 6000m2 nếu được thuê phải ổn định trong 20 năm trở lên, trong đó mặt bằng nhà xưởng tối thiểu là 3.500m2, còn lại là kho tàng và phục vụ khác.. .). Đặc biệt từ năm 2003 nhà máy phải được cấp chứng chỉ quản lý chất lượng ISO 9001, trong khi đó nhà xưởng hiện tại của Công ty 100% đi thuê, tuy máy móc thiết bị hiện đại, đáp ứng được nhu cầu sản xuất xe máy trước kia nhưng đối chiếu với đinh hướng tới thì không đạt yêu cầu vì xưởng lắp ráp hiện tại gồm hai xưởng, một xưởng 650m2, một xưởng1000m2, tất cả đều đi thuê của nhà máy xe lửa Gia Lâm Hà Nội. Đứng trước thực trạng đó, Công ty đang chủ động tìm địa điểm thuê khác hoặc mở rộng và đầu tư xây dựng lại. Từ tình hình thực tế cùng với nhu cầu phát triển kinh tế chung xin nêu một số biện nhằm nầng cao khả năng cạnh tranh của Công ty phát triển xuất nhập khẩu và đâù tư VIEXIM nhằm góp phần cùng ngành xe máy Việt Nam chuẩn bị tư thế sẵn sàng cạnh tranh cùng các Công ty, xí nghiệp nước ngoài trên thị trường nội địa. 1. Đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật liên doanh với nước ngoài. Hiện nay Công ty có hai cơ sở và một trụ sở tại 34 Lý Nam Đế. Do toàn bộ cơ sở vật chất trên đều đi thuê một 100%nên đã tạo cho Công ty không ít nhiều khó khăn như diện tích chật hẹp, cơ sở vật chất chưa đủ đảm bảo cho nhân viên làm việc một cách có hiệu quả hiện tại văn phòng của Công ty tương đối hiện đại xong hai xưởng tại Gia Lâm thì thiếu trang thiết bị như vi tính, bàn làm việc... Đứng trước tình hình đó Công ty nên đầu tư nhằm tạo điều kiện thuận lợi trong quá trình làm việc của nhân viên. Dự tính đầu tư cải tạo cho văn phòng làm việc tại 34 Lý Nam Đế 200 triệu bao gồm chi phí mặt bằng 120 triệu, vi tính, photô, Fax: 80 triệu. Đầu tư 2 tại xưởng nhà máy xe lửa Gia Lâm 100 triệu bao gồm cải tạo văn phòng làm việc, mua sắm trang thiết bị, vi tính tủ bàn làm việc. Hiện tại công suất sản xuất là 2000 xe/ tháng nhưng chỉ đạt 1200xe/ tháng do đó công suất sản xuất chưa đáp ứng hết yêu cầu người tiêu dùng gây lãng phí nguyên nhân trên do và quyết định bởi số lượng sản phẩm tiêu thụ do vậy để đạt công suất tối đa Công ty cần có biện pháp nhằm mở rộng thị trường, tăng khả năng cạnh tranh của sản phẩm trên thị trường nâng cao sức tiêu thụ sản phẩm. Dự tính công suất trong năm tới phải đạt 2000 xe/ tháng. Do hệ thống lắp ráp xe máy khá hiện đại được nhập từ Trung Quốc năm 1999- 200và đưa vào sử dụng nên chất lượng xe máy cao, được người tiêu dùng ưa chuộng. Tuy nhiên, để đảm bảo chất lượng thì đội ngũ kỹ thuật phải luôn luôn giám sát quá trình lắp ráp đồng thời việc nghiên cứu tìm hiểu công nghệ lắp ráp của đối tác cũng phải được thực hiện sát sao nhằm cải tiến kịp thời quy trình lắp ráp với công nghệ đáp ứng tạo ra sản phẩm có chất lượng cao. Để tạo thêm cơ hội đầu tư mở rộng sản xuất Công ty cần có kế hoạch đầu tư phát triển. Hiện tại Công ty đang liên doanh với tập đoàn Lifan với tổng số vốn là 4.670.000 USD bao gồm vốn pháp định 11.570.000 USD vốn vay 3.100.000 USD với tổng số vốn đầu tư như trên phần vốn pháp định của bên Việt Nam là 471/000 USD tương đương với 30% tổng số vốn pháp định trong đó Việt Nam góp tiền mặt là 83.000 USD phần còn lại là 388.000 USD do Công ty trách nhiệm hữu hạn sản xuất xe gắn máy Huawci cho vay với điều kiện không tính lãi vay, bên Việt Nam sẽ hoàn trả bằng lợi nhuận được chia hàng năm từ hoạt động kinh doanh của Công ty liên doanh. Do đó Công ty cần có kế hoạch để góp đủ vốn liên doanh là 930.000 USD ( quý 3 năm 2002) đồng thời góp 1,8 triệu USD trên tổng số vốn pháp định tăng là 6 triệu USD. Như vậy mục tiêu của Công ty là góp đủ vốn liên doanh nâng vốn pháp định để tạo thuận lợi cho Công ty tham gia hoạt động liên doanh với đối tác nước ngoài là Trung Quốc. Nhằm mở rộng hơn nữa hoạt động sản xuất kinh doanh hiên nay tỷ lệ nội địa hoá của xe máy do Công ty lắp ráp cao nhất là xe Dragon 51% Công ty phần lớn là nhập khẩu các linh kiện của Trung Quốc và các linh kiện sản xuất tại Việt Nam. Để giảm được chi phí do mua các linh kiện từ bên ngoài Công ty cần có kế hoạch cho hoạt động sản xuất kinh doanh. Hiện nay ngoài hai xưởng lắp ráp và liên doanh với nước ngoài Công ty đã nghiên cứu kỹ thị trường trong nước đưa ra phương án sản xuất nắp và lốc động cơ. Dự tính nguồn vốn. - Mua máy móc thiết bị: 9,5 tỷ. - Đầu tư nhà xưởng ( bao gồm tiền thuê đất) : 6,5 tỷ. Dự tính nhà máy chế tạo động cơ đi vào hoạt động 7/2002. Để tiến hành đúng tiến độ, Công ty cần đưa ra kế hoạch sắp xếp huy động nguồn vốn, tuyển dụng và đào tạo lao động một cách kịp thời và có hiệu quả như vậy quá trình tạo ra sản phẩm mới có được chất lượng cao đáp ứng được nhu cầu của Công ty và nhu cầu trong nước, giảm giá thành xe máy nâng cao khả năng cạnh tranh trên thị trường. 2.Đầu tư vào nguồn nhân lực. - Phát huy nhân tố con người của Công ty. Con người là trung tâm của mọi hoạt động, để nâng cao sức cạnh tranh Công ty cần phải chú trọng nhiều hơn trong vấn đề tổ chức đào tạo nâng cao trình độ cho cán bộ, đồng thời sắp xếp lao động một cách hợp lý đúng người đúng việc. Vì thị trường và nhu cầu thị trường luôn thay đổi Công ty có thể tuyển thêm cán bộ kỹ thuật chuyên về xe gắn máy, có trình độ ngoại ngữ có thể dễ dàng dịch các linh kiện phụ tùng mà Công ty nhập sang tiếng Việt được chính xác. Làm được điều này Công ty giảm được sai sót trongquá trình nhập linh kiện, tránh sự hiểu nhầm về linh kiện xe máy cần nhập với nhà cung cấp. Đội ngũ công nhân tại xương lắp ráp cũng cần được quan tâm. Công ty nên tuyển chọn công nhân có tay nghề vững, có năng lực làm việc tốt có như vậy thì quá trình lắp ráp mới được tiến hành liên tục, tạo ra sản phẩm có chất lượng cao, đảm bảo. Công ty có thể thuê chuyên gia tại nơi công nhập khẩu linh kiện xe máy để hướng dẫn quy trình lắp ráp xe, như vậy việc lắp ráp xe được đảm bảo hơn. Bên cạnh đó Công ty phải xây dựng một nội quy kỹ luật rõ ràng, bắt buộc mọi người phải tuân theo nhằm đảm bảo tính kỹ luật trong khi làm việc, Công ty cũng cần xây dựng một chế độ khuyến khích lợi ích về kinh tế. Có nghĩa là chế độ khen thưởng kịp thời sẽ có tác dụng thúc đẩy hiệu lực, khuyến khích nhân viên làm việc tốt hơn. Sản phẩm xe máy mang nhãn hiệu do Công ty lắp ráp chỉ mới xuất hiện trên thị trường tiêu dùng Việt Nam năm 2000 nên rất ít người biết đến. Điều này đòi hỏi Công ty cần đào tạo đội ngũ tiếp thị năng động và tách hẳn với các phòng ban tránh tình tránh tình trạng nhân viên Công ty làm việc không đúng chuyên môn, làm việc chồng chéo, phòng tiếp thị của Công ty trên danh nghĩa có thực nhưng không tồn tại. Tình hình nhân sự tại các xưởng lắp ráp của Công ty cần phải tổ chức cho hợp lý hơn. Hiện nay Công ty có hai xưởng lắp ráp, đứng đầu các xưởng lắp ráp này là các cán bộ quản lý xưởng lắp ráp của Công ty, mỗi cán bộ quản lý từ 50- 60 công nhân lắp xe, họ phải liên tục nắm bắt tình hình hoạt động lắp ráp tại xưởng do đó vấn đề quản lý sẽ không có hiệu quả cao ở mỗi xưởng nên chia thành các tổ và sự khuyến khích bằng vật chất đối với tổ nào có hiệu quả chất lượng sản phẩm cao sẽ là động lực nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. - Đối với bộ máy quản lý của Công ty. Một doanh nghiệp có đội ngũ cán bộ giỏi linh động có chính sách quản lý đúng đắn sẽ giúp doanh nghiệp vận hành thành công, vượt qua những khó khăn, đề ra những phương án nhằm phát huy lợi thế cạnh tranh ít gặp rủi ro. Do vậy vấn đề đào tạo các nhà quản lý là quan trọng, trước tiên phải đào tạo và đào tạo lại, trang bị cập nhật kiến thức cho các nhà quản lý, các kiến thức về quản trị, về cạnh tranh và về thị trường, từ đó các nhà quản trị dám nghĩ dám làm, dám chấp nhận rủi ro trên nền tảng có kiến thức có khoa học; đào tạo nâng cao tay nghề cán bộ kỹ thuật bằng phương pháp mời thầy các trường trong nước về giảng dạy nhằm nâng cao và cập nhật những sự phát triển của khoa học kỹ thuật. Mặt khác, Công ty nên mạnh dạn đưa các cán bộ trẻ có trình độ, có năng lực vào các vị trí quan trọng của Công ty, tiến hành đào tạo lại sắp xếp đúng người, đúng việc nhằm phát huy hết khả năng của mình. Công ty cần cần ban hành quy chế tuyển nhân viên lựa chọn người có tài đức, có năng lực thực sự không nên nhận người theo kiểu quen biết. 3. Vấn đề đầu tư vào hàng tồn kho và quản lý hàng nhập kho. Để tiến hành hoạt động sản xuất thì buộc các doanh nghiệp phải luôn có hàng dự trữ. Ngành hàng xe máy cũng vậy theo nhu cầu qua nghiên cứu tìm hiểu trên thị trường doanh nghiệp tiến hành nhập linh kiện và phụ tùng trước khi lắp ráp. Tuy nhiên việc cung ứng đáp ứng sao cho các loại vật tư có biên độ giao động nhỏ nhất trong thời điểm so với nhu cầu tiêu dùng của sản xuất sản phẩm. thí dụ để lắp ráp một ngày một 100 xe thì hàng ngày lượng vật tư của 40 chi tiết nội địa hoá luôn giao động trong số 100 không được lấy cho một tuần 6 ngày 600 cái đầu tuần và 600 cái cho tuần tiếp theo. Tuy nhiên kho vật tư quá thừa một số chi tiết mặt khác một số chi tiết khác lại không có, từ việc cung ứng không đồng bộ dẫn đến sản xuất không liên tục, không đảm bảo chất lượng xe mất uy tín do thiếu phụ tùng phải lắp ráp vào các chi tiết khác. Ví dụ, lượng nan hoa xe máy tồn kho 2 lần - 3 lần (1 bộ = 1 kg) do mua quá nhiều nan hoa, hoặc nan hoa không sử dụng được làm ứ đọng vốn trong khi đó nhiều loại vật tư, nhông, hộp xích, bô... thiếu cục bộ nhiều loại vật tư nhập ẩu, mũi đèo hàng, tay mắm, dây điện…dẫn đến việc tháo ra lấy vào mất thời gian của công nhân xưởng lắp ráp. Nhiều chi tiết mà kỹ thuật vật tư cho nhập hàng, nhập bừa nhập ẩu, nhập quá số lượng yêu cầu, gần 300 bình xăng nhập không kiểm tra khách hàng từ Hà Bắc, Hải Dương mang cả mấy chuyến xe lên đổi làm mất uy tín của Công ty. Bên cạnh đó các nhân viên khi nhập hàng thì tuỳ tiện (tiện kho nào nhập kho ấy ) hàng hoá để khắp các kho không quy vào được. Do vậy kho hàng lung tung. Vật tư hàng hoà không kiểm được hàng ngày. Do đó để quá trình lắp ráp được tiến hành thuận lợi, để việc đầu tư vào hàng dự trữ có hiệu quả tránh ứ đọng vốn sử dụng, vốn không hiệu quả Công ty cần khắc phục những điểm yếu trên: Bố trí kho hàng: Hiện tại hàng hoá tại kho nên phân làm 3 loại + Hàng nhựa, cao su (không kể săm lốp, không kể yên vì loại này chiếm diện tích lớn). + Hàng sắt mạ, hàng dễ vỡ (gương) + ắc quy, xích và hàng sắt sơn Để phân loại sắp xếp và bố trí từng loại vật tư phải tuỳ địa điểm cụ thể nhưng cuối cùng phải đạt được mục đích dễ lấy, dễ kiểm và bảo quản tốt. Để đảm bảo chất lượng hàng hoá nhập kho cần phải có phiếu kiểm tra chất lượng chi tiết nội địa hoá. Phiếu này do kỹ thuật lập, ký tên cho mỗi lô hàng nhập kho. phiếu này phải viết riêng thì tính pháp luật mới cao, tinh thần trách nhiệm mới có được. Báo cáo xuất xe và lập chi tiết nội địa hoá được gửi hàng ngày về Công ty, ngoài ra khi thực hiện xuất nhập hàng phải có giấy tờ đầy đủ theo quy định. Trước khi hàng hoá vào kho đều phải được kiểm nhập, kiểm nghiệm và nếu thấy có sai khác, hao hụt mất mát…đều phải tiến hành lập biên bản với sự chứng kiến của các bên có liên quan để tiện cho việc giải quyết sau này. Có giải quyết được vấn đề trên thì bộ máy hoạt động sản xuất kinh doanh mới tiến hành một cách bình thường tránh thất thoát nguồn vốn gây lãng phí làm giảm sụt hiệu quả kinh doanh của Công ty. 4. Nâng cao hiệu quả hoạt động Marketing nhằm phát triển thị trường. * Quảng cáo. Ngày nay quảng cáo đóng vai trò quan trọng trong quá trình giới thiệu tiếp cận người tiêu dùng nhằm lôi kéo người mua để có thể bán được nhiều hàng hơn và hơn hết nó có thể giới thiệu về Công ty làm khách hàng biết đến Công ty, nâng cao uy tín của Công ty, là một hình thức được áp dụng để nâng cao sức cạnh tranh của Công ty trong nền kinh tế thị trường ngày càng cạnh tranh khốc liệt. Hàng năm Công ty cũng tiến hành các hoạt động quảng cáo xong chi phí cho nó còn rất ít trên 100 triệu VND, đây cũng là nguyên nhân hạn chế dẫn đến sản phẩm của Công ty ít được người tiêu dùng biết tới. Do vậy, tăng chi phí quảng cáo khuyếch trương sản phẩm là việc cần làm của Công ty trong thời gian tới dự tính là 1 tỷ VND. Công ty có thể quảng cáo trên truyền hình vì đó là phương tiện hữu hiệu, sinh động nhưng rất đắt tiền. Vì vậy, cần phải chọn lọc kỹ hình ảnh, lời giới thiệu, luận cứ bán hàng độc đáo nhằm gây ấn tượng với người xem trong thời gian ngắn nhất. Bên cạnh đó ta có thể quảng cáo trên tạp chí, nên chú ý vào tạp chí có nhiều độc giả quảng cáo sẽ hiệu quả hơn. Trong cơ chế thị trường hiện nay, các buổi hội thảo còn là dịp để các doanh nghiệp quảng cáo giới thiệu sản phẩm, nhãn hiệu của mình với người tiêu dùng. Thường xuyên tham gia các kì hội chợ, giới thiệu sản phẩm và lắng nghe những nhận xét của người trực tiếp tiêu dùng. Trong các kì hội chợ có thể tổ chức các hình thức thi tìm hiểu về doanh nghiệp, về sản phẩm…tham gia các chương trình bình chọn do cơ quan thông tin đại chúng tổ chức, một mặt đánh giá lại uy tín sản phẩm của doanh nghiệp trên thị trường, mặt khác đây là dịp người tiêu dùng hiểu biết thêm về doanh nghiệp. *Khuyến mãi. Có thể áp dụng từng đợt khuyến mãi như: tặng phẩm, giảm giá, tăng tỷ lệ hoa hồng… với những sản phẩm có giá trị không cao có in nhãn hiệu, logo của doanh nghiệp vừa là hàng khuyến mãi vừa tích cực quảng cáo cho doanh nghiệp. Nhu cầu xe máy ngày nay rất cao nên Công ty có thể có những đợt khuyến mãi như nhân ngày thành lập Công ty phát quà khuyến mãi… *Truyền thông. Uy tín của doanh nghiệp và sản phẩm được người tiêu dùng biết đến là biện pháp hữu hiệu của truyền thông. Thông qua bài viết, phóng sự truyền hình, các chương trình công tác xã hội giúp người tiêu dùng có ấn tượng tốt với tên tuổi của doanh nghiệp.Đặc biệt các doanh nghiệp có thể trực tiếp tài trợ sách vở, tài liệu, một số phương tiện học tập và thực tập cho sinh viên, thạc sĩ, tiến sĩ ở các trường đại học, chú ý sinh viên năm thứ nhất và năm cuối cùng vì đây là thời gian để lại ấn tượng nhiều nhất trong quá trình đi học của họ, thông qua chương trình này tạo nên một đội ngũ khách hàng lớn trong tương lai của doanh nghiệp. *Thiết lập hệ thống phân phối. Để có thể mở rộng thị trường của mình, bất kì một doanh nghiệp nào khi tham gia cạnh tranh đều có kế hoạch xây dựng mạng lưới bán hàng càng rộng lớn càng tốt, vì đó chính là cơ sở tốt nhất để bảo vệ thị trường và xâm nhập thị trường mới, chống lại sự tranh giành thị trường từ các đối thủ cạnh tranh của mình. Mặt khác, các doanh nghiệp có thể quản lý được giá cả thông qua chiết khấu bán hàng theo hệ thồng, giảm bớt tình trạng giảm giá cạnh tranh không lành mạnh, rủi ro trong công nơ, quản lý được chất lượng và bảo hành sản phẩm của mình. Để tăng sức cạnh tranh của mình cần phải xây dựng một hệ thống phân phố chắc chắn có hiệu quả hơn các đối thủ cạnh tranh, phối hợp chặt chẽ các chi nhánh , các xí nghiệp, quản lý các đại lý bán hàng. Đối với các chi nhánh, hiện nay Công ty có các chi nhánh ở một số tỉnh tuy nhiên, hệ thống chi nhánh cũng chưa gắn bó chặt chẽ với Công ty, công ty chưa nắm được tình hình tiêu thụ tại các chi nhánh đồng thời các chi nhánh chưa phản hồi được hết các nhu cầu của khách hàng về sản phẩm. Do đó, Công ty cần đặt ra hệ thống chi nhánh có người đứng đầu thường xuyên kiểm tra giám sát, báo cáo tình hình về Công ty. Đối với các đại lý bán buôn và bán lẻ của các khách hàng Công ty, hầu hết Công ty chưa có hệ thống chăm lo khách hàng. Các cửa hàng bảo dưỡng chưa được quan tâm đúng mức, rất ít và hầu như chỉ có một hay hai cửa hàng. Vì vây, trong thời gian tới Công ty nên mở một số cửa hàng bảo dưỡng cung cấp các linh kiện, phụ tùng của chính hãng để thay thế, các thiết bị kiểm tra, hiệu chỉnh và cả tài chính nữa, thống nhất mạng lưới bảo hành để cho người tiêu dùng phân biệt được rõ ràng hệ thống bảo hành xe của doanh nghiệp với hệ thống bảo hành của hãng khác, bên cạnh đó để tránh được hàng nhái của các hãng khác cần có thẻ bảo hành của chính Công ty, tem chống hàng giả…để người tiêu dùng Việt Nam nhận biết đâu là hàng thật đâu là hàng giả. Để thắt chặt mối quan hệ giữa Công ty với khách hàng Công ty nên mở rộng mạng lưới bán hàng lẻ, số lượng đại lý cửa hàng bán hàng lẻ càng nhiều thì thị trường của Công ty ngày càng mở rộng. Để mở rộng mạng lưới này, Công ty có thể tiến hành đầu tư trang thiết bị cơ sở vật chất cho các cửa hàng này với các nhãn hiệu, biển quảng cáo của Công ty. Đây là hình thức nhằm khuyếch trương sản phẩm của Công ty. Đồng thời để kích thích việc bán hàng ở các đại lý cần có biện pháp hỗ trợ tài chính, như khen thưởng tỷ lệ hoa hồng, hỗ trợ các hoạt động dịch vụ kỹ thuật, cử cán bộ kỹ thuật xuống các đại lý giúp đỡ khách hàng nhằm nâng cao uy tín hoạt động của Công ty. 5. Đầu tư nghiên cứu đa dạng hoá sản phẩm. Mạnh dạn đầu tư nghiên cứu nhập khẩu kết hợp sản xuất các động cơ có hàm lượng khoa học cao nhằm tăng dần tỷ lệ nội địa hoá. Tuy nhiên, trong quá trình nghiên cứu mặt hàng mới phải tuân thủ các bước như thăm dò thị trường,lên tiêu chuẩn, sản xuất lắp ráp thử, định giá, tránh tình trạng đầu tư nghiên cứu thời gian dài, chi phí lớn, thị trường không có nhu cầu vừa tốn hao tiền của, vừa lãng phí thời gian. Đa dạng hoá sản phẩm là một biện pháp mà bất kì một doanh nghiệp nào cũng phải nghĩ tới khi tìm cách tăng cạnh tranh của mình. Công ty cần nghiên cứu thị trường, khách hàng cạnh tranh để đưa ra một loại sản phẩm phù hợp. Do vậy, việc nghiên cứu sản phẩm mới cũng như việc đa dạng hoá sản phẩm là một điều cần thiết để Công ty có thể mở rộng thị trường. Ví dụ, bên cạnh những mặt hàng truyền thống chất lượng cao mà người dân quen tiêu dùng như xe Wave, Dream Công ty nhập khẩu với số lượng vừa phải, Công ty chú trọng nhập khẩu linh kiện xe của Trung Quốc với kiểu dáng và nhãn hiệu mới, chất lượng đảm bảo cụ thể là các loại xe DRAGON, MEILUN, YIXIANG phù hợp với nhu cầu và chất lượng. Hiện nay trên thị trường Việt Nam đang phổ biến loại xe LongTeng thuộc tập đoàn ô tô - xe máy Beng Teng ( Trung Quốc) có kiểu dáng giống như xe của Nhật Bản nhưng chỉ bằng 1/3 giá xe của Nhật Bản. Ngoài ra còn có các loại xe HUYUE gồm hai loại: + Wave HY110 ( giống xe Wave ). + Deluxe HY100 ( giống xe Dream lùn). Nước ta hiện nay điều kiện tiêu dùng xe gắn máy luôn bị ảnh hưởng bởi điều kiện giao thông, điều kiện địa lý, một số vùng nông thôn và miền núi có hạn chế lớn về hệ thống giao thông, vì vậy ảnh hưởng về sử dụng phương tiện đi lại, nhất là xe gắn máy. Các loại xe MINSK, MZ, ETZ…được sử dụng phổ biến, còn ở thành phố thì những loại xe có kiểu dáng đẹp: Dream, Spacy, Suzuki… được ưa chuộng. Do đó Công ty cần nắm bắt được yêu cầu này để đưa ra các mặt hàng phù hợp với thị hiếu mà vẫn đảm bảo về chất lượng và giá cả. Tuy nhiên việc đa dạng hoá phải kết hợp với chuyên môn hoá khi thực hiện đa dạng hoá sản phẩm, cần xác định cho mình một cơ cấu sản phẩm tối ưu, trong phương án sản xuất phải lựa chọn sản phẩm riêng của mình tạo thế độc quyền, với những loại sản phẩm mà lượng tiêu thụ ít Công ty vẫn phải tiếp tục duy trì sản xuất để phục vụ nhu cầu thị trường, nhằm giữ chân khách hàng đặc biệt là khách hàng truyền thống song cần xem xét quy mô, cơ cấu của nó một cách hợp lý. Thực hiện đa dạng hoá sản phẩm là một trong những biện pháp hữu hiệu để mở rộng thị trường, tăng sức cạnh tranh của Công ty trước các đối thủ cạnh tranh, song để có thể đa dạng hoá một cách có hiệu quả thì Công ty cần phải tăng cường các phương tiện kỹ thuật, các hoạt động thu thập, xử lý thông tin, thị trường , mở rộng quan hệ hợp tác với các đối thủ trong kinh doanh. 6. Giảm chi phí, hạ giá thành sản phẩm, lấy giá cả làm lợi thế cạnh tranh. Để giảm chi phí- hạ giá thành sản phẩm là cả một giai đoạn, nghiên cứu tổng hợp của Công ty từ việc ký kết hợp đồng nhập khẩu linh kiện xe máy, tiếp nhận linh kiện lắp ráp xe máy nhập khẩu, bảo quản linh kiện lắp ráp xe máy nhập khẩu, lựa chọn bạn hàng đối tác làm ăn sao cho sản phẩm với giá thành không đắt nhưng vẫn đảm bảo chất lượng linh kiện nhập khẩu. Việc ký hợp đồng nhập khẩu là vấn đề rất quan trong, thận trọng và khôn khéo sẽ tránh được các sơ suất về các chỉ tiêu kỹ thuật, chất lượng đảm bảo lô hàng phải đạt tiêu chuẩn do đó, người tham gia ký kết hợp đồng kinh doanh phải là người có kiến thức tổng hợp về mọi mặt, có hiểu biết sâu sắc, nắm vững về nghiệp vụ ngoại thương, hiểu biết về xe máy, có các kiến thức về văn hoá xã hội và kinh nghiệm thực tế. Vấn đề tiếp nhận hàng hoá: Công ty phải kiểm tra hàng hoá về số lượng, chất lượng, cần phải cử người theo giám sát áp tải hàng hoá về kho của mình, đảm bảo được số lượng, chất lượng hàng hoá. Lựa chọn bạn hàng đối tác làm ăn để có được phụ tùng và linh kiện phù hợp với nhu cầu lắp ráp của Công ty. Do vậy, khi lựa chọn bạn hàng cho mình công ty cần nghiên cứu tình hình hoạt động kinh doanh của đối tác, chất lượng sản phẩm và khả năng cung cấp hàng cho mình, các đối tác có trình độ kỹ thuật cao thường có những sản phẩm tốt, Công ty nên chú ý các đối tác có tên tuổi, uy tín trên thị trường sản phẩm đó. Công ty nên cố gắng liên hệ trực tiếp với người sản xuất, hạn chế hình thức liên hệ qua trung gian để có thể có những ưu đãi và thuận lợi. Bên cạnh đó, phải quan tâm đến đầu tư sản xuất phụ tùng, linh kiện, hạn chế sự lệ thuộc các nhà cung cấp trong nước và nước ngoài. Trước mắt Công ty đã liên doanh với tập đoàn Lifan sản xuất được một số phụ tùng, linh kiện có hàm lượng kỹ thuật không cao như vành nan hoa, chân chống, bình xăng… dự định trong thời gian tới Công ty sẽ sản xuất nắp và lốc động cơ. Như vậy việc sản xuất để tạo ra các sản phẩm của Công ty nhằm tăng tỷ lệ nội địa hoá, giảm chênh lệch chi phí so với cac sản phẩm mua ngoài sẽ tạo điều kiện hạ giá thành sản phẩm. Tuy nhên việc đảm bảo chất lượng vẫn là nhiệm vụ quan trọng. Hiện nay, giá cả là công cụ cạnh tranh khá hữu hựu của Công ty. Với mục tiêu là mở rộng thị trường, giành được ưu thế trong cạnh tranh, Công ty cần áp dụng một chiến lược định giá phù hợp, mức gía đòi hỏi đủ cao để thu hồi vốn và có lãi song lại đủ thấp để thị trường có thể chấp nhận được. Do vậy, Công ty cần hạch toán và tính chính xác mọi chi phí bỏ ra như chi phí nhập khẩu, chi phí kho bãi, chi phí gia công lắp ráp. Công ty cần xác định sản phẩm của mình đang trong giai đoạn nào của chu kỳ sống của sản phẩm Công ty , Công ty cần phải nhận thấy rằng trên thị trường ngoài sản phẩm của Công ty còn có nhiều sản phẩm của hãng khác trên thị trường đặc biệt Công ty còn phải cạnh tranh với các liên doanh sản xuất và lắp ráp xe máy nổi tiếng ở Việt Nam như HONDA, SUZUKI, YAMHA …và 53 hãng lắp ráp xe máy với các sản phẩm đa dạng trên thị trường. Do vậy Công ty cần phải xác lập một mức giá hợp lý không thể đưa mức giá quá cao ngược lại nếu đưa mức giá quá thấp sẽ không đảm bảo được mức lợi nhuận Công ty nên sử dụng các mức giá khác nhau trên các thị trường khác nhau, mức giá khác nhau đối với sản phẩm khác nhau. ở các thành phố do tốc độ phát triển nhanh nhu cầu đòi hỏi cao về mẫu mã và chất lượng, dịch vụ trước và sau khi bán hàng. Do vậy ta có thể áp dụng mức giá thị trường nhưng kèm theo đó là dịch vụ kỹ thuật miễn phí để thu hút khách hàng, những sản phẩm khuyến mãi hay cho hạ mức giá thấp hơn một chút nhằm tạo sự chú ý của khách hàng đối với sản phẩm. Đặc biệt đối với việc bán với một số lượng lớn ta cần có một mức giá riêng khác so với khách hàng mua lẻ để khuyến khích bán sản phẩm với số lượng lớn. ở các vùng khác như vùng nông thôn miền núi Công ty có thể có các sản phẩm thích hợp phù hợp với các loại hình miền núi, động cơ phải tốt và có khả năng đi được trên địa hình đó, đồng thời do mức thu nhập ở đẩy thấp nên Công ty cần có một mức giá phù hợp để thu hút đông đảo người dân sử dụng. Công ty cũng có thể áp dụng một số hình thức thanh toán theo từng thời kỳ như chiết khấu giảm giá…để khuyến khích khách hàng mua. Với khách hàng lớn, có quan hệ hợp tác lâu dài, Công ty có thể định ra một chính sách giá riêng để có quan hệ tốt với họ xong phải có một chính sách hợp lý đảm bảo có lãi, tình trạng dây dưa, công nợ khó đòi để làm được điều đó Công ty cần phải tìm hiểu khách hàng, nhất là khách hàng lớn khả năng tài chính của họ. Do vậy, để có được một mức giá hợp lý Công ty cần tính toán chi phí chính xác, giảm tối đa các loại chi phí không cần thiết để đưa ra mức giá hợp lý thu hút được thị phần của khách hàng. 7.Một số giải pháp về tài chính. Là một doanh nghiệp Nhà nước chuyên kinh doanh lắp ráp xe gắn máy vì vậy cần sử dụng nguồn vốn lưu động rất lớn; phần lớn vốn sử dụng là do Nhà nước cấp, một phần vốn huy động từ nội bộ Công ty tuy nhiên không đáng kể. Do đó Công ty cần phải huy động vốn bên ngoài. Do cơ cấu của Công ty còn nhỏ nên việc huy động vốn và phát hành cổ phiếu là khó khăn. Giải pháp tốt nhất là Công ty có thể đi vay vốn từ ngân hàng, có thể vay dài hạn hoặc vay ngắn hạn. Tuy nhiên trước khi có quyết định vay vốn Công ty nên tính toán so sánh cân nhắc giữa lãi suất tiền vay với tỷ suất lợi nhuận hoạt động kinh doanh có thể mang lại hiệu quả cho hoạt động vay vốn. Công ty có thể đàm phán với nhà cung ứng để hưởng tín dụng từ nhà cung ứng( thời gian 30-90 ngày), có thể chuyển thành Công ty TNHH 1 thành viên( DNNN) có vốn Nhà nước trên 30 tỷ đồng( hiện nay là 2 tỷ đồng) hoặc xin cổ phần hoá vào năm 2004. Bên cạnh đó vấn đề đặt ra là làm thế nào để sử dụng nguồn vốn hiện có của Công ty một cách có hiệu quả. Công ty cần phải chấp hành chế độ quản lý tài chính, tín dụng hối đoái của Nhà nước, tính toán khả năng lỗ lãi, thu hồi vốn trong kinh doanh, cũng như dự tính trước những rủi ro có thể xảy ra để có các bịên pháp phòng ngừa, để tăng hiệu quả sử dụng nguồn vốn lưu động cần tăng nhanh tốc độ lưu chuyển hàng hoá, lựa chọn phương thức thanh toán thuận lợi, an toàn tránh ứ đọng vốn trong qúa trình nhập khẩu nên phát huy hình thức nhập khẩu hàng đổi hàng giảm lượng ngoại tệ phải trả của Công ty thu được lợi nhuận từ cả hai hoạt động xuất khẩu và nhập khẩu. Ngoài ra để sử dụng tốt nguồn vốn cố định Công ty cần gia tăng hàng hoá xuất nhập khẩu nhằm khai thác hết công suất của tài sản cố định giảm chi phí của tài sản cố định trên một đơn vị kinh doanh. Ngoài việc lắp ráp xe gắn máy từ những phụ tùng linh kiện của Công ty nhập khẩu vể Công ty có thể tận dụng hệ thống nhà xưởng có thể nhận lắp ráp gia công cho các hãng xe máy khác trên thị trường khi họ có nhu cầu. Để bảo tồn phát huy được nguồn vốn Công ty phải thường xuyên phân tích đánh giá hiệu quả sử dụng vốn, nghiên cứu các nhân tố ảnh hưởng đến hiệu quả của việc sử dụng vốn để từ đó kịp thời có các phương án kinh doanh thích hợp. III. Một số kiến nghị. 1. Về phía Nhà nước. Trong kinh doanh, vai trò quản lý, định hướng của Nhà nước là vô cùng quan trọng. Trong những năm gần đây, ngành công nghiệp sản xuất xe máy đã có bước phát triển đáng kể nhiều biến động tổng đầu tư sản xuất. Tuy nhiên nó cũng gặp không ít bức xúc: Việc cấp ồ ạt các dự án đầu tư sản xuất lắp ráp xe máy năm 2001 đã làm cho ngành công nghiệp xe máy phát triển lộn xộn, nhà nước không kiểm soát được thậm chí còn dẫn tới nguy cơ làm mất cơ hội phát triển ngành công nghiệp xe máy của nước ta trong quá trình hội nhập quốc tế, mặc dù trước đó đã có thông tư liên bộ số 92/ TTLB- BCN- TCHQ, hướng dẫn chính sách ưu đãi thuế đối với sản xuất xe máy có hiệu lực từ năm 2002, quy định các doanh nghiệp được phép lắp ráp phải có tỷ lệ nội địa hoá tối thiểu là 20% song Bộ thương mại vẫn phải chính thức đề xuất và kiến nghị.Thủ tướng xem xét một số biện pháp quản lý nhập khẩu và sản xuất xe máy tại Việt Nam. Do vậy việc cấp phép quá nhiều cả doanh nghiệp trong nước và các doanh nghiệp liên doanh nên trong thời gian tới Nhà nước nên ngừng cấp giấy phép cho các liên doanh nước ngoài trong lĩnh vực sản xuất lắp ráp. Đối với các doanh nghiệp trong nước chỉ nên lựa chọn 5-6 doanh nghiệp sản xuất, lắp ráp xe máy và những doanh nghiệp này có quy mô lớn có tỷ lệ nội địa hoá cao đạt 60% trở lên và lấy doanh nghiệp quốc doanh làm chủ đạo. Các doanh nghiệp còn lại( 45 doanh nghiệp) có thể phải giải thể hoặc chỉ làm vệ tinh lắp ráp cho các doanh nghiệp được lựa chọn. Những doanh nghiệp không đạt được tỷ lệ nội địa hoá theo yêu cầu sẽ chỉ được nhập khẩu với hạn mức là 500.000 bộ linh kiện/ năm. Bên cạnh đó còn một thực tế khác, việc quản lý và quy định về công suất đăng kí của doanh nghiệp lắp ráp xe máy cũng chưa được rõ ràng, giống như kiểu” phân bố hạn ngạch” dễ dẫn tới tình trạng một số doanh nghiệp có sản phẩm bán chạy, đóng góp đầy đủ nghĩa vụ cho Nhà nước vẫn phải ngồi chơi xơi nước vì có hiệu quả hoạt động không tốt. Trong khi một số doanh nghiệp lo lót được thời gian xác nhận nội địa hoá nên được hưởng thuế nhập khẩu thấp. Từ thực trạng đó cho thấy vẫn chưa có giải pháp phát triển ngành công nghiệp xe máy từ phía cơ quan hữu trách, phát triển sản xuất xe máy không phải là phát triển” làng nghề” nên tình trạng toàn dân làm xe máy, đầu tư manh mún như hiện nay gây khó khăn về quản lý và khó đưa ngành công nghiệp xe máy Việt Nam đi đến mục tiêu” sản xuất xe máy mang nhãn hiệu Việt Nam “phù hợp với giá cả và chất lượng cho người tiêu dùng”. Việc tạo ra một sản phẩm xe máy mang nhãn hiệu Việt Nam là bài toán không dễ giải, bao gồm nhiều yếu tố tác động như việc nội địa hoá, chính sách quản lý và đặc biệt là cho tới nay, ngành công nghiệp xe máy vẫn chưa có một quy hoạch phát triển chính thức và hoàn chỉnh như để sản xuất được một loại khung xe máy hoàn chỉnh thì riêng phần đầu tư máy đột dập cũ và khuôn, mua từ Trung Quốc cũng mất 20 tỷ, nêú làm thêm loại khung khác thì phải đầu tư thêm 30 % nữa. Trong khi số lượng đơn hàng của từng doanh nghiệp lại rất thấp. Vì vậy, một số doanh nghiệp đành phải nội địa hoá theo kiểu mua linh kiện từ nước ngoài về chỉ bán và sơn. Đó là chưa kể việc sản xuất động cơ được xem như là mấu chốt phát triển của ngành công nghiệp xe máy tới nay vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Đứng trước các vấn đề trên Công ty VIEXIM trong thời gian qua đã cố gắng hết sức làm tăng tỷ lệ nội địa hoá, mở rộng sản xuất đáp ứng yêu cầu đòi hỏi của Nhà nước song là một doanh nghiệp Nhà nước để có thể phát triển mạnh hơn nữa. Công ty cần trợ giúp từ phía Nhà nước đặc biệt là Sở thương mại. Đề nghị sở xem xét hỗ trợ mặt bằng sản xuất kinh doanh trong đó có phương án sát nhập một Công ty có mặt bằng để Công ty đó có điều kiện hoàn chỉnh hệ thống bán hàng, giới thiệu sản phẩm và văn phòng làm việc, nâng cao được thế cạnh tranh của mình trên thương trường. Hỗ trợ Công ty về định hướng phát triển một số ngành nghề cho phù hợp với chiến lược của ngành và thành phố giúp Công ty về kinh phí, tổ chức để phát triển ngành nghề đó. Giúp đỡ Công ty trong việc tạo vốn, mặt bằng nhà xưởng cho các chương trình đầu tư liên doanh và đầu tư sản xuất để ngành công nghiệp xe máy của Công ty phát triển, trở thành doanh nghiệp Nhà nước chủ đạo trong chiến lược phát triển công nghiệp xe máy của thành phố Hà nội. 2. Về phía các ngành chủ quản. * Tạo điều kiện vốn kinh doanh. Nguồn vốn chi phối mọi hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp do đó đơn vị chủ quản( hội cựu chiến binh Việt Nam) nên tạo điều kiện thuận lợi cho Công ty giúp Công ty có thể tăng nguồn vốn kinh doanh, có các biện pháp huy động vốn đặc biệt là nên tiến hành cổ phần hoá Công ty để nguồn vốn tăng lên, quá trình hoạt động kinh doanh cũng hiệu quả hơn. * Trang bị thêm cơ sở vật chất kỹ thuật. Hiện nay, Công ty đang có trụ sở là khu nhà 3 tầng tại 34 Lý Nam Đế là đơn vị chính của Công ty. Địa điểm hiện nay rất chặt hẹp không thích hợp với hoạt động của Công ty. Hội cựu chiến binh nên cho phép Công ty được cải tạo và nâng cấp khu nhà để có địa điểm thích hợp. Hệ thống cơ sở hạ tầng tốt là điều kiện để quá trình hoạt động kinh doanh của Công ty hiệu quả hơn. Kết luận Đầu tư phát triển là yếu tố quan trọng hàng đầu, quyết định tốc độ tăng trưởng kinh tế. Đầu tư phát triển đúng hướng và có hiệu quả sẽ tạo ra năng lực mới làm chuyển đổi cơ cấu các thành phần kinh tế, các vùng và các lãnh thổ theo hương CNH-HĐH đất nước. Với ý nghĩa và tầm quan trọng này trong 10 năm thực hiện mục tiêu chiến lược phát triển kinh tế xã hội giai đoạn 1991-2000 Đảng và Nhà nước ta đã tập trung chỉ đại ưu tiên giành nguồn lực cho đầu tư phát triển. Tập trung ưu tiên đầu tư phát triển trong doanh nghiệp nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh trong nền kinh tế, phát triển kết cấu hạ tầng kinh tế xã hội, tăng nguồn nhân lực khoa học kỹ thuật…Có thể nói mỗi doanh nghiệp bước vào nền kinh tế thị trường và hội nhập với nền kinh tế đều cảm nhận ngay được áp lực ngày càng lớn đối với hoạt động sản xuất kinh doanh của mình. Do đó doanh nghiệp muốn tồn tại phải tiến hành đầu tư. Cùng với xu hướng đó trong thời gian qua Công ty Xuất nhập khẩu và đầu tư VIEXIM đã không ngừng cố gắng đẩy mạnh hoạt động đầu tư nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh. Tuy kết quả đạt được còn khiêm tốn nhưng đã góp phần vào sự phát triển kinh tế, tạo công ăn việc làm cho hàng trăm lao động, góp phần thoả mãn nhu cầu của người tiêu dùng. Tuy nhiên so với yêu cầu đòi hỏi lớn trong thời kỳ đổi mới và phát triển kinh tế thì Công ty cần phải cố gắng khắc phục những bất hợp lý còn tồn tạiđể đạt được hiệu quả cao nhất trong hoạt động đầu tư, nâng cao khả năng cạnh tranh chiếm lĩnh thị trường trong nước và nước ngoài. Tài liệu tham khảo Giáo trình Quản lý Công nghệ – Trường Đại học KTQD Hà Nội - 2000 Giáo trình kinh tế Đầu tư – Trường Đại học KTQD Hà Nội – 2000 Tạp chí Thời báo Kinh tế – Số 97;98/99: 12;27;31/2000 Tạp chí Đầu tư – Số 7;10;19/2000 Tạp chí Ngoại thương- Số20/99 Sách “Một số vấn đề về cạnh tranh trong nền kinh tế thị trường ” NXB giáo dục-1999 Báo cáo tình hình hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty VIEXIM Một số bài luận văn K38, 39

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc33931.doc
Tài liệu liên quan