Luận văn Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan ở bò tại huyện Chợ Mới, Châu Thành và tri tôn trong tỉnh An Giang

Quản lý đồng cỏ, chăn thả luân phiên trên đồng cỏ, vệ sinh thức ăn nhất là các loài cỏ mọc ven sông, suối, ao, hồ. Chú ý vệ sinh chuồng trại, chăm sóc bò thường xuyên, theo dõi tình trạng sức khoẻ của bò, sớm phát hiện những triệu chứng, bệnh tích và báo ngay với cán bộ thú y gần nhất để có biện pháp phòng trị sớm. Tích cực diệt trừ các vật chủ trung gian như các loài ốc Lymnaea viridis, Lymnaea swinhoei, Lymnaea truncatula,. Định kỳ tẩy sán lá gan bằng các loại thuốc ở các độ tuổi phù hợp nhằm hạn chế tối đa tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò.

pdf43 trang | Chia sẻ: baoanh98 | Lượt xem: 883 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan ở bò tại huyện Chợ Mới, Châu Thành và tri tôn trong tỉnh An Giang, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6 2.2.1. Tình hình chăn nuôi 6 2.2.2. Tình hình quản lý thú y 7 2.3. Đặc điểm sán lá gan 8 2.3.1. Hình thái 9 2.3.2. Trứng 9 2.3.3. Vị trí ký sinh và vật chủ trung gian 10 2.3.4. Chu trình phát triển 10 2.3.5. Bệnh lý 12 2.3.6. Phòng và trị bệnh 13 2.4 Tóm lược một số công trình nghiên cứu bệnh sán lá gan trên bò 14 2.5. Tác hại của bệnh sán lá gan 16 Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 17 3.1. Vật liệu 17 3.2. Phương pháp nghiên cứu 17 3.2.1. Phương pháp chọn mẫu 17 3.2.2. Phương pháp tiến hành 17 3.2.2.1. Kiểm tra sự hiện diện của sán lá gan 17 3.2.2.2. Điều tra bằng phiếu phỏng vấn về điều kiện môi trường chăn nuôi bò và xử lý số liệu 18 3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi 18 3.3. Phân tích thống kê 19 Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN 20 4.1. Điều kiện môi trường chăn nuôi 20 4.1.1. Điều kiện môi trường chăn nuôi bò ở huyện Chợ Mới 20 4.1.2. Điều kiện môi trường chăn nuôi bò ở huyện Châu Thành 22 4.1.3. Điều kiện môi trường chăn nuôi bò ở huyện Tri Tôn 4.2. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò trên từng vùng 23 24 4.3. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo lứa tuổi bò ở một số huyện 27 4.4. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo giới tính của bò 30 Chương 5 KẾT LUẬN VÀ KIẾN NGHỊ 32 5.1. Kết luận 32 5.2. Kiến nghị 32 5.2.1. Đối với cán bộ thú y 32 5.2.2. Đối với người chăn nuôi 32 TÀI LIỆU THAM KHẢO 34 PHỤ CHƯƠNG pc-1 Phiếu điều tra pc-3 Chương 1 GIỚI THIỆU 1.1. Đặt vấn đề Trong tình hình hiện nay sự cạnh tranh các mặt hàng nông nghiệp trên thị trường thế giới đang ngày càng diễn ra gay gắt. Vì vậy nước ta đang từng bước không ngừng phát triển và nâng cao về số lượng lẫn chất lượng các sản phẩm nông nghiệp. Để thúc đẩy ngành nông nghiệp phát triển, Nhà nước ta đã đề ra rất nhiều biện pháp trong đó có biện pháp chuyển đổi cơ cấu cây trồng và vật nuôi; cùng với việc chuyển đổi đó thì chăn nuôi bò thịt và bò sữa đã và đang được phát triển mạnh mẽ. An Giang là một trong những tỉnh đi đầu trong việc phát triển chăn nuôi bò, vì tỉnh ta được toạ lạc trên vùng đất có nhiều điều kiện thuận lợi phát triển ngành này. Để chăn nuôi bò đạt hiệu quả cao, tỉnh đã phát động chương trình Sind hoá đàn bò, nên đàn bò trong tỉnh không ngừng gia tăng về số lượng và chất lượng. Tuy nhiên kiến thức của người chăn nuôi còn hạn chế ở nhiều khâu như: chọn con giống, dinh dưỡng, phương thức chăn nuôi, cách phòng bệnh,.Trong phòng chống bệnh thì bệnh truyền nhiễm là nguy hiểm, kế đến là bệnh ký sinh. Theo các tài liệu trong nước cũng như ngoài nước cho biết bệnh ký sinh trùng gây thiệt hại không nhỏ đối với ngành chăn nuôi. Các bệnh truyền nhiễm do virus, vi khuẩn, phát ra một cách dữ dội nhưng cũng mất đi nhanh chóng, còn bệnh ký sinh trùng kéo dài rất lâu gây tổn thất rất lớn về kinh tế. Mặt khác, bệnh ký sinh trùng còn làm tổn thương các tổ chức tế bào, mở đường cho các bệnh truyền nhiễm xâm nhập. Đặc biệt là bệnh sán lá gan do Fasciola gây ra làm trâu bò có biểu hiện như tiêu chảy, thiếu máu, vàng da, giảm thể trọng, Ngoài ra, bệnh còn gây nguy hiểm đến sức khoẻ của con người. Những nghiên cứu gần đây tổng kết tình hình nhiễm sán lá gan ở trâu bò ngày càng cao, đặc biệt là khu vực Đồng Bằng Sông Cửu Long. Qua những vấn đề trên chúng ta thấy bệnh sán lá gan ở bò có tác hại nghiêm trọng. Trong khi ngành chăn nuôi ở tỉnh ta ngày càng nhân rộng trên nhiều vùng như vùng cù lao, vùng đồng bằng và vùng đồi núi, nhưng phần lớn người chăn nuôi chưa đặc biệt quan tâm và chưa có biện pháp phòng trị cụ thể nhằm giảm thiểu tối đa thiệt hại cho đàn gia súc. Để kiểm tra tình hình nhiễm sán lá gan ở bò và từ đó cảnh báo với người dân, hy vọng họ sẽ quan tâm đến bệnh này hơn nên đề tài “Điều tra tình hình nhiễm sán lá gan ở bò tại huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn trong tỉnh An Giang” được tiến hành. 1.2. Mục tiêu của đề tài: Xác định tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò tại huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn trong tỉnh An Giang. Cung cấp số liệu thực tế về tỷ lệ nhiễm sán lá gan tại ba huyện đó đến cho người chăn nuôi và những cán bộ kỹ thuật có liên quan, để khuyến cáo họ có biện pháp phòng trừ tích cực. Chương 2 LƯỢC KHẢO TÀI LIỆU 2.1. Điều kiện tự nhiên ở An Giang Theo Uỷ Ban Nhân Dân tỉnh An Giang (2001) cho biết điều kiện tự nhiên ở An Giang có các đặc điểm sau: 2.1.1. Vị trí địa lý An Giang là tỉnh thuộc Đồng Bằng Sông Cửu Long, nằm về phía Tây Nam tổ quốc có toạ độ địa lý từ: - 100 10’ 30’’ đến 100 37’ 50’’ vĩ độ bắc. - 1040 47’ 20’’ đến 1050 35’ 10’’ kinh độ đông. Ranh giới hành chính: Phía Tây Bắc giáp vương quốc Campuchia, phía Đông và Đông Bắc giáp tỉnh Kiên Giang, phía Đông Nam giáp tỉnh Cần Thơ. Hình 1: Vị trí địa lý tỉnh An Giang (Hồ Việt Hiệp, 2002) Diện tích toàn tỉnh 3.406 km2 và đứng thứ 4 ở Đồng Bằng Sông Cửu Long. Chợ Mới có diện tích tự nhiên là 354,91 km2, có 16 xã và 2 thị trấn. Châu Thành có diện tích tự nhiên là 347,28 km2, gồm 12 xã và 1 thị trấn. Tri Tôn có diện tích tự nhiên là 597,575 km2, gồm 13 xã và 2 thị trấn. 2.1.2. Địa hình Sự hình thành và tồn tại của sông Tiền, sông Hậu ở phía Đông Bắc và chuỗi đồi núi ở phía Tây Nam đã chia lãnh thổ tỉnh thành 3 vùng với những đặc trưng rõ nét: - Vùng cù lao: Gồm huyện An Phú, Tân Châu, Phú Tân và Chợ Mới. Độ cao trung bình của vùng từ 1,3 – 3 m, tồn tại các sông đê và dãy đất cao dọc theo các sông và trũng dần vào trong. Dọc theo ven đê về phía đồng thường có khu trũng cục bộ. - Vùng đồng bằng thuộc Tứ Giác Long Xuyên: Bao gồm Thành Phố Long Xuyên và thị xã Châu Đốc, các huyện Châu Phú, Châu Thành, Thoại Sơn và rìa phía Đông các huyện Tri Tôn, Tịnh Biên. Độ cao trung bình của vùng từ 1,2 – 3 m và nghiêng đều xuống tới giáp Kiên Giang. Theo dãy đất rìa phía đồng huyện Tri Tôn và Tịnh Biên có nhiều khu vực trũng đến 0,8 m hoặc trũng hơn. - Vùng đồi núi thấp: Chiếm phần lớn diện tích của hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên với nhiều núi có đỉnh cao từ 4 – 40 m và độ dốc phổ biến 3 – 80. 2.1.3. Khí hậu An Giang có đặc trưng khí hậu nhiệt đới gió mùa với nhiệt độ cao và ổn định, lượng mưa tương đối lớn và phân bổ theo mùa. 2.1.3.1. Nhiệt độ - Nhiệt độ trung bình năm 270 C. - Nhiệt độ bình quân cao nhất 28,30 C. - Nhiệt độ bình quân thấp nhất 25,50 C. Riêng khu vực đồi núi có nhiệt độ bình quân thường thấp hơn so với vùng đồng bằng khoảng 20C. 2.1.3.2. Mưa Lượng mưa trung bình hàng năm 1.132 mm. Năm có lượng mưa cao nhất lên tới 1.800 mm và năm thấp nhất xuống tới 700 mm. Số ngày mưa bình quân năm là 132 ngày. Cả số ngày mưa và tổng số lượng mưa đều tập trung vào 7 tháng, mùa mưa từ tháng 5 đến tháng 11 với tỉ trọng khoảng 98%. 2.1.3.3. Lượng nước bốc hơi và độ ẩm không khí Lượng nước bốc hơi hàng năm lớn 1200 – 1300 mm, đặc biệt trong 5 tháng mùa khô với độ ẩm không khí trung bình của các tháng này khoảng 76%. Độ ẩm không khí của các tháng mùa mưa khoảng 80 - 85%. 2.1.3.4. Nắng - Tổng số giờ nắng trung bình trong năm: 2.521 giờ. - Tổng số giờ nắng của tháng thấp nhất: 153 giờ (tháng 9). - Tổng số giờ nắng của tháng cao nhất: 282 giờ (tháng 3). Vào những tháng mùa khô, số giờ nắng bình quân mỗi ngày thường cao hơn 2 giờ so với ngày ở các tháng mùa mưa. 2.1.3.5. Thuỷ văn An Giang có hệ thống sông chằng chịt, có nguồn nước ngọt quanh năm thuận lợi cho việc sản xuất nông nghiệp. Do điều kiện địa hình có thể chia ra thành 3 vùng thủy văn như sau: - Vùng cù lao: + Về mùa lũ, chịu ảnh hưởng lũ từ sông Tiền và sông Hậu, lũ vào nhanh và sớm. Mực nước lũ ngập từ 1 – 2,9 m và phủ lên hầu khắp lãnh thổ vùng. Riêng Chợ Mới bị ngập khi mực nước ngập sâu lên mức 2,8 – 3,3 m và mực nước lũ ngập nông từ dưới 1 – 2,5 m. Phần phía Bắc Vàm Nao phụ thuộc chủ yếu vào lũ sông, phần phía Nam Vàm Nao còn liên quan đến sự hoạt động của thuỷ triều. + Về mùa kiệt, biên độ triều biển Đông tại trung tâm vùng cù lao đạt khoảng 50 – 60 cm, nên có thể lợi dụng triều lên dẫn nước vào ruộng thông qua cống bửng. + Chợ Mới là vùng cù lao được bao quanh bởi sông Tiền, sông Hậu và sông Vàm Nao. Ngoài ra, Chợ Mới còn có các rạch tự nhiên như rạch Ông Chưởng và rạch Cái Tàu Thượng. Hai rạch này khá dài và sâu. Rạch Ông Chưởng có hình dạng uốn khúc như mình rồng, lấy nước sông Tiền ngay đầu thị trấn Chợ Mới. Vùng bằng thuộc Tứ Giác Long Xuyên: là toàn bộ vùng bằng về phía hữu ngạn sông Hậu. + Về mùa lũ, lượng nước lũ sông Hậu theo các kênh, rạch vào nội đồng Tứ Giác Long Xuyên chiếm khoảng 20 – 25% và lượng nước lũ chảy tràn từ Campuchia qua các cầu từ Châu Đốc đến Nhà Bàng chiếm khoảng 75 – 80% tổng lượng lũ vào vùng Tứ Giác Long Xuyên. + Về mùa kiệt, lưu lượng và mực nước sông Hậu giảm nhanh, vùng Tứ Giác Long Xuyên chịu ảnh hưởng triều biển Tây và triều biển Đông, mạnh nhất vào cuối tháng 4 và sang đầu tháng 5. - Vùng đồi núi thấp: + Thuộc hai huyện Tri Tôn và Tịnh Biên, trừ các đồi núi và vùng ven, vùng còn lại chịu ảnh hưởng lũ từ biên giới tràn qua và đổ ra biển Tây theo hệ thống kênh trục mới được nhà nước đầu tư nên mức độ thiệt hại được giảm thiểu nhiều. 2.2. Tình hình chăn nuôi thú y ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn trong tỉnh An Giang 2.2.1. Tình hình chăn nuôi Chăn nuôi bò là một nghề truyền thống và là một trong những thế mạnh của An Giang so với nhiều tỉnh trong vùng Đồng Bằng Sông Cửu Long. Với điều kiện tự nhiên, khí hậu thuận lợi đã góp phần thúc đẩy sự phát triển của ngành chăn nuôi. Theo Cục thống kê An Giang (2004) cho biết số lượng bò cả tỉnh An Giang vào năm 2003 là 52.832 con, bò cày kéo trong toàn tỉnh An Giang chiếm 47,89%, số bò còn lại nuôi tập trung ở 90 trang trại với tổng đàn là 3.771 con (trong đó bò thịt chiếm 26,81%, bò sinh sản chiếm 55,29% và bò sữa lai 17,9%) và nuôi rải rác trong dân. Riêng số lượng bò ở các huyện Chợ Mới là 6.899 con, Châu Thành là 2.118 con và Tri Tôn là 18.432 con. Nhìn chung số lượng trang trại tư nhân năm 2003 (87 trang trại) so với năm 2001 tăng 61,11%, tương ứng với số bò tăng 159,23%. Đặc biệt chăn nuôi bò sinh sản vào năm 2002 là 923 con đến năm 2003 tăng lên 20,69%. Giống bò được nuôi ở các huyện trong tỉnh An Giang chủ yếu là bò ta vàng và bò lai Sind. Những năm gần đây, chương trình Sind hoá đàn bò của tỉnh được đẩy mạnh nhằm nâng cao phẩm chất giống bằng phương pháp phối giống trực tiếp của bò Sind hay gieo tinh nhân tạo của giống bò Sind. Đặc biệt tỉnh có chủ trương giúp vốn chăn nuôi bò với lãi suất ưu đãi cho đồng bào dân tộc Khơmer huyện Tri Tôn, Tịnh Biên và cho nông dân nghèo ở huyện Chợ Mới, Châu Thành. Tinh thần cần cù, chịu khó của người dân cùng với sự quan tâm đầu tư thoả đáng của nhà nước làm cho ngành chăn nuôi bò ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn nói riêng và cả tỉnh An Giang nói chung đang ngày càng phát triển, số lượng đàn gia súc ngày càng tăng. 2.2.2. Tình hình quản lý Thú y Hệ thống Thú y ở An Giang đã đang được kiện toàn từ tỉnh xuống cơ sở và đã thực hiện đầy đủ các nhiệm vụ và chức năng của ngành. Góp phần đảm bảo an toàn dịch bệnh giúp cho ngành chăn nuôi phát triển. Hàng năm, các Trạm thú y tổ chức và thực hiện tốt việc tiêm phòng định kỳ, thực hiện công tác kiểm dịch động vật, kiểm soát giết mổ nhằm ngăn chặn sự lây lan của dịch bệnh, xây dựng phương án phòng và chống dịch bệnh cho gia súc, quản lý và cung ứng đầy đủ các loại thuốc thú y, vaccin cho tất cả các địa bàn huyện, xã trong tỉnh. Trung tâm khuyến nông có vai trò quan trọng trong ngành chăn nuôi, thường xuyên mở các cuộc họp, hội thảo và tập huấn để cung cấp thông tin về kỹ thuật mới cho các hộ chăn nuôi. Hệ thống tổ chức thú y ở An Giang - Sở NN & PTNT *: Sở Nông Nghiệp và Phát Triển Nông Thôn. Về tình hình dịch bệnh: Do tổ chức tốt mạng lưới thú y ở cơ sở nên ngành Thú y đã nắm và quản lý tốt tình hình dịch bệnh tại địa phương, tuy nhiên dịch bệnh còn xảy ra do ảnh hưởng của điều kiện tự nhiên, thời tiết, khí hậu, kinh tế xã hội, Cụ thể những năm gần đây các bệnh truyền nhiễm lẻ tẻ xảy ra như bệnh lở mồm long móng, bệnh tụ huyết trùng, Các cán bộ thú y và người chăn nuôi đang có biện pháp tích cực trong phòng trị các bệnh này. Bên cạnh đó, những bệnh ký sinh trùng gây ra cho gia súc cũng đang diễn ra, nhưng hầu như chưa được các cán bộ thú y và người chăn nuôi quan tâm phòng trị đúng mức về các bệnh này. 2.3. Đặc điểm sán lá gan Theo Trịnh Văn Thịnh và Đỗ Dương Thái (1978) cho biết sán lá gan có các đặc điểm sau : Sán lá gan thuộc lớp sán lá Trematoda, họ Fasciolidae, giống Fasciola gây ra. Chúng thường ký sinh ở ống dẫn mật, gan, túi mật của trâu, bò, dê, cừu và cả ở người. Gây viêm gan hoại tử, thời kỳ di hành còn thấy ở phổi, tim, hạch lâm ba và tuyến tuỵ. Ký sinh ở bò thường do hai loài Fasciola gigantica và Fasciola hepatica. Hội khuyến nông xãThú y xã Trạm Thú y huyện Chi cục Thú y Trung tâm khuyến nông huyện Trung tâm khuyến nông tỉnh Sở NN & PTNT * Ngoài ra còn có một số loài ký sinh ở tuyến tuỵ, ống dẫn mật, túi mật của gia súc nhai lại: Paramphystomum explanatum và Dicrocolium hopeslooss ký sinh ở ống dẫn mật, gan của bò, dê, cừu. 2.3.1. Hình thái Cũng như nhiều loài sán lá khác, sán lá gan có hệ sinh dục lưỡng tính (có cả bộ phận sinh dục đực và cái trên cùng một cá thể). Sán lá có hai giác bám, giác miệng ở phía đầu sán, giác bụng tròn và ở gần giác miệng. Sán lá gan không có hệ tuần hoàn và hô hấp. Hệ bài tiết gồm nhiều ống nhỏ, phân nhánh và thông với hai ống chính. Hai ống này hợp lại với nhau ở cuối thân rồi thông ra ngoài qua lỗ bài tiết. Bảng 1: So sánh đặc điểm của Fasciola gigantica và Fasciola hepatica Đặc điểm Fasciola gigantica Fasciola hepatica Dài thân Rộng Phía trước Phía đuôi Hai rìa mép Giác bụng Nhánh ruột 25 – 75 mm 5 - 12 mm Không tạo vai Tù Gần song song Có Có nhiều và thấy rõ 20 - 30 mm 3 - 13 mm Tạo vai Nhọn Không song song Có Ít hơn 2.3.2. Trứng Trứng có hình bầu dục, hai đầu nhọn đều, đầu hơi nhỏ hơn, có nắp, màu vàng nhạt, bên trong chứa tế bào phôi xếp kín vỏ trứng. Kích thước trứng 0,111 - 0,115 mm * 0,063 - 0,078 mm. Mỗi ngày, một sán lá gan có thể đẻ 120.000 trứng. Sán có thể sống 3 - 11 năm trong cơ thể ký chủ cuối cùng. Do đó mỗi súc vật nhiễm sán, mỗi năm thải một số lượng trứng khá lớn ra đồng cỏ, bãi chăn. Trứng sán rất nhạy cảm với khô hanh và chịu tác động trực tiếp của ánh sáng mặt trời. Nên những nơi khô ráo, không có nước và ký chủ trung gian sống thì trứng sán lá gan sẽ không tồn tại và phát triển theo các giai đoạn phát dục được. 2.3.3. Vị trí ký sinh và vật chủ trung gian Vị trí ký sinh: Túi mật, ống dẫn mật và gan. Vật chủ: Trâu, bò, dê, cừu. Ngoài ra còn có ở heo, ngựa, chó, thỏ, động vật hoang dã và kể cả người. Vật chủ trung gian: Là loài ốc nước ngọt thuộc các loài Lymnaea viridis, Lymnaea swinhoei, L. truncatula, L. modicella, L. viatrix, L. auricularia,. và 29 loài ốc khác. Trong đó Lymnaea truncatula là quan trọng nhất trong lan truyền Fasciola gigantica. Nơi phát hiện: Fasciola gigantica được phát hiện khắp đất nước Việt Nam, nhưng phân bố nhiều ở vùng ẩm thấp và có nguồn nước mạch phong phú. 2.3.4. Chu trình phát triển Fasciola trưởng thành ký sinh trong ống dẫn mật, túi mật của gan trâu, bò, dê, cừu,. Sau khi thụ tinh mỗi sán đẻ hàng chục vạn trứng. Trứng cùng dịch mật vào ruột, sau đó tiếp tục theo phân ra ngoài. Nếu gặp điều kiện thuận lợi (nhiệt độ 150C - 300C, pH = 5 - 7,7, có ánh sáng, nước) sau 10 - 15 ngày trứng hình thành Miracidium (mao ấu). Miracidium ra ánh sáng bật nắp trứng chui ra ngoài, bơi lội tự do trong nước. Nếu gặp vật chủ trung gian là những loài ốc Lymnaea (L. viridis, L. swinhoei, L. truncatula, L.Galba,), nó chui vào trong cơ thể ốc, di chuyển vào gan, ruột rồi phát triển thành Sporocyst (bào ấu). Sporocyst chứa nhiều tế bào phôi, nó to dần sau 15 - 30 ngày phát triển thành Redia (lôi ấu). Redia hình suốt chỉ, ít hoạt động chứa nhiều tế bào mầm. Khi Sporocyst có những Redia chứa bên trong tăng đến mức độ nhất định, Redia sẽ phá vỡ Sporocyst chui ra nội tạng của ốc. Mỗi Sporocyst có thể sinh ra 10 - 15 Redia. Mỗi Redia có thể sinh ra nhiều Redia con bằng lối sinh sản vô tính như trên. Sau khoảng 35 - 49 ngày, khi dài tới 1 mm, mỗi Redia có thể sinh ra 15 - 20 Cercaria (vĩ ấu). Việc sinh sản theo lôi ấu trùng sinh sản đã làm cho số lượng Redia trong ký chủ trung gian tăng lên và tăng số lượng vĩ ấu (Cercaria) chui ra khỏi ốc, vĩ ấu giống như con nòng nọc, đuôi dài, kích thước nhỏ hơn. Thời gian từ lúc Miracidium chui vào ốc đến khi phát triển thành Cercaria cần khoảng 50 - 80 ngày. Sau khi đã thành thục Cercaria qua miệng ốc ra môi trường ngoài, bơi lội tự do trong nước. Sau vài giờ (khoảng 10 - 24 giờ), nó rụng đuôi, tiết ra nhiều chất nhờn tạo thành vỏ bọc chắc chắn (kén) gọi là nang ấu (Adolescaria). Adolescaria thường bám vào cây cỏ thuỷ sinh hoặc ở những vũng nước trên đồng cỏ, quanh vùng lầy lội. Vật nuôi nhai lại ăn phải kén này, vào ống tiêu hoá, vỏ ngoài kén bị phân huỷ, ấu trùng được giải phóng phát triển thành sán ở ống dẫn mật. Nếu trâu bò ăn phải kén gây nhiễm, ấu trùng di hành về gan theo hai cách: - Chui qua màng ruột đi vào xoang bụng về mặt gan, sau đó chui qua tế bào gan vào ống dẫn mật. - Đi theo mạch máu về tĩnh mạch cửa của gan, chui qua tĩnh mạch về ống dẫn mật và túi mật. Chu trình phát triển của sán lá gan được xác định với các khoảng thời gian như sau: - Ở trong môi trường nước (ao, hồ, rãnh, ): trứng sán lá gan nở thành mao ấu sau 14 – 16 ngày. - Ở trong ký chủ trung gian: + Mao ấu phát triển thành bào ấu trong 7 ngày. + Bào ấu thành lôi ấu trong 8 – 21 ngày. + Lôi ấu thành vĩ ấu non trong 7 – 14 ngày. + Vĩ ấu non thành vĩ ấu già trong 13 – 14 ngày. - Ở trong nước (ao, hồ, rãnh,): vĩ ấu rụng đuôi thành kén gây bệnh sau 2 – 24 giờ. - Ở trong vật chủ trung gian cuối cùng: thời gian sán phát triển trưởng thành là 79 – 88 ngày. Hình 2: Vòng đời phát triển của sán lá gan (Clive Bennett, 1999) 2.3.5. Bệnh lý Triệu chứng: Gia súc mắc bệnh có biểu hiện chậm lớn, lông xù, khô, xơ xác, gầy và niêm mạc nhợt nhạt. - Thể cấp tính: ít xảy ra, con vật thường chết đột ngột, thiếu máu, đôi khi có triệu chứng thần kinh, con vật uể oải, kiệt sức, thường chết sau vài ngày kể từ khi xuất hiện triệu chứng. - Thể mãn tính: thường xảy ra, con vật gầy yếu, da khô, lông xù, phù thủng dưới cổ và dưới ngực và phân lúc lỏng lúc đặc. Bệnh tích: - Gan bị viêm, sưng to, màu nâu sẫm, trên bề mặt gan có nhiều sợi fibrin và những điểm thoái hoá, hoại tử màu trắng do tổ chức liên kết giữa thuỳ gan tăng sinh lan vào các thuỳ gan gây tiêu biến tổ chức. - Ống dẫn mật bị viêm, sưng to, thành ống dẫn mật tăng sinh dầy lên làm nghẽn lòng ống. Có trường hợp lòng ống bị sán đục khoét xâm nhập vào nhu mô gan tạo thành những cái hang hốc, vách ống mật tích tụ calci, lòng ống mật đôi khi có lẫn máu và mũ. 2.3.6. Phòng và trị bệnh Phòng: - Thường xuyên kiểm tra đàn để sớm phát hiện những gia súc bị nhiễm sán, phải có kế hoạch tẩy sán theo định kỳ ít nhất là 2 lần/ năm. Những nơi bị nhiễm nặng thì phải tẩy sán cho gia súc một năm đến 3 – 4 lần. Ở những trang trại chăn nuôi phải có kế hoạch chăn thả luân phiên đồng cỏ. Gia súc trước khi nhập đàn phải kiểm tra để tránh tình trạng thải mầm bệnh ra ngoài. - Xử lý các cơ quan nhiễm sán: nếu gan nhiễm sán lá gan nhiều phải giữ lại, nấu chín để nuôi heo hoặc súc vật khác. - Diệt ký chủ trung gian: tháo cạn nước trên đồng cỏ, bãi chăn. Chăn nuôi thêm súc vật ăn ký chủ trung gian như vịt, ngan, ngỗng, cá trắm cỏ,. để ăn ốc. Sử dụng hoá chất để diệt ốc ký chủ trung gian như vôi bột, CuSO4, Sulphate kali. - Vệ sinh thức ăn nước uống: cỏ cắt về phải đem phơi khô ráo, cho uống nước sạch. - Phân và chất độn chuồng phải được thu dọn sạch sẽ và đem ủ sinh học trước khi đem bón cho cây trồng. Trị: Hiện nay có rất nhiều loại thuốc điều trị có hiệu quả cao như: - Fasciozanila: dùng liều 12 mg/kg P, trộn thức ăn hoặc hoà nước cho uống. - Dertyl B: dùng liều 6 mg/ kg P, cho uống. - Dovenix: dùng liều 10 mg/ kg P, tiêm dưới da. - Oximysol: dùng liều 1 g/ kg P, trộn thức ăn hoặc hoà tan cho uống. - Albendazole: liều dùng 7,5 mg /kg P cho ăn hoặc uống.  Ghi chú: bò đang cho bú và vắt sữa, nếu sử dụng thuốc sau 3 ngày mới lấy sữa lại, bò thịt sau 1 tháng mới giết thịt. 2.4. Tóm lược một số công trình nghiên cứu bệnh sán lá gan trên bò Sán lá gan và bệnh do sán lá gan luôn thu hút sự quan tâm nghiên cứu của các nhà khoa học, bác sĩ thú y. Sơ lược một số công trình nghiên cứu sán lá gan: Sán lá gan được phát hiện và mô tả đầu tiên vào năm 1370 ở Jean De Brie. Năm 1752, Swammerdam phát hiện những vĩ ấu (Cercaria) của sán này ở một con ốc Gasteropoda. 130 năm sau (1882), Thomas và Lenkrat gần như cùng một lúc tạo được chu trình sinh học hoàn chỉnh của sán lá gan. Hiện nay thường có hai loài là Fasciola hepatica và Fasciola gigantica Ở Thái Nguyên, qua kiểm tra 1.043 trâu bò tại lò mổ Thái Nguyên thì có 57% trâu bò bị nhiễm sán lá gan (Phan Địch Lân, Nguyễn Công Phúc và Trần Tuấn Sa, 1963). Tỉnh Lào Cai là vùng cao có bò bị nhiễm sán lá gan với tỷ lệ nhiễm là 20,8 – 26,6%, thấp hơn đồng bằng, và phát hiện thấy có ốc ký chủ trung gian của sán lá gan có tên là Lymnaea viridis, chúng phân bố rất rộng và chúng nhiễm ấu trùng sán lá gan với tỷ lệ cao. Ở Nam Hà, trâu bò cũng bị nhiễm sán lá gan chiếm 51 – 57% (Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng, 1974). Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh (1978) thì kết quả của việc thu nhận tất cả các loài ký sinh trùng lấy ở lò mổ thịt Chánh Hưng (Sài Gòn) với tổng số là 4.638 con bò. Những súc vật này được đưa đến từ 28 tỉnh miền Nam Việt Nam có tỷ lệ nhiễm sán lá gan là 60%. Tại tỉnh Phú Khánh là vùng chăn nuôi bò tương đối nhiều cũng không tránh khỏi việc nhiễm bệnh sán lá gan, kết quả nghiên cứu cho thấy bò nơi đây nhiễm sán lá gan là 21,92 – 30% (Vũ Sỹ Nhân và Đỗ Trọng Minh, 1989). Trần Hữu Danh (1995) nghiên cứu tình hình nhiễm sán lá gan ở An Giang thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò già là 33,33%, bò tơ là 15,38%. Lương Văn Huấn và cộng tác viên (1996) cho rằng bò nuôi tại các tỉnh thành ở phía nam nhiễm sán lá gan nặng nhẹ tuỳ vùng nhưng dao động từ 20 – 50%. Đặc biệt một số loài sán lá gan cũng truyền lây sang người, có 14 loài giun sán gây bệnh trên bò có thể truyền lây sang người trong đó có sán lá gan lớn. Bò ở đồng bằng có tỷ lệ nhiễm cao hơn vùng miền núi, cụ thể là: Đồng bằng nhiễm Fasciola gigantica là 60,23%, miền núi nhiễm Fasciola gigantica là 29,33%. Và có tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò tăng dần theo tuổi. Vùng đồng bằng: Bò dưới 4 tuổi nhiễm sán lá gan là 37,14%, bò từ 4 – 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 55,31%, bò trên 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 72,58%. Vùng miền núi: Bò dưới 4 tuổi nhiễm sán lá gan là 6,89%, bò từ 4 – 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 27,74%, bò trên 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 37,06% (Trần Văn Quang, 1998). Tại huyện Vĩnh Hưng tỉnh Long An thì có tỷ lệ nhiễm sán lá gan loài Fasciola gigantica là 3,33%, Paramphystomum explanatum là 23,33% (Huỳnh Văn Quang, 2001). Tạ Ngọc Liên (2002) khảo sát 60 con trâu và 40 con bò tại lò mổ Trung Tâm Củ Chi bằng phương pháp mổ khám từng phần của viện sĩ Skrjabin, thì có tỷ lệ nhiễm sán lá gan thuộc loài Fasciola gigantica là 53%. Qua khảo sát bằng phương pháp mổ khám 60 con bò ở Hồng Ngự tỉnh Đồng Tháp có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan loài Fasciola gigantica 30 %, tỷ lệ nhiễm tăng dần theo độ tuổi (Huỳnh Ân Giao, 2002). Trần Anh Nhân (2004) cho biết kết quả của việc mổ khám 150 con bò tại lò mổ tập trung ở thị trấn Dĩ An – Bình Dương, nguồn bò được ghi nhận từ 3 tỉnh: Bình Dương - Đồng Tháp – Phú Yên, trên mỗi bò hạ thịt, kiểm tra và thu nhặt mẫu vật ở cơ quan như dạ múi khế, dạ cỏ, gan, xoang bụng. Kết quả đã phát hiện được 99 con bò nhiễm giun sán, trong đó có 37 con bò nhiễm sán lá gan, tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò từ 1 – 2 năm tuổi là 16,66%, bò từ 3 – 4 năm tuổi là 23,43%, bò từ 5 – 6 năm tuổi là 25%. Riêng loài Fasciola gigantica 21,33%. 2.5. Tác hại của bệnh sán lá gan Bệnh sán lá gan còn gây thiệt hại về kinh tế cho người chăn nuôi bò, sán lá gan có thể làm cho bò chậm tăng trưởng và giảm sinh sản, giảm phẩm chất thịt, sữa, da, lông. Bò sữa bị nhiễm sán lá gan có con giảm sản lượng sữa tới 40%. Khi mắc bệnh này bò sẽ dễ mẫn cảm với các mầm bệnh truyền nhiễm khác do giảm sức đề kháng (Đỗ Dương Thái và Trịnh Văn Thịnh, 1978). Hồ Thị Thuận (1984) cho biết ở Hà Lan, hàng năm bệnh sán lá gan gây thiệt hại cho ngành kinh doanh sữa là 135 triệu Phơ – răng. Ở lò sát sinh Anh, hàng năm phải loại thải 120 tấn gan tươi trị giá 2,8 triệu Phơ – răng. Trần Hữu Danh (1995) cho biết tác động sán lá gan đối với ký chủ bò phụ thuộc vào độc lực của chúng, sức chống đỡ của ký chủ, giai đoạn phát dục của sán lá gan, ảnh hưởng của vật môi giới. Tác động của sán lá gan đối với cơ thể ký chủ bò ở nhiều mặt: tác động cơ giới, tác động chiếm đoạt, tác động đầu độc và tác động truyền bệnh. Đáng chú ý nhất là bệnh sán lá gan vừa gây bệnh cho vật nuôi vừa gây bệnh cho người. Ở nước ta có hai trường hợp bệnh trên người, trong đó một trường hợp gây tử vong với số sán là 700 con (Nguyễn Thị Kim Thành và Nguyễn Văn Ban, 1999). Chương 3 VẬT LIỆU VÀ PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 3.1. Vật liệu Vật liệu dùng để lấy mẫu: găng tay nhựa, bọc nylon, dây thun, viết lông dầu. Vật liệu dùng để bảo quản mẫu khi vận chuyển: thùng trữ lạnh. Vật liệu dùng gạn rửa phân: cốc đông 500 ml, vợt lưới, thau, xô. Vật liệu dùng để quan sát tìm trứng sán: đĩa petri và kính hiển vi. 3.2. Phương pháp nghiên cứu 3.2.1. Phương pháp chọn mẫu Chọn mẫu ngẫu nhiên mẫu phân/ bò tại nông hộ chăn nuôi bò ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn đại diện cho ba vùng sinh thái trong tỉnh với số mẫu là 50 bò/ huyện. 3.2.2. Phương pháp tiến hành Để xác định tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò, chúng tôi tiến hành thu mẫu ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn: 50 mẫu phân/ 50 bò/ huyện, mỗi lần thu mẫu là 25 mẫu phân/ 25 bò/ huyện và phỏng vấn người chăn nuôi về điều kiện môi trường chăn nuôi bò. 3.2.2.1. Kiểm tra sự hiện diện của sán lá gan Cách lấy mẫu: - Thu thập số liệu hộ chăn nuôi bò ở từng địa bàn trong huyện từ trạm thú y của huyện. - Lập danh sách hộ chăn nuôi bò được chọn để đến lấy mẫu. - Lấy mẫu ngẫu nhiên: lấy mẫu phân bò bằng cách đến từng hộ chăn nuôi bò đã chọn ngẫu nhiên của mỗi huyện, tiến hành lấy mẫu phân mà bò vừa mới thải ra ngoài môi trường tự nhiên hoặc phân tươi lấy trực tiếp từ hậu môn của bò, số lượng khoảng 10 - 20 gam cho vào túi nylon. Ghi số tai (hoặc ký hiệu của con vật), ngày lấy mẫu bằng viết dầu lên túi nylon, và bảo quản trong thùng trữ lạnh để vận chuyển về phòng thí nghiệm. Bên cạnh đó phỏng vấn chủ nuôi về những vấn đề có liên quan đến bò (theo phiếu phỏng vấn đã soạn sẵn). Phương pháp kiểm tra: - Dùng phương pháp gạn rửa sa lắng của Benedek để kiểm tra trứng sán lá gan có trong phân. Cách tiến hành: Mỗi mẫu phân được đưa vào cốc có dung tích 500 ml, đổ nước lã vào khoảng 4/5 cốc. Sau đó quậy đều cho tan phân rồi đưa lên rây để lọc lấy phần xác bỏ đi. Phần nước này để yên một thời gian khoảng 5 - 10 phút, sẽ đổ bỏ lớp nước trong bên trên đi. Tiếp tục cho nước vào khoảng 4/5 cốc và quậy đều lên, cũng để yên 5 - 10 phút rồi đổ lớp nước bên trên và cứ tiếp tục như các bước trên thực hiện 3 - 4 lần. Cuối cùng lấy cặn đổ vào đĩa petri, rồi xem chúng dưới kính hiển vi với độ phóng đại 100 lần (10 * 10) để tìm trứng sán lá gan. 3.2.2.2. Điều tra bằng phiếu phỏng vấn về điều kiện môi trường chăn nuôi bò và xử lý số liệu - Thiết kế phiếu phỏng vấn. - Điều tra thử để có thể sửa lại phiếu phỏng vấn cho hợp lý hơn (nếu cần). - Điều tra. - Nhập số liệu. - Phân tích số liệu. 3.2.3. Chỉ tiêu theo dõi Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên từng huyện (đại diện cho ba vùng sinh thái). Từ đó có thể so sánh: - Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò trên từng vùng. - Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo lứa tuổi của bò ở một số huyện. - Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo giới tính của bò. - Điều kiện môi trường chăn nuôi của từng huyện ảnh hưởng đến tỷ lệ nhiễm sán lá gan. 3.3. Phân tích thống kê Sử dụng Microsoft excel để phân tích số liệu (bao gồm nhập số liệu, tính tỷ lệ phần trăm và vẽ đồ thị theo tỷ lệ phần trăm). + Tỷ lệ nhiễm % ═ (Số con nhiễm * 100)/ Số con kiểm tra. Chương 4 KẾT QUẢ VÀ THẢO LUẬN Qua thời gian thực hiện đề tài điều tra tình hình nhiễm sán lá gan ở bò tại ba huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn trong tỉnh An Giang thu được kết quả như sau: 4.1. Điều kiện môi trường chăn nuôi bò Kết quả phỏng vấn người chăn nuôi và quan sát về điều kiện môi trường chăn nuôi bò ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn . 4.1.1. Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Chợ Mới Bảng 2: Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Chợ Mới Yếu tố Nguyên vật liệu/ Tình trạng Tỷ lệ (%) Chuồng nuôi Xi măng 50,0 Gỗ 37,5 Đất 12,5 Khô ráo 40,0 Ẩm ướt 60,0 Điều kiện môi trường xung quanh Ao tù nước đọng 35,0 Ruộng lúa 33,3 Hình thức khác 31,7 Hình thức chăn nuôi Nuôi nhốt 50,0 Nuôi thả 20,0 Nuôi nhốt kết hợp thả 30,0 Thức ăn Bắp 40,0 Cỏ thu hoạch trên khô 40,0 Cỏ thu hoạch dưới nước 20,0 Tiêm phòng vaccin và tẩy sán lá gan Bệnh lở mồm long móng và tụ huyết trùng 80,0 Bệnh sán lá gan 00,0 Bảng 2 cho thấy điều kiện cơ sở vật chất xây dựng chuồng nuôi ở huyện Chợ Mới bằng xi măng chiếm đa số, xi măng làm nền một cách tạm bợ, hầu như các chuồng làm bằng xi măng dùng cho việc chăn nuôi bò là những chuồng được sử dụng lại từ chuồng nuôi heo trước kia và một số chuồng được xây dựng hoàn toàn mới. Người chăn nuôi còn sử dụng các loại gỗ như dừa, tràm, tre,... để làm nền sàn nuôi bò, họ làm nền chuồng nuôi cao hơn mặt đất khoảng 30 cm trở lên. Tuy nhiên, người chăn nuôi thường có thói quen dội rửa cho phân xuống phía dưới nền chuồng nuôi hoặc phía sau chuồng nuôi. Chính vì thế mà phân tồn đọng ở đó rất lâu kết hợp nguồn nước dội rửa chuồng làm cho mặt dưới của nền chuồng và xung quanh chuồng luôn ẩm ướt, ngoài ra phân bò bám trên mặt gỗ hay ở các kẻ hở giữa các tấm gỗ, Đây là điều kiện để trứng sán lá gan gặp điều kiện thuận lợi để tồn tại và phát triển. Ngoài ra, họ dùng phân bò để bón cho ruộng lúa hoặc đồng cỏ, ... Nếu những nơi này thường xuyên ẩm ướt và có ký chủ trung gian thì trứng sán phát triển và tiếp tục gieo rắc mầm bệnh cho những con vật khác. Bên cạnh chuồng còn có nhiều ao tù nước đọng xung quanh và ruộng lúa, mà người dân nơi đây thường không mấy quan tâm về vấn đề này, vì họ cho rằng ao tù nước đọng và ruộng lúa xung quanh chuồng cũng không làm ảnh hưởng đến quá trình chăn nuôi bò cũng như chúng không phải là nơi trung gian chứa mầm bệnh và vật chủ trung gian của nhiều loại mầm bệnh kể cả bệnh truyền nhiễm và bệnh ký sinh trùng và đặc biệt là bệnh sán lá gan. Các yếu tố như thức ăn cho bò chủ yếu là bắp và cỏ thu hoạch trên khô, và trong những năm nay Chợ Mới đã được bao đê chống lũ, ở một số vùng mực nước ở các kênh, rạch, sông, ao, hồ, là rất thấp kể cả trong mùa lũ và mùa khô dẫn đến các loài ốc nước ngọt sinh sống bị hạn chế, ... Chính các yếu tố này đã làm giảm sự tồn tại và phát triển của mầm bệnh sán lá gan. Việc tiêm phòng vaccin bệnh lở mồm long móng và tụ huyết trùng được các hộ chăn nuôi thực hiện nhưng việc tẩy sán lá gan hầu như họ chưa thực hiện. 4.1.2. Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Châu Thành Bảng 3: Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Châu thành Yếu tố Nguyên vật liệu/ Tình trạng Tỷ lệ (%) Chuồng nuôi Xi măng 50,0 Gỗ 30,0 Đất 12,0 Khô ráo 45,0 Ẩm ướt 55,0 Điều kiện môi trường xung quanh Ao tù nước đọng 40,0 Ruộng lúa 30,0 Hình thức khác 30,0 Hình thức chăn nuôi Nuôi nhốt 47,5 Nuôi thả 30,0 Nuôi nhốt kết hợp thả 22,5 Thức ăn Bắp 16,0 Cỏ thu hoạch trên khô 26,8 Cỏ thu hoạch dưới nước 50,0 Tiêm phòng vaccin và tẩy sán lá gan Bệnh lở mồm long móng và tụ huyết trùng 85,0 Bệnh sán lá gan 10,0 Bảng 3 cho thấy: Công tác vệ sinh về thức ăn, nước uống, chuồng trại, và điều kiện môi trường xung quanh chuồng nuôi ở huyện Châu Thành vẫn chưa thực hiện tốt. Chuồng được làm bằng xi măng là chủ yếu. Nhưng việc vệ sinh chuồng chưa sạch và thường xuyên, chuồng nuôi ẩm ướt chiếm tỷ lệ cao. Bên cạnh đó còn tồn tại nhiều ao tù nước đọng hôi thối gây nên tình trạng ô nhiễm, do người chăn nuôi không xử lý nước bằng biện pháp sinh học như trồng rau hay xử lý bằng hóa chất trước khi cho thoát ra ngoài, nguồn nước dội rửa phân bò tồn đọng lại những nơi trũng thấp gần chuồng. Thức ăn chủ yếu là cỏ thu hoạch dưới nước không được phơi cho héo hay rửa sạch trước khi đem cho bò ăn tạo điều kiện nhiễm bệnh sán lá gan. Phần lớn các hộ chăn nuôi bò chưa thực hiện tiêm phòng bệnh sán lá gan, nếu có thì thời gian dùng thuốc tẩy trong thời gian trước đây đã quá lâu (gần một năm) mà họ chưa tiêm phòng lại, cho nên bò sẽ bị tái nhiễm trở lại. Tuy nhiên, Châu Thành là vùng thực hiện tiêm phòng bệnh sán lá gan cho bò tốt hơn huyện Chợ Mới. Vì nơi đây có một số trang trại chăn nuôi bò vừa và nhỏ, trang trại chăn nuôi với qui mô lớn như Trại bò Châu Thành của Công Ty Afiex và một số hộ chăn nuôi bò sữa tư nhân đều thực hiện tiêm phòng bệnh sán lá gan theo định kỳ. 4.1.3. Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Tri Tôn Bảng 4: Điều kiện môi trường chăn nuôi ở huyện Tri Tôn Yếu tố Nguyên vật liệu / Tình trạng Tỷ lệ(%) Chuồng nuôi Xi măng 5 Gỗ 10 Đất 85 Khô ráo 75 Ẩm ướt 25 Điều kiện môi trường xung quanh Ao tù nước đọng 14 Ruộng lúa 60 Hình thức khác 26 Hình thức chăn nuôi Nuôi nhốt 48 Nuôi thả 20 Nuôi nhốt kết hợp thả 32 Thức ăn Bắp 7 Cỏ thu hoạch trên khô 60 Cỏ thu hoạch dưới nước 33 Tiêm phòng vaccin và tẩy sán lá gan Bệnh lở mồm long móng và tụ huyết trùng 78 Bệnh sán lá gan 0 Bảng 4 cho thấy: Tri Tôn là vùng đồi núi có những vùng đất cao hơn so với đồng bằng và cù lao. Vì vậy chuồng nuôi nơi đây khô ráo kể cả chuồng nền đất, điều kiện xung quanh chuồng ít ao tù nước đọng. Mặt khác, người dân sống nhờ vào trồng lúa là chủ yếu, đặc biệt là vùng đồi núi có nhiều đồng cỏ hoang. Các hộ chăn nuôi bò có thể tận dụng nguồn thức ăn từ rơm lúa và các loại cỏ mọc trên khô đem cho bò ăn, cũng có một số hộ sử dụng các loài cỏ mọc dưới nước ở các khe suối, ao, hồ, sông, Nhưng việc sử dụng các loại thức ăn này với tỷ lệ thấp. Chính vì thế đã hạn chế cơ hội tiếp xúc mầm bệnh sán lá gan và ký chủ bò. Kết quả ở bảng 2, bảng 3 và bảng 4 chứng tỏ mầm bệnh sán lá gan đang lưu hành và tồn tại trong nhiều địa phương. Điều kiện môi trường chăn nuôi bò hiện nay thuận lợi cho sự phát triển của mầm bệnh sán lá gan. Môi trường sống của bò đang tồn tại nhiều vật chủ trung gian. Trong một thời gian dài, công tác phòng trị bệnh chưa được quan tâm đúng mức, người chăn nuôi chưa thật sự quan tâm đến tình hình nhiễm bệnh sán lá gan của gia súc, để cho gia súc mang bệnh trong một thời gian dài. Hơn nữa, ngày nay trong điều kiện kinh tế ngày càng phát triển, giao thông thuận lợi thì việc mua bán và trao đổi gia súc từ nơi này đến nơi khác không còn khó khăn như trước, điều đó cũng góp phần làm cho mầm bệnh sán lá gan lây lan rộng hơn. 4.2. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò trên từng vùng Qua quá trình kiểm tra 150 mẫu phân bò tương ứng 150 con bò ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn trong tỉnh An Giang, mỗi huyện lấy với số mẫu là 50 mẫu phân/ 50 con bò. Kết quả được tính ở bảng 5 và hình 3. Bảng 5: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò trên từng vùng Địa điểm Số kiểm tra(con) Số nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (% ) Chợ Mới Châu Thành Tri Tôn 50 50 50 12 11 7 24 22 14 Tổng 150 30 20 24 22 14 0 5 10 15 20 25 Tỷ lệ nhiễm (%) Chợ Mới Châu Thành Tri Tôn Huyện Hình 3: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò trên từng vùng Bảng 5 và hình 3 cho thấy ở 3 huyện có 30 con bò bị nhiễm sán lá gan, chiếm tỷ lệ 20%. Trong đó: + Huyện Chợ Mới có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan là 24%. + Huyện Châu Thành có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan là 22%. + Huyện Tri Tôn có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan là 14%. Với kết quả này chúng tôi nhận thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò ở các huyện có sự khác nhau. Chợ Mới có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan cao nhất là do điều kiện tự nhiên, xã hội ở Chợ Mới thuận lợi cho sự phát triển của sán lá gan. Chợ Mới là vùng cù lao có nhiều vùng trũng là môi trường thích hợp cho sự phát triển của các nhân tố trung gian. Bên cạnh đó, tập quán chăn nuôi quãng canh chăn thả gia súc ngoài đồng, uống nước tự do ở kênh rạch làm cho chúng dễ nhiễm bệnh. Hơn nữa, các biện pháp phòng và trị bệnh sán lá gan chưa được áp dụng nhiều cũng là một trong những yếu tố góp phần gây bệnh sán lá gan cho bò. Với tỷ lệ nhiễm là 24%, phù hợp với kết quả của Vũ Sỹ Nhân và Đỗ Trọng Minh (1989) nghiên cứu tình hình nhiễm sán lá gan ở tỉnh Phú Khánh là 21,92 - 30%. Châu Thành là vùng đồng bằng có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan cao thứ hai. Châu Thành được chia làm hai vùng là vùng đồng bằng và vùng cù lao. Ở vùng đồng bằng thì một số hộ chăn nuôi có sự hiểu biết về kỹ thuật chăn nuôi bò và họ áp dụng việc phòng và trị bệnh sán lá gan trên bò, bên cạnh đó vùng này có địa hình bằng phẳng vì vậy hạn chế được tỷ lệ bò nhiễm bệnh sán lá gan. Trong khi vùng cù lao (xã Bình Thạnh, Châu Thành) thì đa số các hộ chăn nuôi bò chưa thật sự quan tâm đến việc phòng và trị bệnh sán lá gan. Ngoài ra, họ xây dựng chuồng nuôi chủ yếu bằng gỗ dẫn đến môi trường xung quanh chuồng tồn đọng nhiều phân và ao tù nước đọng, Châu Thành có tỷ lệ nhiễm sán gan trên bò là 22%. Kết quả này phù hợp với Phan Địch Lân và Phạm Sỹ Lăng (1974) thấy tỷ lệ nhiễm Fasciola ở bò 20,8% - 26,6%, và kết quả trên rất gần với kết quả của Trần Anh Nhân (2004) cho biết ở Bình Dương - Đồng Tháp - Phú Yên có tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan thuộc loài Fasciola gigantica 21,33 %. Tri Tôn có tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò thấp hơn hai vùng cù lao và đồng bằng. Do Tri Tôn là vùng đồi núi, có địa hình cao hơn so với vùng đồng bằng và vùng cù lao. Tri Tôn có ít sông ngòi, kênh rạch và vùng trũng. Đặc biệt là vùng ít chịu ảnh hưởng của lũ hàng năm. Nên nơi đây hạn chế một phần cho sự phát triển và tồn tại của các nhân tố trung gian và mầm bệnh sán lá gan. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò giữa các vùng có sự biến thiên đi từ thấp đến cao (14 – 24%) từ núi, đến đồng bằng và cù lao, rất phù hợp với kết quả phỏng vấn về môi trường chăn nuôi ở 3 địa phương trên. Kết quả trên phù hợp với kết quả nghiên cứu của Lương Văn Huấn và cộng tác viên (1996) tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở 11 tỉnh thành phía Nam biến động từ 20 - 50%. Tỷ lệ nhiễm giảm dần qua các vùng sinh thái của cù lao, đồng bằng và đồi núi. Rất phù hợp với nhận định của Phan Địch Lân (1986): tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở trâu bò đi từ cao đến thấp qua các vùng đồng bằng, trung du, miền núi. 4.3. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo lứa tuổi bò ở một số huyện Qua khảo sát 150 mẫu phân từ 150 con bò tại huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn. Chúng tôi ghi nhận tình hình nhiễm sán lá gan được trình bày qua bảng 6 và hình 4. Bảng 6: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo lứa tuổi bò ở một số huyện Địa điểm Tuổi bò(năm) Số kiểm tra (con) Số nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%) Chợ Mới Châu Thành Tri Tôn 1 - 2 3 – 4 ≥ 5 1 - 2 3 – 4 ≥ 5 1 - 2 3 – 4 ≥ 5 21 19 10 26 17 7 20 21 9 4 5 3 5 4 2 2 3 2 19,05 26,32 30,00 19,23 23,53 28,57 10,00 14,29 22,22 19,05 26,32 30 19,23 23,53 28,57 10 14,29 22,22 0 5 10 15 20 25 30 Tỷ lệ nhiễm (%) Chợ Mới Châu Thành Tri Tôn Huyện 1 -2 năm 3 - 4 năm >= 5 năm Hình 4: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo tuổi bò ở một số huyện Bảng 6 và hình 4 cho thấy: - Huyện Chợ Mới: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò từ 1 - 2 tuổi là 19,05%, bò từ 3 - 4 tuổi là 26,32%, bò ≥ 5 tuổi là 30%. - Huyện Châu Thành: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò từ 1 - 2 tuổi là 19,23%, bò từ 3 - 4 tuổi là 23,53%, bò ≥ 5 tuổi là 28,57%. - Tri Tôn: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò từ 1 - 2 tuổi là 10%, bò từ 3 - 4 tuổi là 14,29%, bò ≥ 5 tuổi là 22,22%. Qua bảng 6 và hình 4 nhận thấy là tuổi càng cao có tỷ lệ nhiễm sán lá gan càng tăng. Chứng tỏ tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò tăng dần theo độ tuổi. Điều này phù hợp với đặc điểm của bò, bò càng về già sức đề kháng của cơ thể càng giảm lại phải thường xuyên sống trong môi trường có nhiều mầm bệnh nên khả năng mắc bệnh càng tăng theo độ tuổi. Mặt khác, khi sán lá gan đã xâm nhập và phát triển trong cơ thể vật chủ khá lâu, chúng có thể sống 3 đến 11 năm. Trong cơ thể vật chủ, chúng có thể đẻ trứng rất nhiều (120.000 trứng/ con / ngày) nên có tỷ lệ nhiễm có thể tăng thêm theo thời gian nếu gặp điều kiện môi trường chăn nuôi bò thuận lợi cho chúng tồn tại và phát triển. Điều này sẽ gây thiệt hại kinh tế cho người chăn nuôi bò ở huyện Chợ Mới, Châu Thành và Tri Tôn nói riêng và tỉnh An Giang nói chung. Kết quả này phù hợp với kết quả của Trần Hữu Danh (1995) nghiên cứu tình hình nhiễm sán lá gan ở An Giang thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò già là 33,33%, bò tơ là 15,38%. Theo Trần Văn Quang (1998) cho biết tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò tăng dần theo tuổi. Vùng đồng bằng: Bò dưới 4 tuổi nhiễm sán lá gan là 37,14%, bò từ 4 - 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 55,31%, bò trên 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 72,58%. Vùng miền núi: Bò dưới 4 tuổi nhiễm sán lá gan là 6,89%, bò từ 4 - 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 27,74%, bò trên 7 tuổi nhiễm sán lá gan là 37,06%, cao hơn kết quả của chúng tôi. Theo Trần Anh Nhân (2004) cho biết tại Bình Dương, Đồng Tháp và Phú Yên có tỷ lệ nhiễm sán lá gan ở bò từ 1 - 2 tuổi là 16,66%, bò từ 3 – 4 tuổi là 23,43%, bò từ 5 – 6 tuổi là 25%, thấp hơn kết quả của chúng tôi. Kết quả của chúng tôi chưa phù hợp với kết quả của các tác giả trên là do thời gian, địa bàn, số bò, điều tra có sự khác nhau, cho nên kết quả kiểm tra không giống nhau nhưng cũng cho thấy tỷ lệ nhiễm tăng dần theo lứa tuổi. 4.4. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo giới tính của bò Qua kiểm tra mẫu phân của bò đực và bò cái, có kết quả như sau: Bảng 7: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo giới tính của bò Giới tính Số kiểm tra(con) Số nhiễm (con) Tỷ lệ nhiễm (%) Đực Cái 89 61 17 13 19,10 21,31 21.31 19.1 0 5 10 15 20 25 Tỷ lệ nhiễm (%) Cái Đực Giới tính Hình 5: Tỷ lệ nhiễm sán lá gan theo giới tính của bò Kết quả cho thấy tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò đực là 19,10%, bò cái là 21,31%, như vậy không có sự khác nhau nhiều về tỷ lệ nhiễm giữa hai giới tính. Điều này phù hợp với kết quả của Huỳnh Văn Hoang (2001), khảo sát 44 con bò đực và 16 con bò cái cho thấy bò cái nhiễm sán lá là 88,63%, bò đực là 87,5%. Tóm lại: Qua quá trình điều tra, chúng tôi nhận thấy huyện Chợ Mới và Châu Thành là hai vùng có môi trường tự nhiên, khí hậu, kinh tế văn hoá xã hội gần giống nhau. Vì vậy điều kiện môi trường chăn nuôi nơi đây cũng không có sự khác biệt lắm. Dẫn đến kết quả tỷ lệ bò nhiễm sán lá gan không chênh lệch nhau nhiều, chỉ khác là ở vùng miền núi Tri Tôn do điều kiện tự nhiên, khí hậu, kinh tế xã hội có sự khác nhau. Việc chăn nuôi bò chủ yếu tập trung ở vùng nông thôn và vùng núi, mặt bằng dân trí còn thấp nên việc áp dụng khoa học kỹ thuật và am hiểu về tác hại bệnh sán lá gan để phòng trị bệnh còn hạn chế. Thuốc tẩy và diệt vật chủ trung gian của sán lá gan chưa được ứng dụng rộng rãi. Qua những vấn đề trên cho thấy là điều kiện môi trường chăn nuôi có ảnh hưởng rất lớn đến khả năng gây bệnh sán lá gan. Chương 5 KẾT LUẬN VÀ ĐỀ NGHỊ 5.1. Kết luận Từ những kết quả điều tra, chúng tôi rút ra những kết luận như sau: Điều kiện môi trường chăn nuôi bò ở huyện Chợ Mới và Châu Thành (vùng cù lao và đồng bằng) thuận lợi hơn cho sự tồn tại và phát triển của mầm bệnh và ký chủ trung gian của sán lá gan so với điều kiện môi trường chăn nuôi bò ở huyện Tri Tôn (vùng miền núi). Qua điều tra 150 mẫu phân bò cho thấy bò nuôi ở vùng đồng bằng (Châu Thành) và cù lao (Chợ Mới) có tỷ lệ nhiễm sán lá gan cao hơn ở vùng miền núi (Tri Tôn). Tỷ lệ nhiễm sán lá gan tăng dần theo độ tuổi của bò, bò càng già tỷ lệ nhiễm sán lá gan càng cao. Tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò đực và bò cái là gần như nhau. 5.2. Đề nghị 5.2.1. Đối với cán bộ thú y và ban ngành có liên quan Đề nghị Chi cục thú y tỉnh An Giang và Trung tâm khuyến nông tổ chức các lớp tập huấn hoặc phát những tờ bướm cho người dân về bệnh và cách phòng chống. Điều tra các ký chủ trung gian của sán lá gan và ứng dụng các biện pháp tiêu diệt chúng. Các cơ quan quản lý thú y và trung tâm nghiên cứu nên tiếp tục điều tra và kiểm tra tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò và các gia súc cảm nhiễm khác trên diện rộng ở nhiều vùng khác nhau, theo mùa khác nhau, nhằm hiểu biết thêm về tình hình nhiễm sán lá gan ký sinh trên bò. 5.2.2. Đối với người chăn nuôi Quản lý đồng cỏ, chăn thả luân phiên trên đồng cỏ, vệ sinh thức ăn nhất là các loài cỏ mọc ven sông, suối, ao, hồ. Chú ý vệ sinh chuồng trại, chăm sóc bò thường xuyên, theo dõi tình trạng sức khoẻ của bò, sớm phát hiện những triệu chứng, bệnh tích và báo ngay với cán bộ thú y gần nhất để có biện pháp phòng trị sớm. Tích cực diệt trừ các vật chủ trung gian như các loài ốc Lymnaea viridis, Lymnaea swinhoei, Lymnaea truncatula,...... Định kỳ tẩy sán lá gan bằng các loại thuốc ở các độ tuổi phù hợp nhằm hạn chế tối đa tỷ lệ nhiễm sán lá gan trên bò. TÀI LIỆU THAM KHẢO Chi cục thống kê tỉnh An Giang. 2004. Niên giám thống kê An Giang. An Giang: NXB thống kê. Clive Bennett. 1999. The life cycle of Fasciola hepatica. FAO. Đọc từ: (đọc ngày 20/04/2005). Đỗ Dương Thái, Trịnh Văn Thịnh. 1978. Công trình nghiên cứu ký sinh trùng ở Việt Nam. Hà Nội: NXB khoa học và kỹ thuật. Hồ Thị Thuận. 1984. Tạp chí Khoa học kỹ thuật thú y số 6 – 1984. Hà Nội: Hội Thú Y Việt Nam. Hồ Việt Hiệp. 2002. Vị Trí địa lý An Giang. Văn phòng UBND tỉnh An Giang. Đọc từ: (đọc ngày 15/04/2005). Huỳnh Văn Hoang. 2001. Thành phần giun sán ký sinh trên bò ở huyện Vĩnh Hưng tỉnh Long An. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư chăn nuôi thú y. Đại Học Nông Lâm TP. HCM: Khoa chăn nuôi thú y. Lương Văn Huấn, Lê Hữu Khương. 1996. Ký sinh và bệnh ký sinh ở gia súc – gia cầm. TP.HCM: NXB nông nghiệp. Nguyễn Thị Kim Thành, Nguyễn Văn Ban. 1999. Chăn nuôi thú y 2. Hà Nội: NXB giáo dục. Phan Địch Lân, Phạm Sỹ Lăng. 1974. Bệnh trâu bò ở Việt Nam và biện pháp phòng trị. Hà Nội: NXB nông nghiệp. Phan Địch Lân, Nguyễn Công Phúc, Trần Tuấn Sa. 1963. Kết quả dùng Tetraclorua cacbon trộn với dầu parafin tiêm bắp thịt chữa bệnh sán lá gan của Trâu. Hà Nội: Viện khoa học Nông Nghiệp. Tạ Ngọc Liên. 2002. Tình hình nhiễm giun sán ký sinh trên trâu bò được giết mổ ở trung tâm thương mại Củ Chi. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư chăn nuôi thú y. Đại Học Nông Lâm TP. HCM: Khoa chăn nuôi thú y. Tổ chức hợp tác quốc tế Nhật Bản (JICA). 2001. Tập ảnh màu về bệnh gia súc. Cục Chăn nuôi: Bộ nông - lâm- ngư nghiệp Tokyo Nhật Bản. Trần Anh Nhân. 2004. Tình hình nhiễm giun sán trên bò được giết mổ ở thị trấn Dĩ An tỉnh Bình Dương. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư chăn nuôi thú y. Đại Học Nông Lâm TP.HCM: Khoa chăn nuôi thú y. Trần Hữu Danh. 1995. Điều tra tình hình nhiễm giun sán ký sinh ở trâu bò tỉnh An Giang. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư chăn nuôi thú y. Đại Học Cần Thơ: Khoa chăn nuôi thú y. Trần Văn Quang. 1998. Khảo sát sơ bộ tỷ lệ nhiễm sán lá gan, giun chỉ ở bò vàng Phú Yên hạ thịt tại lò mổ thị xã Tuy Hoà. Luận văn tốt nghiệp kỹ sư chăn nuôi thú y. Đại Học Nông Lâm TP.HCM: Khoa chăn nuôi thú y. Trịnh Văn Thịnh. 1963. Ký sinh trùng thú y. Hà Nội: NXB nông thôn. Ủy Ban Nhân Dân Tỉnh An Giang. 2001. Báo cáo tổng hợp quy hoạch sử dụng đất đai tỉnh An Giang thời kỳ 2001 – 2010. An Giang: NXB Ủy Ban Nhân Dân tỉnh An Giang. PHỤ CHƯƠNG Bò rất gầy do nhiễm sán lá gan Fasciola hepatica (Tập ảnh màu về bệnh gia súc, 2001) Ống mật chủ trong gan dày lên rõ rệt (Tập ảnh màu về bệnh gia súc, 2001) Trứng sán lá Fasciola hepatica (hai trứng ở bên phải) và trứng Paramphistomes (1 trứng bên trái) (Tập ảnh màu về bệnh gia súc, 2001) Trứng sán lá gan trong dịch túi mật của bò PHIẾU ĐIỀU TRA Tên chủ nuôi:............................................................................................................ Địa chỉ:...................................................................................................................... Ngày lấy mẫu:........................................................................................................... Số tai của bò:.Tuổi:.Giới tính:.............. 1. Tổng đàn:Bò đực:Bò cái:............ 2. Chuồng trại: Chuồng nền xi măng: , Chuồng nền gỗ: , Chuồng nền đất:  Khô ráo: , Ẩm ướt:  3. Điều kiện môi trường chung quanh: Ao tù nước đọng: , Ruộng lúa:, Hình thức khác:  4. Hình thức chăn nuôi: Nuôi nhốt: , Nuôi thả:  5. Thức ăn: Bắp: , Cỏ thu hoạch trên khô: , Cỏ thu hoạch dưới nước:  6. Tiêm phòng vaccin và tẩy ký sinh trùng: Lở mồm long móng: , Tụ huyết trùng:  Bệnh sán lá gan: , Loại thuốc đã sử dụng:..................................................................................... .......................................................................................................................... .......................................................................................................................... Thời gian sử dụng thuốc tẩy sán lá gan đến lấy mẫu:...................................... Các bệnh đã xảy ra:.......................................................................................... Các kháng sinh đã sử dụng:.............................................................................. ............................................................................................................................. 7. Ghi chú:............................................................................................................... Người điều tra (Ký tên và ghi rõ họ tên)

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfXT1196.pdf
Tài liệu liên quan