Luận văn Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam đến năm 2010

Trong giai đoạn phát triển vừa qua của đất nước, các DNNVV đã góp phần đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng cho xã hội, sản xuất các sản phẩm hàng công nghiệp, thủ công mỹ nghệ và duy trì, phát huy ngành nghề truyền thống. Phát triển trải rộng trên cả nước, từ thành thị đến nông thôn, từ những khu vực có điều kiện thuận lợi đến những vùng, địa bàn vùng sâu, vùng xa, các DNNVV có thể tận dụng mọi nguồn lực lao động, kể cả các lao động phổ thông, lao động là người tàn tật, mọi nguồn nguyên liệu trước kia không dùng đến như bèo tây, cây cỏ, . Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là các khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Hơn thế nữa, theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay các DNNVV Việt Nam đang thu hút 1/2 lực lượng lao động trong khu vực phi nông nghiệp. Rõ ràng đây là một nhân tố quan trọng đối với người sống ở các vùng nông thôn đang tìm kiếm việc làm, những lao động dôi ra qua việc sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước và những người làm nông nghiệp trong những lúc nông nhàn. Các cơ hội tăng thêm việc sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, kể cả những người đang thất nghiệp, phụ nữ và những người tàn tật. Như vậy, có thể nói cáC DNNVV đã và đang góp phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước ta đang theo đuổi, đồng thời cũng đang phát huy vai trò tích cực trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ ở Việt Nam. Tuy nhiên, các DNNVV hiện nay vẫn ở tình trạng năng lực cạnh tranh của các DNNVV còn thấp trên thị trường trong và ngoài nước. Một trong những lý do làm giảm sức mạnh của các DNNVV : là lực lượng lao động đang hoạt động trong các doanh nghiệp có trình độ chưa cao để có thể nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính vì vậy cần có giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam là rất cần thiết, để tạo ra đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao đáp ứng được với những yêu cầu của quá trình phát triển như hiện nay. Có như vậy DNNVV mới thể hiện được vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước.

doc92 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1639 | Lượt tải: 1download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Định hướng và giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp nhỏ và vừa của Việt Nam đến năm 2010, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
3 2004 2005 Tổng các DNNVV 12,4 14,3 16,2 17 18,3 DNNN 25,1 27,3 28,2 29,6 30,4 Công ty tư nhân 12,3 14 14,8 15,2 16,7 Công ty cổ phần 15,6 16,7 18,4 19 20,5 Công ty TNHH 11,2 12,4 13 15,7 16,4 HTX 7,5 8,4 9,1 10,3 11,2 Nguồn : Cục phát triển DNNVV. Qua bảng trên cho thấy tỷ trọng lao động qua đào tạo trong các DNNVV có xu hưóng tăng liên tục từ năm 2001 đến năm 2005. Năm 2001 tỷ lệ lao động qua đào tạo làm việc trong các DNNVV khoảng 12,4%, năm 2002 khoảng 14,3%, năm 2003 là 16,2%, năm 2004 tỷ lệ này là 17% và năm 2005 là 18,3%. Như vậy, tỷ lệ lao động qua đào tạo có sự chuyển biến tích cực, trình độ của người ngày càng được nâng cao hơn. Xu hướng lao động qua đào tạo trong các DNNVV cũng là xu hướng chung của lực lượng lao động của cả nước, lực lượng lao đông trên toàn quốc năm 2004 có 22,5% số lao động đã qua đào tạo, năm 2005 tỷ lệ lao động qua đào tạo chiếm 25% trong lực lượng lao động của cả nước. Trong thời gian tới tỷ lệ lao động qua đào tạo của cả nước và trong các DNNVV sẽ tăng cao hơn thế nữa. Nhìn chung, tỷ lệ lao động qua đào tạo trong các DNNVV của cả nước mỗi năm một tăng thêm. Tỷ lệ lao động qua đào tạo cao nhất là loại hình doanh nghiệp Nhà nước, tỷ lệ lao động qua đào tạo từ năm 2001 đến năm 2005 là trên 25% cao hơn cả mức trung bình của cả nước. Sau đó đến loại hình Công ty cổ phần với tỷ lệ lao động qua đào tạo năm 2001 là 15,6%, năm 2002 16,7% và đến năm 2005 đã lên đến 20,5%, tiếp đến là loại hình Công ty tư nhân và Công ty TNHH cũng có tỷ lệ lao động qua đào tạo tương đối, song vẫn ở mức trung bình của lao động qua đào tạo trong các DNNVV của Việt Nam. Ngược lại tỷ lệ thấp nhất là khu vực Hợp tác xã năm 2001 chỉ cơ 7,5% lao động đã được qua đào tạo, năm 2002 là 8,4% và đến năm 2005 tăng lên 11,2%. Tỷ lệ lao động qua đào tạo có sự chênh lệch giữa các loại hình doanh nghiệp là do những khu vực như Hợp tác xã họ không yêu cầu lao động phải qua đào tạo, ngược lại thì doanh nghiệp Nhà nước lại đòi hỏi những lao động làm việc trong doanh nghiệp của mình cần phải qua đào tạo và được cấp chứng chỉ. Còn những loại hình doanh nghiệp khác như Công ty tư nhân, Công ty TNHH là DNNVV thì phần lớn họ cần năng lực của người lao động là chủ yếu bằng thời gian thử việc của người lao động, nếu có khả năng đáp ứng được công việc thì sẽ được làm. Các chủ doanh nghiệp cũng không quá coi trọng bằng cấp của những người lao động trong quá trình tuyển chọn. Có thể nói, tỷ lệ lao động qua đào tạo trong các DNNVV là thấp chưa thể đáp ứng được với yêu cầu hiện nay. 3.2.2. Cơ cấu về trình độ đào tạo. Trình độ đào tạo của lao động ở nhiều cấp độ khác nhau, qua bảng số liệu sau : Bảng 15 : Trình độ đào tạo của lao động trong các DNNVV năm 2005. Trình độ đào tạo Tỷ lệ ( % ) Sơ cấp 12 Trung cấp 4,7 Cao đẳng & Đại học 5,4 Nguồn : Viện chiến lược phát triển. Bên cạnh những lao động trong các DNNVV có những lao động trình độ chuyên môn kỹ thuật khác nhau. Tỷ lệ công nhân kỹ thuật được đào tạo ở từng trình độ cũng chiếm tỷ lệ nhất định trong các DNNVV. Trong đó, tỷ lệ đã qua đào tạo sơ cấp là 12% tăng hơn so với năm 2004 là 11,1% ; Trung học chuyên nghiệp 4,7% tăng hơn năm 2004 là 0,3% ; cao đẳng, đại học là 5,4%. So với năm 2004, tỷ lệ lao động đã qua đào tạo của các DNNVV năm 2005 tăng 1,5% ; trong đó tỷ lệ qua đào tạo nghề tăng 0,8% ; tỷ lệ Trung học chuyên nghiệp tăng 0,3%, tỷ lệ cao đẳng, đại học tăng khoảng 0,4%. So với tỷ lệ chung của lực lượng lao động của cả nước thì tỷ lệ lao động qua đào tạo trong các DNNVV là thấp hơn về trình độ. Như tỷ lệ lực lượng lao động qua đào tạo trình độ cao đẳng đại học của cả nước là 5,6%. Nhưng tỷ lệ lao động ở trình độ đại học là công nhân ở mức như vậy cũng là hợp lý, vì với hoạt động của một công nhân lao động trong doanh nghiệp thì công việc là trực tiếp tham gia sản xuất, với kỹ năng được đào tạo ở trình độ đại học thì không thích hợp. Tỷ lệ công nhân được đào tạo ở trình độ sơ cấp chiếm tỷ lệ cao thì mới hợp lý. Bên cạnh đó thì tỷ lệ lao động qua đào tạo ở trình độ trung cấp cũng chiếm tỷ lệ nhất định. Trong thời gian tới, tỷ lệ này cần được tăng nên ở đội ngũ người lao động. Nhìn chung, tỷ lệ lao động được qua đào tạo trong các DNNVV ngày càng tăng, trình độ cũng được nâng cao lên theo thời gian. Đó là tín hiệu tốt cho sự phát triển của các DNNVV để có thể tăng sức cạnh tranh của mình trên thương trường. 3.2.3. Cơ cấu đào tạo lao động theo nghề. Phần lớn công nhân kỹ thuật đang làm việc trong các DNNVV, học nghề trong các cơ sở dạy nghề chuyên nghiệp như Trung tâm dạy nghề ( 11,2% ) Trường dạy nghề tập trung ( 36,3% ) và trường lớp dạy nghề của công ty ( 10,2% ). Tuy nhiên vẫn còn đến 42,3% công nhân kỹ thuật học nghề thông qua việc trực tiếp kèm cặp trong công ty và tại các cơ sở dạy nghề phi chính quy khác. Nhìn chung, độ dài thời gian học nghề của công nhân kỹ thuật trong các DNNVV còn tương đối dài. Các doanh nghiệp tư nhân mà chủ yếu là các DNNVV có tỷ lệ công nhân kỹ thuật học nghề ngắn hạn dưới 3 tháng rất cao là 37,7%. Mặc dù có tỷ lệ khá lớn công nhân kỹ thuật được đào tạo dài hạn từ 2 đến 3 năm, song do nhiều nguyên nhân khác nhau, nên nhiều người trong số họ phải đào tạo lại và đào tạo thêm trước khi chính thức làm việc tại công ty. Tính trung bình, có đến 37,7% công nhân kỹ thuật phải đào tạo lại trước khi chính thức làm công việc hiện tại, tỷ lệ công nhân kỹ thuật phải đào tại lại của các doanh nghiệp nhỏ và vừa khoảng 45,6%. Thời gian đào tạo lại hoặc đào tạo thêm là tương đối dài, với gần 1/3 phải đào tạo lại trong thời gian trên 6 tháng. Nguyên nhân chính là do chất lượng đào tạo trong các cơ sở dạy nghề thấp, lạc hậu, cơ cấu ngành nghề đào tạo bất cập so với thực tế và có một số lượng nhất định công nhân làm nghề khác với nghề đã được đào tạo. III. Đánh giá chung chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam. Chất lượng lao động trong các DNNVV trong những năm qua không ngừng được nâng cao. Chất lượng lao động được đánh giá ở hai khía cạnh đó là những mặt được và những hạn chế. 1. Những mặt được. Trình độ văn hoá của các chủ DNNVV là tương đối cao so với thực trạng chung của cả nước. Hiện nay, với khoảng 91,4% tốt nghiệp phổ thông trung học, tỷ lệ chủ doanh nghiệp có trình độ cấp tiểu học là rất ít. Song so với tỷ lệ chủ doanh nghiệp trên cả nước, kể cả những doanh nghiệp không phải là DNNVV thì tỷ lệ chủ DNNVV tốt nghiệp phổ thông vẫn thấp hơn, tỷ lệ trên cả nước chủ doanh nghiệp tốt nghiệp phổ thông trung học là trên 97,5%. Trình độ chủ doanh nghiệp đã qua đào tạo là rất cao với 84% chủ doanh nghiệp đã qua đào tạo trong các trường lớp. Tỷ lệ này được đánh giá là cao so với tỷ lệ chung của cả nước. Năng lực tiếp thu phương pháp làm việc mới của lao động trong các DNNVV là ở mức khá so với tình trạng lao động của cả nước. Tính chủ động, năng động trong công việc là một đặc điểm về phẩm chất nghề nghiệp. Về đặc tính này lao động trong các DNNVV được đánh giá chưa cao. Trình độ của chủ doanh nghiệp cũng như đỗi ngũ lao động ngày càng được nâng cao. Cho dù vẫn ở mức không cao so với tình hình chung của cả nước, song trong thời gian vừa qua chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam được cải thiện rõ rệt. Trình độ của chủ doanh nghiệp cũng vậy, tầm nhìn và cách quản lý cũng hiệu quả hơn. 2. Những hạn chế. Bên cạnh những mặt đạt được, chủ doanh nghiệp và đội ngũ lao động còn có những hạn chế nhất định sau : Trình độ ngoại ngữ của chủ DNNVV ở Việt Nam là quá thấp với tỷ lệ đến 80% chủ doanh nghiệp chưa biết bất cứ một ngoại ngữ nào, chưa từng quan hệ giao tiếp với người nước ngoài. Đồng thời trình độ tin học cũng là thấp, trên 70% chủ DNNVV chưa hề làm quen với tin học và các loại máy vi tính trong quản lý kinh tế. Quản lý của các chủ doanh nghiệp nhỏ và vừa còn nhiều yếu kém, hạn chế trong tiếp cận với những kiến thức, phong cách quản lý hiện đại, nghiên cứu và tiếp cận với thị trường thế giới, thiếu kinh nghiệm quản lý, trình độ lãnh đạo - quản lý chưa cao. Các chủ DNNVV thiếu chiến lược và kế hoạch kinh doanh, đây là một trong những điểm yếu của các chủ DNNVV Việt Nam hiện nay. Chiến lược và kế hoạch kinh doanh chưa được sự quan tâm của các chủ DNNVV. Trình độ lao động qua đào tạo trong các DNNVV là thấp hơn mức trung bình so với lao động được qua đào tạo của cả nước. Trong khi lao động qua đào tạo của cả nước năm 2005 là 25% so với lực lượng lao động của toàn quốc, thì lao động qua đào tạo trong các DNNVV chưa đạt được tỷ lệ 20% so với tổng số lao động làm việc trong các DNNVV của Việt Nam. Trình độ lao động lành nghề trong các DNNVV chiếm tỷ lệ không cao. Năng lực sáng tạo, phát huy sáng kiến của những lao động trong các DNNVV chỉ ở mức độ trung bình so với cả nước. Lao động là một lợi thế cạnh tranh của Việt Nam nói chung và của các DNNVV nói riêng bởi chi phí lao động rẻ, trình độ dân trí của lao động Việt Nam cao, có truyền thống lao động cần cù, ham học hỏi, khéo tay, nhanh trí,… Nhưng chúng ta phải nhìn nhận rằng chi phí lao động tuy rẻ nhưng năng suất lao động chỉ ở mức trung bình và thấp, chủ yếu là lao động thủ công, tác phong lao động công nghiệp còn chưa cao. Do đó nếu so sánh lao động trong các DNNVV của Việt Nam với lao động trong các DNNVV của các nước trong khu vực thì chi phí lao động của các DNNVV Việt Nam cao hơn nhiều so với Indonexia, nếu xét tới lao động có trình độ kỹ thuật và có năng lực sáng tạo thì lao động trong các DNNVV Việt Nam không thể so sánh được với lao động trong các DNNVV của Thái Lan, Malaixia, Xingapo. Có thể nói, chất lượng lao động trong các DNNVV của Việt Nam còn thấp so với lao động trong và ngoài nước. 3. Ảnh hưởng của tình trạng chất lượng lao động đến sự phát triển của DNNVV. Trình độ văn hoá là một trong những yếu tố ảnh hưởng tới chất lượng lao động, vì nó thể hiện sự nhận thức trong công việc cũng như tiếp thu những kỹ năng, bài học mới. Trong khi đó trình độ văn hoá của đội ngũ lao động trong các DNNVV có tỷ lệ khá cao so với cả nước thì đây là một trong những lợi thế của các DNNVV. Nhưng bên cạnh đó tỷ lệ lao động được qua đào tạo trong các DNNVV lại ở mức thấp hơn mức trung bình của cả nước. Nó có ảnh hưởng rất lớn tới sự phát triển của doanh nghiệp, với trình độ chuyên môn không cao những lao động này có thể làm cho chi phí sản xuất, giá thành sản phẩm đội nên rất cao do không thành thạo công việc. Từ đó làm giảm sức cạnh tranh về sản phẩm của doanh nghiệp. Nếu biết tận dụng những lợi thế là đã sở hữu đội ngũ lao động đã có trình độ văn hoá để đào tạo cho các lao động thì doanh nghiệp sẽ có đội ngũ lao động lành nghề. Khi đó doanh nghiệp sẽ có sức cạnh tranh cùng với những doanh nghiệp khác trên thị trường, sẽ giúp doanh nghiệp phát triển nhanh hơn. Ngoài ra, đội ngũ lãnh đạo cũng đóng vai trò cực kỳ to lớn vào sự thành công của một doanh nghiệp. Với tình trạng mà trình độ của người đứng đầu doanh nghiệp mà không biết quản lý, điều hành, không nhạy bén với thị trường bên ngoài thì khó có thể dẫn dắt doanh nghiệp bước đến lĩnh vực cao trên thương trường. Có khi làm cho doanh nghiệp hoạt động không hiệu quả chứ chưa muốn nói đến thành công. 4. Nguyên nhân ảnh hưởng tới những hạn chế. Những nguyên nhân đó được tổng hợp từ phía chủ doanh nghiệp và đội ngũ người lao động. 4.1. Đối với chất lượng của chủ doanh nghiệp. Nguyên nhân làm cho trình độ của các chủ DNNVV chưa cao, có thể được tổng hợp gồm các vấn đề sau : Trước hết, là do suy nghĩ của chính bản thân chủ doanh nghiệp, với suy nghĩ chỉ cần qua kinh nghiệm thực tế là có thể làm được mà không cần qua trường lớp đào tạo nào hết. Chính điều này làm cho kỹ năng, tình độ về chiến lược, kế hoạch kinh doanh, trình độ quản lý của các chủ doanh nghiệp còn có nhiều hạn chế. Hầu hết các doanh nghiệp không có chiến lược và kế hoạch kinh doanh dài hạn mà thường thụ động, làm ăn theo kiểu “được chăng, hay chớ “ theo sự biến đổi của thị trường . Thứ hai, do những ngành đào tạo trong các trường không đáp ứng được so với thực tế yêu cầu. Có những ngành về lĩnh vực quản trị doanh nghiệp, lập kế hoạch và chiến lược kinh doanh,…. tại các trường giảng dạy không cập nhật những phương pháp mới, mà vẫn với những kiến thức có từ trước, trong khi nền kinh tế trong và ngoài nước luôn biến động, thay đổi không ngừng. Thứ ba, chi phí đào tạo cho các chủ doanh nghiệp trong một khoá học còn quá cao, chính vì vậy mà họ không muốn đầu tư vào đó quá nhiều, họ cho rằng chỉ cần tự đào tạo qua thương trường là đủ. Do đó, có thể nói, các chủ doanh nghiệp Việt Nam làm việc thiếu bài bản và chuyên môn hoá. 4.2. Đối với chất lượng đội ngũ lao động. Nguyên nhân dẫn đến chất lượng lao động thấp, thiếu lao động lành nghề trong các DNNVV là : - Quy mô đào tạo nghề trong cả nước còn nhỏ, cơ cấu trình độ đào tạo, cơ cấu ngành nghề chưa đáp ứng được yêu cầu của phát triển. Tỷ lệ học sinh học các trường nghề còn ít so với các bậc đào tạo khác trong hệ thống giáo dục quốc dân. - Chất lượng đào tạo ở các cơ sở dạy nghề còn có mặt chưa đáp ứng được nhu cầu sử dụng của thị trường lao động. Chương trình, giáo trình chậm đổi mới để thích ứng với công nghệ, với thực tế sản xuất : nội dung giảng dạy còn nặng về lý thuyết, chưa chú ý đến kỹ năng thực hành. Phương pháp đào tạo còn lạc hậu, chưa phát huy tính chủ động, sáng tạo của người học. Đội ngũ cán bộ, giáo viên còn thiếu về số lượng và yếu về chất lượng so với yêu cầu : tỷ lệ 1 giáo viên dạy thực hành trên 25 học sinh như hiện nay là chưa hợp lý so với định mức là ( quy định 1 giáo viên / 15 học sinh ) ; số giáo viên chưa đạt chuẩn còn chiếm tỷ lệ cao khoảng gần 27%. Bên cạnh đó cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, xưởng thực hành, thư viện, thiết bị dạy học…. tuy được cải thiện nhưng vẫn còn thiếu nghiêm trọng hoặc quá lạc hậu ( chỉ có 19% số thiết bị tương đối phù hợp với công nghệ sản xuất hiện nay ), đối với các trường thuộc địa phương quản lý quy mô còn quá nhỏ, tranh thiết bị còn thiếu thốn do ngân sách còn hạn hẹp. Những năm qua, nguồn đầu tư từ ngân sách cho dạy nghề mặc dù có tăng nhưng chưa tương xứng với chỉ tiêu đào tạo, đầu tư còn dàn trải nên hiệu quả chưa cao. - Một số cơ chế, chính sách quản lý dạy nghề chưa động bộ và chưa đầy đủ, chưa tạo động lực phát triển dạy nghề. Trước hết là chính sách về quy hoạch, kế hoạch đầu tư về tài chính, đất đai và cơ sở hạ tầng kỹ thuật cho các cơ sở dạy nghề, chính sách phân luồng và liên thông trong đào tạo ; chính sách đối với các giáo viên dạy nghề, người học nghề ; chính sách gắn trách nhiệm của người sử dụng lao động với dạy nghề…. - Tính bị động trong việc tuyển dụng lao động của các DNNVV. Thiếu những kế hoạch đồng bộ để tuyển dụng lao động giữa nhu cầu của doanh nghiệp với lực lượng lao động hiện có. Điều này dẫn đến tình trạng, khi doanh nghiệp thiếu lao động thì tuyển một cách ồ ạt không xem xét kỹ trình độ của lao động được tuyển vào. Hoặc do tình trạng cấp thiết quá nên không thể chiêu mộ được những lao động có trình độ tay nghề cao. - Hoạt động tự đào tạo trong nội bộ doanh nghiệp thấp kém, không chủ động và không đáp ứng được nhu cầu. Vì doanh nghiệp có rất ít hoặc không có những lao động có trình độ thì không thể đào tạo tốt được. Mặt khác, cơ sở vật chất của một số doanh nghiệp không thể đáp ứng được trong quá trình đào tạo tại chỗ. PHẦN III : ĐỊNH HƯỚNG VÀ GIẢI PHÁP NÂNG CAO CHẤT LƯỢNG LAO ĐỘNG TRONG CÁC DNNVV ĐẾN NĂM 2010 I. Định hướng nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV Việt Nam. 1. Những căn cứ để xác định phương hướng nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV. 1.1. Kế hoạch chung của cả nước về phát triển DNNVV. Đại hội Đảng toàn quốc lần thứ IX của Đảng tháng 4 năm 2001 đã đề ra chiến lược phát triển kinh tế xã hội từ nay đến năm 2010 với yêu cầu GDP tăng gấp đôi so với năm 2000. Trong 5 năm từ 2001 đến năm 2005, GDP phải tăng bình quân hàng năm 7,5% và đến năm 2005, GDP sẽ bằng 2 lần so với năm 1995. Nền kinh tế nước ta phải phát triển với tốc độ cao đi đôi với việc giải quyết các vấn đề bức xúc của xã hội và đảm bảo vững chắc về an ninh quốc phòng, phát triển tất cả các vùng kinh tế, từng bước vượt qua tình trạng kém phát triển, cải thiện mức sống của nhân dân, đẩy nhanh tốc độ công nghệp hoá và hiện đại hoá, nâng cao tích luỹ nội bộ, tạo nền tảng để đến năm 2002 nước ta cơ bản trở thành một nước công nghiệp theo hướng phát triển hiện đại. Theo quan điểm này thì tăng trưởng kinh tế nhanh đã được đặt ra là một nhiệm vụ cực kỳ quan trọng đối với nền kinh tế Việt Nam trong những năm tới. Để đạt được mục tiêu mà chiến lược phát triển kinh tế - xã hội đến năm 2010 đã đặt ra, Chính phủ Việt Nam đã coi phát triển DNNVV là một nhiệm vụ quan trọng trong chiến lược phát triển kinh tế - xã hội ở Việt Nam vì hai lý do : thứ nhất, DNNVV góp phần quan trọng vào việc phát triển kinh tế xã hội của đất nước ; thứ hai, sự phát triển DNNVV đóng góp đáng kể vào việc tạo sự ổn định chính trị xã hội của đất nước thông qua tạo việc làm, giải quyết vấn đề lao động và phúc lợi xã hội của nhân dân. Kế hoạch phát triển DNNVV trong thời gian tới, đây là điều kiện sẽ làm cho nhu cầu về lao động của các DNNVV tăng lên. Khi quy mô lao động tăng lên vấn đề nâng cao chất lượng lao động cũng cần được chú ý đến. Song song với tăng quy mô lao động trong các DNNVV thì nhu cầu đào tạo nhằm nâng cao chất lượng cho lao động trong những năm tới là việc làm hết sức cần thiết. Vì vấn đề lao động trong các DNNVV cũng là một bộ phận trong quá trình phát triển DNNVV trên cả nước, nên kế hoạch nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV cũng nằm trong kế hoạch phát triển DNNVV của Việt Nam đến năm 2010. Do đó, phương hướng phát triển DNNVV của Việt Nam trong giai đoạn tới tập trung vào những nội dung sau : - Phát huy nội lực tối đa trong xã hội : Trong thời gian qua, mặc dù đã có những cải tiến mạnh mẽ trong việc tháo bỏ các rào cản hạn chế các doanh nhân bỏ vốn ra kinh doanh nhưng các nguồn lực của xã hội vẫn chưa được khai thác và phát huy đúng với tiềm lực vốn có của nó do nhiều nguyên nhân khác nhau. Nhiều nguồn lực của xã hội vẫn còn tiềm ẩn trong dân. Vì thế, trong giai đoạn tới, Chính phủ và các cơ quan ban ngành có liên quan cần có các biện pháp phát huy và khai thác tốt nhất những nguồn lực hiện có nhằm đẩy nhanh tốc độ phát triển kinh tế. - Đối sử bình đẳng với mọi thành phần kinh tế : Mặc dù trên các văn bản pháp luật, các thành phần kinh tế là bình đẳng với nhau nhưng trên thực tế các DNNVV tư nhân vẫn còn bị đối sử bất bình đẳng trong nhiều lĩnh vực. Điều này thể hiện rất rõ trong chính sách ưu đãi đầu tư và chính sách tín dụng cũng như qua các hành vi của các công chức có liên quan, kể cả những chính sách hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực cho các DNNVV cũng không được thoả đáng. Bình đẳng chính là một động lực quan trọng để phát huy các tiềm lực vốn có trong dân vì thế trong thời gian tới Chính phủ cần quán triệt quan điểm này để đem lại sự phát triển mạnh mẽ hơn trong khu vực dân doanh, khuyến khích phát triển DNNVV. 1.2. Mục tiêu nâng cao chất lượng lao động của cả nước. Lực lượng lao động trong các DNNVV là một bộ phận của lực lượng lao động cả nước. Do đó, mục tiêu nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV phải phù hợp với mục tiêu chung của cả nước về nâng cao chất lượng lao động trong thời gian tới. Kế hoạch nâng cao chất lượng lao động của cả nước trong thời kỳ 2006-2010 với mục tiêu : Đổi mới sự nghiệp giáo dục đào tạo, tăng cường đào tạo nguồn nhân lực cho sự nghiệp công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Hoàn thành phổ cập giáo dục trung học cơ sở. Mở rộng quy mô giáo dục đại học và giáo dục nghề nghiệp, tuyển sinh đại học, cao đẳng tăng trung bình 10-12%/năm để đến năm 2010, giáo dục đại học và cao đẳng đạt 200 sinh viên / 10.000 dân ; tuyển mới trung học chuyên nghiệp tăng 15%/năm ; dạy nghề cho khoảng 7,5-8 triệu lao động, trong đó 27-30% dài hạn, bảo đảm tuyển mới dạy nghề dài hạn tăng 15%/năm. Tỷ lệ đã qua đào tạo năm 2010 đạt 40% tổng lao động xã hội. Thực hiện đổi mới nội dung chương trình, phương pháp giáo dục đại học, giáo dục nghề nghiệp. Nâng cao chất lượng đổi mới nội dung, chương trình và phương pháp giáo dục phổ thông. Xây dựng và hoàn thiện hệ thống chuẩn quốc gia tiếp cận trình độ tiên tiến của khu vực và trên thế giới, bao gồm chuẩn về kiến thức, kỹ năng đối với từng cấp học, bậc học và trình độ đào tạo ; các yêu cầu về tác phong đạo đức, trách nhiệm của người học ; chuẩn về điều kiện đảm bảo chất lượng giáo dục (đội ngũ giáo viên, giảng viên, cán bộ quản lý và công nhân viên ; cơ sở thiết bị giảng dạy,… ). Hoàn thiện hệ thống đào tạo theo hướng liên thông, mở ra nhiều khả năng và cơ hội học tập khác nhau cho thể hệ trẻ. Phát huy ưu điểm của các chương trình đào tạo hiện có, tiếp nhận có chọn lọc những chương trình tốt trên thế giới để xây dựng một hệ thống chương trình đa dạng, mềm dẻo, linh hoạt, tiên tiến và hiện đại, liên thông giữa các trình độ đào tạo. Tập trung đổi mới mạnh mẽ phương pháp dạy và học, ứng dụng công nghệ thông tin trong giảng dạy, học tập và quản lý ở nhà trường. Mục tiêu của cả nước là đến năm 2010 tỷ lệ lao động qua đào tạo là 40% tổng lao động xã hội, tăng 15% so với năm 2005 chỉ có 25% lao động qua đào tạo. Chính vì vậy, mục tiêu chung của cả nước là tăng tỷ lệ lao động qua đào tạo vào năm 2010. Cho nên, đây là một trong những căn cứ để có kế hoạch nâng cao chất lượng trong các DNNVV trên cả nước đến năm 2010. 1.3. Thực trạng chất lượng lao động trong các DNNVV. Chất lượng lao động trong các DNNVV qua phân tích thực tế thì còn có rất nhiều vấn đề bất cập, kể cả trình độ của chủ doanh nghiệp đến kỹ năng lành nghề của người lao động trong doanh nghiệp cần có những hướng giải quyết trong thời gian tới. Trong khi cả nước có đến 25% tỷ lệ lao động được qua đào tạo, thì phần lớn lao động trong các DNNVV không qua đào tạo, có một số doanh nghiệp có 100% lao động không được qua đào tạo. Đó là thực tế khó khăn của các doanh nghiệp hiện nay của Việt Nam. Đặc điểm của các DNNVV là nguồn vốn eo hẹp chỉ có thể tận dụng những nguồn lực có sẵn trong xã hội, hay những nguồn lực mà doanh nghiệp có sẵn. Các doanh nghiệp Việt Nam nói chung và các DNNVV nói riêng thì có lợi thế là nguồn lực trong nước rất nhiều, có thể tận dụng ngay nguồn lực này để tạo lợi thế cho mình. Khi nền kinh tế ngày càng phát triển cao, thị hiếu của người tiêu dùng hay nói cách khác là đòi hỏi, yêu cầu của thị trường về sản phẩm cần có chất lượng cao, chủng loại phong phú,…. nếu như trình độ lao động không đáp ứng được thì doanh nghiệp khó mà phát triển được. Không một doanh nghiệp nào là không muốn mình phát triển, mở rộng và tăng sức cạnh tranh với các doanh nghiệp nước ngoài. Song trên thực tế thì các doanh nghiệp gặp rất nhiều khó khăn trong việc thuê lao động có tay nghề cao, đào tạo những lao động của chính mình do nguồn kinh phí có hạn. Nếu không được sự hỗ trợ của các cấp thì các doanh nghiệp khó mà cải thiện được chất lượng lao động trong doanh nghiệp. Chính vì vậy, các DNNVV muốn phát triển được cần phải có đội ngũ lao động có trình độ chuyên môn tốt, vì yếu tố con người từ trước đến nay đóng vai trò rất quan trọng đối với sự phát triển kinh tế - xã hội của một quốc gia và DNNVV cũng không nằm ngoài. Do đó, vấn đề nâng cao chất lượng lao động trong các doanh nghiệp là điều hết sức cần thiết. 2. Quan điểm nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV. 2.1. Nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV là một bộ phận quan trọng trong quá trình phát triển DNNVV. Nền kinh tế nước ta được chuyển từ cơ chế kế hoạch hoá tập trung sang cơ chế thị trường, nên các doanh nghiệp và các nhà đầu tư còn chưa có kinh nghiệm về kinh tế thị trường, sức ỳ còn lớn, tâm lý chụp dật còn phổ biến, chưa chú ý nhiều đến chiến lược kinh doanh lâu dài. Trong bối cảnh đó, phát triển doanh nghiệp nhỏ và vừa sẽ tạo điều kiện cho một đội ngũ kinh doanh của Việt Nam ra đời, tạo điều kiện về yếu tố con người cho các giai đoạn phát triển. Để các DNNVV nâng cao sức cạnh tranh của mình trên thị trường trong nước và quốc tế, ngoài các yếu tố như công nghệ, vốn thì một trong những nhân tố không kém phần quan trọng để các DNNVV thực hiện được chiến lược đó là yếu tố con người. Vì các DNNVV có vốn đầu tư ban đầu là không lớn, các DNNVV của Việt Nam có vốn đầu tư dưới 1 tỷ đồng chiếm đến hơn 85% trong tổng số các DNNVV, hơn thế công nghệ sản xuất của các DNNVV cũng đã lạc hậu vì không có điều kiện để đổi mới. Chính vì vậy để có thể nâng cao tiềm lực của mình trên thương trường các doanh nghiệp hiện tại cần phải biết sử dụng triệt để những nguồn lực mà mình có lợi thế. 2.2. Nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV phải phù hợp với chiến lược phát triển nguồn nhân lực của đất nước. Lực lượng lao động đang hoạt động trong các DNNVV của Việt Nam cũng là một bộ phận của lực lượng lao động cả nước. Hiện nay, thực trạng về chất lượng lao động của Việt Nam thấp hơn so với các nước trong khu vực và trên thế giới. Trong nền kinh tế tri thức hiện nay vấn đề nâng cao chất lượng nguồn nhân lực không chỉ là mối quan tâm của riêng các doanh nghiệp mà là mối quan tâm chung của cả xã hội. 2.3. DNNVV cần có sự hỗ trợ đào tạo nguồn nhân lực của các cơ quan Nhà nước. Trong điều kiện nguồn vốn có hạn, các DNNVV còn phải đầu tư rất nhiều, không chỉ đầu tư vào lực lượng lao động mà còn phải sử dụng nguồn kinh phí đó vào cải tiến công nghệ, thuê mặt bằng để tổ chức sản xuất kinh doanh. Cần có sự hỗ trợ về kinh phí, cũng như về cán bộ đào tạo cho lực lượng lao động trong các DNNVV trong thời gian tới. Một mặt giúp các DNNVV có đội ngũ công nhân kỹ thuật, lao động quản lý có trình độ để đáp ứng được với yếu cầu hiện tại, mặt khác việc giúp các DNNVV như thế cũng là làm cho lực lượng lao động chung của cả nước được nâng cao tay nghề lên. Chính vì vậy, sự hỗ trợ đào tạo lao động cho các DNNVV góp phần phát triển, nâng cao sức mạnh của doanh nghiệp, đồng thời cũng tạo động lực phát triển nền kinh tế của đất nước, giải quyết được vấn đề xã hội về lao động và việc làm. 2.4. Nâng cao chất lượng lao động và vấn đề sử dụng lao động có chất lượng cao. Sau khi lao động đã được qua đào tạo thì phải gắn với vấn đề sử dụng lao động có hiệu quả nhất. Các DNNVV cần có những chính sách đãi ngộ để thu hút, giữ chân những lao động có trình độ chuyên môn cao ở lại doanh nghiệp, tiếp tục cống hiến cống công sức cho sự phát triển của doanh nghiệp. Nếu lao động có trình độ cao không được sử dụng, đó là sự lãng phí. Chính những đội ngũ lao động như thế này đóng vai trò quyết định tới sự phát triển của doanh nghiệp, sức mạnh của doanh nghiệp phụ thuộc rất nhiều vào những người lao động giỏi. Nhưng trên thực tế, các DNNVV phần lớn là không giữ lại được, không tuyển được những lao động có tay nghề cao, vì doanh nghiệp chưa quan tâm đúng mức. Nâng cao chất lượng lao động cần phải gắn với sử dụng lao động có chất lượng cao, không để tình trạng lao động đã được qua đào tạo và có tay nghề cao lại không được sử dụng, hoặc được sử dụng nhưng không đúng chỗ. 3. Định hướng nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV. Định hướng chung của các DNNVV Việt Nam là nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV, để nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp trên thị trường trong và ngoài nước, tận dụng được những lợi thế sẵn có của mình, góp phần vào quá trình phát triển của DNNVV nhanh hơn. Mục tiêu, đến năm 2010 nâng cao tỷ lệ lao động qua đào tạo trong các DNNVV tăng lên theo số lượng lao động làm việc trong các DNNVV. Bên cạnh đó, mục tiêu của DNNVV là tăng tỷ lệ lao động có trình độ văn hoá phổ thông trung học, giảm tỷ lệ lao động tốt nghiệp tiểu học. Mục tiêu tới, chủ doanh nghiệp cũng cần có trình độ văn hoá cao hơn, đến năm 2010 không còn có chủ doanh nghiệp nào ở trình độ tiểu học, thay vào đó là phần lớn đã hết phổ thông trung học. Đồng thời tăng cao tỷ lệ chủ doanh nghiệp được qua đào tạo trong các trường lớp, trung tâm có những khoá học cần thiết để tạo điều kiện cho các chủ doanh nghiệp có thể theo học được. Những mục tiêu của các DNNVV được thể hiện rõ qua bảng số liệu sau : Bảng 16 : Mục tiêu nâng cao chất lượng của DNNVV Việt Nam đến năm 2010. Mục tiêu Tỷ lệ ( % ) Trình độ chuyên môn. Chủ doanh nghiệp qua đào tạo 90 Đội ngũ lao động qua đào tạo 30 Trình độ văn hoá của chủ DNNVV Trong đó : PTTH 95 THCS 5 Trình độ văn hoá của đội ngũ lao động Trong đó : PTTH 42 THCS 52,4 Tiểu học 5,6 Nguồn : Viện chiến lược phát triển. Cùng với mục tiêu chung của cả nước là đến năm 2010 số lao động qua đào tạo là 40% tổng lao đông xã hội. Mục tiêu đến năm 2010 số lao động qua đào tạo trong các DNNVV là 30%. Trình độ văn hoá của người lao động tốt nghiệp phổ thông trung học tăng lên 42%, còn ở cấp tiểu học giảm xuống chỉ còn 5,6%. Trong đó các ngành nghề lao động được đào tạo sẽ đa dạng hơn, chất lượng được nâng cao và tạo ra nhiều lao động có trình độ cao, để có thể đáp ứng được nhu cầu hiện tại và trong tương lai của quá trình phát triển của nền kinh tế - xã hội đất nước. Mục tiêu đến năm 2010 nâng tỷ lệ chủ doanh nghiệp qua đào tạo của các DNNVV lên trên 90% so với 84% hiện nay. Cũng cần tăng trình độ của chủ doanh nghiệp trên nhiều lĩnh vực, để chủ doanh nghiệp có thể ứng phó với những biến động bất thường của thị trường mà không phải lúng túng, không biết xử lý như thế nào trong thời gian qua. Nếu tính nhu cầu về đào tạo chung của toàn bộ các DNNVV Việt Nam thì nhu cầu ngành nghề đào tạo còn rất đa dạng cho cả chủ doanh nghiệp và lao động phổ thông ( công nhân kỹ thuật ) trong các DNNVV. Số DNNVV có nhu cầu đào tạo cho lao động trong các khoá đào tạo khác nhau được thể hiện qua bảng số liệu sau : Bảng 17 : Nhu cầu đào tạo của các DNNVV. Đơn vị : % Khoá đào tạo Nhu cầu của DN Tài chính kế toán 33,64 Quản trị doanh nghiệp 31,62 Phát triển thị trường 24,14 Lập chiến lược kinh doanh 20,17 Kỹ năng đàm phán, ký hợp đồng 12,89 Phát triển sản phẩm mới 12,89 Quản lý nguồn nhân lực 11,62 Ứng dụng công nghệ thông tin 10,85 Quản lý kỹ thuật 9,41 Quản lý chất lượng sản phẩm 8,08 Kỹ năng lãnh đạo, thuyết trình 7,76 Khác 3,26 Nguồn : Cục phát triển DNNVV. Đó là nhu cầu cần đào tạo của các doanh nghiệp trên thực tế, tỷ lệ có nhu cầu đào tạo tài chính kế toán là nhiều nhất vớ tỷ lệ 33,64% tổng số doanh nghiệp, sau đó là về quản trị doanh nghiệp 12.977 doanh nghiệp chiếm 31,62%. Nhu cầu đào tạo về lãnh đạo, kỹ năng thuyết trình thì chỉ có ít doanh nghiệp có nhu cầu với doanh 7,76% doanh nghiệp. Nhu cầu về đào tạo công nhân kỹ thuật cũng là vấn đề cần thiết đối với các DNNVV Việt Nam. Lấy ví dụ về nhu cầu đào tạo về công nhân kỹ thuật của các DNNVV sản xuất công nghiệp. Nhu Nhu cầu đó được thể hiện qua bảng số liệu sau : Bảng 18 : Số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo. Đơn vị : doanh nghiệp Loại đào tạo tổng số doanh nghiệp có nhu cầu đào tạo. Tổng Số doanh nghiệp sản xuất công nghiệp 10.994 Tự động hoá 621 Kỹ thuật điện 504 Công nghệ tạo khuân 456 Công nghệ hàn 440 Công nghệ chế tạo máy 396 Kỹ thuật vận hành CNC 379 Công nghệ đúc 323 Kỹ thuật mạ 246 Khác 496 Nguồn : Cục phát triển DNNVV. Đó là chỉ riêng nhu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật của các DNNVV ngành công nghiệp sản xuất. Nếu tính toàn bộ nhu cầu đào tạo công nhân kỹ thuật của tất cả các doanh nghiệp thì số lượng đào tạo còn lớn hơn rất nhiều. II. Giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV của Việt Nam đến năm 2010. Như đã phân tích, hiện nay chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam chưa cao. Để tạo ra đội ngũ lao động trong các DNNVV có chất lượng cao, đáp ứng được với đòi hỏi của thực tế cần có những giải pháp sau : 1. Nâng cao chất lượng đội ngũ giám đốc doanh nghiệp. 1.1. Tác dụng và sự cần thiết. Vai trò của chủ doanh nghiệp nói chung và DNNVV nói riêng là rất quan trọng trong việc điều hành quản lý hoạt động của doanh nghiệp. Với chức năng của mình thì các chủ doanh nghiệp có ảnh hưởng lớn tới quá trình phát triển của doanh nghiệp, những chiến lược hay kế hoạch kinh doanh đều được chủ doanh nghiệp xem xét và quyết định. Chính vì giữ vai trò lớn như vậy, nếu doanh nghiệp nào có giám đốc giỏi thì đó là một trong những điều kiện giúp doanh nghiệp phát triển nhanh và bền vững. Song thực tế hiện nay trình độ chủ DNNVV Việt Nam lại chưa cao, không đáp ứng được yêu cầu hiện tại. Trong thời gian tới với lộ trình hội nhập nền kinh tế với quốc tế thì việc các chủ DNNVV Việt Nam cần trang bị cho mình những kiến thức, sự hiểu biết là rất cần thiết. 1.2. Các hình thức nâng cao chất lượng đội ngũ giám đốc. - Trẻ hóa đội ngũ giám đốc. Phần lớn doanh nghiệp Nhà nước thuộc loại hình DNNVV có đội ngũ lãnh đạo trên 51 tuổi ( chiếm 46,92% ), riêng đối với doanh nghiệp Nhà nước số này chiếm tới 51,3%. Xét về kinh nghiệm quản lý thì đây là đội ngũ đã tích luỹ được rất nhiều kinh nghiệm, chín chắn và có uy tín cao. Song điều này cũng dễ dẫn tới việc quản lý mang nặng tính kinh nghiệm, độ bảo thủ cao, ít chịu suy nghĩ để cải tiến quản lý. Có tới 2,15% giám đốc của khối quốc doanh nằm trong độ tuổi hưu trí. Do vậy, độ tuổi của giám đốc các doanh nghiệp ngoài quốc doanh có thể tuỳ thuộc vào người sáng lập. Song đối với doanh nghiệp Nhà nước nên có quy định có tính chất nguyên tắc để trẻ hoá đội ngũ lãnh đạo. Hiện nay, tiến bộ khoa học kỹ thuật diễn ra rất nhanh, công nghệ thông tin trở thành công cụ quan trọng trong quản lý. Nếu đội ngũ cốt cán do hạn chế về tuổi tác mà không am hiểu lĩnh vực này thì rất dễ dẫn tới tình trạng kìm chế sự tiến bộ của tập thể. - Đào tạo lại đội ngũ giám đốc từ 40 tuổi trở lên. Hầu hết những giám đốc DNNVV ngoài 40 tuổi được đào tạo theo cơ chế quản lý kế hoạch hoá. Trong cơ chế quản lý mới, nhiều kiến thức quản lý trở nên xa lạ đối với họ. Thực tế trong những năm qua cho thấy, sự am hiểu của nhiều giám đốc doanh nghiệp về toàn cầu hoá, cạnh tranh quốc tế, việc đăng ký bản quyền, việc chống vi phạm bản quyền,… còn rất hạn chế. Để tạo được nguồn nhân lực cao cấp phục vụ cho sự nghiệp hội nhập quốc tế cần phải có cơ chế đào tạo lại cho những giám đốc thuộc nhóm tuổi ngoài 40. Đối với những giám đốc đã qua tuổi này rồi thì cần có lớp, khoá đào tạo riêng vì khả năng nhanh nhạy trong tiếp thu những cái mới là rất khó, hơn thế họ lại mang trong mình phong cách làm việc cũ. Có thể tổ chức các lớp tại trung tâm, trường hoặc có thể tập trung những doanh nghiệp gần nhau có nhu cầu làm một lớp học tại nơi thuận tiện về địa lý cho tất cả mọi người. Cần đào tạo lại cho họ hiểu biết về cách thức làm việc, quản lý trong cơ chế thị trường chứ không phải là trong cơ chế kế hoạch hoá nữa. - Nâng cao trình độ chuyên môn cho đội ngũ giám đốc. Trong phân loại giám đốc DNNVV, những người thuộc nhóm có “ trình độ khác “ nghĩa là không có bằng cấp chuyên môn gì. Số này trong khu vực doanh nghiệp Nhà nước chiếm 7,7% ; doanh nghiệp tư nhân thì lại quá lớn 35,5%. Thực tế đòi hỏi không nên tồn tại tình trạng người có “ trình độ khác “ làm giám đốc các doanh nghiệp Nhà nước. Đối với khu vực kinh tế tư nhân cần có sự trợ giúp để mở các lớp bồi dưỡng trình độ chuyên môn kỹ thuật sản xuất, nghệ thuật quản lý kinh doanh cho họ. Cần nâng cao trình độ cho đội ngũ giám đốc, tiến dần xoá bỏ tình trạng giám đốc thuộc nhóm có “ trình độ khác “. Giúp cho các chủ DNNVV có tầm hiểu biết sâu, rộng về chiến lược phát triển của doanh nghiệp mình và về những thông tin trong và ngoài nước trong tiến trình phát triển kinh tế - xã hội. Những chủ doanh nghiệp như vậy cần phải đào tạo lại để trang bị cho họ kiến thức cần thiết áp dụng vào quản lý, điều hành doanh nghiệp của mình. Có thể tổ chức thành những lớp học tại chỗ vì họ không có thời gian nhiều bằng cách thuê riêng chuyên gia giỏi đào tạo cho mình, hoặc những ai có điều kiện có thể theo học những khoá đào tạo về chuyên môn cần thiết tại các trường, trung tâm. 1.3. Điều kiện thực hiện. Để đạt được kết quả cao như mục tiêu đề ra thì cần phải có sự đồng tình, hợp tác của đội ngũ giám đốc đã qua tuổi 40, đây là nhiệm vụ hết sức khó khăn vì những giám đốc đã qua tuổi này thì họ đã trang bị cho mình phần lớn những kiến thức quản lý theo cơ chế kế hoạch hoá, cho nên rất khó có thể thay đổi tư duy và nhận thức về cơ chế quản lý mới được. Khi đã là chủ của một doanh nghiệp thì thời gian rảnh là không có nhiều, vì họ chỉ có tập trung vào công việc của mình. Chính vì vậy, họ ngại tham gia các lớp đào tạo vì họ không có đủ thời gian để đi học những khoá học đó. Bên cạnh đó, khi có kế hoạch đào tại lại đội ngũ giám đốc DNNVV cần phải có chi phí để mở những lớp đào tạo. Còn cơ sở trường lớp có trang bị đầy đủ đáp ứng được cho khoá học, có thể nói chi phí để đào tạo của một khoá học còn cao ở Việt Nam hiện nay. Vì vậy, để có thể thu hút được chủ doanh nghiệp tham gia vào lớp đào tạo như thế này cần có sự khuyến khích về kinh phí học khoá đào tạo này. Như vậy, điều kiện cần để có thể đào tạo lại được đội ngũ giám đốc không phải là chuyện dễ dàng mà cần phải bố trí hợp lý thời gian, địa điểm để có thể thu hút được nhiều học viên. Đồng thời, vấn đề chi phí cho một khoá học là phải giảm xuống. 2. Đào tạo nghề cho người lao động. 2.1. Tác dụng và sự cần thiết. Một doanh nghiệp mà có đội ngũ lao động với trình độ chuyên môn lành nghề cao thì năng suất lao động tăng cao góp phần thúc đẩy doanh nghiệp phát triển nhanh hơn và tạo sức cạnh tranh cho doanh nghiệp trên thương trường. Điều này nói lên vai trò của đội ngũ lao động cũng không phải là nhỏ đến sự thành công của doanh nghiệp. Trong thời gian tới các DNNVV cần phải đào tạo để nâng cao chất lượng đội ngũ lao động là hết sức cần thiết, từ đó tăng sức cạnh tranh của doanh nghiệp và giúp doanh nghiệp có những bước tiến nhanh, xa hơn. 2.2. Các hình thức đào tạo. - Đào tạo nghề cho người lao động có sự hỗ trợ của toàn xã hội : Trước hết, phải đổi mới tư duy và nhận thức của các cấp, các ngành và toàn xã hội về vai trò của học tập nghề nghiệp trong xã hội học tập. Tâm lý khoa cử, bằng cấp đang dần được khắc phục trước nhu cầu học nghề, lập nghiệp trong xã hội. Điều đó đòi hỏi các cấp quản lý vĩ mô cũng như các cơ sở đào tạo phải hết sức quan tâm và đầu tư để phát triển dạy nghề. Các cấp, các ngành và địa phương phải xây dựng quy hoạch, kế hoạch phát triển dạy nghề để đáp ứng nhu cầu nhân lực cho sự phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và của ngành mình. Hai là, đổi mới cơ cấu hệ thống đào tạo nghề, thực tế phát triển của các DNNVV trên các lĩnh vực, ngành nghề khác nhau đòi hỏi phải có lực lượng lao động kỹ thuật với các trình độ từ lao động thủ công, kỹ thuật thấp, lao động trong khu vực nông nghiệp, nông thôn cho đến lao động kỹ thuật trong sản xuất công nghiệp và một bộ phận lao động trình độ cao phù hợp với yêu cầu sản xuất công nghệ hiện đại. Trong nền sản xuất hiện nay, đang tồn tại nhiều loại hình công nghệ với giải tần lớn : công nghệ thủ công truyền thống, công nghệ trung bình và một bộ phận tiếp cận với công nghệ cao. Do vậy, cần nhanh chóng hình thành hệ thống đào tạo kỹ thuật thực hành với cả ba cấp trình độ : bán lành nghề, lành nghề và trình độ cao. Ba là, đầu tư cho các trường dạy nghề đòi hỏi kinh phí lớn, quá trình đào tạo cũng cần chi phí cho thực hành, vì vậy phải thực hiện xã hội hoá để tăng cường trách nhiệm và huy động các nguồn lực phong phú trong và ngoài nước đầu tư cho dạy nghề. Xây dựng hệ thống chính sách động lực, thu hút và khuyến khích người dạy, người học và người sử dụng lao động và toàn xã hội cùng cộng đồng trách nhiệm tham gia xây dựng và phát triển sự nghiệp dạy nghề để hình thành nền giáo dục nghề nghiệp trong xã hội Việc đào tạo trình độ lành nghề và trình độ cao cho các lao động có thể theo những cách thức sau : - Đào tạo tại các trường dạy nghề, các trường trung học chuyên nghiệp, cao đẳng kỹ thuật có chức năng dạy nghề thực hiện. Người học ở trình độ lành nghề sẽ được trang bị kiến thức và kỹ năng nghề toàn diện, thành thạo khi ra trường có khả năng đảm nhận những công việc phức tạp thuộc phạm vi nghề đào tạo. Người học ở trình độ cao được trang bị kỹ năng nghề thành thạo và kiến thức chuyên môn kỹ thuật cần thiết dựa trên nền học vấn trung học phổ thông để có khả năng vận hành các thiết bị hiện đại và xử lý được các tình huống phức tạp, đa dạng trong các dây chuyền sản xuất tự động, công nghệ hiện đại. - Đào tạo theo chương trình ngắn hạn tại các cơ sở dạy nghề ngắn hạn và các trung tâm dạy nghề tổ chức đào tạo trình độ bán lành nghề với những chương trình linh hoạt. Loại hình này rất phù hợp với lao động ở nông thôn, thanh niên dân tộc ở vùng sâu vùng xa, các học viên lớn tuổi, hạn chế về văn hóa, điều kiện học tập và phục vụ nhu cầu thay đổi nghề nghiệp và chuyển dịch cơ cấu lao động. Người học ở trình độ này sẽ được trang bị một số kiến thức kỹ năng nghề nhất định, có khả năng thực hiện một số công việc sau khi ra trường, phù hợp với trình độ sản xuất các vùng và địa phương. Đây cũng chính là sự phân cấp hợp lý trong đào tạo, hứa hẹn nhiều triển vọng, hạn chế dần sự mất cân đối trong cơ cấu trình độ đào tạo, có cấu ngành nghề, cơ cấu vùng miền trong đào tạo nhân lực hiện nay. Việc phát triển hệ thống kỹ thuật thực hành nhiều cấp trình độ sẽ góp phần tích cực vào việc phân luồng học sinh sau trung học cơ sở và trung học phổ thông. 2.3. Điều kiện để thực hiện. Khi đào tạo nghề được mở rộng trên toàn quốc cần có sự ủng hộ của các cấp chính quyền, đặc biệt là từ cơ quan Trung ương. Vì đào tạo nghề như thế này cần có khoản kinh phí rất lớn, nếu không có sự hỗ trợ của các cấp thì không thể thực hiện được. Với những chi phí đầu tư cho trường lớp, bồi dưỡng cho giáo viên,….. Mặt khác, các DNNVV muốn tuyển được những lao động có trình độ tay nghề cần phải có mối quan hệ với các trung tâm đào tạo nghề, trường dạy nghề. Có mối quan hệ như vậy để liên lạc với cơ sở đào tạo còn biết được doanh nghiệp đang cần lao động trong lĩnh vực nào và trình độ ra sao. Còn về kinh phí để thuê lao động tại các nơi đó và chi phí cho lao động của doanh nghiệp được đào tạo lại. Các DNNVV cần có những chính sách khuyến khích cho người đi học đào tạo, có thể vẫn trả lương cho họ trong thời gian họ đi học hoặc hỗ trợ chi phí đi lại và chi chí học tập. Có như vậy thì mới động viên họ đi học được, doanh nghiệp phải có những chiến lược phát triển lâu dài về nâng cao chất lượng lao động trong doanh nghiệp mình. 3. Tăng cường đào tạo tại chỗ cho người lao động tại các DNNVV. 3.1. Tác dụng của đào tạo tại chỗ. Để có thể chủ động với những lao động thuộc ngành nghề, lĩnh vực mà doanh nghiệp đang cần thì doanh nghiệp có thể tự tổ chức đào tạo nghề ngay tại cơ sở sản xuất kinh doanh của mình. Với phương pháp này thì sẽ làm giảm chi phí đào tạo cho doanh nghiệp, đồng thời giúp người lao động vừa học vừa làm rất hiệu quả. Áp dụng hình thức này, doanh nghiệp vừa có thể nâng cao được chất lượng đội ngũ lao động mà vẫn có thể tận dụng được thời gian lao động làm việc ngay tại cơ sở sản xuất của doanh nghiệp. 3.2. Các hình thức đào tạo tại chỗ. Có nhiều cách để đào tạo cho lao động tại chỗ : (1) Kèm cặp lẫn nhau : Có thể sử dụng những lao động đã có trình độ tay nghề kèm cặp trực tiếp những lao động chưa qua đào tạo bằng những công việc thực tế bằng cách người lao động có tay nghề cao sẽ làm mẫu cho người chưa qua đào tạo, sau đó sẽ quan sát họ làm có đúng không. Để hình thức này đạt kết quả tốt, việc kèm cặp trong quá trình phải được tổ chức hợp lý giữa người dạy và người học, giữa doanh nghiệp và người dạy. Bằng phương pháp này có khả năng đào tạo được nhiều người trong một lúc, thời gian đào tạo ngắn. Do đào tạo trực tiếp tại cơ sở , nên không đòi hỏi điều kiện về trường lớp, giáo viên chuyên trách, bộ máy quản lý và thiết bị thực tập riêng.Vì vậy doanh nghiệp sẽ tiết kiệm được rất nhiều chi phí đào tạo cho người lao động mới. (2) Thuê lao động bên ngoài hay những chuyên gia giỏi : về dạy hợp đồng cho các lao động trong doanh nghiệp, hoặc kết hợp với một số doanh nghiệp khác cùng có nhu cầu về đào tạo chuyên ngành mà khoảng cách không xa nhau. Giải pháp để nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam, có thể doanh nghiệp lập ra một quỹ để có thể thuê những lao động có trình độ cao ở trong nước hay ở nước ngoài về làm trong doanh nghiệp của mình. Có được những lao động như thế này sẽ có tác động tích cực đến những lao động khác trong doanh nghiệp. Hơn nữa, khi họ đã làm việc trong doanh nghiệp rồi có thể sử dụng họ để hướng dẫn lại cho những lao động khác trong doanh nghiệp. Để có thể thu hút được những lao động có trình độ chuyên môn cao thì doanh nghiệp cần phải đầu tư một chi phí khá cao. Doanh nghiệp có thể tuyển lao động trực tiếp, tìm trên thị trường lao động những lao động như vậy. (3) Doanh nghiệp có thể nâng cao chất lượng lao động bằng cách phát động những đợt thi đua trong doanh nghiệp như : tăng năng suất lao động, an toàn trong lao động,….. Với đội ngũ lao động có kỹ thuật cao là lợi thế của doanh nghiệp để tăng sức cạnh tranh của mình trên thị trường. Từ đó giúp doanh nghiệp chiếm lĩnh được thị phần lớn hơn các doanh nghiệp khác, cũng có thể vươn ra thị trường ngoài nước. 4. Thu hút lao động có chất lượng cao vào các DNNVV. 4.1. Tác dụng việc thu hút lao động có chất lượng cao. Lao động có trình độ cao là một trong những thế mạnh của bất cứ một doanh nghiệp nào, các DNNVV cũng vậy. Nếu doanh nghiệp nào sở hữu được đội ngũ lao động có trình độ cao thì doanh nghiệp đó sẽ phát triển rất nhanh, thực tế đã cho biết rất nhiều doanh nghiệp trưởng thành và phát triển được như ngày hôm nay là nhờ phần lớn việc có được đội ngũ lao động có kỹ năng cao. Việc cần thiết hiện nay của các DNNVV Việt Nam là cần có được lao động có trình độ kỹ năng thành thạo mới có thể phát triển và cạnh tranh được với những doanh nghiệp khác trong nước và trên thế giới. 4.2. Nội dung. Để thu hút được đội ngũ lao động có trình độ cao thì trước tiên phải dựa vào nhu cầu của doanh nghiệp mình như : (1) Chiến lược phát triển của doanh nghiệp : Trong những điều kiện, thời gian nhất định thì doanh nghiệp có chiến lược, kế hoạch kinh doanh khác nhau. Vì thế, nhu cầu về số lượng lao động cũng khác nhau và cả lao động có kỹ năng nghề nghiệp. Dựa vào chiến lược, kế hoạch kinh doanh của doanh nghiệp mà có thể đề ra những yêu cầu về lao động cần phải có để hoàn thành kế hoạch đề ra. (2) Xu hướng phát triển của doanh nghiệp : Mỗi doanh nghiệp đều có nhu cầu về lao động trong từng quá trình phát triển của doanh nghiệp. Khi doanh nghiệp đang có xu hướng phát triển mạnh thì khi đó nhu cầu về lao động là lớn, xu hướng phát triển của doanh nghiệp về ngành nghề hay lĩnh vực mới cũng đòi hỏi cần có thêm lao động. Ngược lại khi doanh nghiệp đang trong giai đoạn khó khăn về sản xuất kinh doanh khi đó nhu cầu về lao động lại giảm đi. Nhu cầu về lao động của các DNNVV Việt Nam là rất khác nhau, có những doanh nghiệp không cần yêu cầu chất lượng lao động đầu vào phải cao, nhưng có những doanh nghiệp lại đòi hỏi đầu vào chất lượng lao động tương đối cao. Đó là yêu cầu của mỗi lĩnh vực mà doanh nghiệp hoạt động, vì thế cần căn cứ vào cả nhu cầu về trình độ của lao động. Khi xác định được nhu cầu về lao động của doanh nghiệp, sau đó doanh nghiệp cũng cần có những chính sách để thu hút được những lao động có trình độ vào làm việc như : (1) Có chế độ trả lương cao, xứng đáng cho người lao động giỏi. (2) Cổ phần hoá cho người lao động có trình độ cao để họ có tinh thần trách nhiệm cao trong việc sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. (3) Có chính sách ưu đãi cho người lao động kỹ thuật cao : Mua bảo hiểm xã hội, chế độ lương khi họ về hưu,….. Kết luận Trong giai đoạn phát triển vừa qua của đất nước, các DNNVV đã góp phần đáp ứng nhu cầu về hàng tiêu dùng cho xã hội, sản xuất các sản phẩm hàng công nghiệp, thủ công mỹ nghệ và duy trì, phát huy ngành nghề truyền thống. Phát triển trải rộng trên cả nước, từ thành thị đến nông thôn, từ những khu vực có điều kiện thuận lợi đến những vùng, địa bàn vùng sâu, vùng xa, các DNNVV có thể tận dụng mọi nguồn lực lao động, kể cả các lao động phổ thông, lao động là người tàn tật, mọi nguồn nguyên liệu trước kia không dùng đến như bèo tây, cây cỏ,…. Góp phần chuyển dịch cơ cấu kinh tế, đặc biệt là các khu vực nông thôn, vùng núi, vùng sâu, vùng xa. Hơn thế nữa, theo thống kê chưa đầy đủ, hiện nay các DNNVV Việt Nam đang thu hút 1/2 lực lượng lao động trong khu vực phi nông nghiệp. Rõ ràng đây là một nhân tố quan trọng đối với người sống ở các vùng nông thôn đang tìm kiếm việc làm, những lao động dôi ra qua việc sắp xếp doanh nghiệp Nhà nước và những người làm nông nghiệp trong những lúc nông nhàn. Các cơ hội tăng thêm việc sẽ mang lại lợi ích cho tất cả mọi người, kể cả những người đang thất nghiệp, phụ nữ và những người tàn tật. Như vậy, có thể nói cáC DNNVV đã và đang góp phần quan trọng trong việc thực hiện chiến lược toàn diện về tăng trưởng và xoá đói giảm nghèo mà Đảng và Nhà nước ta đang theo đuổi, đồng thời cũng đang phát huy vai trò tích cực trong việc thực hiện mục tiêu thiên niên kỷ ở Việt Nam. Tuy nhiên, các DNNVV hiện nay vẫn ở tình trạng năng lực cạnh tranh của các DNNVV còn thấp trên thị trường trong và ngoài nước. Một trong những lý do làm giảm sức mạnh của các DNNVV : là lực lượng lao động đang hoạt động trong các doanh nghiệp có trình độ chưa cao để có thể nâng cao sức cạnh tranh của doanh nghiệp. Chính vì vậy cần có giải pháp nâng cao chất lượng lao động trong các DNNVV ở Việt Nam là rất cần thiết, để tạo ra đội ngũ lao động có trình độ tay nghề cao đáp ứng được với những yêu cầu của quá trình phát triển như hiện nay. Có như vậy DNNVV mới thể hiện được vị trí, vai trò của mình trong sự nghiệp phát triển nền kinh tế - xã hội của đất nước. DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO : Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội 2001 – 2010. Điều tra, phân tích và đánh giá chất lượng nguồn nhân lực Việt Nam - Viện chiến lược phát triển. Giáo trình Kế hoạch hoá phát triển kinh tế xã hội - Trường đại học kinh tế quốc dân. Giáo trình kinh tế lao động - Trường đại học kinh tế quốc dân. Kế hoạch phát triển các DNNVV 2006 – 2010 - Bộ kế hoạch & Đầu tư. Niên giám thống kê 2003, 2004. Số liệu điều tra của Cục phát triển DNNVV. Tạp chí Cộng sản. Tạp chí Kinh tế & dự báo. Tạp chí Kinh tế & phát triển. Tạp chí Nghiên cứu kinh tế. Thông tin trên internet. Văn kiện đại hội Đảng IX – Nhà xuất bản chính trị quốc gia. Mục lục

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28650.doc
Tài liệu liên quan