Luận văn Giá trị và vị trí tập thơ Việt Bắc trong hành trình thơ Tố Hữu

GIÁ TRỊ VÀ VỊ TRÍ TẬP THƠ "VIỆT BẮC" TRONG HÀNH TRÌNH THƠ TỐ HỮU LUẬN VĂN THẠC SĨ KHOA HỌC NGỮ VĂN MỤC LỤC PHẦN MỞ ĐẦU . 1 1. Lý do chọn đề tài 1 2. Lịch sử vấn đề 2 2.1. Những bài nghiên cứu về thơ Tố Hữu nói chung . 2 2.2. Những bài nghiên cứu về các tập thơ của Tố Hữu 3 2.3. Xung quanh tập thơ "Việt Bắc" 4 2.4. Khảo sát văn bản tập thơ Việt Bắc . 6 3. Mục đích nghiên cứu 10 5. Nhiệm vụ nghiên cứu . 10 6. Phương pháp nghiên cứu 10 7. Cấu trúc của luận văn . 10 Chương 1: "VIỆT BẮC" TRONG NỀN THƠ VIỆT NAM TỪ 1945 ĐẾN 1954 11 1.1. Tổng quan về thơ Việt Nam 1945 đến 1954 . 11 1.2. Con đường thơ Tố Hữu từ tập thơ Từ ấy sang tập thơ Việt Bắc . 18 1.2.1. Từ tập thơ "Từ ấy" . . 18 1.2.2 . đến tập thơ "Việt Bắc" . 21 Chương 2: GIÁ TRỊ NỘI DUNG CỦA TẬP THƠ“ VIỆT BẮC” . 25 2.1. Khát vọng và niềm vui giải phóng Đất nước qua các chặng đường 25 2.1.1. Cách mạng Tháng Tám năm 1945 25 2.1.2. Kháng chiến chín năm 27 2.1.3. Chiến thắng Điện Biên phủ . 29 2.2. Cái "tôi" tác giả gắn với cái "ta"quần chúng trong bức tranh nhân dân kháng chiến 31 2.2.1. Hình ảnh người lính 31 2.2.2. Hình ảnh người phụ nữ . 45 2.3. Tình yêu quê hương đất nước 53 2.4. Tình cảm gắn bó với lãnh tụ và quê hương cách mạng 59 Chương 3: GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TẬP THƠ “ VIỆT BẮC” 72 3.1. Sự gắn bó khăng khít giữa tính dân tộc và tính đại chúng 72 3.1.1. Thể thơ, câu thơ 72 3.1.2. Nhạc điệu 78 3.1.3. Ngôn ngữ, hình ảnh 88 3.1.4. Niêm luật và vần . 92 3.2. Sự kết hợp giữa tính dân tộc và âm hưởng hiện đại . 96 KẾT LUẬN . 100 TÀI LIỆU THAM KHẢO . 102

pdf110 trang | Chia sẻ: maiphuongtl | Lượt xem: 2699 | Lượt tải: 2download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giá trị và vị trí tập thơ Việt Bắc trong hành trình thơ Tố Hữu, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
nh trị đã đến với họ như những tiếng ru ngọt ngào, sâu lắng.Vì thế, quê hương cách mạng Việt Bắc đã trở thành quê hương chung của tất cả mọi người Việt Nam yêu nước. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 72 CHƢƠNG III GIÁ TRỊ NGHỆ THUẬT CỦA TẬP THƠ “ VIỆT BẮC” 3.1. Sự gắn bó khăng khít giữa tính dân tộc và tính đại chúng 3.1.1. Thể thơ, câu thơ Nếu như ở Từ ấy Tố Hữu sử dụng phần lớn là thể thơ 7 chữ, 8 chữ, thậm chí nhiều bài có vẻ trau chuốt để "thành thơ", thì đến Việt Bắc phong cách thơ của Tố Hữu đã bám sát đời sống quần chúng: phản ánh sinh hoạt của nhân dân, với ngôn ngữ mộc mạc, giản dị, tự nhiên, chứa đựng lối nói, lối nghĩ của quần chúng, với hình ảnh đậm đà màu sắc ca dao dân ca, với thể thơ phong phú, linh hoạt. Tố Hữu thường dùng nhiều nhất là thể lục bát của văn học dân tộc, kết hợp đặc sắc của thơ ca dân gian và cổ điển. Nó vừa kết hợp được điệu lục bát cổ của bình dân vừa phảng phất lối đối theo từng vế giống như những câu thơ cổ điển của Truyện Kiều, hoặc Chinh phụ ngâm: Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ, sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan. ( Phá đường, 1948) Hay: Anh về, cối lại vang rừng Chim reo quang mái, gà mừng dưới sân Anh về, sáo lại ái ân Đêm trăng hò hẹn trong ngần tiếng ca... (Lên Tây Bắc, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 73 Tình cảm mặn nồng, sự vỗ về của tình bà cháu, tình mẹ con trong sự hoà hợp với tình yêu đất nước được Tố Hữu sử dụng bằng thể thơ lục bát như lời hát ru ngọt ngào thật yêu thương: Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già Cháu ơi cháu ngủ với bà Bố mày đi đánh giặc xa cha về. ( Cá nước, 1947) Phần lớn các câu thơ lục bát của Tố Hữu đều uyển chuyển. Những câu thơ lục bát hay nhất của Tố Hữu đã tiếp nối và gắn nối được cái truyền thống của ca dao và thơ ca cổ điển Việt Nam, khai thác triệt để khả năng diễn đạt của câu thơ lục bát trong truyền thống văn học dân tộc để miêu tả cuộc sống của nhân dân một cách sinh động. Gắn với truyền thống cổ điển Việt Nam, Tố Hữu luôn tìm cách làm mới mình trước những trang thơ. Ông viết những vần thơ 7 chữ mà ta thấy nhiều lúc có bề thế của câu thơ 8 chữ nhằm thể hiện không khí dồn dập, sôi nổi trong cuộc kháng chiến của nhân dân: Nghe trưa nay tháng năm mùng bảy Trên đầu bay thác lửa hờn căm Trông: Bốn mặt lũy hầm sụp đổ Tướng quân bay lố nhố cờ hàng Trông: chúng ta cờ đỏ sao vàng Rực trời đất Điện Biên toàn thắng ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 74 Hay mấy câu thơ mở đầu Ta đi tới. Ở đây Tố Hữu đã vận dụng một cách linh hoạt việc sử dụng niêm luật, phối thanh, nhạc điệu khiến cho câu thơ khi đọc lên ta nghe thật thoải mái, phù hợp với tâm hồn con người đã được làm chủ đất nước: Trên đường cái ung dung ta bước Đường ta rộng thênh thang tám thước Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên (Ta đi tới, 1954) Qua Tố Hữu, những câu thơ vốn hiền lành như bốn chữ, năm chữ cũng nói lên được cái đồ sộ, hoành tráng, hùng vĩ: Voi là voi ơi Voi đi đánh nhé Voi gầm voi ré Voi xé tơi bời ! (Voi, 1948) Ở bài Lượm ta lại cảm nhận được cái nhanh nhẹn, tháo vát, mạnh bạo, không sợ hiểm nguy của bé Lượm giữa làn đạn của kẻ thù: Vụt qua mặt trận Đạn bay vèo vèo Thư đề" thượng khẩn" Sợ chi hiểm nghèo ? (Lượm, 1949) Để có đủ khả năng biểu hiện nội dung mới, thể thơ nhiều khi phải phá luật. Trong mỗi bài thơ, Tố Hữu không chỉ sử dụng một thể thơ lục bát, song thất lục bát, hay ngũ ngôn... mà còn sử dụng linh hoạt tất cả các thể thơ trong cùng một bài để nhịp thơ ăn khớp với nhịp suy nghĩ, tình cảm của nhân dân. Bài thơ Phá đường là minh chứng khá rõ việc Tố Hữu phối hợp các thể thơ, làm cho bài thơ thật dồi dào tính nhạc: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 75 Rét Thái Nguyên rét về Yên Thế Gió qua rừng đèo Khế gió sang Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét nước làng em lo Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong ... Trên đồi quê Trăng non mới hé Đường thì dài, Hố xẻ chưa sâu Chưa sâu thì cuốc cho sâu Có anh có chị cùng nhau ta đào ! Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Đá lở đất nhào ! ( Phá đường, 1948) Chỉ trong một đoạn thơ, Tố Hữu đã sử dụng các thể thơ khác nhau, khi thì dàn trải, khi trở nên mềm mại uyển chuyển, khi lại sôi nổi hào hứng... khiến cho nhịp điệu phong phú, linh hoạt theo cảm xúc, sự việc, mà tác giả muốn bộc lộ. Thành công của bài Phá đường được củng cố bởi hàng loạt các bài thơ khác, như Hoan hô chiến sĩ Điện Biên: Tin về nửa đêm Hoả tốc hoả tốc … Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Hoan hô đồng chí Võ Nguyên Giáp Sét đánh ngày đêm xuống đầu giặc Pháp ! Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 76 Vinh quang Tổ quốc chúng ta Nước Việt Nam dân chủ cộng hoà Vinh quang Hồ Chí Minh, Cha của chúng ta ngàn năm sống mãi... Tiếng reo núi vọng sông rền Đêm nay chắc cũng về bên Bác Hồ... (Hoan hô chiến sĩ Điện biên, 1954) Tố Hữu sử dụng rất linh hoạt những câu thơ tự do, ngắn dài khác nhau, để diễn đạt những nội dung tư tưởng, tình cảm biến đổi. Đọc đoạn thơ trên ta như hiểu được sau những trận đánh dữ dội của quân và dân ta là một niềm xúc động trào dâng khi nhận được tin quân ta chiến thắng, câu thơ thật ngắn gọn, dồn dập, bỗng được ghi lại bằng những câu thơ dài khi nói tới niềm vui chiến thắng, và trong niềm vui chiến thắng ấy là chúng ta nghĩ ngay đến hình ảnh Tổ quốc, hình ảnh Bác Hồ kính yêu của dân tộc. Câu thơ dài, nhịp thơ sôi trào, thể hiện niềm vui vô bờ của quân và dân ta sau chín năm gian khổ trông đợi để có được ngày hôm nay. Khi cần gợi khí thế sục sôi của chiến dịch Điện Biên, muốn ghi lại những gian khổ hy sinh nhưng đầy ý chí kiên cường của quân và dân ta, Tố Hữu cũng sử dụng những câu thơ ngắn dài khác nhau: Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm khoét núi, ngủ hầm, mưa dầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn Những đồng chí thân chôn làm giá súng... ( Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Hoặc khi cần nói tới các miền đất khác nhau của Tổ quốc, nhắc đến chiến công của chiến khu cách mạng, nhà thơ cũng sử dụng đắc địa việc phối hợp các thể thơ: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 77 Ai đi Nam Bộ Tiền Giang, Hậu Giang Ai về thành phố Hồ Chí Minh Rực rỡ tên vàng Ai về thăm Bưng Biền Đồng Tháp Việt Bắc miền Nam, mồ ma giặc Pháp... (Ta đi tới, 1954) Tố Hữu sử dụng những câu thơ liền mạch, thường theo diễn biến của tình cảm, theo lối "các câu thơ gọi nhau", nên "tiếng gọi" của câu đầu có ý nghĩa rất lớn đối với toàn bài thơ: Ta đi giữa ban ngày Trên đường cái ung dung ta bước Đường ta rộng thênh thang tám thước Đường Bắc Sơn, Đình Cả, Thái Nguyên... (Ta đi tới, 1954) Trong bài thơ Việt Bắc nhà thơ cũng tạo nên sự liền mạch của hơi thơ, các câu thơ "ríu rít" gọi nhau, hai nhân vật "Mình" và "Ta" cứ xoắn xít, đan cài từ đầu đến cuối bài thơ: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng Mình về mình có nhớ không Nhìn cây nhớ núi, nhìn sông nhớ nguồn ?... (Việt Bắc, 1954) Nhìn chung, Tố Hữu rất thành thạo trong các thể thơ truyền thống. Đối với ông tất cả đều là thơ điệu nói- đúng như nhận xét của Giáo sư Trần Đình Sử. Đó là thơ của người Việt Nam hiện đại, là kiểu thơ dân tộc hiện đại. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 78 3.1.2. Nhạc điệu Khi nói đến nhạc điệu trong thơ Tố Hữu, thì ta cảm nhận được trong những vần thơ của ông luôn chứa đựng một thứ nhạc đặc biệt đó là nhạc điệu tâm hồn nhà thơ. Nó là sự kết tinh hiện thực phản ánh trong thơ, chất suy nghĩ, sự xúc động và sức tưởng tượng của tác giả. Nhạc điệu tâm hồn nhà thơ được toát ra từ toàn bộ hình tượng thơ, từ cấu tứ, hình ảnh, kết cấu ... Nhờ có nhạc điệu của tâm hồn nhà thơ mà những vần thơ của ông luôn theo sát và đến thẳng tâm hồn bạn đọc. Thơ Tố Hữu là tiếng nói của lẽ sống lớn, tình cảm lớn. Tâm hồn thơ ông thật trong sáng, giàu có và đa dạng. Do luôn chứa đựng một tình yêu thương rất lớn, nhiều người đã gọi ông là "thi sĩ của tình thương". Tình yêu thương của Tố Hữu không chỉ được thể hiện qua câu, chữ, hình ảnh mà còn được thể hiện qua hình tượng âm nhạc của thơ, cố nhiên nhạc điệu của câu thơ không chỉ ở chữ nghĩa mà còn ở những khoảng trống, những chỗ im lặng giữa các chữ, các dòng. Và nhạc của thơ cũng không chỉ là nhạc của âm thanh, của lời mà quan trọng là thứ nhạc của tâm tình, như Xuân Diệu đã nhận xét: "Đọc thơ Tố Hữu, người ta nhận thấy một dấu hiệu riêng như nét mặt của những bài thơ, làm cho thơ Tố Hữu không trộn lẫn được với thơ người khác, cảm thấy một thứ nhạc tâm tình riêng bàng bạc thấm lấy các câu nhiều khi thành một thứ "thi tại ngôn ngoại" của Tố Hữu. Cái nền nhạc đặc biệt đó, theo ý tôi, là lòng thương mến" .Ta có thể nhận thấy thứ nhạc đặc biệt đó trong bài Lên Tây Bắc: Lại những ngày đi, vắt với sương Ngô bung, xôi nhạt, nước lưng bương Đêm mưa rình giặc, tai thao thức Mùa lại mùa qua rét nhức xương. ( Lên Tây Bắc, 1948) Những câu thơ chứa chan tình cảm đối với anh bộ đội trong hoàn cảnh chiến đấu gian khổ hồi bấy giờ. Và tình cảm đó đã truyền được đến người đọc qua cách gieo vần của nhà thơ, qua âm hưởng của những chữ sương, bương, xương, Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 79 đọc lên thật xúc động. Nhưng điều quan trọng hơn còn là phần thơ ở ngoài lời, phần không thể nói ra được bằng lời, cũng không thể nói hết bằng âm thanh nhịp điệu vì bao trùm lên hết thảy là tâm hồn nhà thơ. Tố Hữu cũng đã có lần nói: "Thơ là cái đó, sự im lặng giữa các từ. Nếu người ta lắng nghe cái im lặng đó thì có những tiếng dội rất đa dạng và rất tinh tế". Thơ Tố Hữu có rất nhiều bài đạt tới sự hoà hợp giữa thứ "nhạc bên trong" của tâm hồn và "thứ nhạc bên ngoài" của bài thơ như mấy câu thơ trong Sáng tháng Năm: Vui sao một sáng tháng Năm Đường về Việt Bắc, lên thăm Bác Hồ Suối dài xanh mướt nương ngô Bốn phương lồng lộng thủ đô gió ngàn... (Sáng tháng Năm, 1951) Tố Hữu là nhà thơ nhạy cảm đặc biệt với nhạc tính của tiếng Việt và biết phát huy cao độ khả năng biểu cảm của nó. Vì vậy trong thơ ông tính nhạc rất giàu có, chất dân tộc sâu đậm, đặc biệt là giọng mộc mạc, đằm thắm của ca dao. Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già: Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về (Cá nước, 1947) Đọc thơ Tố Hữu, ta cảm thấy có cái gì như muốn ca lên, hát lên và ngân nga mãi trong lòng: Con ơi con ngủ cho ngoan Sang canh trăng lặn, buổi tan mẹ về… (Phá đường, 1948) Giữa bao nhiêu giọng điệu thơ Việt Nam hiện đại, thơ Tố Hữu có giọng điệu riêng, độc đáo. Đó là giọng tâm tình, ngọt ngào, thiết tha, giọng của tình thương. Đọc thơ ông người đọc luôn bị cuốn hút trong cái đằm thắm, da diết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 80 thường trực, tràn đầy từ sâu xa đáy lòng của nhà thơ. Có thể nói, phần lớn các bài trong tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu được viết bằng giọng điệu này. Lưu Trọng Lư đã nhận xét: "Thơ anh nhiều phong vị dân gian, giàu âm nhạc, nên dễ vào lòng quần chúng, nhất là quần chúng nông thôn. Nhiều câu thơ trong Truyện Kiều đã biến thành lời ru bên nôi, thì nhiều câu thơ trong Việt Bắc đã biến thành tiếng hát ruộng đồng. Thơ anh dân tộc, dân gian chỉ vì anh muốn nó đại chúng", ta bắt gặp trong bài Voi âm hưởng điệu hò của người kéo gỗ: Ta bế ta bồng Voi lên ta vác Vai ta vai sắt Chân ta chân đồng... (Voi, 1948) Ở Bà mẹ Việt Bắc, lại là điệu vè kể chuyện của quần chúng: Con mé có ba Trai hai gái một Giá gả chồng xa Trai còn đứa rốt (Bà mẹ Việt Bắc, 1948) Với Phá đường lại có cách xưng hô ngọt ngào, nhịp điệu uyển chuyển ngay trong lời nhân vật tự giới thiệu: Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét, nước làng em lo Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong ( Phá đường, 1948) Trong thơ Tố Hữu ta còn bắt gặp nhiều cách xưng hô thân thương trìu mến: bác, bầm, em, cha, mình, ta...Đặc biệt với bài Việt Bắc, chúng ta như được tiếp xúc với một bài ca dao dài, là cuộc đưa tiễn nhau của hai người yêu nhau. Từ cảnh chia ly đến nỗi nhớ, từ điều tâm sự, nhắn nhủ đến nỗi ước mong, hò Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 81 hẹn…đều in rõ dấu vết của lối đối đáp nam nữ trong ca dao, dân ca. Nhưng ở đây không phải là đôi trai gái, Tố Hữu mượn mối tình nồng thắm của đôi trai gái trong ca dao, dân ca để nói đến tình nghĩa keo sơn của người cán bộ cách mạng với nhân dân, với kháng chiến, cụ thể là đối với chiến khu Việt Bắc. Tố Hữu muốn nhắn nhủ những người cán bộ khi hòa bình trở lại thủ đô thì đừng bao giờ quên “Nhớ khi giặc đến giặc lùng, rừng cây núi đá ta cùng đánh Tây”, đừng quên những ngày gian khổ kháng chiến "miếng cơm chấm muối mối thù nặng vai”. Tố Hữu muốn khẳng định tình đoàn kết khăng khít giữa đồng bào miền xuôi và nhân dân miền ngược. Bên cạnh giọng trữ tình tha thiết, trong tập thơ Việt Bắc không thể thiếu giọng anh hùng ca. Nhưng ngay cả "những bài vang dội giọng anh hùng ca vẫn đậm đà giọng trữ tình tha thiết. Nhiều khi hai giọng đó vẫn quyện lấy nhau nhuần nhuyễn và vẫn nổi bật cái nền trữ tình nồng thắm" (Nguyễn Trung Thu). Điều đó đã giúp ta cảm nhận được cái nhạc điệu ngọt ngào trong tập thơ Việt Bắc: Rất đẹp hình anh lúc nắng chiều Bóng dài lên đỉnh dốc cheo leo Núi không đè nổi vai vươn tới Lá nguỵ trang reo với gió đèo ( Cá nước, 1947) Hay: Hoan hô chiến sĩ Điện Biên Chiến sĩ anh hùng Đầu nung lửa sắt Năm mươi sáu ngày đêm, khoét núi, ngủ hầm, mưa rầm, cơm vắt. Máu trộn bùn non Gan không núng Chí không mòn ! (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 82 Cái ngọt ngào trong thơ Tố Hữu còn ở hơi thở dân tộc. Nhiều câu thơ Tố Hữu kế thừa rất sáng tạo vốn cổ điển và vốn dân gian. Câu thơ hiện đại mà nghe có hơi của điệu ngâm: Mười lăm năm ấy ai quên Quê hương cách mạng dựng nên cộng hoà Mình về mình có nhớ ta Mái đình Hồng Thái, cây đa Tân Trào. (Việt Bắc, 1954) Tố Hữu biết học cách sáng tạo trong Kiều và ca dao, cái hơi vè dân gian được sống dậy và nâng lên thành nghệ thuật: Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ, bà lo bời bời Đêm nay tháng chạp mồng mười Vài mươi bữa nữa Tết rồi hết năm. (Bao giờ hết giặc, 1948) Hơi thở dân tộc đã tạo cho thơ Tố Hữu giàu chất nhạc. Mỗi tiếng "Ai" cất lên như xoáy vào mỗi chúng ta một lòng yêu nước tha thiết. Ai về Hưng Hoá Ai xuống khu Ba Ai vào khu Bốn Đường ta đó, tự do cuồn cuộn Bốt đồn Tây đã cuốn sạch rồi!... (Ta đi tới, 1954) Một trong những yếu tố để tạo nên chất nhạc trong tập thơ, đó còn là việc chọn lọc từ. Tố Hữu "là một nhà thơ đã vận dụng âm điệu và âm hưởng của tiếng Việt một cách hết sức tài tình". "Tiếng nói Việt Nam luôn luôn hát lên thành âm Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 83 nhạc trong thơ Tố Hữu" [33]. Nhà thơ sử dụng từ tượng thanh một cách chính xác và thích hợp với hoàn cảnh mô tả, góp phần làm tăng tính nhạc cho câu thơ: Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca... (Ta đi tới, 1954) Tố Hữu sử dụng từ lấp láy với những biện pháp đa dạng và sáng tạọ. Thơ dân gian và các nhà thơ lớn của văn học Trung đại như Hồ Xuân Hương, Nguyễn Du, Nguyễn Khuyến...đã sử dụng thành thục loại từ này. Tố Hữu đã học tập được cách sử dụng ngôn ngữ đó của ca dao, của các nhà thơ lớn. Nhà thơ đã vận dụng một cách thành công, và nâng cao nhạc điệu thơ lên, điển hình như trong bài Lượm. Chú bé loắt choắt Cái xắc xinh xinh Cái chân thoăn thoắt Cái đầu nghênh nghênh (Lượm, 1949 ) Vần trong thơ Tố Hữu, cũng góp một phần khá quan trọng làm giàu nhạc điệu của thơ. Dù ở bất kỳ thể thơ nào Tố Hữu luôn quan tâm đến vần. Nhiều đoạn thơ Tố Hữu vần thơ cứ nối tiếp, quấn quýt với nhau. Bà bủ không ngủ, bà nằm Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về... (Bà bủ, 1948) Việc chọn từ giàu âm thanh và gieo vần rất quan trọng đối với nhà thơ, nhưng quan trọng hơn nữa là việc phân phối, hoà hợp âm thanh của từ để tổ chức nên tiết tấu, âm điệu thơ, tức là tổ chức nên nhịp điệu. Trong thơ Tố Hữu nhịp Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 84 điệu không gò gượng mà biến hoá tinh tế theo mạch cảm xúc, góp phần biểu hiện tâm tình một cách tài tình uyển chuyển. Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương Nhớ từng bản khói cùng sương Sớm khuya bếp lửa người thương đi về. (Việt Bắc, 1954) Thơ Tố Hữu rất tinh tế, tiêu biểu như đoạn thơ lục bát trong bài thơ Phá đường, mang nhạc điệu của dân ca xứ Huế, khiến cho thơ Tố Hữu có nhạc điệu dân tộc ấm áp và phóng khoáng. Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét, / nước làng em lo Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ, / sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng/ đi phá đường quan. Con ơi/con ngủ / cho ngoan Sang canh/ trăng lặn,/ buổi tan/ mẹ về... (Phá đường, 1948) Tố Hữu sử dụng nhịp thơ 4-4 trong các câu 8 ở sáu dòng trên, đã góp phần thể hiện không khí khẩn trương của việc đi phá đường với tinh thần dứt khoát gác việc gia đình để đi làm việc công của người phụ nữ Bắc Giang. Nhưng đến ngay dòng 8 tiếp theo thì nhịp thơ chậm lại và chuyển theo nhịp 2-2-2-2, đó là điệu ru con ngọt ngào, đầm ấm nặng tình người mẹ. Nhịp thơ, ngay trong cùng một thể lục bát, đã có sự chuyển đổi nhịp điệu rất nhanh mà rất hợp khiến ta có cảm giác Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 85 như thấy được bước thời gian đi và bước chân người mẹ về, cùng với phong thái thanh thản của người mẹ bên con. Hoặc trong bài thơ Việt Bắc cũng với cách ngắt nhịp chẵn 2/2/2 hoặc 4/4, cách ngắt nhịp này tạo nên một cảm giác bâng khuâng, nhẹ nhàng, tha thiết: Mình về/ mình có/ nhớ không Nhìn cây/ nhớ núi/ nhìn sông/ nhớ nguồn? ( Việt Bắc, 1954) Và: Mình về/ mình lại /nhớ ta Mái đình Hồng Thái/ cây đa Tân Trào. (Việt Bắc, 1954) Nhiều đoạn thơ, Tố Hữu đã ngắt nhịp táo bạo làm cho tâm trạng tác giả nổi bật hẳn lên và tác động rất sâu vào tình cảm của người đọc. Lượm là một ví dụ tiêu biểu: Ngày Huế đổ máu Chú Hà Nội về Tình cờ chú cháu Gặp nhau Hàng Bè... (Lượm, 1949 ) Từ đầu bài thơ, Tố Hữu sử dụng thể thơ bốn chữ, bốn dòng một khổ để kể chuyện về chú Lượm, nhí nhảnh, hồn nhiên và những kỷ niệm vui tươi giữa chú Lượm và tác giả. Nhịp thơ dí dỏm, nhảy nhót tươi tắn. Nhưng đến khi nhận được tin nhà thì Tố Hữu đột ngột cắt đôi dòng thơ bốn chữ và để riêng thành một khổ, thể hiện sự đau xót, mất mát khi Lượm hy sinh. Ra thế Lượm ơi ! Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 86 Tố Hữu còn rất điêu luyện trong việc phân phối âm thanh, tăng sức biểu hiện của nhịp điệu. Bài thơ Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, có những câu thơ Tố Hữu sử dụng thanh trắc liên tiếp, thể hiện nhịp điệu dồn dập, không khí chiến thắng của quân và dân ta trong chiến dịch Điện Biên. Vinh quang Hồ Chí Minh, cha của chúng ta ngàn năm sống mãi Quyết chiến, quyết thắng, cờ đỏ sao vàng vĩ đại. (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Hay trong bài Việt Bắc, Tố Hữu lại sử dụng câu thơ liên tiếp vần bằng, để thể hiện tình cảm thắm thiết của con người. Đường về, đây đó gần thôi ! Hôm nay rời bản về nơi thị thành Nhà cao, chẳng khuất non xanh Phố đông, càng giục chân nhanh bước đường ( Việt Bắc, 1954) Nhịp điệu mô phỏng cũng góp phần tạo nên tính nhạc. Đọc những câu thơ trong bài Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, chúng ta như nghe thấy rõ tiếng vó ngựa dồn dập trên núi rừng Việt Bắc đưa tin chiến thắng lịch sử Điện Biên Phủ: Tin về nửa đêm Hoả tốc hoả tốc Ngựa bay lên dốc Đuốc cháy sáng rừng... (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Nhiều lần Tố Hữu đã đưa vào thơ nhịp điệu lao động và chiến đấu của quần chúng một cách tinh tế và đầy sáng tạo. Từ nhịp điệu lao động khẩn trương, vất vả của người dân công phá đường giai đoạn đầu kháng chiến: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 87 Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Đá lở đất nhào! (Phá đường, 1948) Đến nhịp điệu chuyển pháo căng thẳng, chắc nịch, lạc quan của đơn vị pháo binh: Ta đi lên đèo Ta leo lên dốc Voi ơi khó nhọc Khó nhọc cũng trèo ! (Voi, 1948) Cùng với nhịp điệu mô phỏng, Tố Hữu còn vận dung nhịp điệu trùng điệp trong những khúc thơ : Ta đi tới trên đường ta bước tiếp Rắn như thép,/ vững như đồng Đội ngũ ta trùng trùng điệp điệp Cao như núi, / dài như sông (Ta đi tới, 1954) Có khi Tố Hữu cho trùng điệp từ: Mường Thanh, Hồng Cúm, Him Lam Hoa mơ lại trắng, vườn cam lại vàng. (Hoan hô chiến sĩ Điện Biên, 1954) Thơ Tố Hữu luôn có sự hào quyện giữa nhạc và ý. Đúng như Hoài Thanh đã nhận xét: "Nhạc thơ quyện lấy lòng ta ngay khi ta chưa kịp nhận rõ ý thơ". Quả thật thơ Tố Hữu "vừa ru người trong nhạc, vừa thức người bằng ý" [33]. Nhạc điệu trong tập thơ Việt Bắc mang tính quần chúng, tính dân tộc sâu sắc, vừa bình dị, vừa nâng cao. Những tư tưởng tình cảm, những hiện thực của đời Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 88 sống quyện với sự hài hoà của âm thanh, tiết tấu, nhịp điệu phù hợp với nếp thẩm mỹ quen thuộc của quần chúng, khiến thơ Tố Hữu dễ gần gũi, dễ đi sâu vào tâm hồn người đọc, đông đảo quần chúng đã nhớ, đã thuộc thơ Tố Hữu điều đó là minh chứng cho sự thành công của nhà thơ. 3.1.3. Ngôn ngữ, hình ảnh Tố Hữu không cố công tìm tòi ngôn ngữ mới lạ mà ông sử dụng ngay thứ ngôn ngữ rất phong phú, giản dị, trong sáng của quần chúng nhân dân. Mai Hương và Phong Lan đã có lý khi nhận xét: "Thơ Tố Hữu không cầu kỳ, không kỹ xảo, hầu như không dùng điển tích, điển cố, từ Hán - Việt mà chỉ dùng tiếng nói thường ngày của nhân dân. Ta có cảm giác Tố Hữu làm thơ rất dễ dàng, mạch thơ ông cứ trào lên và cuốn đi cuồn cuộn, thế nhưng thơ ông vẫn cứ hay, vẫn cứ đọng lại trong lòng người lâu dài" [25]. Trước hết cần thừa nhận thơ Tố Hữu rất bình dị. Bình dị ngay cả những lúc ông chủ tâm nói đến những vấn đề lớn lao của thời đại. Trong thơ ông gần như tràn ngập những hình ảnh quen thuộc, thường ngày; như: lúa, ngô, khoai, sắn, mạ non, cơm dé, áo tứ thân, cơm chấm muối, rừng nứa bờ tre, hoa chuối...Ông có ý thức trong việc đưa những hình ảnh, lớp từ ngữ bình dị gần với cuộc sống của người dân vào trong thơ để thơ ông cũng trở nên bình dị gần gũi với họ: Khoai mãn mùa đi, đến sắn về Say màu hương mới, dậy hồn quê Rướn thân lên trải ngàn tay rộng Như những chàng trai đón bốn bề. (Tình khoai sắn, 1946) Hay trong bài Bầm ơi: Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non Mạ non bầm cấy mấy đon Ruột gan bầm lại thương con mấy lần. (Bầm ơi, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 89 Tố Hữu sử dụng ngôn ngữ địa phương như: mé, ông ké, bủ, ... Có thể nói thơ Tố Hữu rất bình dị, vì thế mà người ta nói thơ Tố Hữu mang tính đại chúng cao, được nhiều người ưa thích, một thời đã đi vào lòng người đọc như lời ăn tiếng nói hàng ngày của họ: Con mé có ba Trai hai gái một Gái gả chồng xa Trai còn đứa rốt... (Bà bủ, 1948) Thơ Tố Hữu còn thấm nhuần ngôn ngữ trong văn học dân gian, một ngôn ngữ sống động. "Nó không chỉ là chữ a, chữ b, mà là cả cái tiếng vang lên trong từng chữ, tiếng vọng của cả cái khoảng cách giữa những chữ, những dòng..." [33]. Chúng ta có thể bắt gặp rất nhiều câu thơ có lối so sánh ví von kiểu ca dao trong thơ ông: Mưa phùn ướt áo tứ thân Mưa bao nhiêu hạt thương bầm bấy nhiêu (Bầm ơi, 1948) Hay: Nhớ gì như nhớ người yêu Trăng lên đầu núi, nắng chiều lưng nương (Việt Bắc, 1954) Tố Hữu còn sử dụng nhiều thành ngữ, quán ngữ, tục ngữ như: Lạnh tay, lạnh chân Đứng trơ như đá Hồn bay vía bay (Bà mẹ Việt Bắc, 1948) Có những câu thơ Tố Hữu lấy một phần của câu tục ngữ cộng thêm một phần lời thơ của mình: Đá mòn nhưng dạ chẳng mòn Chàm nâu thêm đậm, phấn son chẳng nhoà. (Việt Bắc, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 90 Như vậy, ngôn ngữ thơ rất Tố Hữu, rất dân gian, đại chúng. Sự có mặt của ngôn ngữ dân gian, của đời sống hàng ngày khiến cho thơ ông trở nên bình dị, gần gũi thân thương. Đằng sau lớp ngôn ngữ bình dị ấy, nhà thơ muốn diễn tả một nội dung lớn lao, gắn với các vấn đề của cộng đồng, của thời đại, là nguồn cổ vũ động viên nhân dân đấu tranh, tin tưởng vào tương lai đất nước. Cùng với ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ Tố Hữu rất đa dạng, có những hình ảnh hiện lên rõ nét nhìn là thấy: Đẹp vô cùng Tổ quốc ta ơi ! Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói Sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca. (Ta đi tới, 1954) Có những hình ảnh cụ thể gây xúc động, thấy là lòng người rung lên nhớ mãi: Hình ảnh em bé Lượm dũng cảm mà đáng thương bị chết dưới làn đạn của giặc nhưng hình ảnh của em vẫn sống mãi trong lòng nhà thơ. Bỗng loè chớp đỏ Thôi rồi, Lượm ơi Chú đồng chí nhỏ Một dòng máu tươi ! (Lượm, 1949 ) Hay những bài thơ viết về người mẹ, đọc lên khiến ta thấy xúc động trước tấm lòng yêu nước, yêu con, hy sinh bản thân cho cách mạng: Bà bủ không ngủ bà nằm Càng lo, càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về. (Bao giờ hết giặc, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 91 Và hình ảnh Bà mẹ Việt Bắc: Tôi ôm lấy nó Tôi kể trước sau Nỗi nhà mất bố Nỗi anh chết tù... (Bà mẹ Việt Bắc, 1948) Song thơ Tố Hữu bao giờ cũng là hình ảnh thật của đời sống, những hình ảnh sinh động, là sự hoà quyện giữa người và cảnh tạo nên một khung cảnh thật ấm áp tình người: Rừng xanh hoa chuối đỏ tươi Đèo cao nắng ánh dao gài thắt lưng Ngày xuân mơ nở trắng rừng Nhớ người đan nón chuốt từng sợi dang Ve kêu rừng phách đổ vàng Nhớ cô em gái hái măng một mình. (Việt Bắc, 1954) Khi nói đến Tổ quốc, hình ảnh thật "hồn nhiên", nên thơ có những gam màu, âm thanh,... lắng sâu vào tâm hồn. Đẹp vô cùng, Tổ quốc ta ơi ! Rừng cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt Nắng chói sông Lô, hò ô tiếng hát Chuyến phà dào dạt bến nước Bình Ca... (Ta đi tới, 1954) Tố Hữu còn thiên về loại hình ảnh "động" đang diễn biến, đang tiến triển. Ngay khi nhà thơ cảm xúc, một nét, lại một nét cứ bồi thêm vào nhau để dựng nên hình. Không ai khác đó là Hồ Chí Minh, "Người là Cha, là Bác, là Anh" của dân tộc: Nhớ Người những sớm tinh sương Ung dung yên ngựa trên đường suối reo Nhớ chân Người bước lên đèo Người đi rừng núi trông theo bóng Người... (Việt Bắc, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 92 Bài thơ Phá đường cũng biểu hiện khá rõ biệt tài của Tố Hữu trong việc xây dựng những hình ảnh động, gợi lên không khí lao động khẩn trương của chị dân công phá đường. Hì hà hì hục Lục cục lào cào Anh cuốc em cuốc Đá lở đất nhào... (Phá đường, 1948) Nhịp thơ náo nức, trầm hùng khi miêu tả cảnh tượng hùng vĩ của cuộc chiến đấu, của hoạt động cách mạng. Chất hùng tráng trong những câu thơ: Những đường Việt Bắc của ta Đêm đêm rầm rập như là đất rung Quân đi điệp điệp trùng trùng, Ánh sao đầu súng bạn cùng mũ nan. Dân công đỏ đuốc từng đoàn, Bước chân nát đá muôn tàn lửa bay. (Việt Bắc, 1954) Ngôn ngữ, hình ảnh trong thơ Tố Hữu thật phong phú, đa dạng, gần gũi, bình dị, Ông không tìm tòi ở đâu cao xa mà có ngay trong đời sống kháng chiến, trong lời ăn tiếng nói của nhân dân. Đó là những đóng góp đáng quý của thơ ông trên xu hướng tìm tòi bản sắc dân tộc đại chúng. 3.1.4. Niêm luật và vần Tố Hữu là nhà thơ chịu ảnh hưởng nhiều của dân ca nên thơ ông thường mang hơi thở của truyền thống. Xuân Diệu đã từng nói: "Không học ca dao từ nhỏ thì làm sao học giỏi thơ được". Vì vậy vần thơ của ông mang đặc điểm của thơ truyền thống. Đó là tôn trọng lệ “nhị, tứ, lục, phân minh” trong thể thơ truyền của văn học cổ truyền: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 93 Xa xôi đầu xóm tre xanh Có bà ru cháu nằm khoanh lòng già Cháu ơi cháu lớn với bà Bố mày đi đánh giặc xa chưa về. (Cá nước, 1947) Sử dụng trong cách hiệp vần. Các âm tiết hiệp vần thường có phụ âm đầu khác nhau, phần vần lặp lại và các vần thường mang thanh bằng. Đặt những câu thơ của Tố Hữu bên cạnh những câu ca dao lục bát thì ta khó có thể phân biệt được đâu là thơ Tố Hữu và đâu là câu ca dao. Nếu ca dao có câu: Mình về có nhớ ta chăng Ta về ta nhớ hàm răng mình cười Thì thơ Tố Hữu cũng góp phần vào vốn ca dao ấy những lời thơ thật ngọt ngào, tha thiết: Mình về mình có nhớ ta Mười lăm năm ấy thiết tha mặn nồng (Việt Bắc, 1954) Cách hiệp vần không chỉ mang thanh bằng mà còn mang thanh trắc, hoặc phối hợp hai thanh bằng- trắc. Những cách hiệp vần này trong thơ Tố Hữu ít gặp ở những nhà thơ khác. Điều đó ghi nhận nét độc đáo trong thơ ông, khác với Xuân Diệu, Nguyễn Bính sau này. Trong thơ Nguyễn Bính ta cũng bắt gặp kiểu gieo vần lạ, bất thường: Trên giời có vẩy tê tê Đôi bên ước thề duyên hãy tròn duyên Nhưng không thể giống với Tố Hữu ở những vần được gieo kết hợp giữa âm tiết mang thanh bằng và âm tiết mang thanh trắc như: Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 94 Nhớ sông Lô, nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng, nhớ sang Nhị Hà (Việt Bắc, 1954) Cách hiệp vần này còn xuất hiện ngay trong câu lục và câu bát, đó chính là dụng ý nghệ thuật của nhà thơ: Bà bủ nằm ổ chuối khô Bà bủ không ngủ bà lo bời bời (Bà bủ, 1948) Các âm tiết gieo vần với nhau đều mang thanh trắc cũng đã chứa đựng trong nó một nội dung, đó là khát vọng thay đổi quê hương đất nước. Hàng loạt âm tiết mang thanh trắc ấy dường như để diễn tả sự uất ức, hận thù và đầy nước mắt trước cảnh điêu tàn, tan nát của quê hương bị giặc dày xéo. Song bên cạnh đó lại là tiếng hát lên đường, tiếng hát theo vần thơ ngân dài đến tận cuối bài thơ: Bàn tay đã nắm lời thề Ra đi quyết phá ngày về sẽ xây Từ trong đổ nát hôm nay Ngày mai đã đến từng giây, từng giờ... (Giữa thành phố trụi, 1947 ) Tố Hữu học cách gieo vần trong ca dao, tiếng thứ 6 của câu lục vần với tiếng thứ 6 của câu bát, tiếng thứ 8 của câu bát vần với tiếng thứ 6 của câu lục tiếp sau thường là gieo vần bằng, ở các bài thơ tiêu biểu như: Bà bủ, Bầm ơi, Việt Bắc... Bà bủ không ngủ bà nằm Càng lo càng nghĩ, càng căm càng thù Ngoài phên gió núi ù ù Mưa đêm mưa tự chiến khu mưa về... (Bà bủ, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 95 Tố Hữu là nhà thơ không chỉ dừng lại ở việc học tập những nét tinh hoa của văn học truyền thống, mà ở nhà thơ luôn có sự tìm tòi, phát hiện mới mẻ. Ngoài việc gieo vần ở những vị trí thông thường Tố Hữu còn gieo vần ở những vị trí bất thường. Tố Hữu đã tạo ra một sợi dây liên kết vô hình (qua vần điệu) giữa những địa danh lịch sử để gọi về "chín năm nắng núi mưa ngàn" của Việt Bắc- một thời kỳ gian khổ nhưng oanh liệt. Ai về có nhớ ai không ? Ta về ta nhớ Phủ Thông Đèo Giàng Nhớ sông Lô nhớ Phố Ràng Nhớ từ Cao Lạng nhớ sang Nhị Hà (Việt Bắc, 1954) Tố Hữu sử dụng nhiều vần liên tiếp tạo nên âm hưởng ngân vang đồng vọng. Hai câu lục bát trên gieo vần ở vị trí 6-8 thông thường, nhưng đến hai câu sau Tố Hữu gieo vần bất thường, vị trí thứ 6 của câu lục gieo vần với vị trí thứ 4 của câu bát khiến câu thơ đột ngột chuyển giọng như khắc sâu nỗi nhớ, nỗi nhớ theo chiều sâu và lan toả từ vùng này sang vùng khác, từ những hy sinh gian khổ đến những chiến công vang dội ...một nỗi nhớ dào dạt, tha thiết. Tố Hữu đã vận dụng sáng tạo trong đoạn thơ này cách gieo vần bất thường làm cho những câu thơ không chỉ là trang ký sự chiến trường mà còn gợi lên vẻ đẹp thẩm mỹ trong lòng độc giả. Ngoài ra còn có một số bài thơ Tố Hữu gieo vần ở tiếng thứ 4 của câu tám. Bầm ra ruộng cấy bầm run Chân lội dưới bùn tay cấy mạ non. (Bầm ơi, 1948) Hay: Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong Nhà em con bế con bồng Em cũng theo chồng đi phá đường quan (Phá đường, 1948) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 96 Có thể nói những bài thơ gieo vần ở tiếng thứ 4 này đều là những bài viết về những người thôn quê mộc mạc dân dã. Đó là một dụng ý nghệ thuật của Tố Hữu mang lại hiệu quả thẩm mỹ cao. Tố Hữu thường dùng vần Đường luật mềm mại, có nhiều khả năng biểu hiện cái liên tục thích ứng với hơi thở liền mạch.(chữ cuối câu thứ nhất, câu thứ hai, và câu thứ tư, thanh bằng và vần với nhau): Ai biết trưa nay giữa bụi bờ Anh nằm sưởi nắng mắt lơ mơ Tôi ngồi, không ngủ nghe anh thở Khe khẽ lòng ngâm lên tiếng thơ (Lên Tây Bắc, 1948) Tìm hiểu quá trình sáng tạo nghệ thuật của Tố Hữu, ta thấy ông không bao giờ nô lệ vào câu chữ hay gò ép, khiên cưỡng trong niêm luật và cách gieo vần. Thơ ông vừa mang nét tinh hoa của văn học truyền thống, vừa mang tính hiện đại, nên những bài thơ của ông vừa giàu tính nhạc, vừa mang tính hình tượng cao. 3.2. Sự kết hợp giữa tính dân tộc và âm hƣởng hiện đại Tố Hữu đã lấy dân tộc làm nền tảng cho thơ mình. Ông tiếp thu truyền thống thơ ca dân gian, cổ điển của dân tộc, một sự tiếp nhận sâu và đa diện, tiếp nhận một cách sáng tạo đầy bản lĩnh. "Ông tiếp thu phần hồn, đón lấy cái hương, cái “nhụy” của nó", đúng như Nguyễn Đình Thi nhận xét. Nhìn lại các bài thơ gắn với truyền thống nhất của Tố Hữu, đều có một sự hài hoà hiếm có giữa tính dân tộc và tính hiện đại. Hiện đại không chỉ nội dung mà cả hình thức thể hiện, hiện đại ngay trong các thể thơ cổ điển của dân tộc, trong cách biểu hiện rất gần với thơ ca dân gian. Phong vị dân gian đậm đà trong thơ Tố Hữu, đặc biệt trong nhiều bài thơ đặc sắc như hàng loạt các bài thơ Việt Bắc, Bầm ơi, Phá đường...Những câu thơ được ủ chặt giữa hương vị dân gian rất phổ biến. Chính nó là sợi dây bền chặt, kết Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 97 bện thơ Tố Hữu với truyền thống thơ ca dân tộc, tạo nên sức hấp dẫn, sức cảm hoá, sức nặng, sức bền của thơ ông trong lòng nhiều thế hệ độc giả. Tố Hữu đã tiếp thu triệt để khai thác, sử dụng và phát triển một cách sáng tạo những tinh hoa của thơ ca truyền thống, góp phần diễn tả một cách sinh động những tư tưởng tình cảm mới của thời đại. Chính sự tiếp nhận sáng tạo ấy của nhà thơ đã đem lại dáng vẻ và âm hưởng hiện đại cho thơ ca truyền thống." ... làm cho cái hồn dân tộc nhập vào với cái hồn thời đại”,“ Tố Hữu đã giữ được hiện đại ngay trong hình thức biểu hiện tưởng là cổ điển nhất” (Lê Đình Kỵ). Tố Hữu đã đưa câu thơ lục bát cổ điển đến một hình thức phát triển cao nhất và phong phú nhất, những câu thơ ngọt ngào, uyển chuyển, thướt tha, mà vẫn nói lên được những điều cần nói về hiện thực cách mạng, về tình cảm cách mạng: Em là con gái Bắc Giang Rét thì mặc rét nước làng em lo Nhà em phơi lúa chửa khô Ngô chửa vào bồ sắn thái chưa xong. (Phá đường, 1948) Hay bài Bầm ơi với âm điệu gần gũi với ca dao, Tố Hữu đã diễn tả được tình cảm ân tình tha thiết của người con đối với người mẹ, gợi lên được hình ảnh chân thực của bà mẹ nông dân Việt Nam vất vả và tình cảm của mẹ thật cảm động. Nhưng ở đây tình cảm của người mẹ đối với con rất đỗi thiêng liêng khi gắn với tình đồng bào, đồng chí, tình anh em, tình đất nước nó là sản phẩm mới của thời đại: Bầm ơi liền khúc ruột mềm Có con có mẹ có thêm đồng bào Con đi mỗi bước gian lao Xa bầm nhưng lại có bao nhiêu bầm. (Bầm ơi, 1948 ) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 98 Việt Bắc ngọt ngào, đằm thắm như lời ru, lời thủ thỉ đã đưa người đọc vào một thế giới sâu nặng ân tình, rất tiêu biểu cho hồn thơ, cho phong cách của Tố Hữu. Vẫn là tiếng nói của tình cảm, tình yêu nhưng là tình yêu đối với quê hương đất nước, đối với cách mạng, đối với nhân dân. Và tình yêu ấy đã biến thành tình nghĩa, và Việt Bắc trở thành tiếng hát ân tình thuỷ chung của những người kháng chiến, của cả dân tộc trong một thời điểm đáng nhớ. Mình đi, có nhớ những ngày Mưa nguồn suối lũ, những mây cùng mù Mình về, có nhớ chiến khu Miếng cơm chấm muố,i mối thù nặng vai? Mình về, rừng núi nhớ ai Trám bùi để rụng, măng mai để già... (Việt Bắc, 1954) Thuộc trong số câu thơ hay nhất của bài Việt Bắc là: Mình đi, mình có nhớ mình Tân Trào, Hồng Thái, mái đình cây đa? Trong ca dao, không gặp kiểu đại từ đổi ngôi như vậy. Câu thơ vốn có gốc rễ sâu xa trong ca dao của dân tộc bỗng vụt lớn lên, mới mẻ, hiện đại. Câu hỏi thật sâu nặng, đầy ý nghĩa. Bên cạnh đó bài Việt Bắc còn có những câu đọc lên như một bài ca dao hiện đại: Muối Thái Bình ngược Hà Giang Cày bừa Đông Xuất, mía đường tỉnh Thanh Ai về mua vại Hương Canh Ai lên mình gửi cho anh với nàng Chiếu Nga Sơn, gạch Bát Tràng Vải tơ Nam Định, lụa hàng Hà Đông (Việt Bắc, 1954) Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 99 Ở Tố Hữu cái hơi dân tộc kết hợp khéo léo với màu sắc hiện đại tiếp tục được thể hiện và càng dồi dào, đậm nét hơn trong tập Gió lộng như trong Em ơi...Ba lan, Bài ca mùa xuân 61: Em ơi, Ba lan, mùa tuyết tan Đường bạch dương, sương trắng nắng tràn Anh đi, nghe tiếng người xưa gọi Một giọng thơ ngâm, một giọng đàn Và: Gà gáy sáng. Thơ ơi mang cánh lửa Hãy bay đi. Con chim kêu trước cửa Thêm một ngày xuân đến. Bình minh Cành táo đầu hè quả ngọt rung rinh Bỏ âm nhạc đi, đó là những câu thơ rất Tây, lồng âm nhạc vào, đó là những câu rất Việt. Âm nhạc như cái hồn dân tộc theo sát các ý của thi sĩ khiến cho mỗi câu thơ; cùng toàn bài thơ vừa ẩn chứa tính dân tộc vừa mang âm hưởng hiện đại. Gió lộng, là sự rộng mở đến bát ngát, mênh mông của đất trời tự do, với một nửa nước đang bước vào kế hoạch 5 năm đầu tiên xây dựng chủ nghĩa xã hội; với Tổ quốc" dẫu chưa toàn vẹn đã bay cờ hồng"; với "mắt nhìn bốn hướng. Trông lại nghìn xưa, trông tới mai sau"; với tầm cao thời đại "trông Bắc, trông Nam, trông cả địa cầu". Thể thơ tự do được vận dụng linh hoạt, lúc thì rắn rỏi như Tiếng chổi tre, lúc thì rừng rực căm giận như Thù muôn đời muôn kiếp không tan, lúc thì mềm mại uyển chuyển như Em ơi...Ba lan...Những cách gieo vần mới mẻ như "Đường bạch dương, sương trắng, nắng tràn" tạo một bâng khuâng và ngân nga không dứt trong tâm tưởng làm nối dài những liên tưởng giữa truyền thống và hiện đại. So với Việt Bắc, Gió lộng là một bước tiến mới trong quan hệ dân tộc và hiện đại, nhưng vẫn không xa rời ngọn nguồn dân tộc như trong Quê mẹ, Người con gái Việt Nam, Tiếng ru... Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 100 KẾT LUẬN 1. Với Tố Hữu, chúng ta có một nhà thơ - chiến sĩ, biết gắn bó đời mình và hoạt động thơ ca của mình với lý tưởng cao cả vì độc lập, tự do của Tổ quốc. Thơ ông là thơ "mang cánh lửa", "đốt cháy trái tim con người vào ngọn lửa thần của đại nghĩa" (Xuân Diệu). Đã có bao nhiêu người cảm động vì thơ ông và từ thơ ông mà đến với cách mạng. Hơn nửa thế kỷ qua, thơ Tố Hữu trở thành tấm gương phản ánh những lẽ sống lớn của dân tộc, trở thành tiếng hát của thời đại. 2. Tập thơ Việt Bắc của Tố Hữu thực sự có giá trị và giữ vị trí xứng đáng trong nền thơ ca kháng chiến, bởi nó đã góp phần giải quyết những vấn đề cơ bản đặt ra cho nền văn nghệ mới Việt Nam sau 1945. Đó là vấn đề dân tộc và đại chúng, vấn đề nghệ thuật và tuyên truyền, vấn đề vốn sống và kỹ năng nghề nghiệp, vấn đề hiện thực và lãng mạn, vấn đề nội dung và hình thức…Tố Hữu trong tập thơ Việt Bắc đã góp phần của mình không bằng lý luận mà bằng sáng tác, để giải quyết các vấn đề đó, và trở thành ngọn cờ tiêu biểu, đứng ở hàng đầu nền thơ ca cách mạng sau 1945- Từ Việt Bắc chúng ta có thể rút ra nhiều bài học quý báu về con đường đi của thơ đó là con đường gắn bó với nhân dân phục vụ lợi ích của cách mạng. 3. Giá trị nội dung lớn của Việt Bắc- đó là một tình yêu nước, được thể hiện một cách thiết tha và cụ thể, qua tình yêu những con người đứng ở hàng đầu sự nghiệp kháng chiến - đó là anh bộ đội cụ Hồ, là những bà mẹ, những phụ nữ, những em bé…sẵn sàng hy sinh tất cả để đánh thắng giặc; là sự phát hiện những giá trị nhân văn cao cả trong những con người bình thường, “ nhỏ bé” làm nên g- ương mặt chung của nhân dân, vừa được cách mạng giải phóng, vừa làm nên sức mạnh giải phóng của cách mạng. Là tình cảm gắn bó với quê hương cách mạng mang tên Việt Bắc“ thủ đô gió ngàn” với cây đa Tân Trào, mái đình Hồng Thái- những địa danh đã đi vào lịch sử và bây giờ tiếp tục cuộc kháng chiến chín năm“ Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 101 Rừng che bộ đội, rừng vây quân thù”, với Trung ương, Chính phủ và Bác Hồ lãnh đạo quân dân cả nước tiến hành một cuộc kháng chiến toàn dân, toàn diện, trường kỳ đi tới chiến thắng Điện Biên Phủ vĩ đại. Có thể nói, Việt Bắc bằng tiếng nói thơ ca, đã ghi nhận được những dấu ấn cụ thể cho một“ toàn cảnh” những tình cảm lớn của dân tộc trong 10 năm mở đầu nền văn học mới sau 1945, 10 năm kỷ nguyên dân chủ cộng hoà, chấm dứt 80 năm cả dân tộc chìm đắm trong tình cảnh nước mất. 4. Với Việt Bắc, Tố Hữu là nhà thơ đi đầu và có thành tựu lớn nhất trong việc đi sâu vào hình thức dân tộc, phát triển và nâng cao tiếng nói và hình thức dân tộc để cho nhịp điệu của thơ chứa đựng được nội dung tư tưởng tình cảm của thời đại. Trong khi đi vào phương hướng dân tộc, nhà thơ luôn có ý thức hướng tới đại chúng, để cho thơ có sức phổ cập rộng rãi. Đồng thời biết gắn tính dân tộc với âm hưởng hiện đại, để cho thơ luôn luôn có ý nghĩa thời sự. Điều đó làm nên vai trò mở đầu và dẫn dắt nền thơ ca cách mạng Việt Nam của Việt Bắc nói riêng, làm nên giá trị và sức cuốn hút mạnh mẽ của thơ Tố Hữu nói chung. Kết luận. Có thể khẳng định Việt Bắc là tập thơ có đóng góp lớn nhất cho nền thơ ca kháng chiến chống Pháp nói riêng và có giá trị, vị trí xứng đáng trong nền văn học hiện đại Việt Nam nói chung. Hoàn toàn dễ hiểu khi Việt Bắc nhận được Giải nhất Hội văn nghệ Việt Nam (1954-1955); sau Từ ấy, nó tiếp tục tạo nên một chuyển biến căn bản trên hành trình hơn nửa thế kỷ thơ Tố Hữu. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 102 TÀI LIỆU THAM KHẢO 1. Trọng Anh (1955), Đồng bào Miền Nam với thơ Tố Hữu, Báo Nhân dân. 2. Nguyễn Bao (1998), Tố Hữu, nhà thơ- chiến sĩ. Nxb, H. 3. Nguyễn Cừ (1980), Tố Hữu, nhà thơ cách mạng, Nxb khoa học xã hội, H. 4. Hoàng Cầm (1955), Bổ sung ý kiến của tôi về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo Văn nghệ (số 70). 5. Hoàng Minh Châu (1959), Về giá trị tập thơ"Từ ấy" và phương pháp sáng tác của Tố Hữu, Báo Văn nghệ ( số71). 6. Xuân Diệu (1955), Tập thơ" Việt Bắc của Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 28,64). 7. Xuân Diệu (1960), Dao có mài mới sắc, Tạp chí Văn học (số73). 8. Xuân Diệu (1964), Từ ấy trong tôi bừng nắng hạ, Nxb Văn học, H. 9. Lê Đạt (1955), Giai cấp tính trong thơ Tố Hữu, Báo Văn nghệ ( số 68). 10. Hà Minh Đức (1977), Những bài học lớn và sự cổ vũ chân thành, Nxb Văn học, H. 11. Hà Minh Đức (1994 ), Từ Từ ấy đến Một tiếng đờn, Nxb Văn học, H. 12. Hà Minh Đức (1995), Một tài năng thơ ca thuộc về nhân dân và dân tộc- Nxb Giáo dục. 13. Phan Cự Đệ (1959), Một bông hoa tươi thắm nhất của vườn thơ cách mạng, Tạp chí Văn học (số 30). 14. Nguyễn Đăng Điệp (2002), Giọng điệu trong thơ trữ tình, Nxb Văn học, H. 15. Tế Hanh (1959), Đọc tập thơ"Từ ấy" của Tố Hữu, Báo Văn học (số 49, 50). 16. Nguyễn Văn Hạnh (1970), Phong cách nghệ thuật của Tố Hữu, Nội san nghiên cứu Văn học, Trường ĐHSP, H. 17. Đông Hoài (1955), Góp ý kiến về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo văn nghệ (số 70). 18. Phạm Hổ (1964), Thơ Tố Hữu với Miền Nam thành đồng Tổ Quốc, Báo Văn nghệ ( số72). Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 103 19. Tố Hữu ( 1946), Thơ, Hội văn hoá cứu quốc Việt Nam. 20. Tố Hữu (1961), Thơ là tiếng nói đồng ý, đồng tình, tiếng nói đồng chí, Tạp chí Văn nghệ (số 48). 21. Tố Hữu (1963), Việt Bắc, Nxb Văn học, H. 22. Tố Hữu (1972 ), Câu chuyện về thơ, Văn phòng Bộ văn hoá, H. 23. Tố Hữu (1980),Văn học là cuộc đời, Báo Văn nghệ (số 44). 24. Tố Hữu (1998), Tuyển tập thơ, Nxb Văn học, H. 25. Thơ Tố Hữu, (1998) - Nxb Giáo dục. 26. Tố Hữu ( 2002), Nhớ lại một thời, Nxb Văn hoá thông tin, 27. Mai Hương (1975), Ý kiến của Tố Hữu về thơ, Tạp chí Văn học (số 4) 28. Mai Hương (1975), Quan niệm của Tố Hữu về thơ, Tạp chí Văn học (số 4) 29. Lê Đình Kỵ (1979), Việt Bắc, Nxb đại học và trung học chuyên nghiệp. 30. Phùng Ngọc Kiếm ( 1987), Những biểu hiện tính dân tộc trong những bài thơ của Tố Hữu viết về Bác Hồ, Thông báo khoa học Đ.H.S.P 1987. 31. Phong Lan và Mai Hương, Tố Hữu" Người đốt lửa" và " Người gieo hạt", H. 32. Mã Giang Lân (1995), Thơ Việt Nam (1945-1954), Nxb Giáo dục, H. 33. Mã Giang Lân ( 2004), Tiến trình thơ Việt Nam hiện đại, Nxb Giáo dục, H. 34. Nguyễn Viết Lãm (1955), Đặc tính sáng tạo trong tập thơ Tố Hữu, Báo Độc lập (số 98). 35. Thẩm Lăng (1955),“Việt Bắc” và Tố Hữu, Báo Độc lập ( số 97). 36. Nguyễn Văn Long (1996), Thơ Tố Hữu trong đời sống phê bình, nghiên cứu văn học ở Việt Nam 50 năm qua, Nxb Hội nhà văn. 37. Nguyễn Văn Long (2003), Văn học Việt Nam trong thời đại mới, Nxb Giáo dục, H. 38. Phong Lê ( chủ biên), Văn học Việt Nam kháng chiến chống Pháp ( 1945- 1954), Nxb Khoa học xã hội, H. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 104 39. Phong Lê (biên soạn), Tố Hữu- thơ và cách mạng. Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu & giảng dạy văn học thành phố Hồ Chí Minh. 40. Vũ Đình Liên (1955), Mối tình dân tộc trong tập thơ“ Việt Bắc”của Tố Hữu, Tổ Quốc (số 12). 41. Lưu Trọng Lư (1971), Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 381). 42. Huỳnh Lý (1959), Nhận xét thơ Tố Hữu như một thực thể động, Báo Văn học (số73). 43. Thời Nhân (1946), Thơ Tố Hữu, Tạp chí Tiên phong (số 23). 44. Đặng Thai Mai (1964), Khi nhà nghệ sĩ“ Tham gia” vào cuộc đấu tranh với tất cả tâm hồn mình, Báo Văn nghệ (số 87). 45. Đặng Thai Mai (1959), Mấy ý nghĩ, Nxb Văn học, H. 46. Hoàng Như Mai (1961), Văn học Việt Nam 1945-1960, Nxb Giáo dục, H. 47. Hoàng Như Mai (1965), Con mắt thần chủ nghĩa trong thơ Tố Hữu, Báo Văn nghệ (số 98). 48. Nguyễn Đăng Mạnh (1994), Con đường thơ Tố Hữu, Nxb Giáo Dục. 49. Nguyễn Đăng Mạnh (chủ biên), Lịch sử văn học Việt Nam, tập III, Nhà xuất bản Đại học sư phạm ( 2002). 50. Tú Mỡ (1955), Góp ý kiến về tập thơ“Việt Bắc”của Tố Hữu, Báo Văn nghệ, (số 75). 51. Như Phong (1959), Cái mới của"Từ ấy"- những bài thơ đầu tiên của Tố Hữu, Nxb Văn học, H. 52. Vũ Đức Phúc (1955), Phản đối cái buồn của Hoàng Cầm khi đọc thơ Tố Hữu. Nxb Văn Học. 53. Vũ Đức Phúc (1967), Người Việt Nam và lòng yêu nước trong thơ Tố Hữu thời kỳ kháng chiến chống đế quốc Pháp (1946-1954), Tạp chí Văn học (số 6). 54. Vũ Đức Phúc (1984), Tố Hữu (trích)- Nxb Khoa học xã hội, H. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 105 55. Vũ Quần Phương (1997), Tố Hữu- Người mở đường của nền thơ cách mạng, Báo Nhân dân. 56. Nguyễn Đức Quyền (1970), “Ta” với “ Mình” trong bài thơ"Việt Bắc" của Tố Hữu, Tạp chí Ngôn ngữ ( số3). 57. Lê Bá Suý ( 1955)," Góp ý kiến về tập thơ Việt Bắc", Báo Văn học ( số 71). 58. Trần Đình Sử (1987), Thi pháp thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới, Hội nhà văn Việt Nam. 59. Thanh Tịnh (1959), Vài cảm nghĩ về tập thơ" Từ ấy" của Tố Hữu, Tạp chí Văn nghệ quân đội ( số 8). 60. Minh Tranh (1955), Tình yêu trong tập thơ" Việt Bắc", Báo Văn nghệ (số 66). 61. Nguyễn Phú Trọng (1960), Phong vị ca dao dân ca trong thơ Tố Hữu. Nxb Văn học. 62. Hà Xuân Trường (1955), Đọc tập thơ“ Việt Bắc”của Tố Hữu, Báo Nhân dân,( số 329). 63. Nguyễn TrungThu (1968), Nhạc điệu thơ Tố Hữu, Tạp chí Văn học, (số 11). 64. Hoài Thanh (1955), Tình yêu quê hương đất nước trong tập thơ“ Việt Bắc”, Báo Văn nghệ ( số 74). 65. Hoài Thanh ( 1955), Nói chuyện thơ kháng chiến, Nxb Văn nghệ, H. 66. Hoài Thanh (1960), “Từ ấy” tiếng hát của một người thanh niên, một người cộng sản, Tạp chí Nghiên cứu Văn học. 67. Hoài Thanh (1962), Gió lộng, một bước tiến mới của thơ Tố Hữu, một tập thơ mang khí thế mới của cách mạng Việt Nam, Tạp chí Nghiên cứu Văn học( số 8). 68. Hoài Thanh (1978), Một số ý kiến ngắn về thơ Tố Hữu, Nxb Tác phẩm mới. 69. Lê Quang Thành (1955), Góp ý kiến thảo luận về tập thơ“ Việt Bắc” của Tố Hữu, Báo Nhân dân. Số hóa bởi Trung tâm Học liệu – Đại học Thái Nguyên 106 70. Lưu Khánh Thơ (2005), Thơ và một số gương mặt thơ Việt Nam hiện đại, Nxb khoa học xã hôi, H. 71. Hoàng Trung Thông (1955), Ý kiến kết thúc cuộc thảo luận về tập thơ“ Việt Bắc”, Báo Văn nghệ, (số 81). 72. Nguyễn Đình Thi (1955), Thơ Tố Hữu đi vào thực tế quần chúng, Báo Văn nghệ ( số 77). 73. Nguyễn Đình Thi (1955), Lập trường giai cấp và Đảng tính, vấn đề hiện thực và lãng mạn, Báo Văn nghệ (số 79). 74. Nguyễn Đình Thi (1955), Nhà thơ lớn lên với thời đại, Báo Văn nghệ ( số 79) 75. Nguyễn Đình Thi (1968), Tập thơ Việt Bắc- Nxb Văn hóa, H. 76. Chế Lan Viên (1963), Thơ Tố Hữu, Nxb Văn học, H. 77. Chế Lan Viên (1968), Tổ Quốc Việt Nam, con người Việt Nam trong thơ Tố Hữu, Báo Nhân dân. 78. Hoàng Việt (1955), Không đồng ý với Hoàng Yến và Hoàng Cầm, Báo Văn nghệ ( số 69). 79. Hồ Sĩ Vịnh (1970), Đọc tập thơ“Bác Hồ”của Tố Hữu, Báo Văn nghệ( số 360). 80. Hoàng Yến ( 1955), Tập thơ“ Việt Bắc” có hiện thực không?, Báo Văn nghệ (số 65).

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • pdfdoc434.pdf