Luận văn Giải pháp hạn chế và xử lý nợ quá hạn tại chi nhánh Ngân hàng NHNN & PTNT Phan Đình Phùng Hà Nội

Do tiến trình hội nhập trong những năm gần đây đòi hỏi hệ thống Ngân hàng thương mại cũng phải mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế. Do đó không chỉ có sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng trong nước mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính quốc tế. Để thắng được trong cuộc chạy đua khốc liệt này đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải vươn lên về mọi mặt: Cả về trình độ chuyên môn, khoa học công nghệ cũng như việc đa dạng hóa các danh mục đầu tư, mở rộng các hình thức dịch vụ. Trọng tâm của vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng là giải quyết tình trạng nợ quá hạn.Vì vậy, Ngân hàng đã dồn toàn tâm toàn lực để có thể giải quyết triệt để vấn đề này.Mặt khác, để làm được điều này cần phải có sự nỗ lực tích cực, chủ động, linh hoạt của chi nhánh cũng như sự hỗ trợ đắc lực từ Hội Sở Chính Ngân hàng NHNN & PTNT Việt Nam,cũng như các cơ quan có thẩm quyền trong việc đảm bảo các điều kiện,môi trường cho hoạt động kinh doanh . Người ta ví kinh doanh và rủi ro như hai bàn cân trên một chiếc cân. Nếu kinh doanh giỏi mà phòng ngừa rủi ro tồi thì cuối cùng hoạt động kinhdoanh cũng chẳng có hiệu quả.Ngược lại, Nếu quản lý rủi ro tốt nhưng kinh doanh tồi thì cũng không mang lại hiệu quả gì. Do vậy, việc nghiên cứu xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân hàng là một công việc hết sức quan trọng.Với suy nghĩ đó em đã trọng tâm nghiên cứu công tác hạn chế và xử lý nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh nhằm bổ sung vào công tác hạn chế và xử lý nợ quá hạn tại chi nhánh .Hi vọng rằng trên cơ sở những biện pháp đã thực hiện cùng với những định hướng giải pháp mới Chi nhánh Ngân hàng NHNN & PTNT Phan Đình Phùng sẽ có những bước tiến tích cực trong công tác đầu tư.

doc107 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1282 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hạn chế và xử lý nợ quá hạn tại chi nhánh Ngân hàng NHNN & PTNT Phan Đình Phùng Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
lập đều có lãi. Trong bối cảnh các NHTM cạnh tranh quyết liệt trong công tác huy động vốn, Ngân hàng đã có chủ chương đúng đắn là cơ cấu lại nguồn vốn theo hướng ổn định, tăng cường huy động nguồn vốn từ dân cư, nguồn vổn trung và dài hạn vì vậy đã tiến hành đồng thời các biện pháp như hoàn chỉnh các chính sách, xây dựng và chỉnh sửa các cơ chế kịp thời. Xây dựng đề án huy động vốn tài khoản dự thưởng bằng vàng” 3 chữ A”, phát hành giấy tờ có giá dài hạn trong toàn bộ hệ thống, đáp ứng đựơc yêu cầu đòi hỏi thực tế và từng bước phù hợp với thông lệ quốc tế. Năm 2005 nguồn vốn của chi nhánh có tốc độ tăng trưởng khá với cơ cấu nguồn vốn hợp lý.Tỷ trọng nguồn vốn từ dân cư tăng từ 31% đến 38 %, giảm tỷ trọng nguồn vốn nhận và đi vay tổ chức tín dụng khác từ 19% xuống 11%; tạo sự cân đối lành mạnh giữa nguồn vốn với sử dụng vốn; đảm bảo khả năng thanh khoản và luôn có tốc độ tăng trưởng nguồn vốn cao hơn tốc độ tăng trưỏng dư nợ. Năm 2005 là năm chi nhánh có năng lực tài chính rất mạnh : Chi nhánh vừa đảm bảo trích lập dự phòng rủi ro theo đúng quy định với mức trích lập là 474,6 triệu, giải quyết cơ bản nợ xấu, nợ tồn đọng từ năm trước, động thời lợi nhuận của chi nhánh vẫn tăng cao hơn năm 2004 là 20,1%. Đây là điều kiện tăng lương cho cán bộ của chi nhánh. Chất lượng tín dụng thường xuyên được tăng lên, nợ xâu là 3,05% đảm bảo mục tiêu mà Ngân hàng đề ra là dưới 5%. Chi nhánh thực hiện uỷ thác cho công ty quản lý và khai thác tài sản. Ngân hàng NHNN & PTNT Việt Nam xử lý tài sản thế chấp của công ty. Triển khai thực hiện tốt các văn bản chỉ đạo thu hồi nợ và xử lý rủi ro của Ngân hàng NHNN & PTNT Việt Nam. Kết quả năm 2003 đã thu hồi đựoc 595 triệu, năm 2004 là 715 triệu và năm 2005 là 905 triệu các khoản nợ đã được xử lý rủi ro. Biện pháp mà chi nhánh sử dụng nhiều nhất để hạn chế và xử lý nợ quá hạn là gia hạn nợ, tức là tạo điều kiện cho người vay có điều kiện thanh toán nợ cho Ngân hàng, không bị lâm vào tỉnh trạng nợ phá sản. Như vậy, Chi nhánh đã thực hiện nhiều biện pháp xử lý nợ quá hạn và có tác dụng tốt, đem lại hiệu quả cao trong việc giảm tỷ lệ nợ quá hạn tại Ngân hàng . Đây là những thanh công mà chi nhánh đã đạt được và sẽ ngày càng được phát huy hơn. 2.4.2.Những tồn tại của chi nhánh trong công tác xử lý nợ quá hạn . Bên cạnh những thành công đạt đựoc chi nhánh còn tồn tại không it những khó khăn ảnh hưởng nhiều đến hoạt động kinh doanh của chi nhánh. *Ngân hàng gặp phải một số khó khăn trong việc xửlý tài sản thế chấp: +Đối với những tài sản của tư nhân có thể dễ dàng xử lý nhưng đôi khi lại liên quan đến vấn đề đồng sỏ hữu vì tài sản được tạo bởi nhiều cá nhân như: Nhà cửa, trường hợp giấy tờ có giá như sổ tiết kiệm là tài sản gia đình do một người đứng tên. +Đối với cho vay các Doanh nghiệp khi phải xử lý thường là máy móc đấtđai. Việc xử lý tài sản này là tài sản thuộc quyền quản lý của Doanh nghiệp. Vì vậy, khi xử lý phải có sự tham gia của nhiều ngành, mà đặc biệt là phải đựoc sự chấp thuận của tổng cục quản lý vốn và tài sản. Hiện nay, việc quy định trình tự xử lý thủ tục quản lý con chưa đầy đủ để có thể dễ dàng xử lý, nhất là đối với quyền sử dụng đất của Doanh nghiệ . +Đối với những tài sản thế chấp là công trình lớn của Nhà nước, đây là tài sản hình thành băng vốn vay Ngân hàng và Doanh nghiệp dùng chính tài sản này để đảm bảo nợ vay. Ngân hàng đề nghị pháp luật công nhận tài sản thế chấp để được ưu tiên trả nợ Ngân hàng. Nhưng để bán tài sản này cũng hết sức khó khăn vì công trình này rất lớn như: Cả một dây chuyền sản xuất xi măng, nhà máy sản xuất bia …Hơn nữa thủ tục thanh lý tài sản thế chấp rất rườm rà và chi phí cao. *Chưa có sự phối hợp đồng bộ giữa các cơ quan, chức năng có thẩm quyền trong công tác xử lý nợ quá hạn của Ngân hàng, các cơ quan chức năng khác chỉ mang tính chất giúp đỡ, hỗ trợ cho Ngân hàng chứ không đóng vai trò quyết định khiến việc thu hồi bị trì trệ, gây tồn đọng vốn lớn cho Ngân hàng. Mặt khác, khi phải nhờ đến những cơ quan chức năng thời gian xử lý các khoản nợ sẽ bị kéo dài hơn và phát sinh các khoản chi phí rất tốn kém. *Việc khởi kiện và thủ tục xét xử các vụ án cũng rất phức tạp, tốn kém cả về tiền của lẫn thời gian. Các khoản nợ qúa hạn phải xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro không phải là nhỏ: Năm 2003 là 329 triệu ,năm 2004 là 394 triệu, năm 2005 là 421 triệu. Tuy nhiên những khoản nợ quá hạn phải xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro không thể thu hồi ngay được Các khoản nợ quá hạn phải xử lý bằng quỹ dự phòng rủi ro càng lớn thì vốn kinh doanh của Ngân hàng trong các khoản nợ quá hạn càng lớn. Dẫn đến giảm hiệu quả sử dụng vốn và giảm thu nhập của Ngân hàng. *Hiểu biết của cán bộ tín dụng về các lĩnh vực kinh tế xã hội con thiếu dẫn đến hạn chế trong công tác tư vấn khách hàng và thẩm định dự án. *Khó khăn từ cơ chế: Theo nghị định 178/1989/ND-CP ngày 29/12/1999, quyết định 149/2001/QĐ-TTg ngày 5/10/2001 đã tạo ra cơ chế tương đối thoáng để Ngân hàng tụ xử lý. Tuy nhiên, trên thực tế nếu không thoả thuận được việc xử lý tài sản thì Ngân hàng không thể tự xử lý đựơc. Sự không nhất trí này được coi là một tranh chấp mà theo quy định phải đưa ra toà án để giải quyết mất rất nhiều thời gian và công sức. Cơ quan công chứng thường không xác nhận vào các văn bản bán đáu giá, hợp đồng mua bán tài sản khi thiếu ý kiến chấp thuận của chủ tài khoản ,ngoài ra việc bán tài sản đảmbảo đòi hỏi Ngân hàng phải thực hiện thủ tục phức tạp khiến cho việc xử lý tài sản thu hồi nợ trở nên rất khó khăn. *Khó khăn từ việc thi hành án: Toà án chỉ giao phần tài sản trên đất thuộc quyền đình đoạt của Ngân hàng, còn phần đất vẫn thuộc sở hữu Nhà nước, nên không thể xử lý bán phần tài sản trên đất được vì vậy người mua e ngại, sau khi mua sẽ bị Nhà nước thu hồi lại đất và đền bù phần xây dựng trên đất với giá rẻ.Trường hợp khác ,toà án chỉ giao cho Ngân hàng quyền quản lý, khai thác tài sản mà không giao quyền định đoạt (bán); hoặc toà án không tuyên bố rõ ràng, thiếu hợp lý khiến đối tượng phải thi hành án dựa vào đó chây ỳ, không thanh toán nợ cho Ngân hàng và cũng không chịu bàn giao tài sản cho cơ quan thi hành án để khai thác, phát mại thu hồi nợ cho Ngân hàng. Khó khăn từ chính quyền địa phương: Chính quyền địa phương luôn có xu hướng ủng hộ các giải pháp xử lý nợ có lợi cho địa phương nhưng bất lợi cho Ngân hàng, biến vôn của Ngân hàng thành tài sản của địa phương. Cơ quan địa phương thường: trì hoãn việc xử lý nợ, giao các tài sản của Doanh nghiệp nợ Ngân hàng cho đơn vị khác quản lý trước khi giải thể, phá sản để tránh việc phải bán tài sản trả nợ cho Ngân hàng; tìm kiếm các điểm sai sót chưa phù hợp với các quyết định của pháp luật trong việc thực hiện các thủ tục thế chấp tài sản nhằm mục đích thu hồi tài sản đã đem thế chấp, thanh toán nợ cho các đơn vị địa phương trước khi thanh toán nợ cho Ngân hàng. Những việc làm này gây thiệt hại cho Ngân hàng mà nếu khiếu nại hay kiện tụng để bảo vệ quyền lợi cho Ngân hàng tại toà án hiếm khi thành công. *Khó khăn từ thị trường bất động sản : Hoạt động của thị trường bất động sản trong hai năm gần đây nhìn chung khá chầm lắng. Nguyên nhân do Nhà nước ban hành nhiều chính sách về các loại thuế liên quan đến đất đai, gây tâm ly hoang mang, cho người có nhu cầu mua đất động sản. Thêm vào đó ,giá vàng liên tục tăng cao kích thích xu hướng tích trữ vàng, ảnh hưởng lớn dến khối lượng giao dịch bất động sản vốn có thói quen sử dụng vàng làm phương tiện trao đổi. Do đó, làm thị trường bất động sản hoạt động kém sôi động, giá có xu hướng giảm ở một số khu vực, việc xử lý tài sản vì thế gặp nhiều khó khăn. *Khó khăn từ phía khách hàng nợ: Trong nhiều trường hợp các khách hàng nợ mặc dù vẫn còn có khả năng thanh toán nợ nhưng thường trì hoãn, chây ì,hoặc lẩn tránh việc trả nợ. Các công cụ pháp luật để chế tài những hành vi này vẫn chưa phát huy được hiệu quả như mong muốn. Một số khách hàng nợ có thiện chí trả nợ tuy đã hợp tác tích cực với Ngân hàng để xử lý các khoản nợ song họ vẫn có tâm lý chò đợi tình hình thị trường bất động sản thuận lợi, giá lên cao để có thể thanh toán nợ cho Ngân hàng nhiều hơn. Vì vậy tốc độ xử lý nợ bị hạn chế. CHƯƠNG III GIẢI PHÁP HẠN CHẾ VÀ XỬ LÝ NỢ QUÁ HẠN 3.1. Định hướng xử lý nợ quá hạn trong thời gian tới của chi nhánh . Nợ quá hạn là rủi ro tiềm ẩn trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh; Ngân hàng chỉ có thể hạn chế phòng ngừa chứ không thể loại bỏ hoàn toàn nợ quá hạn trong hoạt động kinh doanh của chi nhánh. Để chi nhánh ngày càng phát triển hoạt động kinh doanh ngày càng mang lại hiệu quả Ngân hàng đã đưa ra những định hướng sau đây: *Tăng cường các biện pháp phòng ngừa,hạn chế hơn là chờ cho mọi chuyện đã rồi mới đưa ra các biện pháp xử lý. Như vậy, vừa tốn kém thời gian tiền của mà khả năng thu hồi các khoản nợ quá hạn rất hạn chế. Ngăn ngừa hạn chế mang ý nghĩa lâu dài xuyên suốt cả quá trình hoạt động của chi nhánh. Mặt khác đôi với các biện pháp phòng ngừa chi nhánh phải chú trọng việc mở rộng và nâng cao chất lượng tín dụng nhằm nâng cao vị thế của chi nhánh, đây là một biện pháp nhằm lành mạnh hoá hoạt động tín dụng của chi nhánh. Đối với các khoản nợ quá hạn xảy ra, đặc biệt là nợ quá hạn khó đòi Ngân hàng phải tiến hành ngay các biện pháp xử lý nhằm thu hồi ngay phần nợ vay quá hạn của khách hàng. Nếu không sẽ làm giảm nguồn vốn hoạt động, tỷ lệ nợ xấu tăng làm giảm uy tín của Ngân hàng. Một Ngân hàng có tỷ lệ nợ quá hạn cao là dấu hiệu của hoạt động kinh doanh kém hiệu quả. Điều này ảnh hưởng nghiêm trọng đến hoạt động huy động vốn và khả năng thanh toán của Ngân hàng - công tác xử lý nợ tồn đọng . Việc xử lý một khoản vay có vấn đề là một nghệ thuật hơn là một khoa học và khó nói được các yếu tố ảnh hưởng quyết định của nhà quả trị Ngân hàng đến mức nào trong trong việc xử lý các khoản vay có vấn đề. Chính vì vậy, Ngân hàng luôn đưa ra các lớp đào tạo ngắn hạn để nâng cao trình độ của cán bộ tín dụng, nâng cao khả năng thẩm định dự án, đồng thời xử lý một cách hiệu quả nhất các khoản vay có vấn đề. *Hạn chế xử lý nợ quá hạn bằng phương pháp khoanh nợ và quỹ dự phòng rủi ro. Bởi khi dùng phương pháp này Ngân hàng chưa thu hồi được vốn ngay, gây tình trạng đóng băng vốn làm giảm hiệu quả sử dụng vốn và đồng thời ảnh hưởng đến khả năng thanh toán của Ngân hàng nếu tỷ nợ quá hạn quá lớn. *Khuyến khích khách hàng tự bán tài sản cầm cố, thế chấp của mình để thanh toán nợ quá hạn của Ngân hàng, tránh xảy ra trường hợp khởi kiện tố tụng phiền hà; vừa làm chậm quá trình thu hồi nợ vừa tốn kém chi phí mà không chắc đã thu hồi đầy đủ nợ gốc và lãi của Ngân hàng . *Tăng cường công tác kiểm tra, kiểm soát nội bộ, kiểm tra chuyên sâu nghiệp vụ kế toán, tín dụng, nguồn vốn…Áp dụng nhiều hình thức kiểm tra nhằm nâng cao ý thức chấp hành của cán bộ tín dụng, hạn chế thấp nhất đảm bảo kinh doanh an toàn và hiệu quả. *Tăng cường công tác quản lý tín dụng; chấm dứt tình trạng gia hạn, định kỳ hạn nợ tuỳ tiện nhằm che dấu nợ quá hạn. Có biện pháp tốt để quản lý các hình thức tín dụng như: cho vay, bảo lãnh, chiết khấu…Nâng cao chất lượng tín dụng là biện pháp tốt nhất để hạn chế nợ quá hạn đối với Ngân hàng. 3.2.Một số giải pháp nhằm giảm nợ quá hạn. 3.2.1.Giải pháp hạn chế nợ quá hạn . 3.2.1.1.Xây dựng bộ phận thông tin khách hàng và bộ phân tư vấn khách hàng . Để nâng cao chất lượng các khoản tín dụng cung cấp cho khách hàng trước hết Ngân hàng phải nắm rõ thông tin về khách hàng như: khả năng thanh toán của khách hàng, uy tín hay sức mạnh tài chính của khách hàng từ đó Ngân hàng mới đưa ra quyết định cuối cùng có cho vay hay không. Nhưng để cập nhật thông tin một cách nhanh nhất, chính xác nhất Ngân hàng nên xây dựng riêng một bộ phận chuyên thực hiện quá trình thu thập và xử lý thông tin về khách hàng. Ngân hàng chỉ có thể đưa ra các chiến lược kinh doanh phù hợp và hạn chế rủi ro khi nắm bắt đầy đủ, kịp thời, chính xác thông tin về khách hàng Các thông tin mà Ngân hàng có thể thu được từ các nguồn sau: +Thông qua báo cáo tài chính mà Ngân hàng thường xuyên phải cung cấp cho Ngân hàng . +Thông qua tài liệu của các cơ quan liên quan như báo cáo kiểm toán, thông qua thị trường hoặc thông qua các thông tin của pháp luật. +Thông qua trung tâm thông tin tín dụng hoặc cũng có thể thông qua hội nghị khách hàng, hoặc thông qua bạn hàng. Bên cạnh việc nâng cao chất lượng thông tin cần thu thập về khách hàng, Ngân hàng còn nên có trách nhiệm tư vấn thông tin cho khách hàng thông qua việc thành lập một bộ phận tư vấn riêng cho khách hàng, nhằm nâng cao hiệu quả sử dụng vốn của khách hàng. Ngân hàng có thể tư vấn cho khách hàng của mình nên sử dụng hình thức vay vốn nào thích hợp nhất cho hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp như: Sử dụng hình thức vay ngắn hạn, trung hạn hay dài hạn. Đồng thời cán bộ tín dụng phải thường xuyên bám sát tình hình Doanh nghiệp để nắm bắt kịp thời các diễn biến về tình hình sản xuất kinh doanh của Doanh nghiệp. Qua đó, tư vấn kịp thời cho Doanh nghiệp về sự thay đổi phương thức sản xuất kinh doanh, về quản lý tài chính, quy mô hoạt động …sao cho phù hợp với tình hình thực tiễn của Doanh nghiệp.Nhờ vậy, hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp có hiệu quả hơn, chi nhánh cũng hạn chế được việc phát sinh nợ quá hạn và quan trọng hơn là thắt chặt mối quan hệ giữa chi nhánh vơi khách hàng . 3.2.1.2. Đối mới công tác quản lý, đào tạo và tuyển dụng lao động. Để nâng cao chất lượng thẩm định dự án đầu tư, phản ánh kiểm tra giám sát các khoản vay từ đó phòng ngừa nợ quá hạn phát sinh. Ngân hàng phải tiến hành đổi mới công tác quản lý, nâng cao chất lượng đào tạo của đội cán bộ của chi nhánh và đồng thời trẻ hoá cán bộ Ngân hàng bằng cách tuyển sinh lao động mới là những tri thức trẻ, sinh viên mới ra trường được tiếp cận với nguồn kiến thức mới để kịp thời đổi mới phương thức làm việc hiện đại hơn, hiệu quả hơn. Không ngừng nâng cao trình độ chuyên môn cho cán bộ Ngân hàng thông qua các khoá đào tạo ngắn hạn nhằm xây dựng đội ngũ cán bộ có năng lực được thể hiện qua các mặt sau: Được đào tạo có hệ thống, am hiểu, có kiến thức phong phú về thị trường, đặc biệt trong lĩnh vực tham gia vào đầu tư vốn, nắm vững các văn bản pháp luật liên quan đến hoạt động tín dụng. Ngoài ra, cán bộ tín dụng phải có đạo đức, liêm khiết, trung thực và có trách nhiệm. Như vậy, để tạo ra đội quân tinh nhuệ nhất, có khả năng đối mặt với mọi phức tạp của nền kinh tế thị trường và tạo ra thu nhập cao, Ngân hàng cần phải sàng lọc đội ngũ cán bộ hiện có, bổ sung cán bộ hiện có và thường xuyên có kế hoạch bồi dưỡng, nâng cao chất lượng toàn diện. Hơn nữa, quá trình tuyển dụng nhân viên mới phải được thực hiện hết sức nghiêm ngặt, theo đúng quy trình tuyển sinh chung của các Ngân hàng đề ra. Không vì những mối quan hệ thân thiết, mà nhận tuyển những người không có đủ năng lực, phẩm chất để trở thành cán bộ tín dụng. Nhân tố con người đóng vai trò quan trọng và quyết định hoạt động sản xuất kinh doanh của Ngân hàng .Chính vì vậy , đội ngũ cán bộ càng tinh nhụê bao nhiêu thì hoạt động kinh doanh của Ngân hàng càng hiệu quả bấy nhiêu. 3.2.1.3.Thành lập ban thẩm định tín dụng . Một khoản tín dụng được đánh giá tốt hay không phụ thuộc vào chất lượng và hiệu quả của dự án mà khách hàng thực hiện đầu tư.Muốn hạn chế nợ xấu, nợ quá hạn phát sinh từ hoạt động cho vay ,trước tiên Ngân hàng phải thực hiện thẩm định dự án mà người vay sẽ đầu tư. Để quá trình thẩm định chính xác ,hiệu quả đòi hỏi cán bộ tín dụng phải có kiến thức hiểu biết sâu rộng về thị trường, có kinh nghiệm và am hiểu nhiều ngành nghề khác nhau.Chính vì vậy, Ngân hàng nên thành lập một ban thẩm định dự án riêng ,những người trong ban thẩm định dự án phải có đầy đủ chuyên môn, nghiệp vụ và kiến thức về thẩm định dự án. Khi tiến hành thẩm định dự án đầu tư phải nắm bắt những thông tin sau về dự án đầu tư: +Tính pháp lý của dự án:Một dự án dù có tính khả thi, hiệu quả kinh tế cao nhưng không đủ tính chất pháp lý thì sẽ không được thực hiện.Tính chất pháp lý được thể hiện ở mục đích đầu tư của dự án phù hợp với mục đích hoạt động của Doanh nghiệp, được cấp có thẩm quyền phê duyệt. +Tính khả thi của dự án: Một dự án có tính khả thi cao khi đáp ứng đầy đủ các yêu cầu sau: -Nguồn nguyên liệu phải đảm bảo thông dụng ,dễ tìm ,có khả năng thay thế, gần nơi sản xuất. -Thị trường tiêu thụ: Đâylà khâu quyết định cho sự thành công của hoạt động đầu tư, đánh giá khả năng trả nợ vay cho Ngân hàng vì chỉ khi tiêu thụ được sản phẩm thì khách hàng mới có nguồn thu nợ để trả nợ cho Ngân hàng -Giá thành : Phải phản ánh đúng chất lượng và khả năng tài chính của người tiêu dùng . -Khả năng đáp ứng vốn cho dự án : Ngân hàng chỉ tiến hành cho vay đối với những dự án có vốn tự có đạt một tỷ lệ nhất định nào đó, điều này bắt buộc các Doanh nghiệp phải sử dụng triệt để các tiềm năng của mình, nâng cao hiệu quả các yếu tố tham gia vào dự án. Mặt khác, chỉ tiêu này Ngân hàng tính ra mức dư nợ tối đa cấp cho Doanh nghiệp, tránh trường hợp cấp thừa, lãng phí gây giảm hiệu quả sử dụng vốn vay. -Phân tích hiệu quả do dự án mang lại: Được tính bằng lợi nhuận thu được của dự án trên tổng nguồn vốn đầu tư vào dự án. Đâylà chỉ tiêu quan trọng để Ngân hàng quyết định có cho vay hay không. Như vậy: Với việc có một ban thẩm định dự án riêng sẽ giúp Ngân hàng đánh giá chính xác hiệu quả của dự án, lợi nhuận thu được từ dự án và khả năng hoàn trả nợ vay của khách hàng từ dự án.Từ đó đưa ra quyết định cuối cùng có cho vay hay không. 2.3.1.4.Phân tích đánh giá sàng lọc khách hàng . Hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường như hiện nay thì sự cạnh tranh gay gắt giữa các đối thủ cạnh tranh là yếu tố tất nhiên. Trong ngành Ngân hàng cũng vậy, cuộc cạnh tranh giữa các Ngân hàng cũng không kém phần quyết liệt, các cuộc chạy đua lãi suất thường xuyên diễn ra, các dịch vụ đáp ứng nhu cầu của khách hàng ngày càng đa dạng và phong phú, đồng thời các Ngân hàng không ngừng phát huy thế mạnh của mình để thu hút số lượng khách hàng lớn nhất. Nhưng các Ngân hàng không nên quá chạy đua theo số lượng mà quên đi chất lượng; không vi mục tiêu trước mắt mà quên đi mục tiêu lâu dài gây ảnh hưởng rất xấu đến chất lượng tín dụng.Do đó, bên cạnh việc nâng cao chất lượng tín dụng, hiệu quả dự án Ngân hàng còn phải tiến hành nâng cao hiệu quả sử dụng vốn.Tức là, Ngân hàng phải tiến hành sàng lọc đối tượng khách hàng thông qua hệ thống thông tin thu thập từ khách hàng, tiến hành phân tích xử lý về khách hàng. Nếu khách hàng có đủ năng lực tài chính, có uy tín và dự án có khả thi thi Ngân hàng mới thực hiện nghiệp vụ cho vay. Như vậy, sàng lọc khách hàng cũng là một biện pháp mà Ngân hàng sử dụng để nâng cao chất lượng tín dụng, giảm phát sinh các khoản nợ xấu, nợ quá hạn cho Ngân hàng . 2.3.1.5.Thực hiện các quy định an toàn về tín dụng do Ngân hàng Nhà nước ban hành. Khi tiến hành cho vay, Ngân hàng luôn kèm theo những điều kiện nhất định đối với người vay;Như: +Có năng lực pháp luật dân sự, năng lực hành vi dân sự và chịu trách nhiệm theo quy định của pháp luật. +Mục đich sử dụng vốn vay hợp pháp. +Có năng lực tài chính đảm bảo thánh toán nợ trong thời gian cho phép. +Có dự án, phương án đầu tư, sản xuất kinh doanh có hiệu quả, mang lại lợi nhuận kinh tế cao và đảm bảo khả năng trả nợ từ dự án. Các quy định về an toàn tín dụng được đặt ra nhằm đảm bảo các khoản tín dụng an toàn và hiệu quả. Vì vậy, các Ngân hàng nên thực hiện nghiêm chỉnh các quy định về bảo đảm tiền vay theo quy định của chính phủ, theo thống đốc Ngân hàng Nhà nước Việt Nam. 2.3.1.6.Thực hiện đôn đốc thu hồi nợ. Thông qua công tác kiểm tra giám sát, quản lý nợ từ những khoản nợ vay từ khách hàng, Ngân hàng tiến hành phân loại chất lượng các khoản vay từ đố đưa ra những biện pháp thích hợp để tiến hành thu hồi nợ: -Đối với những khoản vay có chất lượng tốt, có khả năng hoàn trả nợ vay đúng thời hạn, Ngân hàng chỉ cần đôn đốc khách hàng khi gần đến ngày đáo hạn của khoản vay. -Đối với khoản vay có dấu hiệu xấu, khó có thể hoàn trả nợ đúng hạn cho Ngân hàng do những nhân tố từ bên ngoài tác động như: lũ lụt, hạn hán, mất mùa…Thì Ngân hàng phải đưa ra các biện pháp giúp người vay khắc phục sản xuất kinh doanh, điều chỉnh tình huống kịp thời đảm bảo khả năng thu hồi được nợ, tránh phát sinh nợ quá hạn: +Ngân hàng có thể tư vấn cho Doanh nghiệp hướng sản xuất kinh doanh mới phù hợp với điều kiện thực tiễn hay mời chuyên gia cố vấn để tháo gỡ khó khăn tạo điều kiện cho Doanh nghiệp phục hồi, thu được vốn và trả nợ được Ngân hàng . +Ngân hàng có thể kéo dài kỳ hạn nợ hay giảm bớt mức chi trả định kỳ trong một thời gian nhất định. +Ngân hàng có thể cho vay thêm nếu chắc chắn Ngân hàng có thể phục hồi hoạt động sản xuất kinh doanh, tạo điều kiện cho người vay có khả năng hoàn trả nợ vay. -Đối với khách hàng vi phạm hợp đồng tín dụng một cách nghiêm trọng: sử dụng vốn sai mục đích như đã thoả thuận, làm ăn thua lỗ, phá sản không có khả năng phục hồi sản xuất kinh doanh Ngân hàng phải có biện pháp thu hồi nợ ngay bằng mọi cách, ngay cả khi khoản vay chưa đến ngày đáo hạn. 3.2.1.7.Thực hiện đôn đốc thu hồi thích hợp cho từng khoản vay. Để có thể giám sát hoạt động của từng khách hàng, từng khoản vay, Ngân hàng nên tiến hành phân chia trách nhiệm giám sát, đôn đốc khách hàng cho từng cán bộ tín dụng với từng khoản vay. Như vậy, việc nắm bắt hoạt động kinh doanh của khách hàng sẽ hiệu quả, chính xác và kịp thời phát hiện Doanh nghiệp có những dấu hiệu làm ăn kém hiệu quả hay ý định lừa đảo, chốn chạy nợ. Việc thực hiện đôn đốc từng khoản vay giúp người vay ý thức hơn về hoạt động kinh doanh của minh, đồng thời trách nhiệm trả nợ cũng cao hơn.Tuỳ theo tình trạng mỗi khoản nợ quá hạn mà Ngân hàng có những phương hướng giải quyết thích hợp: -Đối với những khoản nợ quá hạn bình thường: Cán bộ tín dụng thường xuyên đôn đốc thu hồi nợ,kiểm tra giám sát tình hình sử dụng vốn,thực hiện kinh doanh và tài sản đảm bảo của con nợ…Trên cơ sở đó có những biện pháp thích hợp giúp đỡ khách hàng giải quyết khó khăn tồn tại, phục hồi sản xuất kinh doanh tạo điều kiện cho khách hàng trả nợ Ngân hàng . -Đối với các khoản nợ quá hạn trên 6 tháng ,nợ khó đòi : Cần thực hiện việc đôn đốc thu hồi nợ qua nhiều bước: +Giám sát chặt chẽ hoạt động kinh doanh của khách hàng, đặc biệt là khoản tiền gửi tại chi nhánh . +Tư vấn cho khách hàng có biện pháp thích hợp khôi phục thực trạng hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp. Đây là biện pháp tương đối hiệu quả giúp khách hàng có khả năng hoàn trả nợ Ngân hàng . +Thông báo tình hình nợ quá hạn và cam kết khách hàng cho người bảo lãnh, cơ quan chủ quản để phối hợp xử lý . +Thực hiện việc thu nợ thích hợp với từng khoản vay: Có thể xem xét cho thu nợ gốc trước, lãi sau hoặc tạm hoãn việc trả lãi. +Nhờ sự tham gia của cơ quan có thẩm quyền giúp đỡ thu hồi nợ. -Đối với những khách hàng chât ỳ, không chịu trả nợ, vi phạm cam kết đã thoả thuận ban đầu. Mặc dù, Ngân hàng đã áp dụng nhiều biện pháp nhưng vẫn không thu hồi được nợ. Khi đó, Ngân hàng nên chủ động nộp hồ sơ khởi kiện khách hàng để xử lý thu hồi nợ theo quy định của pháp luật. 3.2.1.8.hực hiện đầy đủ chặt chẽ quy định về bảo đảm tiền vay. Bảo đảm tiền vay một mặt tạo ra nguồn thu nợ thứ hai cho Ngân hàng khi phương án sản xuât kinh doanh của khách hàng gắp rủi ro; mặt khác nâng cao tinh thần trách nhiệm đối với những khoản vay.Như vậy, bảo đảm tiền vay vừa giúp tăng tính an toàn cho từng khoản vay vừa giúp nâng cao chất lượng các khoản vay của Ngân hàng, làm cho hoạt động kinh doanh của Ngân hàng ngày càng lành mạnh hơn. Tuy vào từng loại cho vay, từng loại khách hàng và Ngân hàng sẽ lựa chọn tài sản phù hợp với điều kiện của mình để làm tài sản đảm bảo: +Thế chấp, cầm cố tài sản: áp dụng đối với cả khoản cho vay ngắn hạn, trung hạn và dài hạn đặc biệt đối với khách hàng ngoài quốc doanh, khách hàng chưa có sự tín nhiệm của Ngân hàng . +Đảm bảo bằng tài sản hình thành từ vốn vay: áp dụng đối với khoản cho vay trung và dài hạn, tài sản hình thành phải có đăng ký quyền sở hữu, có thế quản lý được. +Bảo lãnh của bên thứ ba: áp dụng khi người vay không đủ điều kiện thực hiện các hình thức bảo đảm khác. +Cho vay bằng tài sản đảm bảo: Ngoài những đối tượng cho vay ưu đãi theo chương trình, chính sách của chính phủ thì chỉ có những khách hàng có uy tín, có tài sản đảm bảo và dự án khả thi cao Ngân hàng mới áp dụng hình thức cho vay này. Ngân hàng phải đánh giá đúng giá trị thực của tài sản đảm bảo, tránh trường hợp, khi tiến hành thanh lý tài sản đảm bảo bị mất giá, giá trị thanh lý chỉ bù đắp được một phần rất nhỏ khoản vốn cho vay. 3.2.2.Những giải pháp xử lý nợ quá hạn Nợ qúa hạn của Ngân hàng hiện đang là một vấn đề nổi cộm và nan giải, nợ quá hạn không được giải quyết thì hệi thống Ngân hàng sẽ ngày càng suy yếu, sẽ ảnh hưởng xấu đến sự phát triển của nền kinh tế, xã hội. Nhưng để giải quyết nợ quá hạn không phải là vấn đề đơn giản, chúng ta phải có những giải pháp đúng, kịp thời để xử lý nợ quá hạn . Ngoài những giải pháp mà chi nhánh đã thực hiện có rút nhiều giải pháp khác được áp dụng vào nhiều tình huống khác nhau. 3.2.2.1.Xử lý bằng cách khai thác tài sản đảm bảo nợ vay. Nguyên tắc hoạt động của Ngân hàng là không bao giờ được “giết chết “con nợ, tức là không đẩy con nợ đến chỗ phá sản, Cho nên, trong hoạt động cho vay đối với thành phần kinh tế ngoài quốc doanh, các biện pháp khai thác giúp đỡ khách hàng được coi là cách hay nhất để xử lý một khoản tín dụng đã trở thành nợ quá hạn, nợ khó đòi. Tuy nhiên, trong nhiều trường hợp, khi cân nhắc tất cả mọi yêu tố và nhận thấy rẳng khả năng cải thiện tình hình tài chính của người vay là xa vời, việc gia hạn hợp đồng cho vay hay cấp thêm vốn chỉ là mạo hiểm, nhân viên tín dụng sẽ đề nghị Giám đốc thanh lý tài sản đảm bảo. Biện pháp này thường chỉ được áp đụng sau khi đã thực hiện một số biện pháp như: khai thác, giúp đỡ nào đó nhưng không thấy thành công. Sự thanh lý đựơc nhanh chóng thực hiện trong những trưòng hợp tư tưởng người vay không sẳn lòng chi trả, hoặc đẫ có những hành động lừa đảo, không thật thà bộc lộ, tình tràng vỡ nợ đã hiện ra, tình hình hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp là vô vọng. Lúc đó, biện pháp thanh lý là tối ưu nhất. Đối với tài sản thế chấp sau thời hạn 30 ngày kể từ ngày hết hạn trả nợ (kể cả thời gian gia hạn nợ nếu có) mà khách hàng không trả đủ nợ gốc và lãi cho Ngân hàng. Ngân hàng sẽ thành lập hội đồng phất mại tài sản thế chấp để thu hồi nợ vay. Hội đồng phát mại tài sản bao gồm: +Giám đốc và phó giám đốc Ngân hàng làm chủ tịch. +Các thành viên gồm tổ trưởng định giá ,nhân viên tín dụng, kiểm soát viên và đại diện chủ sở hữu tài sản thế chấp, thì Ngân hàng sẽ lập hồ sơ khởi kiện trước pháp luật. Tiền thu được do phát mại tài sản thế chấp thanh toán theo thứ tự ưu tiên sau: Trả nợ gốc và lãi vay ,trả chi phí bảo quản, phát mại, tố tụng. Nếu còn thừa trả lại cho khách hàng, nếu vẫn không đủ yêu cầu bên vay tìm các nguồn khác để trả nợ. Đối với tài sản cầm cố, sau thời gian 30 ngày kể từ ngày hết hạn trả nợ (cả thời gian gia hạn nợ nếu có) mà khách hàng không trả đủ nợ gốc và lãi, Ngân hàng có quyền xử lý tài sản cầm cố như vàng, bạc, các loại chứng từ có giá để thu nợ. Đối với những tài sản phải lập hội đồng xử lý bán đấu giá. Ngân hàng được ưu tiên thu hồi nợ gốc và lãi từ số tiền xử lý tài sản cầm cố. Nếu số tiền bán tài sản cầm cố trả nợ cho Ngân hàng không đủ thì khách hàng phải trả bằng tài sản khác.Trường hợp bên vay không có khả năng trả nợ thì số nợ thiếu được xử lý theo quy định hiện hành. Xử lý tài sản bảo lãnh cũng được thực hiện như các quy định về xử lý tài sản thế chấp, cầm cố. Việc xử lý những khoản vay có vấn đề cũng giống như việc chấp nhận tín dụng, là một nghệ thuật hơn là một khoa học và khó xác định yếu tố nào ảnh hưởng đến quyết định của Ngân hàng đến mức nào trong việc xử lý các khoản nợ quá hạn bằng biện pháp khai thác hay thanh lý tài sản thế chấp, cầm cố, bảo lãnh. 3.2.2.2.Thành lập công ty quản lý nợ ,khai thác tài sản thế cháp. Xuất phát từ tình hình nợ quá hạn của NHTM nước ta đang ở tình trạng cao ,nhằm lành mạnh hoá hệ thống Ngân hàng ,ngày 14/9/1999 Ngân hàng Nhà nước đã ban hành quyết định 140/1999/QĐ-NHNN “quy chế mua bán nợ của tổ chức tín dụng “ quy chế này quyết dịnh những nội dung liên quan đến hoạt động mua bán nợ của các tổ chức tín dụng nhằm đa dạng hoá hoạt động tín dụng, mở rộng khả năng cho vay của các tổ chức tín dụng đối với khách hàng, hỗ trợ các tổ chức kinh tế khắc phục khó khăn trong kinh doanh, góp phần quản lý rủi ro tín dụng, chất lượng các khoản đầu tư và cải thiện khả năng hoàn vốn. Phạm vi mua bán nợ bao gồm: các khoản nợ do các tổ chức tín dụng cho các tổ chức kinh tế,tổ chức tài chính, cá nhân vay và các khoản nợ giữa các tổ chức tín dụng. Quy chế này không áp dụng đối với khoản nợ là tín phiếu, trái phiếu kho bạc Nhà nước, các giấy tờ có giá khác, các khoản nợ đã được xử lý theo chỉ đạo của chính phủ. Để thực hiện việc mua bán nợ ngày 15/9/2000 Ngân hàng Nhà nước ban hành quyết định 305/2000/QĐ – NHNN “ quy định về việc công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp của NHTM. Theo quy định này các NHTM Nhà nước và NHTM cổ phần được thành lập công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp khi có đủ điều kiện. Công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp là công ty con, công ty trực thuộc NHTM, có tư cách pháp nhân, hạnh toán độc lập. Lĩnh vực hoạt động của công ty là quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp với nội dung sau: +Quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp theo sự uỷ thác của các Ngân hàng và các tổ chức tín dụng: Tiếp nhận quản lý các khoản nợ của NHTM, tiệp nhận quảnlý tài sản thế chấp của NHTM, các tổ chức tín dụng để cải tạo nâng cấp cho thuê. +Thu hồi các khoản nợ quá hạn theo sự uỷ thác của NHTM . +Thực hiện việc mua bán nợ với các NHTM khác hợăc với công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp. +Hoàn chỉnh hồ sơ các khoản nợ khoảnh, được xóa để giải quyết dứt điểm các khoản nợ này. +Hoàn thành hồ sơ tín dụng làm cơ sở để NHTM xin vay tái cấp vốn tại Ngân hàng Nhà nước . +Quản lý khai thác bán các khoản nợ và tài sản thế chấp theo sự uỷ thác của công ty mua bán nợ tồn đọng của Ngân hàng khác. Như vậy, sự ra đời và hoạt động của công ty quản lý nợ và khai thác tài sản thế chấp cùng với cơ chế pháp lý tương đối hoàn chỉnh và đồng bộ, cho phép xử lý nhanh chóng và hiệu quả hơn các khoản nợ tồn đọng qua các tài sản thế chấp của Ngân hàng thương mại như hiện nay.Từ đó, việc hình thành công ty quản lý nợ và khai thác tài sản là yêu cầu bức xúc, mang tính khách quan cần thiết nhằm giải toả các khoản nợ đóng băng vốn cho NHTM nước ta hiện nay. 3.2.2.3Thành lập và duy trì hoạt động của tổ chức thu nợ. Việc xử lý và thu hồi nợ là một việc hết sức khó khăn, phức tạp, liên quan đến nhiều lĩnh vực, nhiều cấp nhiều ngành. Do đó, việc thành lập các tổ chức thu nợ là rất cần thiết, đặc biệt trong thời điểm hiện nay, tình hình nợ quá hạn của các Ngân hàng ngày càng có xu hướng gia tăng. +Thành phần và tổ chức của tổ thu nợ phải đảm bảo có đủ khả năng, thẩm quyền giải quyết. +Tổ thu nợ phải được giao trách nhiệm và quyền hàn rõ ràng, phải có kế hoạch, chương trình hoạt động cụ thể trong từng thời kỳ, phân công trách nhiệm rõ ràng. +Tổ thu nợ phải trực tiếp tham gia phân tích nợ quá hạn và trực tiếp thực hiện các biện pháp hạn chế nợ quá hạn đã được đề ra một cách đều đặn, có hiệu quẩ: Đối với các khoản nợ quá hạn bình thường, tổ thu nợ đề ra biện pháp và chỉ đạo cán bộ tín dụng thực hiện. Đối với các khoản nợ lớn, phức tạp, khó đòi tổ thu nợ phải trực tiếp tham gia xử lý. -Định kỳ tổ thu nợ phải tiến hành sơ kết, rút kinh nghiệm và kết quả báo cáo kết quả thực hiện, đề xuất vấn đề cần thiết. Ngân hàng phải đánh giá kết quả của các tổ thu nợ, từ đó xem xét trách nhiệm quyền lợi vật chất của các thành viên, đồng thời nâng cao hiệu quả và trách nhiệm hiện tượng hình thức hoạt động không hiệu quả. 3.2.2.4.Xử lý bằng cách khai thác. Áp dụng phương pháp khai thác để xử lý những khoản cho vay có vấn để có thể được mô tả như một chương trình phục hồi hay khắc khổ để áp đặt lên người vay, với sự thoả thuận và cộng tác của họ. Vì tổ chức khai thác không phải là một công cụ pháp lý,nó có thể có một số hình thức khác nhau giữa những khoản cho vay.Ngân hàng thực hiện “băng tai” và áp dụng các chương trình phù hợp nhất với tình huống đặc biệt. Các biện pháp có thể bao gồm lời khuyên trên nhiều chủ đề nhằm tác động đến khả năng tạo ra và thu lợi tức của người vay, gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay để giảm bớt quy mô hoàn trả, cấp phát thêm vốn nhằm tạo cho người vay có được vị thế tài chính mạnh hơn, Ngân hàng nắm bắt phần chủ động trong hoạt động kinh doanh hay thậm chí, Ngân hàng đảm nhận việc kinh doanh và điều hành nó, cho đến khi đảm bảo rằng khoản vay sẽ được hoàn trả. Đối với Doanh nghiệp có thể khuyên thực hiện lại chương trình mở rộng sản xuất, định giá phương thức bán, tăng thêm sản phẩm mới, việc mua bán Doanh nghiệp khác và thay đổi tất cả hoạch định để giảm bớt chi phí, tăng doanh số bán và lợi tức và như vậy gia tăng khả năng trả nợ của người vay . Đôi khi vì những sự kiện không thấy trứơc như bệnh tật và tai nạn, người vay không thể trả nợ hay thực hiện việc trả góp đối với tín dụng tiêu dùng. Trong điều kiện như vậy, tình huống có thể được xử lý tốt nhất bằng việc gia hạn hoặc điều chỉnh hợp đồng cho vay để các khoản trả góp tương quan chặt chẽ hơn với thu nhập của người vay. Đối khi người vay kinh doanh có thể không trả đựoc vì người mua hàng không trả ngay như họ đã từng làm. Nếu xảy ra những tình huống này thì tạm thời có thể được xử lý như khoản cho vay tiêu dùng bằng việc gia hạn hoặc điều chỉnh các họp đồng cho vay. Đối khi vì quản lý tồi, các Doanh nghiệp cỏ thể ở vào tình trạng yếu kém tài chính đến mức Ngân hàng phải nắm bắt phần chủ động trong quản lý kinh doanh. Ngân hàng có thể đặt một đại diện trong Doanh nghiệp để đảm bảo nhận đựơc việc hoàn trả nhằm giảm bớt nợ hay gia tăng khả năng trả nợ. Trong một số trưòng họp nhất định Ngân hàng có thể thay vai trò điều hành Doanh nghiệp và chính Ngân hàng phải trực tiếp điều hành Doanh nghiệp .Dĩ nhiên điều này được thực hiện khi giám đốc đương nhiệm không có khả năng ,có bằng chứng về tính gian dối và phương pháp này là giải pháp hợp lý cho một tình huống xấu.Việc Ngân hàng quản lý một Doanh nghiệp có thể bao gồm việc xử lý tất cả các chức năng tài chính ,kế toán như mua nguyên liệu và cung ứng ,bán hàng hóa,chi tiền theo hoá đơn và xử lý toàn bộ vốn. Có thể Ngân hàng muốn cấp thêm tín dụng cho những người vay kinh doanh có khó khăn tài chính, vì đó là cách duy nhất đảm bảo một khoản vay ban đầu có thể được hoàn trả. Trước khi cấp vốn cho một Doanh nghiệp có khó khăn tài chính phải nghiên cứu thị trường cho sản phẩm hay dịch vụ Doanh nghiệp và khối lượng thoả đáng các tài sản đảm bảo có thể thoả mãn thị trường đầy đủ. Như vậy, bằng cách tổ chức khai thác Ngân hàng đã thu hồi được khá nhiều những khoản nợ quá hạn của khách hàng ,tuy nhiên biện pháp này không thể áp dụng đối với những con nợ làm ăn kém hiệu quả không có khả năng phục hồi sản xuất kinh doanh, con nợ có ý định lừa đảo hay cố ý sử dụng vốn sai mục đích như đã thoả thuận ban đâù trên hợp đồng. 3.2.2.5.Yêu cầu phá sản Doanh nghiệp . Đây là biện pháp cuối cùng theo quyết định của chủ nợ, Ngân hàng hay bất cứ chủ nợ nào khác bao giờ cũng mong muốn nhận được phần đáng kể các khoản vay từ quá trình thanh lý. Biện pháp này được áp dụng khi các chủ nợ không thể đạt thoả thuận hợplý liên quan đến các biện pháp phải thực hiện để thu hồi vốn cho vay, hay khi người vay từ chối làm việc với các chủ nợ để cố gắng giải quyết khó khăn tài chính gay gắt. Luật phá sản Doanh nghiệp quy định 30 ngày kể từ ngày đến hạn mà Doanh nghiệp không trả được nợ, con nợ không có tài sản cầm cố, thế chấp hay sự bảo lãnh của người thứ ba và chủ nợ có bảo đảm một phần có quyền nộp đơn đến toà án nơi đặt trụ sở chính của Doanh nghiệp yêu cầu tuyên bố phá sản. Chủ nợ có tài sản đảm bảo không có quyền nộp đơn vi số nợ của họ đa được đảm bảo bằng tài sản của Doanh nghiệp. Đến hạn trả nợ mà Doanh nghiệp không trả đựoc nợ thì chủ nợ có thể bán tài sản đảm bảo để thu nợ. Thông thường, Ngân hàng tiến hành cho vay đều có tài sản đảm bảo nhưng trong một số trường hợp, tài sản đảm bảo có giá trị nhỏ hơn số tiền vay nên khi Ngân hàng tiến hành thanh lý tài sản đảm bảo nhưng vẫn không đủ trả nợ thì Ngân hàng trở thành chủ nợ không có tài sản đảm bảo, lúc này Ngân hàng có quyền yêu cầu tuyên bố phá sản. Giá trị còn lại của Doanh nghiệp sau khi đã thanh toán nợ cho các chủ nợ có đảm bảo được trả nợ theo thứ tự ưu tiên sau: +Chi phí giải quyết phá sản. +Nợ lương, trợ cấp thôi việc, bảo hiểm xã hội cho người lao động. +Các khoản nợ Nhà nước . +Các khoản nợ cho chủ nợ trong danh sách chủ nợ. Nếu giá trị tài sản còn lại không đủ để thanh lý hết các khoản nợ của các chủ nợ thì sẽ phân chia theo tỷ lệ tương ứng. 3.2.2.6.Khởi kiện . Ngân hàng chỉ tiến hành khởi kiện khi con nợ qúa chây ỳ không chịu trả nợ cho Ngân hàng mặc dù Ngân hàng đã áp dụng tất cả những biệt pháp có thể nhưng vẫn không thu hồi được nợ. Buộc Ngân hàng phải nhờ đến toà án, cơ quan pháp luật có thẩm quyền dùng biện pháp cưỡng chế buộc con nợ phải thanh toán cho Ngân hàng . Ngân hàng hiếm khi phải sử dụng đến biện pháp này vì biện pháp này thường rất tốn kém thời gian và tiền của mà chưa chắc Ngân hàng đã thu được kết quả như mong đợi 3.3.Kiến nghị 3.3.1. Đối với ngân hàng Nhà nước 3.3.1.1.Nâng cao hiệu quả và giải pháp thực thi của việc xử lý các loại tài sản đảm bảo. Thực tế để xử lý các tài sản đảm bảo để thu hồi nợ của các NHTM gặp nhiều khó khăn nhất là nhữnglà tài sản đảm bảo không thực sự đầy đủ các loại giấy tờ. Nếu không được xử lý để thu hồi nợ nhanh chóng ,với mức lãi suất như hiện nay, chỉ sau khoảng 3 năm là giá trị hiện tại của tài sản đó có khi chỉ còn một nửa. Điều này gây thiệt hại rất lớn cho các NHTM. Chính vì vậy, Khi nhận tài sản thế chấp Ngân hàng cần tuân theo một số nguyên tắc nhất định: +Đối với tài sản thế chấp trên thị trường không nhận làm tài sản thế chấp hoặc cầm cố. +Đối với tài sản hao mòn mất giá không nhận làm tài sản thế chấp +Trong quá trình thương lượng định giá tài sản và ký hợp đồng mua bán tài sản phải ghi rõ: Nếu đến hạn mà bên vay không trả được nợ hoặc lãi thì hợp đồng mua bán tài sản thế chấp sẽ có hiệu lực pháp lý. Bên vay mặc nhiên trở thành chủ sở hữu của tài sản. Nếu tín dụng đến hạn mà bên vay trả được nợ và lãi thì hợp đồng mua bán tài sản sẽ không có hiệu lực pháp lý. +Thành lập một công ty quảnlý nợ khai thác tài sản thế chấp . 3.3.1.2.Cương quyết xử lý dứt điểm các khoản nợ xấu ,hạn chế và từng bước loại hẳn giải pháp nuôi nợ. Đây là một lựa chon rất khó khăn của Ngân hàng, hiện tại đang có hai quan điểm trái ngược nhau: Thứ nhất: Đề nghị Ngân hàng thà chịu đau một lần, cương quyết chấm dứt quan hệ tín dụng, xử lý ngay các Doanh nghiệp hoạt động kinh doanh kém hiệu quả, không có khả năng trả nợ Ngân hàng . Thứ hai:Chủ trương ”sống chung với lũ” có nghĩa là Ngân hàng sẽ tiếp tục hỗ trợ tín dụng để duy trì hoạt động của Doanh nghiệp, từ đó có những giải pháp từng bước thu hồi nợ. Sau khi thu hồi nợ xong sẽ chấm dứt quan hệ tín dụng với Doanh nghiệp này. Nếu thực hiện theo quan điểm thứ nhất, điều này gây ra ảnh hưởng tiêu cực nếu thực hiện đồng loạt và vấn đề lo sợ trách nhiệm của những người liên quan đến các khoản tín dụng, các Doanh nghiệp đưa vào diện xử lý là điều không thể tránh khỏi và đây có thể là những rào cản lớn nhát trong nỗ lực xử lý nợ của NHTM. Mặt khác, nếu thực hiện theo quan điểm hai, thì đây chỉ là vấn đề kéo dài thời gian tồn tài của các Doanh nghiệp yếu kém. Khi các khoản tín dụng mới phát sinh ra nếu Ngân hàng không kiểm soát chặt chẽ rất dễ trở thành nợ xấu. Như vậy, tổn thất sẽ còn lớn hơn rất nhiều điều này sẽ gây ra sự đánh đổi cho Ngân hàng. Theo ý kiến cá nhân tôi, để dung hoà vấn đề này và đạt mục tiêu như mong đợi, các Ngân hàng nên cương quyết chon bước đi hợp lý từng bước (theo phương thức cuấn chiếu ) từ nhóm khách hàng kém nhất (số lượng khách hàng, số lượng nợ phải xử lý từng đợt sẽ giảm đi). Đối với các khách hàng đã được đưa vào “tầm ngắm “ thì phải thực hiện các giải pháp xử lý một cách triệt để. 3.3.2. Đối với Chính Phủ 3.3.2.1. Đẩy mạnh cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước gắn với việc áp dụng các mô hình , kỹ năng quản trị công ty hiện đại. Nguyên nhân của việc xử lý nợ quá hạn không thành công ở các NHTM là do các con nợ, phần lớn là Doanh nghiệp Nhà nước không có động cơ và nỗ lực để trả nợ. Do đó, cần phải xử lý tận gốc căn bệnh này phải lựa chọn mô hình phù hợp, áp dụng các nguyên lý quản trị công ty hiện đại. Giải pháp hợp lý nhất là đẩy mạnh cổ phần hoá các Doanh nghiệp Nhà nước, Nhà nước chỉ nên giữ lại những Doanh nghiệp có vai trò trọng yếu, có những lợi thế độc quyền tự nhiên như dầu khí, điện, than, bưu chính viễn thông …Trong quá trình cổ phần hoá không nên quá đặt nặng vấn đề định giá Doanh nghiệp mà chỉ cần đưa ra mức giá tối thiểu như hợp đồng mua bán các thiết bị thuê mua tài chính sau khi kết thúc hợp đồng thuê mua việc quyết định giá cuối cùng để cho thị trường tự quyết định. 3.3.2.2. Áp dụng mô hình xử lý nợ tập trung . Nhà nước cần nhanh chóng ban hành cơ chế xử lý nợ quá hạn toàn diện và có hiệu lực pháp lý đủ mạnh cho việc thực thi triệt để (có thể là một nghị định riêng của chính phủ về xử lý các tiêu chí phân loại nợ, cơ chế báo cáo bộ tài chính việc thành lập và hoạt động của tổ chức xử lý nợ tồn đọng quốc gia ,cơ chế và các biện pháp xử lý nợ quá hạn…Đối với các khoản nợ thuộc nhóm do Doanh nghiệp tự xử lý, các Doanh nghiệp phải chủ động xử lý theo các biện pháp cụ thể phù hợp. Phần thiệt hại Doanh nghiệp được sử dụng qũy dự phòng rủi ro hay lợi nhuận chưa phân phối để bù đắp, được hạch toán vào chi phí kinh doanh hoặc được giảm vốn chủ sở hữu. Đối với các khoản nợ chuyển giao cho tổ chức xử lý nợ của Nhà nước ,tổ chức này có toàn quyền quyết định biện pháp xử lý theo nguyên tắc nhanh nhất và tối đa giá trị thu hồi. Với những khỏan nợ không có khả năng thu hồi, được áp dụng biện pháp xoá nợ. Đối với các khoản nợ có khả năng thu hồi , được áp dụng các biện pháp xử lý cụ thể. Khi thực hiện chuỷên giao nợ từ các Doanh nghiệp có nợ sang cho các tổ chức xử lý nợ của Nhà nước, tổ chức này có quyền định giá lại giá trị món nợ theo đúng giá trị thị trường và chi trả cho Doanh nghiệp có nợ bàn giao. Chi phí để tổ chức xử lý nợ của Nhà nước xử lý nợ và hoàn trả cho các Doanh nghiệp có nợ bàn giao được lấy từ nguồn riêng của Nhà nước .Phần thiệt hại bàn giao nợ được xử lý như đối với phần thiệt hại xảy ra với các khoản nợ do Doanh nghiệp tự xử lý. Để tạo điều kiện cho tổ chức xử lý nợ của Nhà nước hoạt động, tổ chức xử lý nợ tồn đọng cần được trao quyền đủ mạnh và hoạt động phải độc lập. Do đó,cần hình thành và xử lý nợ quốc gia nhằm thúcđẩy xử lý nợ tồn đọng theo mô hình đã lựa chọn hoặc điều chỉnh lại vị trí và chức năng hoạt động của công ty mua bán nợ và tải sản tồn đọng tài Doanh nghiệp theo hướng; trong giai đoạn đầu hoạt động của công ty mua bán nợ chủ yêu mang màu sắc chính trị chứ không phải mục đích kiếm lợi nhuận như những Doanh nghiệp kinh doanh thông thường.Tổ chức xử lý nợ này so chính phủ chi phối, hoạt động mang tính chất chính trị,xã hội và phi lợi nhuận, có nhiệm vụ tiếp nhận toàn bộ các khoản nợ toàn bộ các khoản nợ tồn đọng của NHTM quốc doanh và các Doanh nghiệp Nhà nước vượt quá khả năng xử lý nhằm tối đa hoá giá trị thu hồi nợ trong thời gian nhanh nhất. Cần có đạo luật riêng để điều chỉnh hoạt động của tổ chức xử lý nợ quốc gia này. 3.3.2.3.Thành lập tổ chức bảo hiểm rủi ro tín dụng. Ngân hàng Nhà nước Việt Nam đã thành lập tổ bảo hiểm tiền gửi và tổ chức này đi vào hoạt động khá hiệu quả.Tuy nhiên, việc bảo hiểm tiền vay vẫn chủ yêu dựa vào các quỹ dự phòng rủi ro của Ngân hàng : (1)trích lập quỹ dự phòng rủi ro trực tiếp cho các khoản nợ xấu. (2)hàng năm trích từ lợi nhuận theo một tỷ lệ cố định. Mặc dù, đây được coi là quỹ bảo hiểm rủi ro tín dụng nhưng bị phân tán tại các Ngân hàng và không được kịp thời bù đắp những khoản ứ đọng hoặc mất vốn kinh doanh tại Ngân hàng . Đặc biệt khi rủi ro xẩy ra với số lượng lớn Ngân hàng sẽ không thể ứng phó kịp thời với nguồn vốn it ỏi từ quỹ dự phòng rủi ro ,buộc Ngân hàng phải đưa ra nhiều biện pháp ,huy động nhiều người tham gia vào việc ứng phó rủi ro .Do đó, bảo hiểm tín dụng là rất cần thiết đối với mỗi khoản vay. Ngân hàng có thể đứng ra thành lập một tổ chức bảo hiểm tín dụng một cách tốt hơn nữa là thành lập hiệp hội bảo hiểm tương hỗ rủi ro giữa các Ngân hàng .Mức phí tương hỗ ban đầu đóng trên cơ sở dư nợ cho vay của các năm trước.Trong năm bảo hiểm nếu Ngân hàng nào được trả tiền bồi thường lớn hơn số tiền đóng thì phí năm sau sẽ phải nộp cao hơn số tiền tương ứng. 3.3.3.Một số kiến nghị khác. Để khuyến khích các NHTM xử lý nợ quá hạn Nhà nước cần hạn chế việc hình sự hoá các quan hệ giao dịch kinh tế. Ngoài ra, vấn đề quy trách nhiệm quá lớn đối với những người liên quan trong việc xử lý các khoản nợ xấu làm giảm nỗ lực xử lý nợ xấu ở chính bản thân các Ngân hàng.Vì vậy, các Ngân hàng cần xây dựng cơ chế rõ ràng chặt chẽ, nhưng không được quá nhiều rằng buộc ,nhất là cần phân định rõ giới hạn, pham vi tránh nhiệm để những người có liên quan trong việc quyết định xử lý các khoản nợ có được tâm lý thoải mái khi đưa ra các quyết định hoặc có ý kiến trong việc xử lý. Nợ xấu và nợ qúa hạn là một vấn đề rất khó khăn đối với các NHTM nói riêng, hệ thống tài chính Ngân hàng và nền kinh tế nói chung.Nếu không có giải pháp giải quyết triệt để và hữu hiệu các khoản nợ xấu thì rất khó có thể xây dựng một hệ thống Ngân hàng mạnh đóng vai trò tích cực trong tiền trình công nghiệp hoá - hiện đại hóa. Để giải quyết vấn đề này, việc cần làm là phải cắt đứt ngay mối quan hệ rằng buộc giữa Ngân hàng Nhà nước và các Doanh nghiệp. Chính mối quan hệ, sự bao boc, bảo vệ cảu Nhà nước đã tạo ra tâm lý ỷ lại, hoạt động không hiệu quả trong các Doanh nghiệp. Khi mà các nhà điều hành Doanh nghiệp không có động cơ làm cho Doanh nghiệp hoạt động hiệu quả mà chỉ tim kiếm lợi ích cá nhân vì mô hình chung, đây là nguồn cung cấp rất lớn cho “tham nhũng” và tạo ra những rắc rối cho hệ thống Ngân hàng nói riêng cũng như nền kinh tế nói chung. Hơn nữa, nhà nước phải hoàn thiện và ổn định các chính sách phát triển kinh tế xã hội, trên cơ sở tạo điều kiện cho các hoạt động kinh doanh nới chung và tín dụng nới riêng.Vì một trong những nhân tố gây khó khăn cho hoạt động kinh doanh của Doanh nghiệp là mổi trường hoạt động kinh tế. Nếu môi trường không ổn định, các cơ chế thường xuyên thay đổi, các Doanh nghiệp không thể hoạch định chiến lược kinh doanh lâu dài ,hiệu quả kinh tế cao.Ngược lại,các Doanh nghiệp sẽ luôn ở trong tình trạng bị động, phải thường xuyên điều chỉnh, chuyển hướng hoạt động, không theo kịp sự thay đổi của cơ chế chính sách sẽ dẫn tới việc kinh doanh thua lỗ, ứ đọng hàng hoá ,mất khả năng thanh toán, phát sinh nợ quá hạn.Do đó, trong quá trình điều chỉnh để hoàn thiện cơ chế chính sách cần có những bước đệm hoặc những biện pháp tháo gỡ khó khăn xuất hiện do thay đổi cơ chế. Theo xu hướng hội nhập kinh tế quốc tế giữa các nước, Nhà nước cần có chính sách bảo vệ sản xuất kinh doanh trong nước, điều chỉnh tăng hiệu lực pháp lý của các chính sách thuế, ngăn chặn nhập lậu…đảm bảo tác dụng tích cực của hệ thống cơ chế chính sách. Môi trưòng pháp lý cũng là một nhân tố quan trọng, ảnh hưởng đến sản xuất kinh doanh của Ngân hàng. Hiện nay hệ thống luật pháp nước ta còn rất nhiều bất cập, chồng chéo, chưa đồng bộ, thống nhất…tạo điều kiện cho những con nợ có ý định lừa đảo, nách luật, gây khó khăn cho Ngân hàng trong quá trình xử lý nợ quá hạn.Do vậy, Nhà nước cần chỉ đạo việc ban hành ,triển khai thực hiện nghị định, thông tư hướng dẫn một cách nhanh chóng, dồng bộ giữa các cấp, các ngành, tránh gây ách tắc, không hình sự hoá, đảm bảo quyền lợi chính đáng cho các NHTM. KẾT LUẬN Do tiến trình hội nhập trong những năm gần đây đòi hỏi hệ thống Ngân hàng thương mại cũng phải mở rộng quan hệ với các tổ chức tài chính quốc tế. Do đó không chỉ có sự cạnh tranh gay gắt giữa các tổ chức tín dụng trong nước mà còn phải cạnh tranh với các tổ chức tài chính quốc tế. Để thắng được trong cuộc chạy đua khốc liệt này đòi hỏi các NHTM Việt Nam phải vươn lên về mọi mặt: Cả về trình độ chuyên môn, khoa học công nghệ cũng như việc đa dạng hóa các danh mục đầu tư, mở rộng các hình thức dịch vụ. Trọng tâm của vấn đề nâng cao chất lượng tín dụng của Ngân hàng là giải quyết tình trạng nợ quá hạn.Vì vậy, Ngân hàng đã dồn toàn tâm toàn lực để có thể giải quyết triệt để vấn đề này.Mặt khác, để làm được điều này cần phải có sự nỗ lực tích cực, chủ động, linh hoạt của chi nhánh cũng như sự hỗ trợ đắc lực từ Hội Sở Chính Ngân hàng NHNN & PTNT Việt Nam,cũng như các cơ quan có thẩm quyền trong việc đảm bảo các điều kiện,môi trường cho hoạt động kinh doanh . Người ta ví kinh doanh và rủi ro như hai bàn cân trên một chiếc cân. Nếu kinh doanh giỏi mà phòng ngừa rủi ro tồi thì cuối cùng hoạt động kinhdoanh cũng chẳng có hiệu quả.Ngược lại, Nếu quản lý rủi ro tốt nhưng kinh doanh tồi thì cũng không mang lại hiệu quả gì. Do vậy, việc nghiên cứu xử lý rủi ro trong hoạt động tín dụng Ngân hàng là một công việc hết sức quan trọng.Với suy nghĩ đó em đã trọng tâm nghiên cứu công tác hạn chế và xử lý nợ quá hạn trong hoạt động tín dụng tại chi nhánh nhằm bổ sung vào công tác hạn chế và xử lý nợ quá hạn tại chi nhánh .Hi vọng rằng trên cơ sở những biện pháp đã thực hiện cùng với những định hướng giải pháp mới Chi nhánh Ngân hàng NHNN & PTNT Phan Đình Phùng sẽ có những bước tiến tích cực trong công tác đầu tư. Em xin chân thành cảm ơn! DANH MỤC TÀI LIỆU THAM KHẢO 1.Giáo trình NHTM chủ biên:TS.Phan Thị Thu Hà 2.Tiền tệ Ngân hàng và thị trường tài chính. Frederic.S.Mishkin. 3.Quản trị NHTM Perter.S.Rose. 4.Tiền tệ tín dụng và Ngân hàng TS.Lê Văn Lư 5.Công nghệ Ngân hàng và thị trường tiền tệ NXB:Thống kê. 6.Cẩm nang tín dụng 7.Tham khảo luận văn khóa trước 8.Tham khảo tạp chí. -Tài chính Ngân hàng -Tài chính Doanh nghiệp -Thị trường tiền tệ -Thị trường chứng khoán -Tạp chí Ngân hàng

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36451.doc
Tài liệu liên quan