Luận văn Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí - MECANIMEX

Vòng quay dự trữ: Chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá tình hình tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm của Công ty. Nó cho biết số lần dự trữ được bán ra bình quân trong kỳ. Số vòng quay dự trữ càng lớn thì thời gian hàng tồn kho càng ngắn, vốn của doanh nghiệp được luân chuyển càng nhanh. Vòng quay dự trữ của Công ty có sự biến động qua các năm. Năm 2001 vòng quay dự trữ là 12,934 lần có nghĩa là trong một năm hàng tồn kho được luân chuyển 12,934 lần, đến năm 2002 tăng lên 20,407 lần do năm 2002 Công ty giảm dự trữ xuống 22,9% và tăng doanh thu lên 21,7% so với năm 2001. Nguyên nhân là do giá cả thị trường của mặt hàng mà Công ty nhập khẩu năm 2002 có rất nhiều biến động lên xuống thất thường làm cho chiến lược kinh doanh hàng nhập khẩu thay đổi. Năm 2003 vòng quay dự trữ lại giảm xuống còn 12,270 lần là do dự trữ tăng lên 71,7% còn doanh thu chỉ tăng 3,1%. Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi tiền trong thanh toán. Kỳ thu tiền bình quân của Công ty có xu hướng giảm mạnh trong 3 năm qua, cụ thể năm 2001 là 87 ngày; năm 2001 là 73 ngày; năm 2003 giảm xuống còn 36 ngày.Nguyên nhân là do trong thời gian qua Công ty đã chú trọng và quản lý có hiệu quả chính sách thương mại, hạn chế các khoản phải thu. Hiệu suất sử dụng TSLĐ: Các tỷ lệ vòng quay tiền, vòng quay dự trữ, kỳ thu tiền bình quân cho biết tốc độ luân chuyển của từng khoản mục riêng rẽ trong TSLĐ, còn chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSLĐ sẽ cho biết tốc độ luân chuyển của TSLĐ của Công ty và cho biết một đồng TSCĐ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất sử dụng TSLĐ của Công ty 3 năm có chiều hướng biến động tăng dần năm 2001 là 2,864 lần; năm 2002 là 3,565 lần; năm 2003 là 4,367 lần.

doc66 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1574 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí - MECANIMEX, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
6.Lợi nhuận sau thuế Tr.đ 618,3 651,0 676.,8 7.Nộp ngân sách Tr.đ 60.344,1 85.871,5 87.642,3 8.Thu nhập CNV Tr.đ 2,1 2,2 2,5 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Qua việc xem xét nội dung của Bảng 2.1, chúng ta có thể rút ra những nhận nhận xét, đánh giá cơ bản như sau: Hoạt động kinh doanh của Công ty trong thời gian qua có sự tăng trưởng theo chiều hướng tốt: quy mô hoạt động kinh doanh ngày càng được mở rộng, lợi nhuận sau thuế tăng đều qua các năm, thực hiện tốt nghĩa vụ đối với ngân sách Nhà nước, thu nhập bình quân của cán bộ, công nhân viên luôn ở mức cao và ổn định. Mặc dù, là một doanh nghiệp Nhà nước được thành lập trong cơ chế kinh tế cũ, nhưng cùng với sự chuyển mình của nền kinh tế đất nước từ cơ chế kinh tế tập trung, bao cấp sang cơ chế kinh tế thị trường, Ban giám đốc Công ty cũng đã có những sự đổi mới cần thiết trong cách nghĩ, cách làm để nhanh chóng thích nghi với cơ chế kinh tế mới. Tuy nhiên, vẫn còn nhiều khía cạnh nội dung của công tác quản trị doanh nghiệp vẫn chưa được quan tâm đúng mức, đặc biệt là trong công tác quản lý tài chính. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp của Công ty vẫn chưa được quan tâm đúng mức. Mặc dù, trong cơ cấu tổ chức của Công ty có Phòng Tài chính Kế toán, nhưng thực ra chức năng và nhiệm vụ của Phòng chỉ thiên về công tác hạch toán kế toán - theo dõi và phản ánh các nghiệp vụ kinh tế phát sinh. Nhân sự của Phòng có 6 người, nhưng chỉ có duy nhất một người đảm nhận vai trò thực hiện công tác phân tích tài chính. Ngoài ra, khi nghiên cứu hoạt động kinh doanh của Công ty trong các năm 2001, 2002, 2003 ta thấy Công ty không gặp phải những khó khăn trở ngại lớn. Nguyên nhân là do Công ty hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực tương đối đặc biệt, không phải bất cứ doanh nghiệp nào cũng có thể tham gia. Thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty Phân tích tài chính doanh nghiệp là một nội dung rất quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp hoạt động kinh doanh trong nền kinh tế thị trường nói chung. Song tại Việt Nam, tất cả các doanh nghiệp Nhà nước cũng như Công ty MECANIMEX thì phân tích tài chính doanh nghiệp mới được áp dụng khi Nhà nước có chủ trương ban hành chế độ kế toán mới. Trong khoảng thời gian tuy ngắn ngủi đó, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty MECANIMEX đã góp phần nâng cao hiệu quả kinh doanh và vẫn không ngừng hoàn thiện. Tổ chức công tác phân tích tài chính tại Công ty Hiện nay, việc tổ chức công tác phân tích tài chính của Công ty còn hết sức sơ sài, mang hình thức bắt buộc. Điều này xuất phát từ nhiều nguyên nhân, trong đó nguyên nhân chính là việc nhận thức tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính đối với Ban giám đốc. Công tác này do Phòng Tài chính Kế toán đảm nhận và thực hiện nhằm mục đích đánh giá kết quả sản xuất kinh doanh của Công ty trong năm qua; tìm ra những nguyên nhân và các nhân tố tác động đến kết quả đó; xây dựng các báo cáo, kế hoạch, chiến lược tài chính ngắn hạn và dài hạn, định hướng phát triển cho Công ty trong thời gian tới. Tuy nhiên, hiện nay công tác phân tích tài chính của Công ty chỉ do một cán bộ của Phòng Tài chính Kế toán đảm nhận và thực hiện tất cả các bước phân tích. Bên cạnh đó, Công ty chưa có sự trợ giúp của các phần mềm tài chính chuyên dụng nên công tác phân tích chủ yếu được thực hiện thủ công. Do đó, hiệu quả của công tác phân tích tài chính chỉ dừng lại ở mức độ nhất định. 2.2.2. Thông tin sử dụng trong phân tích tài chính tại Công ty Thông tin được Công ty sử dụng chủ yếu trong công tác phân tích tài chính là các Báo cáo tài chính. Bao gồm: - Bảng cân đối kế toán. - Báo cáo kết quả kinh doanh. - Thuyết minh báo cáo tài chính. Các Báo cáo tài chính này được Phòng Tài chính Kế toán tổng hợp và lập định kỳ từ hoạt động kinh doanh. Như vậy, ta thấy Báo cáo lưu chuyển tiền tệ mặc dù có được lập nhưng không được Công ty sử dụng trong phân tích. Việc tiến hành sử dụng các thông tin trên Báo cáo tài chính của Công ty để tiến phân tích cũng thường chỉ trong 2 năm (số liệu năm nay được so sánh với số liệu của năm trước). Ngoài những thông tin có được từ các Báo cáo tài chính trên, Công ty hầu như không sử dụng thêm một nguồn thông tin nào từ bên ngoài như: tình hình kinh tế - xã hội, số liệu về các chỉ tiêu tài chính và tỷ lệ tài chính trung bình của ngành hoặc của một nhóm các doanh nghiệp trong ngành… Đây là một thực tế khách quan của nước ta hiện nay. Trong phạm vi của luận văn tốt nghiệp này, chúng ta sẽ sử dụng các số liệu trên Báo cáo tài chính của Công ty trong 3 năm 2001, 2002, 2003 (Xem phụ lục). 2.2.3. Phương pháp phân tích tài chính được sử dụng tại Công ty Do chưa có sự quan tâm đúng mức đến công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, nên các phương pháp phân tích tài chính được Công ty sử dụng vẫn chỉ là các phương pháp truyền thống như: phương pháp phân tích tỷ số, phương pháp so sánh. Các phương pháp phân tích hiện đại như: phương pháp Dupont, phương pháp phân tích độ co giãn, phương pháp phân tích dự báo kinh tế lượng... vẫn còn hết sức mới mẻ. Tuy nhiên, ngay cả việc áp dụng các phương pháp phân tích tài chính của Công ty vẫn chưa sự triệt để, sự phối hợp giữa hai phương pháp cũng chưa thật sự đồng bộ và toàn diện để phát huy hết được tác dụng trong công tác phân tích tài chính. Điều đó có thể dẫn đến những kết luận chưa thực sự hợp lý và chính xác. Đối với phương pháp tỷ số: Công ty sử dụng để tính toán và phân tích các nhóm chỉ tiêu. Đó là: Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán. Nhóm chỉ tiêu vầ tỷ suất sinh lời. Nhóm chỉ tiêu về bố trí cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn. Việc tiến hành xem xét các nhóm chỉ tiêu trên nhằm thấy được cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn cũng như đánh giá khả năng thanh toán và hiệu quả sản xuất kinh doanh của Công ty. Đối với phương pháp so sánh: Công ty sử dụng để phân tích các Báo cáo tài chính, qua đó xem xét cấu trúc tài sản và nguồn vốn, phát hiện các đặc trưng trong phân bố tài sản và huy động vốn. Tiến hành so sánh giữa số thực hiện năm nay với số thực hiện năm trước, so sánh giữa số thực hiện với số kế hoạch để từ đó tính ra tốc độ tăng trưởng, mức độ tăng, giảm tuyệt đối, đánh giá mức độ hoàn thành kế hoạch. 2.2.4. Nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty Để đánh giá thực trạng tài chính và xây dựng kế hoạch kinh doanh cũng như kế hoạch tài chính cho năm tới Công ty đã tiến hành phân tích những nội dung sau: (thể hiện trong Thuyết minh báo cáo tài chính). 2.2.4.1. Phân tích cơ cấu tài chính Giá trị tài sản của Công ty năm 2002 là 116.989,5 tr.đồng (tăng so với năm 2001 là 9.458,8 tr.đồng); năm 2003 là 101.102,9 tr.đồng (giảm so với năm 2002 là 15.886,6 tr.đồng). Trong năm 2002 giá trị tổng tài sản của Công ty có sự gia tăng đột biến là do Công ty nhận vốn từ NSNN là quyền sử dụng đất để góp vốn liên doanh là:11.975.400.000 đ. Biểu 2.1: Quy mô tài sản của Công ty MECANIMEX Đơn vị: Tr.đồng (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Với đặc điểm là một doanh nghiệp Nhà nước hoạt động kinh doanh trong lĩnh vực thương mại, xuất nhập khẩu hàng hoá, nên tài sản lưu động của Công ty chiếm một tỷ trọng lớn, năm 2001 tỷ trọng này là 93,7% tổng tài sản của Công ty (tương ứng 100.768,9 tr.đồng); năm 2002 tỷ trọng này là 84,18% (tương ứng 98.479,9 tr.đồng); còn năm 2003 là 82,10%.(tương ứng 83.002,2 tr.đồng). Các khoản phải thu cũng chiếm tỷ trọng rất lớn, năm 2001 các khoản phải thu chiếm tỷ trọng 69,3% tài sản lưu động và chiếm tỷ trọng 65,0% tổng tài sản của Công ty; năm 2002, các tỷ trọng này tương ứng là 72,6% và 61,1%; năm 2003 là tương ứng là 43,8% và 36,0%. Bảng 2.2: Phân tích cơ cấu tài sản của Công ty MECANIMEX Chỉ tiêu Mã số Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 A- Tslđ, đầu tư ngắn hạn 100 93.7% 84.2% 82.1% I. Tiền 110 5.4% 5.9% 13.8% II.Các khoản đầu tư tài chính ngắn hạn 120 0.0% 0.0% 0.0% III. Các khoản phải thu 130 65.0% 61.1% 36.0% IV. Hàng tồn kho 140 20.7% 14.7% 29.2% V. Tài sản lưu động khác 150 2.6% 2.5% 3.1% VI. Chi sự nghiệp 160 0.0% 0.0% 0.0% B- Tscđ, đầu tư dài hạn 200 6.3% 15.8% 17.9% I. Tài sản cố định 210 2.8% 2.4% 2.3% 1. Tài sản cố định hữu hình 211 2.8% 2.4% 2.3% - Nguyên giá 212 4.3% 4.3% 5.1% - Giá trị hao mòn luỹ kế (*) 213 1.5% 1.8% 2.8% II. Các khoản đầu tư tài chính dài hạn 220 3.2% 13.1% 15.1% III. Chi phí xây dựng cơ bản dở dang 230 0.3% 0.2% 0.4% IV. Các khoản ký quỹ, ký cược dài hạn 240 0.0% 0.0% 0.0% Tổng cộng tài sản 250 100.0% 100.0% 100.0% (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Đối với Nợ phải trả, trong việc huy động nguồn tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty thì các khoản Nợ dài hạn không được sử dụng mà chỉ sử dụng các khoản Nợ ngắn hạn. Điều này có thể giải thích là do Công ty là một doanh nghiệp thương mại nên có tốc độ quay vòng vốn nhanh, do vậy việc sử dụng Nợ ngắn hạn với lãi suất nhỏ hơn lãi suất Nợ dài hạn sẽ tiết kiệm chi phí, nâng cao hiệu quả của việc sử dụng vốn. Năm 2001 tỷ trọng Nợ ngắn hạn trên tổng nguồn vốn là 82,8%; năm 2002 tỷ trọng này là 73,4%; năm 2003 là 67,8%. Bảng 2.3: Phân tích cơ cấu nguồn vốn Công ty MECANIMEX Chỉ tiêu Mã số Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 A- Nợ phải trả 300 82.8% 73.4% 67.8% I. Nợ ngắn hạn 310 82.8% 73.4% 67.8% II. Nợ dài hạn 320 0.0% 0.0% 0.0% III. Nợ khác 330 0.0% 0.0% 0.0% B- Nguồn vốn chủ sở hữu 400 17.2% 26.6% 32.2% I. Nguồn vốn, quỹ 410 17.2% 26.6% 32.2% 1. Nguồn vốn kinh doanh 411 16.4% 25.4% 29.4% 2. Các quỹ 412 0.8% 1.2% 2.8% II. Nguồn kinh phí, quỹ khác 420 0.0% 0.0% 0.0% Tổng cộng nguồn vốn 430 100.0% 100.0% 100.0% (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Về doanh thu, hằng năm của Công ty tạo ra lớn và không ngừng tăng trưởng: năm 2002 đạt 351.099,8 tr.đồng (tăng so với năm 2001 là 62,533.6 tr.đồng và bằng 110% so với kế hoạch); năm 2003 đạt 362.466,9 tr.đồng (tăng 11.367,1 tỷ đồng so với năm 2002 và bằng 102.6% so với kế hoạch). Nhờ vậy, lợi nhuận sau thuế của Công ty cũng không ngừng tăng lên: Năm 2001 đạt 618,3 tr.đồng bằng 107,3% so với năm 2000 (tăng tuyệt đối là 42,3 tr.đồng), năm 2002 đạt 651,0 tr.đồng bằng 105% so với năm 2001 (tăng tuyệt đối là 32,8 tr.đồng), năm 2003 đạt 676,8 tr.đồng bằng 103.7% so với năm 2002 (tăng tuyệt đối 25,8 tr.đồng). Một đặc điểm của Công ty là lợi nhuận từ hoạt động tài chính luôn luôn bị âm do Công ty thường xuyên phải vay nợ rất nhiều để phục vụ cho quá trình sản xuất kinh doanh. Phân tích các chỉ tiêu tài chính Trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, Công ty đã tiến hành phân tích đánh giá một số nhóm chỉ tiêu sau. Bảng 2.4: Các chỉ tiêu phân tích tài chính của Công ty MECANIMEX Các nhóm chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 1. Chỉ tiêu về bố trí cơ cấu TS và NV (%) *Tỷ trọng TSCĐ / Tổng TS 15.82 17.9 *Tỷ trọng TSLĐ / Tổng TS 84.18 82.1 *Tỷ trọng Nợ phải trả / Tổng NV 73.4 67.82 *Tỷ trọng vốn chủ SH / Tổng NV 26.6 32.18 2. Chỉ tiêu về khả năng thanh toán *Khả năng thanh toán tức thời 0.08 0.2 *Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn 1.14 1.2 3. Chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời (%) *Tỷ suất sinh lời trên doanh thu 0.19 0.2 *Tỷ suất sinh lời trên tổng tài sản 0.56 0.7 *Tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu 2.1 2.1 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Nhóm chỉ tiêu về bố trí cơ cấu tài sản và cơ cấu nguồn vốn: Tỷ trọng TSCĐ / Tổng tài sản: Năm 2002 tỷ trọng tài sản cố định của Công ty có sự gia tăng đột biến (15,82%), nguyên nhân là do Công ty được ngân sách Nhà nước cấp vốn bổ sung bằng giá trị quyền sử dụng đất góp vốn liên doanh. Năm 2003, tỷ trọng này cũng có sự gia tăng nhẹ do Công ty cũng mua sắm, bổ sung một số tài sản cố định phục vụ cho hoạt động kinh doanh đạt mức 17,9%. Tỷ trọng TSLĐ / Tổng tài sản: Với đặc điểm là một doanh nghiệp thương mại nên tỷ trọng này của Công ty là rất cao. Tuy nhiên, trong những năm qua tỷ trọng này đang có xu hướng giảm xuống, năm 2002 chiếm 84,18%; năm 2003 chiếm 82,1%. Tỷ trọng Nợ phải trả / Tổng nguồn vốn: Trong cơ cấu nguồn vốn của Công ty nợ phải chiếm một tỷ trọng tương đối lớn, do để đảm bảo vốn cho hoạt động kinh doanh thì Công ty thường xuyên phải huy động vốn rất nhiều từ bên ngoài. Năm 2002 tỷ trọng này là 73,4%; năm 2003 là 67,82%, tỷ trọng này đang có xu hướng giảm xuống do Công ty đã giảm dần việc khai thác và sử dụng nguồn vốn tín dụng thương mại của nhà cung cấp. Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán: Khả năng thanh toán tức thời: Năm 2002 tỷ lệ này là 0,08%; năm 2003 là 0,2%. Mặt khác, lượng tiền dự trữ của Công ty cũng rất thấp. Nguyên nhân của tình trạng này bắt nguồn từ cơ cấu tài trợ của Công ty. Khả năng thanh toán nợ ngắn hạn: Công ty thường xuyên phải cần tới 83 - 88% giá trị tài sản lưu động của Công ty mới đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Nhóm chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời: Tỷ suất lợi nhuận trên doanh thu: của Công ty năm 2002 là 0.19%; năm 2003 là 0.2%. Tỷ suất này là tương đối thấp nguyên nhân là do sự gia tăng các khoản chi phí (chi phí bán hàng, chi phí tài chính và các khoản chi phí khác) với tốc độ cao, mặc dù lợi nhuận sau thuế hàng năm cũng tăng nhưng có tốc độ gia tăng thấp hơn. Tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản: Khả năng sinh lợi của Công ty năm 2003 là 100 đồng vốn đầu tư thu được khoảng 0,7 đồng lợi nhuận sau thuế. Tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu: Năm 2003 100 đồng vốn chủ sở hữu tạo ra có 2,1 đồng lợi nhuận sau thuế, do tốc độ gia tăng của lợi nhuận không nhanh bằng tốc độ gia tăng của vốn chủ sở hữu. Đó là toàn bộ nội dung công tác phân tích tài chính của Công ty MECANIMEX, như vậy ta thấy rằng nội dung phân tích này còn quá sơ sài, phiến diện, do đó không thể đánh giá hết tình hình tài chính của Công ty. Đánh giá về công tác phân tích tài chính tại Công ty Những kết quả đạt được Như hầu hết các doanh nghiệp Nhà nước ở Việt Nam, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp mới chỉ được thực hiện ở Công ty MECANIMEX trong thời gian không lâu. Tuy nhiên, bước đầu đã thu được những kết quả đáng ghi nhận: phục vụ đắc lực cho Ban giám đốc trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh, hiệu quả quản lý tài chính. Cụ thể: Hoạt động kinh doanh của Công ty vẫn thường xuyên được đánh giá về kết quả và hiệu quả; tìm ra những mặt mạnh để không ngừng phát huy, cũng như những mặt còn tồn tại để nghiên cứu giải pháp khắc phục. Công tác phân tích tài chính còn chỉ ra cho Ban giám đốc những nguy cơ thách thức mà Công ty có thể gặp phải từ đó sớm có những hướng khắc phục, quản lý điều hành hoạt động kinh doanh, lập kế hoạch phát triển trong ngắn hạn và dài hạn. Công tác dự đoán tài chính, lập các kế hoạch kinh doanh, kế hoạch tài chính trong ngắn hạn và dài hạn đã giúp Công ty tận dụng tốt các cơ hội kinh doanh, mở rộng thị trường trong nước và quốc tế, bảo đảm hiệu quả kinh tế xã hội cao trên nền tảng thông tin từ các kết quả phân tích tài chính. 2.3.2. Hạn chế và nguyên nhân Hạn chế Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty đã bộc lộ những hạn chế vừa mang tính khách quan vừa mang tính chủ quan: Về tổ chức công tác phân tích: Hoạt động phân tích tài chính của Công ty chỉ được được tiến hành sau khi đã thu thập đầy đủ thông tin cần thiết. Như vậy, thời điểm để bắt đầu các phân tích phụ thuộc lớn vào thời điểm hoàn tất quyết toán của doanh nghiệp. Nhưng thực tế cho thấy, các Báo cáo tài chính đến cuối quý I, thậm chí sang quý II mới hoàn tất, trong khi mục tiêu của phân tích tài chính doanh nghiệp là từ thực trạng hoạt động kinh doanh, đưa ra các kế hoạch chiến lược trong tương lai. Cho nên kết quả hoạt động phân tích sẽ bị giảm ý nghĩa thực tiễn, những chiến lược xây dựng có thể sẽ không theo kịp những biến đổi của môi trường kinh doanh. Về thông tin sử dụng trong phân tích: Công ty MECANIMEX có cơ chế quản lý hệ thống sổ sách, chứng từ kế toán chặt chẽ, tuân thủ nghiêm túc các quy định của Nhà nước, của Bộ chủ quản về quy chế quản lý tài chính, kế toán và biểu mẫu. Song thông tin được sử dụng trong công tác phân tích tài chính tại Công ty vẫn còn nhiều hạn chế, sai lệch về mặt chất lượng và số lượng cung cấp. Thứ nhất, công tác phân tích tài chính tại Công ty bị hạn chế do sử dụng thông tin không đầy đủ: với 3 Báo cáo tài chính trong đó không có Báo cáo lưu chuyển tiền tệ, những thông tin khác liên quan đến Công ty như thông tin về tình hình kinh tế trong và ngoài nước, hệ thống pháp lý, chỉ tiêu chung của ngành... chưa được cập nhật và đưa vào sử dụng. Thứ hai, các Báo cáo tài chính được lập theo ý muốn chủ quan của người lập nên số liệu cũng chưa chắc đã hoàn toàn phản ánh thực tế một cách chính xác trung thực. Do đó ít nhiều có ảnh hưởng đến kết quả phân tích. Cuối cùng, trong khi nguồn thông tin không được đảm bảo đầy đủ và chính xác, thì các số liệu sử dụng để phân tích chủ yếu là trong 2 năm (hay số liệu đầu năm và cuối năm) hoặc cùng lắm là lên đến 3 năm. Vì vậy, kết quả phân tích chỉ có ý nghĩa trong ngắn hạn, chưa đem lại cho đối tượng sử dụng thông tin hình ảnh về doanh nghiệp nói chung và tình hình tài chính nói riêng một cách có chiều sâu. Các thông tin này hơn nữa mang nặng tính chất thống kê, tổng hợp mà không nêu được bản chất ý nghĩa của chúng. Về phương pháp phân tích: Hiện nay trong công tác phân tích tài chính, Công ty mới chỉ sử dụng hai phương pháp truyền thống là: phương pháp tỷ số và phương pháp so sánh, chưa thực sự quan tâm sử dụng các phương pháp phân tích mới, hiện đại như: phương pháp Dupont, phương pháp phân tích độ co giãn, phương pháp phân tích kinh tế lượng... Sự kết hợp giữa các phương pháp trên còn chưa đồng bộ và toàn diện để phát huy hết tác dụng của từng phương pháp trong công tác phân tích khiến kết quả đạt được còn nhiều hạn chế, chưa hỗ trợ được nhiều trong việc ra quyết định. Về nội dung phân tích: Nội dung phân tích của Công ty còn hết sức sơ sài, mang tính chất khái quát. Trong đó, mới chỉ tập trung vào phân tích khái quát tình hình tài chính thông qua việc phân tích cơ cấu tài chính và phân tích các chỉ tiêu tài chính, do đó chưa phản ánh đầy đủ tình hình tài chính của Công ty mà chỉ giúp Ban giám đốc nắm được tình hình tăng giảm của tài sản, nguồn vốn, kết quả kinh doanh nhưng mức độ tăng giảm như vậy là hợp lý hay chưa hợp lý thì chưa được làm rõ. Khi phân tích các chỉ tiêu tài chính để đánh giá tình hình tài chính của Công ty thì chỉ tập trung vào một số chỉ tiêu như: chỉ tiêu về cơ cấu tài sản, cơ cấu nguồn vốn; chỉ tiêu về khả năng thanh toán; chỉ tiêu về khả năng sinh lời. Còn các chỉ tiêu khác như: vòng quay vốn lưu động, kỳ thu tiền bình quân, khả năng thanh toán lãi vay, hiệu suất sử dụng tài sản... vẫn chưa được tính toán và phân tích. Một nội dung rất quan trọng nữa là việc đánh giá tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động kinh doanh, phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn chưa được Công ty đưa vào nội dung phân tích là một thiếu sót cần nhanh chóng khắc phục. Nguyên nhân Nguyên nhân chủ quan Do Ban giám đốc Công ty chưa nhận thức được tầm quan trọng và tác dụng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Chính vì vậy, mà công tác này chưa có được sự chú trọng đầu tư thích đáng. Công ty vẫn chưa xây dựng được một đội ngũ cán bộ phân tích tài chính có trình độ chuyên môn cao. Các phương pháp phân tích tài chính được Công ty sử dụng còn quá sơ sài mới chỉ dừng lại ở phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh nhưng còn chưa vận dụng một cách chính xác. Công ty vẫn chưa áp dụng một phần mền phân tích tài chính chuyên dụng nào, công tác phân tích chủ yếu được tính toán bằng thủ công do vậy hiệu quả đạt được là không cao. Nguyên nhân khách quan Hệ thống pháp lý chưa đầy đủ, phù hợp Hệ thống pháp lý của chúng ta vẫn chưa phù hợp với cơ chế mới, lại thường xuyên sửa đổi... điều đó đã làm cho công tác phân tích gặp nhiều khó khăn do không lường trước được sự thay đổi. Tình hình kinh tế xã hội chưa phát triển. Thị trường tiền tệ và thị trường vốn ở Việt Nam chưa phát triển nên công tác phân tích tài chính tại các doanh nghiệp nói chúng là chưa được quan tâm đúng mức. Khi các thị trường này được xây dựng và phát triển, thì các nhà đầu tư mới có cơ hội đầu tư vào các doanh nghiệp và do đó họ cần phải biết tình hình tài chính của doanh nghiệp trước khi ra quyết định đầu tư. Khi đó các doanh nghiệp phải công khai hoá các Báo cáo tài chính và có các Công ty kiểm toán thực hiện việc thẩm định lại các báo cáo này, nhờ vậy công tác phân tích tài chính sẽ có hiệu quả hơn. Hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành còn chưa có Đây là hệ thống chỉ tiêu tham chiếu quan trọng của Công ty. Tuy nhiên, hiện nay hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành vẫn chưa được xây dựng vì vậy Công ty thiếu những chuẩn mực để đánh giá so sánh tình hình tài chính của mình đối với các doanh nghiệp khác trong cùng ngành... Chương 3: một số Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí 3.1. Định hướng phát triển trong thời gian tới của Công ty mecanimex Trong quá trình hình thành và phát triển, Công ty MECANIMEX đã có nhiều đóng góp cho sự phát triển của nền kinh tế nói chung và đặc biệt là sự phát triển của các doanh nghiệp thuộc Bộ Công nghiệp nói riêng. Bên cạnh việc nhập khẩu các sản phẩm cơ khí đáp ứng kịp thời nhu cầu về máy móc, thiết bị, vật tư cho các ngành sản xuất hỗ trợ đắc lực cho quá trình công nghiệp hoá - hiện đại hoá của đất nước. Hiện nay, Công ty còn mở rộng danh mục nhập khẩu sang các mặt hàng điện tử gia dụng khác nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của nhân dân, đồng thời xúc tiến hoạt động xuất khẩu nông sản nhằm tìm kiếm, mở rộng thị trường tiêu thụ cho nông sản Việt Nam, thu ngoại tệ về cho đất nước . Với mục tiêu từng bước xây dựng Công ty MECANIMEX thành một doanh nghiệp hàng đầu trong lĩnh vực xuất nhập khẩu, có tiềm lực tiềm lực tài chính vững mạnh quy mô hoạt động ngày càng được mở rộng, danh mục hoạt động ngày càng được đa dạng… Công ty đã đưa ra các biện pháp: Tiếp tục tìm kiếm và mở rộng thị trường tiêu thụ cả trong và ngoài nước. Đối với thị trường nước ngoài, Công ty cố gắng duy trì và phát triển mối quan hệ với những thị trường nhiều tiềm năng như: Hàn Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Tây Âu, Đông Nam á, đồng thời cố gắng tiếp cận với các thị trường mới như: Mỹ, Trung Quốc và các nước Mỹ La Tinh. Đối với thị trường trong nước, Công ty chủ trương giữ vững mối quan hệ tốt với các khách hàng truyền thống. Bên cạnh đó, tích cực đa dạng hoá danh mục hàng hoá xuất nhập khẩu để tìm kiếm, mở rộng quan hệ hợp tác kinh doanh với các khách hàng mới. Đào tạo, nâng cao trình độ của các chuyên gia phân tích kỹ thuật, tạo môi trường làn việc thuận lợi để thông qua đó hình thành nên đội ngũ chuyên viên, cán bộ kỹ thuật có trình độ cao hỗ trợ tích cực cho công tác quản lý và kinh doanh xuất nhập khẩu. Xây dựng chính sách nguồn nhân lực năng động: Thực hiện tuyển chọn, đào tạo và đãi ngộ trên cơ sở kết quả công việc kết hợp tạo môi trường phát triển nghề nghiệp lâu dài. Công ty cần tiếp tục duy trì tình hình tài chính lành mạnh, bảo toàn và phát triển nguồn vốn, nâng dần tỷ trọng vốn chủ sở hữu trong tổng nguồn vốn, quản lý tốt việc sử dụng vốn, quản lý hiệu quả doanh thu, chi phí, giá thành cũng như việc phân phối thu nhập sau thuế. Về chế độ kế toán cần nhanh chóng đưa ra Báo cáo lưu chuyển tiền tệ thành một thông lệ báo cáo hàng tháng (hiện nay Công ty mới chỉ lập Báo cáo lưu chuyển tiền tệ năm) bên cạnh báo cáo nhanh về thu chi tiền mặt đã thành chế độ hàng tuần, hàng tháng của Công ty. 3.2. Một số giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty 3.2.1. Tổ chức tốt công tác phân tích tài chính Để nâng cao chất lượng quản trị, điều hành doanh nghiệp, một giải pháp quan trọng mà Công ty MECANIMEX cần phải thực hiện ngay đó là: nâng cao nhận thức về tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp cho Ban lãnh đạo và cán bộ công nhân viên, tổ chức tốt công tác phân tích tài chính. Cụ thể, Công ty cần tiến hành ngay một số công việc sau: Xác định ngay từ chiến lược của Công ty vị trí và vai trò của công tác phân tích tài chính doanh nghiệp. Thứ nhất, phân tích tài chính doanh nghiệp phải được coi như một biện pháp quan trọng phòng ngừa rủi ro trong hoạt động kinh doanh, bởi nhờ đó Ban giám đốc Công ty có thể nhận biết những biến đổi bất thường, những dấu hiệu bất an trong quá trình kinh doanh. Thứ hai, phân tích tài chính doanh nghiệp chỉ rõ cho Ban giám đốc biết phải làm gì? ở đâu? như thế nào? để giảm thiểu tổn thất, tăng cường khả năng sinh lời... đạt được những mục tiêu đề ra. Xây dựng quy trình phân tích tài chính của Công ty một cách cụ thể, chi tiết làm cơ sở hướng dẫn cho cán bộ thực hiện nhiệm vụ phân tích. Công tác phân tích tài chính doanh nghiệp hiện nay ở Công ty vẫn chưa đi vào nề nếp, một trong những nguyên nhân chủ yếu do là Ban giám đốc Công ty chưa thực sự quan tâm đúng mức. Vì vậy, cho đến nay chưa có một văn bản nào quy định cụ thể, chi tiết về mục đích, ý nghĩa, cơ chế tổ chức thực hiện, đặc biệt là hướng dẫn quy trình tự thực hiện công tác phân tích. Như vậy, Công ty MECANIMEX cần sớm ban hành một văn bản hướng dẫn cụ thể quy trình thực hiện phân tích tài chính doanh nghiệp. Nếu thực hiện được điều đó thì mức dộ chính xác trong đánh giá tình hình tài chính cũng như khả năng dự báo chiến lược sẽ tăng lên khá nhiều, tạo ra lợi thế cạnh tranh so với các doanh nghiệp khác cùng ngành. Tổ chức nguồn nhân sự cho công tác phân tích: Tại Công ty MECANIMEX hiện nay, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp đang do Phòng Tài chính Kế toán đảm nhiệm. Các nhân viên của Phòng với số lượng chỉ có 6 người vừa phải thực hiện công tác hạch toán kế toán, vừa phải kiêm nhiệm việc phân tích tài chính. Ngoài ra, hầu hết nhân viên của Phòng được đào tạo về ngành kế toán nên kiến thức và sự am hiểu về lĩnh vự tài chính doanh nghiệp còn nhiều hạn chế đẫn đến việc tiến hành công tác phân tích tài chính gặp rất nhiều có khó khăn khiến hiệu quả của phân tích không cao. Do đó, trong thời gian tới Ban giám đốc Công ty nên thực hiện việc phân chia Phòng Tài chính Kế toán thành hai bộ phận riêng biệt: một bộ phận thực hiện công tác kế toán, một bộ phận thực hiện công tác phân tích tài chính. Việc phân chia như vậy sẽ tạo điều kiện để chuyên môn hoá công việc, vừa góp phần giảm gánh nặng cho các nhân viên kế toán, vừa xây dựng cho Công ty một đội ngũ cán bộ phân tích tài chính có trình độ cao. 3.2.2. Hoàn thiện nguồn thông tin sử dụng trong công tác phân tích Để công tác phân tích tài chính có thể đưa ra được những kết quả chính xác về tình hình tài chính thì Công ty cần phải có nguồn thông tin đảm bảo tính đầy đủ, chính xác. Đối với nguồn thông tin bên trong: Hiện nay Công ty thực hiện việc lập các Báo cáo tài chính theo đúng các chế độ quy định của Nhà nước. Hệ thống Báo cáo tài chính của Công ty bao gồm: Bảng cân đối kế toán; Báo cáo kết quả kinh doanh; Báo cáo lưu chuyển tiền tệ; Thuyết minh báo cáo tài chính. Tuy nhiên, trong quá trình phân tích tài chính hiện nay Công ty mới chỉ sử dụng số liệu trên Bảng cân đối kế toán và Báo cáo kết quả kinh doanh mà chưa sử dụng Báo cáo lưu chuyển tiền tệ. Đây là một nguồn thông tin quan trọng phản ánh năng lức tài chính của Công ty. Trên báo cáo này cho phép đánh giá khả năng tạo tiền, khả năng thanh toán, khả năng sử dụng tiền nhàn rỗi trong đầu tư, ngoài ra báo cáo này còn là công cụ để lập dự toán tiền, xây dựng kế hoạch thu chi trong những năm tiếp sau. Do vậy, trong những năm tới Công ty nên sử dụng thông tin trên Báo cáo lưu chuyển tiền tệ như là một nguông thông tin không thể thiếu cho công tác phân tích. Hơn nữa, việc lập và phân tích đầy đủ các số liệu trên Báo cáo tài chính sẽ tạo nên một ấn tượng tốt về sự quy củ trong quản trị, phân tích tài chính doanh nghiệp đối với các đối tượng bên ngoài, tạo điều kiện thuận lưọi cho Công ty khi hợp tác, liên kết với các doanh nghiệp nước ngoài. Sử dụng đầy đủ thông tin phải đi đôi với yêu cầu chất lượng của nguồn thông tin đó. Do vậy hiện nay khi chưa có những quy định cụ thể Nhà nước về chế độ kiểm toán bắt buộc với các doanh nghiệp, thì Trưởng phòng Tài chính Kế toán nên chỉ đạo công tác kiểm toán nội bộ trong Công ty nhằm đảm bảo thông tin được sử dụng là thông tin “sạch”. Đối với nguồn thông tin bên ngoài: Để các kết luận trong phân tích tài chính có tình chất thuyết phục cao, Công ty cần sử dụng các thông tin có liên quan đến hoạt động kinh doanh như: Thông tin về tình hình tăng trưởng, suy thoái kinh tế... Thông tin về lãi suất ngân hàng, tỷ giá ngoại tệ... Thông tin về lạm phát... Thông tin về sự thay đổi chỉ số giá của các loại hàng hóa sử dụng trong kinh doanh. Nguồn thông tin giúp Công ty có được những giải pháp hợp lý trong trường hợp khan hiếm hàng hoá hay chỉ số giá biến động bất thường... Các chủ trương chính sách lớn của Nhà nước liên quan đến hoạt động xuất nhập khẩu như: việc tham gia hội nhập AFTA, WTO; Luật Hải quan; Chính sách thuế suất đồi với hàng hoá xuất nhập khẩu... Hoàn thiện phương pháp phân tích Phân tích tài chính doanh nghiệp không chỉ đơn thuần là việc đưa ra và phân tích các chỉ tiêu tài chính, rồi sau đó đưa ra những nhận xét, đánh giá về tình hình tài chính của doanh nghiệp; mà yêu cầu đặt ra là phải chỉ ra rõ nguyên nhân nào gây ra tình hình tài chính đó. Trên cơ sở đó, tư vấn cho Ban lãnh đạo đề ra mục tiêu, kế hoạch và phướng hướng hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp. Hiện nay, Công ty MECANIMEX cũng như các chủ thể kinh tế khác đang hoạt động kinh doanh tại Việt Nam, mới chỉ áp dụng hai phương pháp phân tích là: phương pháp phân tích tỷ số và phương pháp so sánh do vậy không thể đáp ứng được yêu cầu đề ra. Để tháo gỡ những vướng mắc trên trên Công ty nên nhanh chóng đưa phương pháp phân tích Dupont vào áp dụng trong công tác phân tích tài chính. Khi sử dụng phương pháp phân tích Dupont, các cán bộ phân tích tài chính của Công ty sẽ xác định được chính xác các nguyên nhân căn bản dẫn đến các hiện tượng tốt, xấu trong hoạt động của Công ty. Trong phần 2.2.4.2. Phân tích các chỉ tiêu tài chính ở Chương 2, khi phân tích chỉ tiêu: tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) và chỉ tiêu tỷ suất lợi nhuận trên vốn chủ sở hữu (ROE) bằng phương pháp phân tích tỷ số kết hợp với phương pháp so sánh đưa tới nhận xét: tỷ suất lợi nhuận trên tổng tài sản (ROA) năm 2003 là tăng so với năm 2002 và tỷ suất sinh lời trên vốn chủ sở hữu (ROE) năm 2003 là bằng với năm 2002, nhưng các phương pháp trên không chỉ ra được nguyên nhân của hiện tượng đó. Với phương pháp phân tích Dupont thì các vấn đề đó sẽ được làm sáng tỏ: Chỉ tiêu doanh lợi tài sản (ROA): ROA = Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận sau thuế x Doanh thu Tổng tài sản Doanh thu Tổng tài sản = PM x AU Trong đó: PM (Profit Margin): Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm AU (Asset Utilization): Hiệu suất sử dụng tài sản của doanh nghiệp Chỉ tiêu doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE): ROE = Lợi nhuận sau thuế = Lợi nhuận sau thuế x Tài sản Vốn chủ sở hữu Tài sản Vốn chủ sở hữu = ROA x EM = PM x AU x EM Trong đó: EM - Hệ số nhân vốn chủ sở hữu phản ánh mức độ huy động vốn từ bên ngoài của doanh nghiệp hay mức độ sử dung đòn bẩy tài chính. Bảng 3.1: Các chỉ tiêu dùng trong phương pháp phân tích Dupont Chỉ tiêu Giá trị thực tế Chiều hướng thay đổi Mức thay đổi (lần) 2002 2003 1.LN sau thuế/Vốn chủ SH (ROE) 0.0209 0.0208 Giảm 0.99611 2.LN sau thuế/Tồng tài sản(ROA) 0.0056 0.0067 Tăng 1.20294 3.LN sau thuế/Doanh thu (PM) 0.0019 0.0019 Không đổi 1 4.Doanh thu/Tổng tài sản (AU) 3.0011 3.5851 Tăng 1.1946 5.Tổng tài sản/Vốn chủ SH (EM) 3.7528 3.1076 Giảm 0.82807 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Bảng 3.1 cho ta thấy: Doanh lợi vốn chủ SH năm 2003 giảm 0.9961 lần so với năm 2002 do: * Doanh lợi tài sản năm 2003 tăng 1.20294 lần so với năm 2002. * Hệ số nhân vốn chủ sở hữu năm 2003 giảm 0.82807 lần so với năm 2002. Doanh lợi tài sản năm 2003 tăng 1.20294 lần so với năm 2002 là do: * Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm năm 2003 là không đổi so với năm 2002. * Hiệu suất sử dụng tài sản năm 2003 tăng 1.1946 lần so với năm 2002. Như vậy, qua kết quả phân tích đã giải thích rõ các nguyên nhân dẫn đến sự thay đổi của ROA và ROE. Đối với ROA của Công ty năm 2003 tăng so với năm 2002 là do khả năng khai thác có hiệu quả tài sản thành doanh thu của Công ty tăng lên. Công ty cần tiếp tục phát huy khả năng đó. Đối với ROE của Công ty năm 2003 giảm so với năm 2002 là do hệ số nhân vốn chủ sở hữu giảm, mặc dù ROA của Công ty tăng. Điều này được giải thích là do Nợ phải trả của Công ty năm 2003 đã giảm so với năm 2003 chiếm 67.82% tổng nguồn vốn nhằm đảm bảo tốt hơn cho khả năng thanh toán. 3.2.4. Hoàn thiện nội dung phân tích tài chính 3.2.4.1. Hoàn thiện các chỉ tiêu phân tích tài chính Hiện nay trong công tác phân tích tài chính doanh nghiệp, Công ty MECANIMEX mới chỉ thực hiện phân tích 3 nhóm chỉ tiêu là: Nhóm chỉ tiêu về bố trí cơ cấu tài sản và cơ cấu nguốn vốn; Nhóm chỉ tiêu về khả năng thanh toán; Nhóm chỉ tiêu về tỷ suất sinh lời; đặc biệt ngay trong các nhóm chỉ tiêu đó cũng còn thiếu nhiều chỉ tiêu quan trọng. Do vậy, để hoàn thiện công tác phân tích tài chính của mình thì Công ty cần phải xây dựng và sử dụng một hệ thống chỉ tiêu phân tích đầy đủ và toàn diện. Công ty cần bổ sung thêm một số chỉ tiêu tài chính quan trọng sau: Phản ánh khả năng thanh toán Hiện nay, Công ty đã phân tích hai chỉ tiêu khả năng thanh toán hiện hành và khả năng thanh toán tức thời. Vì vậy, để phản ánh đầy đủ khả năng thanh khoản của Công ty chúng ta cần xem xét thêm chỉ tiêu khả năng thanh toán nhanh. Chỉ tiêu này cho biết khả năng hoàn trả các khoản nợ ngắn hạn mà không phụ thuộc vào việc bán các tài sản dự trữ (tồn kho). Bảng 3.2. Tỷ lệ khả năng thanh toán nhanh Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1.Tài sản lưu động 2.Dự trữ 3.Khả năng thanh toán nhanh (lần) 100.768,9 22.310,3 0,881 98.479,9 17.205,0 0,947 83.002,3 29.540,6 0,780 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Trong 3 năm khả năng thanh toán nhanh của Công ty là thấp lần lượt 0,881; 0,947; 0,780. Nguyên nhân là do dự trữ ở mức cao, do đó Công ty không thể thanh toán nhanh được các khoản nợ đến hạn nếu như không sử dụng đến một phần dự trữ. Phản ánh khả năng cân đối vốn Tỷ số nợ trên tổng tài sản (Hệ số nợ): Chỉ tiêu này dùng để xác định nghĩa vụ của Công ty đối với các chủ nợ trong việc vay và góp vốn. Khả năng thanh toán lãi vay: Chỉ tiêu này cho biết mức độ lợi nhuận đảm bảo khả thanh toán lãi vay hằng năm như thế nào. Việc không trả được các khoản lãi vay này sẽ thể hiện khả năng Công ty có nguy cơ phá sản. Bảng 3.3: Tỷ số nợ trên tổng tài sản Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1.Nợ phải trả 2.Tổng tài sản 3.Thu nhập trước thuế và lãi vay 4.Lãi vay 5.Tỷ số nợ trên tổng tài sản (%) 6.Khả năng thanh toán lãi vay (lần) 89.034,2 107.530,7 2.707,0 82,8 1,316 85.851,9 116.989,5 2.929,8 73,4 1,281 68.568.8 101.102,9 2.991,4 67,8 1,589 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Hệ số nợ của Công ty trong năm 2001 là 82,8%; năm 2002 là 73,4%; năm 2003 là 67,8%. Hệ số này đang có xu hướng giảm dần, tuy nhiên vẫn ở mức rất cao. Nguyên nhân chủ yếu là do Công ty là một doanh nghiệp thương mại nên các khoản nợ ngắn hạn thường chiếm tỷ trọng lớn (chủ yếu là vay ngắn hạn Ngân hàng và các khoản nợ nhà cung cấp). Khả năng thanh toán lãi vay của Công ty trong năm 2001, 2002 là không cao và lần lượt là 1,316 lần; 1,281 lần; năm 2003 tỷ số này có tăng so với năm 2002 đạt 1,589 lần. Điều này thể hiện khả năng trả lãi của Công ty là thấp kém. Phản ánh khả năng hoạt động Các tỷ lệ về khả năng hoạt động có ý nghĩa quan trọng trong việc đánh giá hiệu quả sử dụng vốn của Công ty nên cần phải tiến hành phân tích. Bảng 3.4. Các tỷ lệ phản ánh khả năng hoạt động Đơn vị : Triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1.Doanh thu 2.Tiền + Tài sản tương đương tiền 3.Các khoản phải thu 4.Dự trữ 5.Tài sản lưu động 6.Tài sản Vòng quay tiền Vòng quay dự trữ Hiệu suất sử dụng TSLĐ Kỳ thu tiền bình quân Hiệu suất sử dụng tài sản 288.566,2 5.756,6 69.874,7 22.310,3 100.768,9 107.530,7 50,128 12,934 2,864 87,172 2,684 351.099,8 6.935,0 71.466,5 17.205,0 98.479,9 116.989,5 50,627 20,407 3,565 73,278 3,001 362.466,9 13.921,2 36.381,4 29.540,6 83.002,3 101.102,9 26,037 12,270 4,367 36,134 3,585 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Vòng quay tiền: Vòng quay tiền của Công ty trong 3 năm qua có sự biến động, năm 2003 là 26,037 lần giảm mạnh so năm 2002 là 50,627 lần và năm 2001 là 50,128 lần. Nguyên nhân là do tốc độ tăng của doanh thu của năm 2003 là 3,24% không nhanh bằng tốc độ tăng của tiền hơn 100% so với năm 2002. Vòng quay dự trữ: Chỉ tiêu này là cơ sở để đánh giá tình hình tiêu thụ hàng hoá, sản phẩm của Công ty. Nó cho biết số lần dự trữ được bán ra bình quân trong kỳ. Số vòng quay dự trữ càng lớn thì thời gian hàng tồn kho càng ngắn, vốn của doanh nghiệp được luân chuyển càng nhanh. Vòng quay dự trữ của Công ty có sự biến động qua các năm. Năm 2001 vòng quay dự trữ là 12,934 lần có nghĩa là trong một năm hàng tồn kho được luân chuyển 12,934 lần, đến năm 2002 tăng lên 20,407 lần do năm 2002 Công ty giảm dự trữ xuống 22,9% và tăng doanh thu lên 21,7% so với năm 2001. Nguyên nhân là do giá cả thị trường của mặt hàng mà Công ty nhập khẩu năm 2002 có rất nhiều biến động lên xuống thất thường làm cho chiến lược kinh doanh hàng nhập khẩu thay đổi. Năm 2003 vòng quay dự trữ lại giảm xuống còn 12,270 lần là do dự trữ tăng lên 71,7% còn doanh thu chỉ tăng 3,1%. Kỳ thu tiền bình quân: Kỳ thu tiền bình quân được sử dụng để đánh giá khả năng thu hồi tiền trong thanh toán. Kỳ thu tiền bình quân của Công ty có xu hướng giảm mạnh trong 3 năm qua, cụ thể năm 2001 là 87 ngày; năm 2001 là 73 ngày; năm 2003 giảm xuống còn 36 ngày.Nguyên nhân là do trong thời gian qua Công ty đã chú trọng và quản lý có hiệu quả chính sách thương mại, hạn chế các khoản phải thu. Hiệu suất sử dụng TSLĐ: Các tỷ lệ vòng quay tiền, vòng quay dự trữ, kỳ thu tiền bình quân cho biết tốc độ luân chuyển của từng khoản mục riêng rẽ trong TSLĐ, còn chỉ tiêu hiệu suất sử dụng TSLĐ sẽ cho biết tốc độ luân chuyển của TSLĐ của Công ty và cho biết một đồng TSCĐ tạo ra được bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất sử dụng TSLĐ của Công ty 3 năm có chiều hướng biến động tăng dần năm 2001 là 2,864 lần; năm 2002 là 3,565 lần; năm 2003 là 4,367 lần. Hiệu suất sử dụng tài sản: Chỉ tiêu này còn được gọi là vòng quay toàn bộ vốn của doanh nghiệp, nó cho biết một đồng vốn được Công ty tài trợ cho hoạt động sản xuất kinh doanh sẽ tạo ra bao nhiêu đồng doanh thu. Hiệu suất sử dụng tài sản của năm 2001 là 2,684 lần; năm 2002 là 3,001 lần; năm 2003 là 3,585 lần. Như vậy, với việc bổ sung thêm các chỉ tiêu trên thì hệ thống các chỉ tiêu phân tích tài chính của Công ty là tương đối đầy đủ và toàn diện. Một hệ thống chỉ tiêu đầy đủ như vậy sẽ góp phần nâng cao chất lượng và hiệu quả của công tác phân tích tài chính tại Công ty. Bảng 3.5: Các chỉ tiêu phân tích tài chính Công ty MECANIMEX Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm2003 I/Khả năng sinh lời Doanh lợi tiêu thụ sản phẩm 0.214% 0.185% 0.187% Doanh lợi tài sản (ROA) 0.575% 0.556% 0.669% Doanh lợi vốn chủ sở hữu (ROE) 3.343% 2.088% 2.080% ii/khả năng thanh toán Khả năng thanh toán hiện hành 1.132 1.148 1.211 Khả năng thanh toán nhanh 0.881 0.947 0.780 Khả năng thanh toán tức thời 0.065 0.081 0.203 iii/Khả năng cân đối vốn Tỷ suất Nợ / Tổng tài sản 82.8% 73.4% 67.8% Khả năng thanh toán lãi vay 1.316 1.281 1.589 IV/khả năng hoạt động Vòng quay tiền 50.128 50.627 26.037 Vòng quay dự trữ 12.934 20.407 12.270 Kỳ thu tiền bình quân 87.172 73.278 36.134 Hiệu suất sử dụng TSLĐ 2.864 3.565 4.367 Hiệu suất sử dụng Tổng tài sản 2.684 3.001 3.585 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) 3.2.4.2. Phân tích diễn biến nguồn vốn và tình hình sử dụng vốn Phân tích diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn là một nội dung quan trọng trong công tác phân tích tài chính giúp nhà phân tích thấy được: tiền có nguồn gốc từ đâu và được sử dụng như thế nào trong kỳ. Để hoàn thiện công tác phân tích tài chính của Công ty, rất cần phải quan tâm tới nội dung này. Dưới đây là Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn của Công ty qua hai năm 2002 và 2003. Bảng 3.6: Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn năm 2002 Đơn vị: Tr.đồng Chỉ tiêu 01/01/2002 31/12/2002 Sử dụng vốn Nguồn vốn Lượng % Lượng % Tài sản 1.Tiền và CK dễ bán 5,756.6 6,935.0 1,178.4 6.6 2.Các khoản phải thu 69,874.7 71,466.5 1,591.8 9.0 3.Hàng tồn kho 22,310.3 17,205.0 5,105.3 28.7 4.TSLĐ khác 2,826.7 2,873.4 46.7 0.3 5.TSCĐ 6,761.8 18,509.6 11,747.8 66.1 Nguồn vốn 1.Nợ ngắn hạn 89,033.6 85,815.9 3,217.7 18.1 2.Vốn chủ sở hữu 18,496.5 31,173.6 12,677.1 71.3 Tổng cộng 17,782.4 100.0 17,782.4 100.0 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Trong năm 2002 nguồn vốn và sử dụng vốn của Công ty là 17.782,4 tr.đồng, trong đó Công ty sử dụng chủ yếu để đầu tư cho tài sản cố định là 11.747,8 tr.đồng (chiếm 66,1%) và thanh toán Nợ ngắn hạn là 3.217,7 tr.đồng (chiếm 18,1%). Có thể dễ dàng thấy, Công ty khai thác nguồn vốn bằng cách tăng vốn chủ sở hữu là 12.677,1 tr.đồng (chiếm 71,3%) và đã phải giải phóng hàng tồn kho là 5.105,3 tr.đồng (chiếm 28,7% nguồn vốn). Bảng 3.7: Bảng kê nguồn vốn và sử dụng vốn năm 2003 Đơn vị: Tr.đồng Chỉ tiêu 01/01/2003 31/12/2003 Sử dụng vốn Nguồn vốn Lượng % Lượng % Tài sản 1.Tiền và CK dễ bán 6,935.0 13,921.4 6,986.4 19.0 2.Các khoản phải thu 71,466.5 36,381.4 35,085.1 95.2 3.Hàng tồn kho 17,205.0 29,540.6 12,335.6 33.5 4.TSLĐ khác 2,873.4 3,158.9 285.5 0.8 5.TSCĐ 18,509.6 18,100.6 409.0 1.1 Nguồn vốn 1.Nợ ngắn hạn 85,815.9 68,568.8 17,247.1 46.8 2.Vốn chủ sở hữu 31,173.6 32,534.1 1,360.5 3.7 Tổng cộng 36,854.6 100.0 36,854.6 100.0 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Trong năm 2003 nguồn vốn và sử dụng vốn của Công ty là 36.854,6 tr.đồng. Công ty đã tiến hành khai thác nguồn vốn bằng cách chủ yếu là tăng các khoản phải thu khách hàng 35.085,1 tr.đồng chiếm 95,2%. Với tổng nguồn vốn đó, Công ty sử dụng để trả nợ vay ngắn hạn là 17.247,1 tr.đồng (chiếm 46,8%), tài trợ cho phần gia tăng hàng tồn kho là 12.335,6 tr.đồng (chiếm 33,5%), tăng lượng tiền mặt tại quỹ là 6.986,4 tr.đồng (chiếm 19%)... Như vậy, trong năm 2003 diễn biến nguồn vốn và sử dụng vốn của Công ty tiến triển theo chiều hướng tốt. 3.2.4.3. Phân tích tình hình đảm bảo nguồn vốn kinh doanh. Để đánh giá tình hình đảm bảo nguồn vốn cho hoạt động sản xuất kinh doanh của Công ty, ta cần phân tích các chỉ tiêu Nhu cầu VLĐ thường xuyên, VLĐ thường xuyên và Vốn bằng tiền. VLĐ thường xuyên là phần chênh lệch giữa nguồn vốn dài hạn và tài sản cố định. Bảng 3.8: Vốn lưu động thường xuyên Đơn vị: Tr.đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1.Tài sản cố định 6,761.8 18,509.6 18,100.6 2.Vốn chủ sở hữu 18,496.5 31,173.6 32,534.1 3.Nợ dài hạn 0.0 0.0 0.0 VLĐ thường xuyên 11,734.7 12,664.0 14,433.5 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Nhu cầu VLĐ thường xuyên là phần chênh lệch giữa tài sản lưu động (không kể tiền) và nợ ngắn hạn. Bảng 3.10: Nhu cầu vốn lưu động thường xuyên Đơn vị: Tr.đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1.Các khoản phải thu 68,874.7 71,466.5 36,381.4 2.Hàng tồn kho 22,310.3 17,205.0 29,540.6 3.TSLĐ khác 2,827.3 2,873.4 3,158.9 4. Nợ ngắn hạn 89,034.2 85,815.9 68,555.0 Nhu cầu VLĐ thường xuyên 4,978.1 5,729.0 525.9 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Vốn bằng tiền là phần chênh lệch giữa VLĐ thường xuyên và Nhu cầu VLĐ thường xuyên. Bảng 3.11: Vốn bằng tiền Đơn vị: Tr.đồng Chỉ tiêu Năm 2001 Năm 2002 Năm 2003 1. VLĐTX 11,734.7 12,664.0 14,433.5 2.Nhu cầu VLĐTX 4,978.1 5,729.0 525.9 Vốn bằng tiền 6,756.6 6,935.0 13,907.6 (Nguồn: Báo cáo tài chính của Công ty năm 2001, 2002, 2003) Nhìn vào 3 bảng trên ta thấy trong cả 3 năm liên tiếp các chỉ tiêu::VLĐ thường xuyên > 0, Nhu cầu VLĐ thường xuyên > 0 và Vốn bằngtiền > 0. Điều đó cho thấy toàn bộ tài sản của Công ty được tài trợ một cách vững chắc bằng nguồn vốn dài hạn mà cụ thể ở đây là vốn chủ sở hữu. Đồng thời Công ty có đủ khả năng thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. 3.3. Một số kiến nghị với các Bộ ngành và Nhà nước Trong bối cảnh kinh tế ngày càng phát triển, môi trường cạnh tranh ngày càng gay gắt hơn, để tồn tại và phát triển các doanh nghiệp phải không ngừng nâng cao trình độ quản trị doanh nghiệp nói chung và trình độ quản trị tài chính nói riêng. Tầm quan trọng của công tác phân tích tài chính ngày càng được khẳng định nên các doanh nghiệp cần phải nhanh chóng tiến hành các giải pháp nhằm hoàn thiện nội dung phân tích tài chính doanh nghiệp của mình. Các giải pháp được đề xuất ở trên là những việc làm cần thiết nhất đối với Công ty MECANIMEX. Tuy nhiên, để tạo động lực và điều kiện thuận lợi cho Công ty thực hiện các giải pháp trên thì các cơ quan quản lý Nhà nước, các Bộ ngành cần phải có sự quan tâm, giúp đỡ nhất định. Với các Bộ ngành: Để tạo cơ sở cho việc cung cấp các thông tin đầy đủ, chính xác, Bộ Tài chính cần ban hành một chế độ kế toán phù hợp, yêu cầu tất cả các doanh nghiệp phải thực hiện đầy đủ việc lập các Báo cáo tài chính theo một trình tự thống nhất. Ngoài ra, để đảm bảo tính “trong sạch” của các Báo cáo tài chính thì các báo cáo này bắt buộc phải có xác nhận của cơ quan kiểm toán Nhà nước, phải có chế tài xử phạt nghiêm khắc đối với các trường hợp cố tình thay đổi, làm sai các số liệu kế toán. Trong công tác phân tích tài chính của Công ty MECANIMEX, do đến nay vẫn chưa có chỉ tiêu trung bình ngành vì vậy Công ty thiếu các chuẩn mực để so sánh, đánh giá tình hình tài chính của doanh nghiệp mình với chỉ tiêu trung bình ngành. Tình trạng này xảy ra ở rất nhiều doanh nghiệp ở các ngành khác nhau. Do vậy đề nghị Tổng cục thông kê, Bộ Tài chính và Bộ chủ quản sớm có kế hoạch triển khai xây dựng và ban hành hệ thống chỉ tiêu trung bình ngành góp phần đem lại hiệu quả ở cả tầm vĩ mô và tầm vi mô. Hiện nay công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty MECANIMEX nói riêng và các doanh nghiệp trong nước nói chung vẫn còn rất yếu kém cả về nội dung phân tích và trình độ cán bộ phân tích. Do đó, Bộ Tài chính cần phối hợp với các Bộ ngành có liên quan thường xuyên tổ chức các lớp tập huấn, bồi dưỡng kiến thức, nghiệp vụ cho các cán bộ chuyên môn tại doanh nghiệp. Có như vậy thì công tác phân tích tài chính doanh nghiệp mới thực sự đi vào nề nếp. Với Nhà nước: Hiện nay, ở nước ta Thị trường chứng khoán đã ra đời đánh đấu bằng việc đi vào hoạt động của Trung tâm giao dịch chứng khoán TP Hồ Chí Minh ngày 20/07/2000. Đây thực sự là một điều kiện tốt cho các doanh nghiệp trong việc nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh và có thể huy động vốn thông qua nhiều hình thức khác nhau. Tuy nhiên, Nhà nước cần phải nhanh chóng hoàn thiện hệ thống pháp lý, cơ chế, chính sách... để Thị trường chứng khoán nói riêng và Thị trường tiền tệ nói chung ngày càng phát triển. Ban hành và sửa đổi các văn bản pháp luật về doanh nghiệp Nhà nước, đặc biệt hướng dẫn về mặt quản lý tài chính sao cho các doanh nghiệp sớm chủ động hơn trong việc quản lý, sử dụng, thay thế tài sản... để nâng cao hiệu quả sử dụng tài sản và vốn. Tiếp tục đẩy mạnh các hoạt động xúc tiến thương mại, tham gia hội nhập nhanh chóng với khu vực và thế giới, thiết lập các cơ quan chuyên trách cung cấp những thông tin tài chính, thông tin về hoạt động sản xuất kinh doanh, thông tin về thị trường nước ngoài... Điều này sẽ hỗ trợ cho quá trình phân tích tài chính và ra quyết định của các doanh nghiệp, đồng thời mang lại một môi trường kinh doanh quốc tế thuận lợi và mở rộng quan hệ trao đổi buôn bán giữa các doanh nghiệp với nhau với các nước trên thị trường thế giới. Phần kết luận Hoạt động phân tích tài chính doanh nghiệp một nhiệm vụ quan trọng của quản trị tài chính, một công cụ hữu hiệu luôn được các nhà quản trị doanh nghiệp quan tâm nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động sản xuất kinh doanh nói chung và hiệu quả hoạt động tài chính nói riêng ở các doanh nghiệp. Qua kết quả phân tích tài chính, nhà quản lý tài chính sẽ thấy được điểm mạnh và điểm yếu về hoạt động sản xuất kinh doanh cũng như thực trạng tài chính của doanh nghiệp. Trên cơ sở đó, nhà quản trị doanh nghiệp có thể đưa ra các chiến lược tài chính trong tương lai. Chính vì vậy, công tác phân tích tài chính doanh nghiệp là một đòi hỏi bắt buộc đối với tất cả các doanh nghiệp nếu muốn tồn tại và đứng vững trong cơ chế thị trường. Qua thời gian thực tập, nghiên cứu công tác quản lý tài chính nói chung và công tác phân tích tài chính doanh nghiệp nói riêng tại Công ty MECANIMEX, đề tài: "Giải pháp hoàn thiện công tác phân tích tài chính tại Công ty xuất nhập khẩu các sản phẩm cơ khí" đã được hoàn thành. Những nội dung cơ bản được đề cập trong đề tài: Phần một, đưa ra những vấn đề lý luận cơ bản về phân tích tài chính doanh nghiệp trong nền kinh tế thị trường. Phần hai, đánh giá thực trạng công tác phân tích tài chính tại Công ty MECANIMEX, từ đó tìm ra những nguyên nhân và tồn tại cần tháo gỡ để tìm giải pháp hoàn thiện. Phần cuối cùng, đề xuất một số giải pháp và kiến nghị nhằm hoàn thiện công tác phân tích tài chính doanh nghiệp tại Công ty MECANIMEX, nâng cao hiệu quả hoạt động kinh doanh của Công ty. Hy vọng rằng những nội dung trên sẽ là cơ sở giúp Công ty MECANIMEX thực hiện tốt hơn công tác phân tích tài chính doanh nghiệp và công tác quản lý tài chính, nhằm phục vụ hoạt động kinh doanh của Công ty đạt hiệu quả ngày càng cao. Một lần nữa em xin chân thành cảm ơn các thầy giáo, cô giáo Khoa Ngân hàng Tài chính - Đại học Kinh tế Quốc dân và đặc biệt là thầy giáo TS.Đàm Văn Huệ, cũng như các cô chú, các anh chị trong Công ty MECANIMEX đã giúp đỡ em hoàn thành luận văn tốt nghiệp này.

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc28720.doc
Tài liệu liên quan