Luận văn Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn kiếm

Đối với các Ngân hàng thương mại thì tín dụng vẫn là một trong những hoạt động quan trọng chủ yếu, đặc biệt là ở Việt Nam thì thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập của các ngân hàng. Trứơc xu hướng toàn cầu hoá, trước yêu cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt,các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải đa dạng hoá hoạt động của mình. Và vấn đề mở rộng và năng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng là một yêu cầu bức thiết. Trước tình hình đó, luận văn đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu và phân tích hoạt động tín dụng tiêu dùng ở Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm để từ đó đưa ra những đánh giá về thực trạng mở rộng và năng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh và đề xuất những biện pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh. Thông qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã đạt được một số kết quả nhất định. Thứ nhất: là hiểu rõ hơn về những vấn đề cơ bản của tín dụng tiêu dùng, thấu hiểu được sự cần thiết của việc mở rộng tín dụng tiêu dùng tại các NHTM. Thứ hai: thông qua tìm hiểu và phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm để thấy được những kết quả đạt được và những hạn chế cần khắc phục, Trong những năm gần đây, Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã có được sự tăng trưởng về quy mô của tín dụng tiêu dùng, dư nợ tín dụng tiêu dùng tăng lên theo từng năm. Thông qua hoạt động tín dụng tiêu dùng ngân hàng đã tạo được hình ảnh và lòng tin của mình đối với các khách hàng trong và ngoài địa bàn. Tuy nhiên cũng còn có những mặt mà Ngân hàng chưa thực hiện được như quy trình cho vay rườm rà, gây nhiều khó khăn cho cả khách hàng và các cán bộ tín dụng. Chất lượng tín dụng trong tín dụng tiêu dùng còn chưa cao. số nợ quá hạn còn tồn tại lớn là do tín dụng tiêu dùng, tuy tỷ lệ này không cao nhưng đây cũng là một vấn đề mà Ban lãnh đạo ngân hàng cần có biện pháp khắc phục. Những mặt hạn chế nói trên vẫn còn tồn tại là do các nguyên nhân chủ yếu như hệ thống pháp lý về tín dụng tiêu dùng còn chưa hoàn chỉnh, Ngân hàng chưa có sự quan tâm đúng mức đối với tín dụng tiêu dùng, công nghệ ngân hàng còn chưa phát triển rộng rãi, sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng trên địa bàn và những ngân hàng ngoài địa bàn. Thứ ba: từ việc tìm hiểu thực trạng, đánh giá được những kết qủa đạt được và những mặt hạn chế trong hoạt động tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, em đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp đối với chính Ngân hàng cũng như những kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước. Em mong rằng những gì mình đã trình bày ở luận văn sẽ là sự đóng góp nhỏ bé vào sự phát triển của tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng Công Thương chi nhánh Hoàn Kiếm. Do hạn chế về mặt kiến thức lý luận cũng như hạn chế về tài liệu và thời gian nghiên cứu, luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự phê bình, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cô chú tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, các bạn bè cũng như bất kỳ ai quan tâm đến vấn đề này để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa.

doc75 trang | Chia sẻ: oanh_nt | Lượt xem: 1346 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Việt Nam Chi nhánh Hoàn kiếm, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
đồng quản trị Ngân hàng công thương Việt Nam, quy định cho vay đối với khách hàng trong hệ thống Ngân hàng công thương Việt Nam. Ngoài các văn bản pháp lý của NHNN và NHCT, hoạt động cho vay tiêu dùng của sở giao dịch NHCT còn dựa vào một số văn bản của UBND TP.Hà Nội Quyết định số 3519/QĐ/1997-UB của UBND TP Hà Nội ngày 12/09/97 hướng dẫn thực hiện Nghị định số 87/NĐ/94- CP ngày 7/8/94 của Chính phủ về khung giá các loại đất trên địa bàn thành phố Hà Nội . Quyết định số 158/2002/QĐ-UB của UBND TP Hà nội ngày 25/11/02 quy định thủ tục chuyển nhượng, cho thuê, cho thuê lại, thừa kế, thế chấp, góp vốn bằng quyền sử dụng đất, chuyển quyền sở hữu. 2.2.2 Thực trạng hoạt động tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm Quận Hoàn Kiếm là một trung tâm kinh tế của thủ đô, nơi hội tụ nhiều thành phần kinh tế quan trọng,cùng với sự phát triển của nền kinh tế đó hoạt động trong lĩnh vực Ngân hàng càng trở nên cạnh tranh gay gắt, các Ngân hàng thường xuyên mở rộng, thay đổi lãi suất, phương thức thanh toán, phát triển nhiều dịch vụ để đáp ứng các nhu cầu ngày càng cao của khách hàng. Chi nhánh Hoàn Kiếm không ngoại lệ.Nằm trong hệ thống Ngân hàng cũng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ nhiều Ngân hàng khác nhau như: Ngân hàng ANZ, Ngân hàng Ngoại thương, Ngân hàng Đầu tư, Ngân hàng ACB, Ngân hàng VP Bank, Ngân hàng VIP bank, Ngân hàng Sài gòn công thương, Ngân hàng kỹ thương, vì vậy trong những năm qua Ban giám đốc Ngân hàng Công thương Hoàn kiếm đã rất quan tâm đến việc mở rộng mạng lưới đa dạng hoá các sản phẩm dịch vụ nhằm khơi tăng nguồn vốn, tăng thu lơị nhuận cho ngân hàng và đã đưa ra các quyết sách để khai thác tối đa lợi thế riêng tạo sự phát triển bền vững. Ngân hàng đã không ngừng thay đổi, đổi mới, nghiên cứu tiếp thị, mở rộng mạng lưới khách hàng, tích cực tăng trưởng tín dụng, phát triển dư nợ mới, khách hàng mới, phát triển các dịch vụ, chú trọng công tác đào tạo cán bộ để có thể đáp ứng được yêu cầu công việc. Hơn nữa đầu 2006 Ngân hàng đã triển khai việc kéo dài thời gian giao dịch tại các Quỹ tiết kiệm và Điểm giao dịch của chi nhánh đến 17h và thực hiện thí điểm giao dịch vào sáng thứ bẩy hàng tuần để tăng cường huy động vốn và tăng thu dịch vụ. Vì vậy mà nguồn vốn huy động, doanh thu dịch vụ và lượng khách hàng đã tăng lên đáng kể. Đặc biệt trong công tác đầu tư tín dụng, Ban giám đốc cũng tập trung vào phát triển tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh và xác định việc mở rộng tín dụng tiêu dùng phải dựa trên khả năng quản lý của chi nhánh đồng thời tích cực chuyển đổi cơ cấu tín dụng tăng tỉ trọng cho vay tiêu dùng. Thực trạng hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh thời gian qua được thể hiện như sau: 2.2.2.1 Về khách hàng vay Xã hội phát triển, thu nhập của người dân tăng đều qua các năm khiến nhu cầu về xây dựng, mua nhà, du học, du lịch…tăng theo, và dẫn đến hoạt động tín dụng tiêu dùng của chi nhánh cũng có những bước phát triển đáng kể, trong đó số lượng khách hàng đến với tín dụng tiêu dùng cũng tăng qua các năm, tuy nhiên, bên cạnh tăng số lượng thì hình thức vay vẫn giữ nguyên là vay không có đảm bảo bằng tài sản đối với đối tượng vay là cán bộ, công chức và vay có đảm bảo bằng tài sản đối với đối tượng vay là dân cư, hộ gia đình… Bảng: Số lượng khách hàng vay tiêu dùng tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm Đơn vị: Hộ Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 SL KH Chênh lệch(%) SLKH Chênh lệch(%) SLKH Chênh lệch(%) Vay không có đảm bảo bằng TS 112 238 112,5 252 5,8 Vay có đảm bảo bằng TS 326 510 56,4 756 48,2 Tổng 438 748 1008 (Nguồn: Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT Hoàn kiếm) Cùng với sự tăng trưởng của nền kinh tế, các nhu cầu mua sắm trang thiết bị gia đình, đi du học, đi du lịch… của cán bộ công nhân viên ngày càng cao, làm nhu cầu vay tiêu dùng không có đảm bảo bằng tài sản gia tăng. Đây là điều kiện để thuận lợi để Ngân hàng mở rộng cho vay tiêu dùng, và theo bảng trên, ta dễ dàng thấy năm 2005, số hộ vay tiêu dùng tại NHCT Hoàn Kiếm là 112 hộ, đây vẫn là con số nhỏ, nhưng đến năm 2006 số lượng này đã tăng lên 238 hộ(tăng 112,5% so với năm 2005), năm 2006 là năm tăng mạnh đối với cả doanh số, dư nợ và số lượng khách hàng của TDTD. Tuy nhiên, đến năm 2007, con số này chỉ dừng lại ở mức 252 hộ, tăng nhẹ so với năm 2006 là 5,8%. Song song với việc cho vay tiêu dùng không có đảm bảo bằng tài sản đối với cán bộ công nhân viên, NHCT Hoàn Kiếm còn mở rộng cho vay tiêu dùng có đảm bảo bằng tài sản đối với dân cư. Với việc nước ta gia nhập tổ chức WTO, sự tăng trưởng về kinh tế, thì nhu cầu tiêu dùng mua sắm nhà ở, xe cộ, du lịch… ngày càng cao đối với người dân, NHCT Hoàn Kiếm nắm bắt được thời cơ và đưa ra những chính sách phù hợp, đúng thời điểm nên đã thu hút được số lượng lớn khách hàng trong 3 năm vừa qua, cụ thể là năm 2005, số hộ vay tiêu dùng có đảm bảo bằng tài sản là 326 hộ, doanh số và thu nợ đều tăng, năm 2006, con số này đã tăng lên 510 hộ (tăng 56,4% so với năm 2005), đến năm 2007, số lượng này tiếp tục tăng mạnh, lên đến 756 hộ (tăng 48,2% so với năm 2006) và gấp 3 lần đối với cho vay tiêu dùng không có đảm bảo bằng tài sản. 2.2.2.2 Về doanh số cho vay tiêu dùng Bảng tổng kết về doanh số cho vay tiêu dùng tại NHCT Hoàn Kiếm các năm 2005,2006,2007 Đơn vị: Triệu đồng Chỉ tiêu 2005 2006 2007 Doanh số Doanh số Chênh lệch Doanh số Chênh lệch +/- % +/- % 1. Dsố từ hoạt động TD 1.000.000 985.000 -15.000 -1,5% 990.000 5.000 0,5% 2. DS từ TDTD 49.900 33.433 -16.467 -33% 40.196 6.686 20% 3.Tỷ trọng 4,49% 3,39% 4,06% (Nguồn: Bảng cân đối tài khoản chi tiết năm 2005, 2006, 2007 của NHCT Hoàn Kiếm). Ta thấy, tổng doanh số cho vay năm 2005 đạt 1.000.000 triệu đồng,trong đó doanh số từ hoạt động tín dụng tiêu dùng chiếm tỷ trọng 4,99% trên tổng doanh số cho vay năm 2005 đạt 49.900 triệu đồng. Đến năm 2006, doanh số cho vay từ tín dụng tiêu dùng là 33.433 triệu đồng, giảm hơn so với năm 2005 là 16.467 triệu đồng, tức là giảm 33%,chiếm tỉ trọng 3,39 % trong tổng doanh số từ hoạt động tín dụng. Sang năm 2007, tổng mức cho vay là 990.000 triệu đồng trong đó mức cho vay tín dụng tiêu dùng là 40.196 triệu đồng, tăng hơn so với năm 2006 là 6.686 triệu đồng, tức là tăng 20% và chiếm tỉ trọng 4,06%. Như vậy ta thấy doanh số cho vay tiêu dùng cũng có xu hướng giảm, tăng theo xu hướng giảm tăng của doanh cho vay nói chung của chi nhánh. Và việc tăng giảm doanh số cho vay nói chung là hợp lý vì tình hình huy động vốn và nhu cầu vốn trong từng giai đoạn là khác nhau. 2.2.2.3 Về dư nợ tín dụng tiêu dùng a. Dư nợ phân theo mục đích vay Nhìn chung, hoạt động tín dụng tiêu dùng của NHCT Hoàn Kiếm trong những năm vừa qua đã có những chuyển biến tương đối toàn diện, ngân hàng tập trung khai thác các thế mạnh về cung ứng sản phẩm, dịch vụ, đáp ứng nhu cầu của khách hàng, nên đã dần đa dạng hóa danh mục sản phẩm tín dụng tiêu dùng của mình tùy theo mục đích vay vốn của khách hàng, ngoài cho vay mua nhà, mua ô tô là chính, ngân hàng còn mở rộng cho vay khác bao gồm vay mua xe máy, vay du học du lịch… Đơn vị : triệu đ Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Dư nợ Chênh lệch(%) Dư nợ Chênh lệch(%) Dư nợ Chênh lệch(%) Vay mua nhà 6.704 10.200 52,14 15.000 47,05 Vay mua ô tô 3.350 11.800 252.2 11.400 16,32 Vay khác 3.146 5.050 60,52 8.900 26,24 Tổng 13.200 27.050 131,2 35.300 30,49 ( Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT Hoàn Kiếm) Qua biểu đồ trên ta thấy, dư nợ cho vay tiêu dùng phân theo mục đích tăng đều qua các năm, năm sau tăng cao hơn năm trước. Năm 2005, tổng dư nợ TDTD là 13.200 triệu đồng, tăng nhẹ so với năm 2004, sang đến năm 2006, chi nhánh đặt mục tiêu tăng trưởng trong năm cao hơn so với năm 2005, và đã thực hiện được mục tiêu của mình, mức tổng dư nợ của hoạt động này đã lên đến 27.050 triệu đồng, tăng 131,2% so với năm 2005, trong đó, dư nợ cho vay mua ô tô tăng mạnh nhất, gần gấp ba so với năm trước. Có được kết quả này là do nền kinh tế nước ta trong năm 2006 phát triển mạnh và vững chắc, thu nhập của người dân tăng cao làm cho nhu cầu đời sống cũng tăng theo. Và không chỉ dừng ở đó, đến 31/12/2007 tổng dư nợ TDTD là 35.300 triệu đồng, tăng 30,49% so với cùng thời điểm năm 2006. Kết quả này cho thấy ngân hàng đã có chiến lược thu hút khách hàng, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng qua từng năm để phát triển và nâng cao chất lượng phuc vụ đối với từng mục đích vay vốn của khách hàng, b. Dư nợ phân theo thời hạn vay Bên cạnh việc đẩy mạnh nâng cao chất lượng vay tiêu dùng theo mục đích, ngân hàng còn phát triển hệ thống cho vay theo thời hạn đối với TDTD nhằm nâng cao chất lượng phục vụ hoạt động tín dụng, và thời hạn NHCT áp dụng chủ yếu là vay ngắn hạn, vay dài hạn và tỷ trọng được phân bổ theo bảng sau: Đơn vị : Tr đ Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Dư nợ Chênh lệch(%) Dư nợ Chênh lệch(%) Dư nợ Chênh lệch(%) Vay ngắn hạn 8.560 16.220 89,25 22.000 35,63 Vay trung và dài hạn 4.640 10.830 133,4 13.300 22,8 Tổng 13.200 27.050 35.300 ( Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT Hoàn Kiếm) Chi tiết cơ cấu dư nợ theo thời hạn qua các năm như sau: Năm 2005, vay ngắn hạn là 8.560 triệu đồng, vay dài hạn là 4.640 triệu đồng, đều tăng nhẹ so với năm trước. Sang đến năm 2006, dư nợ đối với cho vay ngắn hạn đạt 16.220, tăng 89,25% so với năm 2005 và tiếp tục dư nợ đối với cho vay trung và dài hạn cũng tăng 133,4%, đẩy mức tổng dư nợ lên đến 27.050 triệu đồng. Tính đến 31/12/07, số dư nợ trong cho vay ngắn hạn đạt 22.000 triệu đồng, tăng 35,63% và dư nợ cho vay dài hạn đạt 13.300 triệu đồng tăng 22,8% so với cùng kỳ năm trước. Như vậy, trong mấy năm gần đây, tình hình cho vay ngắn hạn, trung dài hạn đối với TDTD đã tăng mạnh, tuy nhiên, mức tăng dường như không đồng đều, cho vay ngắn hạn tăng nhiều hơn cho vay trung dài hạn, điều này có thể lý giải là do nhu cầu vay của khách hàng muốn vay ngắn hạn hay dài hạn. Và nhìn chung, dù là vay ngắn hạn hay dài hạn thì mức tăng của tổng dư nợ cũng nói lên sự cố gắng lớn của toàn chi nhánh trong việc triển khai các giải pháp trong cho vay TDTD Những số liệu vừa nêu chứng tỏ quá trình không ngừng tăng trưởng của cho vay tiêu dùng, hứa hẹn kết quả tốt đẹp hợn trong những năm tới. Tuy vậy, ta cũng thấy rằng mặc dù có sự tăng trưởng qua các năm nhưng quy mô cho vay tiêu dùng tại NHCT Hoàn Kiếm vẫn còn nhỏ bé, chiếm tỷ trọng khiêm tốn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. Cụ thể: Dư nợ cho vay tiêu dùng trong năm 2005 chỉ chiếm 0,8%, năm 2006 là 2,53%, và năm 2007 là 3,2% trong tổng dư nợ từ hoạt động tín dụng cuả Ngân hàng. Điều này đòi hỏi trong những năm tới NHCT Hoàn Kiếm cần mở rộng cho vay tiêu dùng để hình thức này chiếm tỷ trọng hợp lý hơn trong hoạt động tín dụng của Ngân hàng. 2.2.2.4 Về thị phần tín dụng tiêu dùng của chi nhánh So với các chi nhánh ngân hàng khác trên cùng địa bàn thì thị phần TDTD của chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm chỉ ở mức trung bình. Trên địa bàn Hà Nội, và cụ thể là địa bàn Hoàn Kiếm, bao gồm rất nhiều ngân hàng thương mại, cả ngân hàng quốc doanh như ngân hàng đầu tư, ngân hàng ngoại thương và ngân hàng ngoài quốc doanh như ANZ, ABN, Citybank…trong đó, thị phần dư nợ đối với TDTD của các ngân hàng ngoài quốc doanh luôn ở mức cao so với tỷ trọng hoạt động tín dụng chung. Ta có thể xem xét thị phần dư nợ TDTD thông qua biểu đồ sau: Chỉ tiêu Năm 2005 Năm 2006 Năm 2007 Dư nợ TDTD của NH Công Thương Hoàn Kiếm 13.200 27.050 35.300 Dư nợ TDTD của các NH trên địa bàn Hoàn Kiếm 1.850.000 3.370.000 5.700.000 Thị phần của NHCT HK so với các NH khác cùng địa bàn HK 0,71% 0,8% 0,62% (Nguồn : Báo cáo kết quả hoạt động kinh doanh của NHCT Hoàn Kiếm) Ta có thể dễ dàng nhận thấy thị phần nhỏ bé của NHCT Hoàn Kiếm so với các ngân hàng trên cùng địa bàn, nếu như trong năm 2005, mức tổng dư nợ TDTD của các ngân hàng là 1.850.000 triệu đồng và thị phần của NHCT Hoàn Kiếm chỉ là 0,71% thì sang đến năm 2006, dư nợ của NHCT Hoàn Kiếm tăng hơn gấp 2 thì cũng tỷ lệ gần như vậy đối với múc tổng dư nợ của các ngân hàng, điều này đồng nghĩa vỡi việc thị phần của NHCT Hoàn Kiếm chỉ đạt 0,8% nhỉnh hơn so với năm 2005 một chút.Và kết quả cũng không khả quan cho đến thời điểm cuối năm 2006, tỷ lệ này chỉ ở mức 0,62%, điều này là do các ngân hàng cùng địa bàn đã triển khai phát triển mạnh hơn mạnh lưới TDTD so với các năm trước. Đứng trước tình hình này, NHCT Hoàn Kiếm cần đẩy mạnh chất lượng TDTD nâng cao hơn nữa, thu hút nhiều hơn lượng khách đến với ngân hàng, cung ứng dịch vụ với nhiều tiện ích hơn để giải quyết tối đa nguyện vọng, nhu cầu của khách làm, nhằm tăng tỷ lệ thị phần TDTD so với các ngân hàng trên cùng địa bàn Hoàn Kiếm. 2.3. Đánh giá về thực trạng mở rộng và năng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm 2.3.1. Về mở rộng tín dụng tiêu dùng Để đánh giá về mở rộng tín dụng tiêu dùng tại Chi nhánh thời gian qua, ta đánh giá qua các chỉ tiêu: Số lượng khách hàng, doanh số cho vay, và doanh số thu nợ. 2.3.1.1 Kết quả đạt được - Số lượng khách hàng vay tăng Qua phân tích phần thực trạng hoạt động tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm ở trên ta thấy số lượng khách hàng đến vay tiêu dùng tại Chi nhánh tăng qua các năm. Cụ thể: năm 2005, số hộ vay tiêu dùng tại NHCT Hoàn Kiếm là 112 hộ, đây vẫn là con số nhỏ, nhưng đến năm 2006 số lượng này đã tăng lên 238 hộ(tăng 112,5% so với năm 2005 và năm 2006 là năm tăng mạnh đối với cả doanh số, dư nợ và số lượng khách hàng của TDTD). Tuy nhiên, đến năm 2007, con số này chỉ dừng lại ở mức 252 hộ, tăng nhẹ so với năm 2006 là 5,8%. Biểu đồ: Số lượng khách hàng tại chi nhánh NHCT Hoàn Kiếm - Doanh số cho vay tăng - Dư nợ cho vay Qua phân tích phần thực trạng hoạt động tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm ở trên ta thấy dư nợ cho vay tiêu dùng phân theo mục đích tăng đều qua các năm, năm sau tăng cao hơn năm trước. Cụ thể: Năm 2005, tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng là 13.200 triệu đồng, tăng nhẹ so với năm 2004, sang đến năm 2006, chi nhánh đặt mục tiêu tăng trưởng trong năm cao hơn so với năm 2005, và đã thực hiện được mục tiêu của mình, mức tổng dư nợ của hoạt động này đã lên đến 27.050 triệu đồng, tăng 131,2% so với năm 2005, trong đó, dư nợ cho vay mua ô tô tăng mạnh nhất, gần gấp ba so với năm trước. Có được kết quả này là do nền kinh tế nước ta trong năm 2006 phát triển mạnh và vững chắc, thu nhập của người dân tăng cao làm cho nhu cầu đời sống cũng tăng theo. Và không chỉ dừng ở đó, đến 31/12/2007 tổng dư nợ tín dụng tiêu dùng là 35.300 triệu đồng, tăng 30,49% so với cùng thời điểm năm 2006. Kết quả này cho thấy ngân hàng đã có chiến lược thu hút khách hàng, nắm bắt được nhu cầu, thị hiếu của khách hàng qua từng năm để phát triển và nâng cao chất lượng phuc vụ đối với từng mục đích vay vốn của khách hàng. Biểu đồ 3: Dư nợ phân theo mục đích vay Biểu đồ 4: Dư nợ TDTD phân theo thời hạn vay 2.3.2 Những hạn chế Mặc dù đã đạt được những kết quả khả quan, song vấn đề mở rộng và hiệu quả tín dụng tiêu dùng của Chi nhánh vẫn còn một số hạn chế cần khắc phục. Đó là: - Trình độ cán bộ chưa thực sự đáp ứng được yêu cầu của hiện đại hóa và hội nhập kinh tế quốc tế, nhất là trình độ vi tính và ngoại ngữ. Một số cán bộ còn bị động, lúng túng trong giao tiếp, chưa đáp ứng được đòi hỏi ngày càng cao và chưa biết gợi mở nhu cầu của khách hàng. - Sản phẩm còn nghèo nàn, tính tiện ích chưa cao, một số sản phẩm dịch vụ còn phức tạp về thủ tục, thời gian xử lý kéo dài, chưa thực sự làm hài lòng khách hàng. Đây là khó khăn của cả hệ thống, đòi hỏi phải có giải pháp đồng bộ từ phía NHCTVN. - Các nghiệp vụ kinh doanh phát triển còn thiếu đồng đều, chưa vững chắc và chưa tương xứng với vị trí, tầm vóc của Chi nhánh. Cơ cấu nguồn vốn huy động chưa hợp lý, nguồn tiền gửi của dân còn nhỏ, các dịch vụ cung ứng còn hạn chế so với khả năng của đội ngũ cán bộ và mạng lưới gồm 7 quỹ tiết kiệm, 7 điểm giao dịch nằm tại trung tâm thành phố, nơi tập trung đông nhất dân cư và khách du lịch quốc tế. - Công tác kiểm tra kiểm soát nội bộ chưa phát huy hết vai trò, chức năng nhiệm vụ của mình. Chất lượng kiểm tra nghiệp vụ chưa cao. - Trụ sở giao dịch nhỏ hẹp, không thuận tiện, cơ sở vật chất còn nhiều lạc hậu, thiếu đồng bộ, ảnh hưởng không nhỏ đến hiệu quả hoạt động của Chi nhánh. - Mức cho vay thấp hơn nhu cầu của người tiêu dùng, có những quy chế, điều kiện chặt chẽ nên nhiều nhu cầu lẽ ra là có thể chấp nhận đựoc thì lại không được đáp ứng. 2.3.3. Nguyên nhân của những mặt còn hạn chế 2.3.3.1. Nguyên nhân khách quan Ban giám đốc NHCT Hoàn Kiếm thường xuyên chỉ đạo, động viên khen thưởng kịp thời, kiên quyết với những thiếu sót, khuyết điểm của cán bộ Ngân hàng trong hoạt động tiêu dùng, nên đã đưa ra một số nguyên nhân của những hạn chế bao gồm : - Vấn đề tâm lý của một bộ phận dân cư: Tình trạng quy mô cho vay tiêu dùng thấp có một phần nguyên nhân bắt nguồn từ thói quen và tâm lý của người Việt Nam. Địa bàn hoạt động của NHCT Hoàn Kiếm nằm hoàn toàn trong vùng văn hoá châu thổ Sông Hồng nơi một bộ phận dân cư có thói quen tự làm, không thích bản thân ở trong tình trạng nợ nần, không muốn để người khác biết được tình trạng đi vay, họ rất ngại các khâu thủ tục, giấy tờ và các khâu “trung gian” như thông qua cơ quan chủ quản, đoàn thể, người đại diện, ban quản lý… sợ nảy sinh tiêu cực. Các thói quen tâm lý đó gây trở ngại rất nhiều đến cho vay tiêu dùng của Ngân hàng. - Khách hàng khó chứng minh thu nhập và khả năng trả nợ của bản thân: Đây là vấn đề nan giải mà Ngân hàng gặp phải khi cho vay tiêu dùng. Đối với đối tượng vay là CBCNV hưởng lương thì việc xác định thu nhập từ lương là dễ dàng thông qua quyết định nâng bậc lương hoặc bảng lương. Nhưng thông thường, các Ngân hàng ngoài lương còn xem xét thêm các nguồn thu nhập khác của khách hàng, để biết sau khi khách hàng trả nợ cho Ngân hàng rồi thì phần thu nhập còn lại có đủ để đảm bảo đời sống của cả gia đình hay không; nếu phần còn lại ít thì việc khách hàng không trả nợ đúng hạn có thể xẩy ra. - Thái độ hợp tác của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị có CBCNV vay vốn: Hiện nay, giấy đề nghị vay vốn tiêu dùng của đối tượng vay là CBCNV đều cần phải có xác nhận của thủ trưởng các cơ quan, đơn vị chủ quản. Nếu thủ trưởng cơ quan, đơn vị nhận thức được những lợi ích thiết thực mà Ngân hàng mang đến cho CBCNV của họ thì việc xác nhận này nhanh chóng và cán bộ tín dụng khi đến thẩm tra cũng thuận lợi hơn. Nếu như thủ trưởng các cơ quan, đơn vị đó chỉ nhìn thấy những mặt chưa tiện lợi của hình thức cho vay tiêu dùng như người vay phải đến Ngân hàng giao dịch trong giờ làm việc, hàng tháng phải đến Ngân hàng trả nợ, mất nhiều thời gian hoặc họ sợ khi khách hàng không có khả năng trả nợ, họ sẽ bị liên quan trách nhiệm nên không ký xác nhận cho người vay thì công tác tín dụng cũng khó có thể được thực hiện ở các cơ quan, đơn vị này. 2.3.3.2. Nguyên nhân chủ quan từ phía ngân hàng - Ngân hàng chưa có sự quan tâm đúng mức và một hệ thống cán bộ hướng dẫn thực hiện đầy đủ và phù hợp đối với hình thức cho vay tiêu dùng. Thực tế là các khoản cho vay tiêu dùng có giá trị nhỏ. Một món cho vay tài trợ vốn lưu động tới một khách hàng có thể bằng hàng chục, hàng trăm thậm chí hàng nghìn món vay tiêu dùng cung ứng tới khách hàng cá nhân. Hơn nữa, xem xét dưới góc độ một Ngân hàng, cho vay tiêu dùng phát sinh nhiều cổ phần hơn cho vay tài trợ sản xuất, kinh doanh, đồng thời cho vay tiêu dùng có nhiều rủi ro hơn. Đó chính là vì yếu tố chính khiến cho Ngân hàng nói chung và các cán bộ tín dụng nói riêng chưa quan tâm đúng mức tới hình thức cho vay tiêu dùng. Tuy nhiên trên thực tế, lợi nhuận thu được từ cho vay tiêu dùng thường cao hơn so với các hình thức cho vay khác. - Ngân hàng chưa chú trọng nhiều tới công tác thu hút khách hàng. Hiện nay khách hàng biết đến hình thức cho vay tiêu dùng tại NHCT Hoàn Kiếm còn ít. Khi khách hàng có nhu cầu tiêu dùng, họ sẽ tìm kiếm các giải pháp để tài trợ cho nhu cầu đó. Nếu khách hàng tiếp cận được các thông tin về hình thức cho vay tiêu dùng, bản thân hình thức cho vay này ở Ngân hàng có chính sách sản phẩm, chính sách giá cả ưu việt thì khách hàng sẽ đến với Ngân hàng đông hơn. Như vậy hạn chế trong cho vay tiêu dùng của NHCT Hoàn Kiếm xuất phát từ nhiều nguyên nhân cả chủ quan lẫn khách quan. Cán bộ lãnh đạo cần tìm cách khắc phục cả 2 yếu tố trên để nâng cao chất lượng sản phẩm, dịch vụ, mang lại nhiều lợi nhuận cho ngân hàng cũng như tiện ích cho khách hàng. Tóm lại: Chương 2 dựa trên những số liệu thực tế và cụ thể về hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã đưa ra những phân tích tổng quan về tình hình hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh thể hiện ở khách hàng và đối tượng vay tiêu dùng, doanh số cho vay tiêu dùng và dư nợ tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh. Hơn nữa, dựa trên các chỉ tiêu mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng đã đưa ra ở chương 1, chương 2 đã tiến hành đánh giá thực trạng mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tại chi nhánh thời gian qua. Mặc dù đã thu được những kết quả rất đáng khích lệ nhưng còn tồn tại nhiều hạn chế làm giảm khả năng phát triển hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh. Do vậy, trên cơ sở đó, chương 3 dưới đây sẽ đề ra những giải pháp nhằm khắc phục những hạn chế và củng cố những thành tựu trong việc mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm. Chương iii: Giải pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại ngân hàng công thương chi nhánh hoàn kiếm 3.1 Định hướng mở rộng tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm 3.1.1 Định hướng hoạt động kinh doanh của chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm Với sự chuyển đổi mạnh mẽ của nền kinh tế trong giai đoạn hiện nay, giai đoạn hội nhập toàn cầu của nền kinh tế, giai đoạn mở cửa thị trường tài chính Ngân hàng. Ngân hàng Thương Mại Việt Nam nói chung và Ngân hàng Công Thương Việt nam nói riêng sẽ phải đối mặt với nhiều thách thức, sự cạnh tranh gay gắt hơn. Quán triệt chỉ đạo của NHCT VN theo định hướng: +Tăng trưởng mạnh về nguồn vốn, đầu tư cho vay trên nguyên tắc an toàn, hiệu quả, bền vững +Hoàn thiện và phát triển bộ máy, mạng lưới kinh doanh, phát triển thị trường và phát triển khách hàng +Đảm bảo an ninh tài chính, an toàn tuyệt đối trong hoạt động của NHCT +Thực hiện cải cách hành chính, phong cách giao dịch, xây dựng văn hóa doanh nghiệp, thương hiệu của NHCT, tạo ra môi rường kinh doanh tốt, đem lại lợi ích cho NHCT cũng như lợi ích của khách hàng,… Chi nhánh Hoàn Kiếm đã có xây dựng chương trình hành động, cụ thể: - Chú trọng tiếp thị và mở rộng mạng lưới khách hàng. - Tích cực tăng trưởng tín dụng, phát triển dư nợ mới, khách hàng mới đảm bảo chất lượng an toàn, hiệu quả, bền vững. Nghiên cứu và triển khai thực hiện các giải pháp mạnh để khai thác và mở rộng, đa dạng hoá đội ngũ khách hàng hướng tới đối tượng là các DNNVV, khách hàng tư nhân, tăng trưởng cho vay có bảo đảm bằng tài sản. - Đẩy mạnh khai thác tăng trưởng nguồn vốn. - Gắn kết và nâng cao công tác phát triển dịch vụ Ngân hàng. - Thành lập các tổ nghiên cứu áp dụng từng loại sản phẩm dịch vụ. - Phát huy phong trào tự nâng cao kiến thức, phát huy tinh thần tập thể. - Tăng cường công tác quản trị và điều hành. 3.1.2 Định hướng mở rộng tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm thời gian tới Trong những năm vừa qua, hoạt động tín dụng tiêu dùng đã đem lại cho Ngân hàng một nguồn thu lớn. Để triển khai thực hiện tốt và việc mở rộng hoạt động tín dụng tiêu dùng có hiệu quả trong những năm tới, Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm đã đưa ra những định hướng, phương hướng hoàn thiện, cụ thể: Tăng cường công tác tuyên truyền, quảng cáo hướng dẫn thực hiện nghiệp vụ tín dụng tiêu dùng đến tận các cơ quan, đơn vị kinh tế trong địa bàn, gửi tờ rơi, thông báo cho người dân, tuyên truyền trên đài phát thanh của thị xã để cho người dân có nhu cầu hiểu rõ, tìm đến với Ngân hàng và thực hiện các thủ tục vay, nợ đúng hạn. Trong thời gian tới, Ngân hàng sẽ nỗ lực thực hiện công tác cho vay theo hình thức tổ nhóm, đến từng cơ quan, đơn vị để vận động và phổ biến cho khách hàng hiểu rõ hơn về phương thức cho vay phục vụ đời sống và tổ chức cho vay theo từng cơ quan, đơn vị với hình thức giải ngân trực tiếp đến từng hộ vay, thu nợ tập trung tại cơ quan đơn vị. Thực hiện mở rộng cho vay tiêu dùng không chỉ tập trung trong địa bàn, mà còn cho vay đối với các dự án ở địa bàn khác. 3.2 Một số giảI pháp mở rộng và nâng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm 3.2.1 Cần xây dựng một chiến lược mở rộng tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh Chiến lược chính là mục tiêu dài hạn, mà ở đó mỗi ngân hàng lựa chọn con đường của mình phù hợp với nguồn lực sẵn có để đạt được một mục tiêu nào đó. Trong môi trường cạnh tranh ngày một gay gắt như hiện nay thì để chiến thắng và tồn tại thì việc vạch ra một mục tiêu dài hạn là vô cùng cần thiết nó sẽ đưa ra chiến lược kinh doanh hiệu quả hơn. Do đó để mở rộng cho vay tiêu dùng trong những năm tới chi nhánh cần phải có chính sách cụ thể về cho vay tiêu dùng sao cho chính sách này vừa hợp với nhu cầu thực tế vừa phù hợp với điều kiện của riêng ngân hàng. Các chính sách cụ thể này phải chú ý đến một số đặc điểm sau. Cần mở rộng nhiều hơn nữa các loại hình sản phẩm dịch vu cho vay tiêu dùng, trong đó các loại sản phẩm cần trở nên phong phú không nên chỉ dừng lại ở các sản phẩm như: cho vay mua nhà, mua xe hay là vật dụng trong gia đình mà nên mở rộng ra các sản phẩm khác nữa như cho vay du học hay để xuất khẩu lao động… Bên cạnh đó ngân hàng cũng nên mở rộng đối tượng cho vay cho những người có thu nhập ổn định như cán bộ công nhân viên. Đây là thị trường rất lớn và đầy tiềm năng, họ cũng có nhu cầu rât lớn về thoả mãn nhu cầu tiêu dùng nên cần phải khuyến khích ngân hàng mở rộng đối với thị trường này. Ngân hàng có thể gửi giấy thông báo đến các cơ quan tổ chức này nhằm vừa quảng cáo cho hoạt động cho vay tiêu dùng của ngân hàng và vừa có tác dụng giới thiệu các loại sản phẩm và dịch vụ khác đến mọi người. Đi cùng với thông báo thì ngân hàng nên có những qui định chi tiết và cụ thể để mọi người có thể nhận biết và thực hiện như: đối tượng vay vốn, điều kiện vay vốn, thủ tục sồ sơ vay vốn, lãi suất… Do ngân hàng cũng có nhiều mối quan hệ với các công ty lớn nên mối quan hệ tín dụng giữa công ty và chi nhánh cũng tương đối nhiều do đó có thể giảm thiểu được rủi ro khi ngân hàng thiết lập quan hệ cho vay tiêu dung với khách hàng là nhân viên của các cơ quan này.Ngoài ra đây cũng là cơ sở để ngân hàng có thể huy động thêm tiền gửi của dân cư. Cũng do những đối tượng này không có tài sản đảm bảo nên số tiền mà ngân hàng cho các đối tượng này vay cũng không lớn vì nếu không trả được thì ngân hàng không có bất cứ tài sản nào để xử lý. Để giải quyết khó khăn này thì ngân hàng nên xem xét phát triển cho vay thông qua người đại diện. Giải pháp này được đưa ra trên cơ sở xác định rõ trách nhiệm và quyền lợi mỗi bên ( ngân hàng, người đại diện, người vay) cũng như có dự phối hợp chặt chẽ giữa các bên trong quá trình thẩm định, giải ngân và thu nợ. Để làm được việc đó thì ngân hàng nên có các chính sách ưu đãi đối với người đại diện, từ đó tiết kiệm được thời gian chi phí cho vay và thu hồi nợ, hạn chế rủi ro. Đây là phương thức cho vay có hiệu quả do đó chi nhánh cần phải mở rộng chính sách cho vay tiêu dùng. Và việc ngân hàng đưa ra một lãi suất hợp lý và phù hợp cũng là vấn đề có ý nghĩa cho việc mở rộng hoạt động cho vay tiêu dùng. Nó sẽ vừa thoản mãn nhu cầu của một số lượng lớn các cán bộ công nhân viên và vừa mang lại lợi nhuận cho ngân hàng. 3.2.2 Đẩy mạnh hoạt động Maketing ngân hàng Việc làm cho người dân hiểu biết về Ngân hàng và những lợi ích mà Ngân hàng mang lại cho họ là điều rất cần thiết để mở rộng cho vay. Nếu như công tác tuyên truyền được thực hiện tốt thì sẽ có tác dụng trong việc thay đổi thói quen tích luỹ để tiêu dùng và tâm lý sợ đi vay của người dân,qua đó sẽ tăng số lượng khách hàng góp phần thúc đẩy cho vay tiêu dùng phát triển. Muốn vậy, Ngân hàng cần mở rộng hoạt động Marketing ngân hàng và cần thực hiện những vấn đề sau: - Xây dựng những chiến lược marketing phù hợp, xây dựng các chương trình khuyến mại, quà tặng hấp dẫn: tuyên truyền, quảng cáo, giới thiệu các sản phẩm dịch vụ ngân hàng đến đông đảo khách hàng để tạo điều kiện cho khách hàng làm quen với các dịch vụ ngân hàng và nhận thức được tiện ích của những sản phẩm dịch vụ này. Phát động những chiến dịch bán hàng như phát hành thẻ ATM nhân dịp khai giảng, hội chợ,… - Đẩy mạnh tuyên truyền, quảng cáo rộng rãi về các dịch vụ ngân hàng, các hình thức và chính sách huy động vốn, cho vay tiêu dùng, dân doanh. Quan sát tại một số Điểm giao dịch, nhiều khách hàng đang sử dụng các sản phẩm thu hút tiền gửi, sản phẩm huy động vốn, sản phẩm cho vay của các NHTM nhưng cũng chưa biết hết các tiện ích của sản phẩm đó. Vì vậy, trước mắt, nên đa dạng các loại tờ rơi, sách giới thiệu để sẵn phía ngoài quầy giao dịch để khách hàng có thể đọc khi đến giao dịch. Tìm kiếm phương tiện truyền thông marketing phù hợp để Ngân hàng truyền tải những thông điệp tiếp thị như: tổ chức hội thảo, bảng hiệu, quảng cáo trên truyền thanh, xây dựng mạng lưới, liên kết các sự kiện đặc biệt, thư chào hàng, tờ rơi, quà tặng, truyền khẩu, chương trình giới thiệu, xúc tiến tại các hội nghị, danh thiếp kinh doanh... Điều quan trọng nhất chính là việc sử dụng phương tiện, cách thức truyền thông thích hợp sao cho thông điệp Marketing của Ngân hàng đi vào lòng người nghe. - Tổ chức bộ phận chăm sóc khách hàng, tạo cho các khách hàng cảm giác được tiếp đón tận tình mỗi khi đến ngân hàng. Bộ phận này có chức năng hướng dẫn khách hàng lần đầu giao dịch khai báo thông tin, trả lời thắc mắc của khách hàng, tư vấn, giới thiệu về các sản phẩm của ngân hàng cho khách hàng. Xây dựng văn hoá giao dịch của chính NHCT Hoàn Kiếm thể hiện qua phong cách, thái độ văn minh, lịch sự của đội ngũ nhân viên bán lẻ, cách trang phục riêng, đặc trưng. - Hoạt động quản trị và điều hành kinh doanh thực sự theo mô hình quản lý hướng vào khách hàng. Việc quản lý được thực hiện đồng bộ theo từng nghiệp vụ kinh doanh và nhóm khách hàng trên cơ sở nắm bắt nhu cầu khách hàng để phát triển sản phẩm, dịch vụ cũng như phát triển ra thị trường mới. Sự phối hợp giữa các bộ phận quản lý, các phòng nghiệp vụ phải đồng bộ, nhịp nhàng để không gây phiền hà, mất thời gian cho khách hàng. 3.2.2 áp dụng biểu phí dịch vụ, lãI suất cạnh tranh Các phòng khách hàng phải thường xuyên khảo sát các biểu phí dịch vụ của các NHTM trên địa bàn để từ đó tham mưu kịp thời với Ban lãnh đạo ban hành biểu phí dịch vụ của NHCT Hoàn Kiếm mang tính cạnh tranh và phù hợp theo từng nhóm khách hàng. Với đặc thù địa bàn là trung tâm kinh tế sầm uất, tập trung nhiều chợ đầu mối và trung tâm thương mại, hoạt động chuyển tiền đa dạng, bà con kinh doanh rất nhạy cảm với mọi biến động về tăng hay giảm phí. Mặt khác, Ngân hàng phải không ngừng nâng cao chất lượng dịch vụ để không chỉ cạnh tranh với các NHTM trên địa bàn và ngay cả với các tư nhân tại các phố Hàng Bạc, Hà Trung.... đang áp dụng mức phí hợp lý, thời gian chuyển tiền nhanh chóng, thủ tục đơn giản. Đối với việc mở rộng cho vay tiêu dùng đối với khách hàng hiện nay trong khi các NHTM khác đang áp dụng những điều kiện thông thoáng hơn (điều kiện tín dụng, hình thức bảo đảm tiền vay, tỷ lệ ký quỹ, hồ sơ thủ tục đơn giản...), nhưng lãi suất và phí tương đối cao. Do vậy, ưu thế để tiếp thị khách hàng hiện nay của NHCT Hoàn Kiếm tập trung 3 yếu tố đó là: lãi suất hợp lý, sự minh bạch và sự tận tình của đội ngũ CBTD. Đồng thời việc tăng trưởng tín dụng đối các khách hàng này đòi hỏi sự quyết tâm, dám làm của đội ngũ cán bộ tín dụng do sự thận trọng và cần thời gian để thiết lập mối quan hệ, đánh giá uy tín, khả năng sản xuất kinh doanh của khách hàng. Vì lẽ đó, phải có động lực triệt để và toàn diện hơn đối với đội ngũ CBTD để làm đòn bẩy tăng trưởng tín dụng hiện nay. Đồng thời gắn kết các sản phẩm dịch vụ với tín dụng nhiều hơn, làm cơ sở ưu đãi lãi suất và áp dụng mức phí hợp lý với các khách hàng. 3.2.3 Đào tạo và phát triển nguồn nhân lực Đổi mới công nghệ Ngân hàng đòi hỏi phải đào tạo lại nhân viên để có khả năng làm chủ công nghệ, mặt khác yêu cầu nâng cao trình độ hoạt động Ngân hàng theo chuẩn mực quốc tế cũng đòi hỏi một đội ngũ nhân viên có năng lực ở tầm cao hơn nữa. Hơn nữa, trong lĩnh vực Ngân hàng, một đặc điểm đáng chú ý đó là việc tạo ra sản phẩm và tiêu thụ sản phẩm diễn ra trực tiếp, trong đó nổi lên là vai trò của nhân viên Ngân hàng với tư cách là người hướng dẫn, giải thích cho khách hàng hiểu và sử dụng sản phẩm, dịch vụ của Ngân hàng. Vì vậy, sản phẩm, dịch vụ có được khách hàng sử dụng hay không là do năng lực của nhân viên có tốt hay không, có đủ trình độ để thu hút khách hàng hay không. Do vậy, công tác đào tạo và phát triển nguồn nhân lực là một trong những mục tiêu chủ chốt mà Ngân hàng cần quan tâm tới. Có thể khái quát những yếu tố, điều kiện cần thiết của người cán bộ tín dụng là: - Có năng lực để giải quyết các vấn đề chuyên môn, nghiệp vụ. Muốn vậy họ phả có kiến thức, được đào tạo, có kỹ năng và chuyên môn để xử lý các thông tin liên quan đến công việc của mình. - Có năng lực dự đoán đầy đủ các vấn đề kinh tế về sự phát triển cũng như triển vọng của các hoạt động tín dụng. - Có uy tín trong quan hệ xã hội, có khả năng giao tiếp tốt, hoà đồng với mọi người. - Có khả năng tự nghiên cứu, tìm tòi, có chính kiến. Điều này thể hiện ý chí vươn lên, muốn thể hiện khả năng, năng lực của mình. Với đội ngũ cán bộ tín dụng cho vay tiêu dùng đối với khách hàng cá nhân ở chi nhánh hiện nay phần nhiều là cán bộ trẻ hoặc chuyển tới từ nhiều bộ phận khác nhau nên còn nhiều hạn chế trong chuyên môn cũng như kinh nghiệm, chưa am hiểu hết các lĩnh vực mà khách hàng vay vốn yêu cầu. Đây cũng là một khó khăn không nhỏ ảnh hưởng đến việc mở rộng cho vay tiêu dùng và phát triển các dịch vụ tại Chi nhánh. Vì vậy, Chi nhánh cần thường xuyên tổ chức tập huấn và thông qua các trung tâm để mở các lớp đào tạo về tin học, ngoại ngữ, kỹ năng bán hàng, kiến thức luật và chuyên ngành liên quan đến thẩm định các dự án,… nâng cao trình độ cán bộ cũng như khuyến khích các cán bộ tín dụng đi nghiên cứu, học tập các Ngân hàng bạn. 3.2.4 Đổi mới phong cách giao dịch, nâng cao tinh thần thái độ làm việc, phục vụ khách hàng văn minh lịch sự, xây dựng văn hoá giao dịch Ngân hàng Công thương. Con người luôn là nhân tố có tính chất quyết định trong mọi hoạt động kinh tế, xã hội, chính trị, văn hoá,... trong mọi hoạt động kinh doanh sản xuất nói chung và trong lĩnh vực Ngân hàng nói riêng, yếu tố con người vẫn là yếu tố quyết định đến hiệu quả công việc, tất cả các mục tiêu của Ngân hàng sẽ không thể đạt được nếu bản thân mỗi cán bộ không có lòng yêu nghề, tính trung thực thẳng thắn trong công việc. Trong tình hình hiện nay hoạt động của NHCTVN nói chung và Chi nhánh Hoàn Kiếm nói riêng chịu sự cạnh tranh gay gắt từ các Ngân hàng thương mại khác, Ngân hàng cổ phần, Ngân hàng liên doanh, Ngân hàng nước ngoài,…do vậy, cần tạo ra sự khác biệt, tạo phong cách riêng trong giao tiếp với khách hàng. Giao tiếp với khách hàng có ý nghĩa rất quan trọng trong việc thu hút khách hàng đến với Ngân hàng đồng thời góp phần tạo nên hình ảnh của Ngân hàng, là phương thức quảng cáo tốt nhất cho Ngân hàng, tạo nên hình ảnh tốt đẹp cho Ngân hàng với chi phí thấp nhất. Những bộ đồng phục cho nhân viên nhằm tạo nên ấn tượng tốt về tác phong, thái độ nghiêm túc và chuyên nghiệp cho khách hàng. Khách hàng nhiều khi dễ bị ảnh hưởng với những yếu tố ban đầu do vậy việc thiết kế các bộ đồng phục cùng với thái độ giao tiếp sẽ tạo nên thiện cảm ban đầu đối với khách hàng. Điều quan trọng nhất trong chính sách giao tiếp với khách hàng, đó là thái độ phục vụ, tác phong của nhân viên Ngân hàng nói chung và nhân viên tín dụng nói riêng, dưới con mắt của khách hàng, nhân viên chính là hình ảnh của Ngân hàng. Do vậy, với thái độ phục vụ tận tình, chu đáo, cùng với tác phong chuyên nghiệp nhanh chóng, chính xác, nhân viên Ngân hàng sẽ tạo nên ấn tượng tốt đẹp đối với khách hàng, góp phần xây dựng hình ảnh của Ngân hàng. Thực chất văn hoá giao dịch là sự vận dụng các yếu tố văn hoá vào giao tiếp với khách hàng. Để đạt được những chuẩn mực về văn hoá giao dịch là một quá trình mà toàn thể cán bộ công nhân việc phải nỗ lực hết mình, Các cán bộ công nhân viên phải luôn luôn xác định cho mình và tuân thủ nguyên tắc “ thành công của khách hàng là thành công của Ngân hàng” để từ đó xác định mỗi nhân viên phải có “Nụ cười thương mại”, luôn luôn niềm nở nhiệt tình hướng dẫn tư vấn về thủ tục, hồ sơ vay, gửi, thanh toán,…Mối quan hệ hữu cơ giữa khách hàng và Ngân hàng sẽ chi phối và quyết định đến sự tồn tại và phát triển Ngân hàng. 3.3. Một số kiến nghị. 3.3.1. Kiến nghị đối với sự quản lý vĩ mô của Nhà nước Do xu thế phát triển tất yếu của tín dụng tiêu dùng, cùng với những lợi ích mà Nhà nước đạt được từ sự phát triển đó, Nhà nước cũng cần có những nỗ lực nhằm hỗ trợ cho mục tiêu phát triển hoạt động cho vay tiêu dùng, khuyến khích và tạo ra những điều kiện thuận lợi để sự phát triển của loại hình cho vay này diễn ra một cách lành mạnh tốt đẹp. - Thứ nhất: Nhà nước cần phải ổn định môi trường vĩ mô của nền kinh tế Nhà nước cần xác định rõ chiến lược phát triển kinh tế, hướng đầu tư, có chính sách phát triển kinh tế nhiều thành phần một cách ổn định, lâu dài, đúng định hướng. Cụ thể, mục tiêu ổn định thị trường, ổn định giá cả, duy trì tỷ lệ lạm phát ở mức hợp lý được coi là nhiệm vụ hàng đầu thường xuyên. Chính việc Nhà nước tạo ra một môi trường kinh tế- chính trị- xã hội ổn định và lành mạnh sẽ tạo điều kiện cho quá trình phát triển kinh tế, nâng cao thu nhập và mức sống của dân cư, khiến cho khả năng tích luỹ và tiêu dùng của công chúng ngày càng tăng lên, thúc đẩy mạnh mẽ nhu cầu về hàng hoá- dịch vụ tiêu dùng. Hơn nữa, việc có được môi trường ổn định cũng giúp cho các doanh nghiệp an tâm tiến hành sản xuất kinh doanh, đáp ứng các nhu cầu đa dạng, phong phú về hàng hoá- dịch vụ tiêu dùng của dân cư. - Thứ hai: Nhà nước cần tiếp tục củng cố cơ cấu ngành trong nền kinh tế theo hướng ưu tiên cho các ngành công nghiệp sản xuất hàng hoá tiêu dùng và các ngành dịch vụ phục vụ đời sống nhân dân, từ đó sẽ góp phần đáng kể vào việc gia tăng mức cung về hàng hoá- dịch vụ, nhằm thoả mãn các nhu cầu của công chúng. Đồng thời, việc củng cố cơ cấu ngành một cách hợp lí, toàn diện sẽ giảm, bớt tình trạng thất nghiệp, tạo thêm nhiều công ăn vịêc làm cho người lao động, đồng thời nâng cao chất lượng đời sống của dân cư. - Thứ ba : Nhà nước cần sớm ban hành luật tín dụng tiêu dùng, tạo điều kiện cho hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng. Ngay từ bây giờ, Nhà nước cần sớm chỉ thị cho cơ quan lập pháp và các ban ngành có liên quan nghiên cứu về Luật tín dụng tiêu dùng. Học hỏi, nghiên cứu Luật tín dụng tiêu dùng của các nước khác, vận dụng sáng tạo vào điều kiện thực tế của Việt Nam là một việc hết sức cần thiết trong thời gian tới. Dù cho hoạt động cho vay tiêu dùng tại Việt Nam còn hạn chế và cần có nỗ lực từ nhiều phía trong một thời gian không ngắn, mọi sự chuẩn bị, chu tất đều không thừa.Vì vậy những nội dung pháp lý này cần phải đề cập về tín dụng tiêu dùng, đặc biệt là cơ chế cấp tín dụng và cách tính điểm khi đánh giá khách hàng, từ đó các cán bộ tín dụng có thể ra quyết định chính xác là cho khách hàng đó vay hay không và tránh được rủi ro cho ngân hàng. Đây cũng là những điều mà cán bộ tín dụng luôn quan tâm và lưu ý tới. - Thứ tư: Nhà nước cần tăng cường đầu tư cho hệ thống Giáo Dục Đầu tư cho hệ thống giáo dục là đầu tư phát triển nhân tố con người. Vấn đề này phải nằm trong chiến lược phát triển chung của một quốc gia. Do vậy, muốn có một đội ngũ lao động có trình độ, đáp ứng được yêu cầu của quá trình phát triển, đặc biệt trong một ngành áp dụng nhiều công nghệ tiên tiến vào bậc nhất trên thế giới như Ngân hàng thì cần có một đường lối chiến lược chỉ đạo của Nhà nước. Do vậy, Nhà nước cần có khuyến khích, hỗ trợ các trường đại học trong khối ngành kinh tế chung để tập trung vào giáo dục cho cho hệ thống các NHTM những vấn đề cần thiết và cơ bản liên quan đến ngân hàng, nắm rõ những quy luật ngân hàng, biết ứng biến những luật đó một cách nhanh nhất, linh hoạt nhất trong mọi tình huống có thể xảy ra đồng thời các NHTM thường xuyên cử các đội ngũ cán bộ nhân viên ngân hàng của mình đi học những lớp nghiệp vụ mới để họ có thể nắm bắt thông tin và ứng dụng những gì mới nhất, hiện đại nhất mà mình học được vào công việc của mình nhằm đạt được kết quả cao nhất, hoàn thành công việc xuất sắc nhất. - Thứ năm : Nhà nước nên tiếp tục xúc tiến các chương trình phát triển kinh tế vùng sâu vùng xa, các chương trình hỗ trợ nông dân và các hộ gia đình nghèo để cải thiện mức thu nhập cho nhóm người có thu nhập thấp ở Việt Nam, thu hẹp dần hố sâu ngăn cách giàu nghèo, tránh tình trạng có sự phân hóa sâu sắc giữa các tầng lớp trong xã hội, để từ đó người dân có cuộc sống tốt hơn, được tiếp xúc với với một nền kinh tế ngày càng phát triển , hiện đại nâng cao mức sống cho người dân, cải thiện đời sống vật chất tinh thần giúp người dân có nhận thức mới về một xã hội văn minh, hiện đại từ đó họ có ý thức phấn đấu vươn lên làm giàu, biết áp dụng các thành tựu khoa học kĩ thuật vào công việc của mình giúp công việc của họ có kết quả cao, tăng năng suất lao động, kích thích tiêu dùng, kích thích cho phát triển kinh tế, tạo thu nhập ổn định cho họ, tăng GDP cho nền kinh tế đất nước. Đây cũng là việc mà Đảng và nhà nước ta luôn quan tâm đến - Thứ sáu : Nhà nước nên hỗ trợ các ngân hàng thương mại trong việc phổ cập kiến thức, thông tin về hoạt động cho vay tiêu dùng của Ngân hàng. Cụ thể, Nhà nước có thể chỉ thị cho các cơ quan truyền hình, truyền thanh, báo chí của Nhà nước tổ chức giới thiệu, tuyên truyền quảng bá về tín dụng tiêu dùng, tạo ra các chính sách hỗ trợ, ưu tiên nhằm khuyến khích cho sự phát triển của hoạt động cho vay tiêu dùng. -Thứ bảy: Ngoài ra, các cơ quan chức năng cũng cần chấn chỉnh hoạt động của mình trong phạm vi có liên quan, như là việc cấp giấy chứng nhận quyền sở hữu tài sản, hạn chế các sai sót, tiêu cực trong công tác này nhằm bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng trong vấn đề liên quan đến cầm cố, thế chấp. 3.3.2. Kiến nghị với Ngân hàng Nhà nước. - Thứ nhất: Ngân hàng Nhà nước cần hoàn thiện các văn bản pháp quy về hoạt động cho vay tiêu dùng nhà nước cần có một hệ thống pháp lý đầy đủ và thông thoáng về hoạt động tín dụng tiêu dùng mà thực tế ở Việt Nam hiện nay chưa có luật tín dụng tiêu dùng chỉ ban hành một số văn bản hướng dẫn về một số khía cạnh, lĩnh vực cụ thể của hoạt động tín dụng tiêu dùng. Các NHTM quốc doanh tuy có thực hiện hình thức tín dụng tiêu dùng nhưng đây không phải loại hình được chú trọmg do đó quy mô và doanh số tín dụng tiêu dùng rất nhỏ chỉ mạnh trong việc cung ứng các loại cho vay để xây dựng, xửa chữa nhà ở , mua sắm các vật dụng chủ yếu... Bên cạnh việc các NHTM đang dần từng bước tiến hành hoạt động tín dụng tiêu dùng thì các định chế khác có vẻ không quan tâm lắm đến lĩnh vực này. Vì vậy ngân hàng nhà nước cần hoàn chỉnh ngay các văn bản pháp quy về hoạt động cho vay tiêu dùng vì Hoàn chỉnh hệ thống các văn bản pháp quy sẽ tạo ra nền tảng cơ sở cần thiết cho hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển. Trong thời gian tới, Ngân hàng Nhà nước cần ban hành hệ thống các văn bản hướng dẫn cụ thể về các loại hình sản phẩm- dịch vụ của cho vay tiêu dùng, đồng thời cũng ban hành các văn bản hỗ trợ, khuyến khích đối với cho vay tiêu dùng, tạo ra hành lang pháp lý thông thoáng và đầy đủ, tạo điều kiện cho NHTM phát triển hoạt động này. - Thứ hai : Hoạch định chiến lược phát triển chung về cho vay tiêu dùng giữa các NHTM. Ngân hàng Nhà nước đóng vai trò to lớn trong việc định hướng chiến lược chung cho các NHTM thực hiện nghiệp vụ cho vay tiêu dùng nhằm tạo ra sự thống nhất về quản lý và bình đẳng trong cạnh tranh giữa các NHTM trong cả nứơc. Hơn nữa, nhằm mục đích chung là hoạt động cho vay tiêu dùng phát triển, Ngân hàng Nhà nước cần phối hợp hoạt động đồng bộ giữa các NHTM, tạo điều kiện cùng nhau phát triển. Việc này cũng đòi hỏi phải tăng cường sự hợp tác và trao đổi giữa các NHTM. - Thứ ba: Cần thành lập và phát triển hệ thống thông tin liên ngân hàng. Ngân hàng Nhà nước cần phải thúc đẩy tăng cường mối quan hệ với các NHTM và giữa các Ngân hàng với nhau, thiết lập mối liên hệ mật thiết để từ đó nắm bắt thông tin về hoạt động của Ngân hàng cũng như các thông tin về khách hàng vay và khách hàng tiềm năng. Thứ tư : Ngân hàng Nhà nước cũng nên tằng cường các biện pháp hỗ trợ, tạo điều kiện cho các Ngân hàng thương mại phát triển hoạt động của mình. Cụ thể như Ngân hàng Nhà nước cần tạo khả năng thêm nữa cho các NHTM tự chủ, tự chịu trách nhiệm trong kinh doanh .Bên cạnh đó, Ngân hàng nhà nước cũng nên hỗ trợ hơn cho các NHTM trong việc thường xuyên tổ chức những khoá học, hội thảo, trao đổi kinh nghiệm về hoạt động cho vay tiêu dùng nói riêng và hoạt động ngân hàng nói chung cho các NHTM cùng tham gia; tạo điều kiện cử cán bộ ngân hàng đi nghiên cứu về hoạt động cho vay tiêu dùng tại các nước phát triển để học hỏi kinh nghiệm; liên kết phối hợp hành động giữa các ngân hàng, các ban ngành, đoàn thể... 3.3.3 Kiến nghị với Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm - Nâng cao mức cho vay tối đa và kéo dài thời hạn cho vay với cán bộ công nhân viên. Trong thực tế, mức cho vay tối đa hiện nay còn nhỏ và chưa phù hợp vì: Nó sẽ giảm khả năng cạnh tranh của ngân hàng mình với ngân hàng đối thủ khi họ có mức cho vay tối đa lớn hơn của minh. Với khoản cho vay ít thì khó có thể phục vụ thoả mãn được các nhu cầu tiêu dùng lớn như mua sắm nhà, đất, ôtô… - Giảm bớt những thủ tục giấy tờ không cần thiết trong hồ sơ vay. Qua quá trình triển khai thực hiện công tác cho vay tiêu dùng, hồ sơ vay vốn còn có quá nhiều giấy tờ mang nặng tính hình thức, không cần thiết. -Cho phép triển khai thực hiện cho vay trả góp đối với cán bộ công nhân viên và hộ có thu nhập thấp để mua nhà ở, đất đai với thời hạn dài và sẽ dùng luôn tài sản đó làm tài sản đảm bảo. Kết Luận Đối với các Ngân hàng thương mại thì tín dụng vẫn là một trong những hoạt động quan trọng chủ yếu, đặc biệt là ở Việt Nam thì thu nhập từ tín dụng vẫn chiếm tỉ trọng lớn trong tổng thu nhập của các ngân hàng. Trứơc xu hướng toàn cầu hoá, trước yêu cầu cạnh tranh ngày càng gay gắt,các Ngân hàng thương mại Việt Nam phải đa dạng hoá hoạt động của mình. Và vấn đề mở rộng và năng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng là một yêu cầu bức thiết. Trước tình hình đó, luận văn đã đi sâu nghiên cứu tìm hiểu và phân tích hoạt động tín dụng tiêu dùng ở Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm để từ đó đưa ra những đánh giá về thực trạng mở rộng và năng cao hiệu quả tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh và đề xuất những biện pháp hữu hiệu nhằm thúc đẩy sự phát triển của hoạt động tín dụng tiêu dùng tại chi nhánh. Thông qua quá trình nghiên cứu, luận văn đã đạt được một số kết quả nhất định. Thứ nhất: là hiểu rõ hơn về những vấn đề cơ bản của tín dụng tiêu dùng, thấu hiểu được sự cần thiết của việc mở rộng tín dụng tiêu dùng tại các NHTM. Thứ hai: thông qua tìm hiểu và phân tích thực trạng hoạt động tín dụng tiêu dùng tại Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm để thấy được những kết quả đạt được và những hạn chế cần khắc phục, Trong những năm gần đây, Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm đã có được sự tăng trưởng về quy mô của tín dụng tiêu dùng, dư nợ tín dụng tiêu dùng tăng lên theo từng năm. Thông qua hoạt động tín dụng tiêu dùng ngân hàng đã tạo được hình ảnh và lòng tin của mình đối với các khách hàng trong và ngoài địa bàn. Tuy nhiên cũng còn có những mặt mà Ngân hàng chưa thực hiện được như quy trình cho vay rườm rà, gây nhiều khó khăn cho cả khách hàng và các cán bộ tín dụng. Chất lượng tín dụng trong tín dụng tiêu dùng còn chưa cao. số nợ quá hạn còn tồn tại lớn là do tín dụng tiêu dùng, tuy tỷ lệ này không cao nhưng đây cũng là một vấn đề mà Ban lãnh đạo ngân hàng cần có biện pháp khắc phục. Những mặt hạn chế nói trên vẫn còn tồn tại là do các nguyên nhân chủ yếu như hệ thống pháp lý về tín dụng tiêu dùng còn chưa hoàn chỉnh, Ngân hàng chưa có sự quan tâm đúng mức đối với tín dụng tiêu dùng, công nghệ ngân hàng còn chưa phát triển rộng rãi, sự cạnh tranh khốc liệt giữa các ngân hàng trên địa bàn và những ngân hàng ngoài địa bàn. Thứ ba: từ việc tìm hiểu thực trạng, đánh giá được những kết qủa đạt được và những mặt hạn chế trong hoạt động tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm, em đã mạnh dạn đưa ra những giải pháp đối với chính Ngân hàng cũng như những kiến nghị đối với Ngân hàng Công Thương Việt Nam, Ngân hàng Nhà nước. Em mong rằng những gì mình đã trình bày ở luận văn sẽ là sự đóng góp nhỏ bé vào sự phát triển của tín dụng tiêu dùng của Ngân hàng Công Thương chi nhánh Hoàn Kiếm. Do hạn chế về mặt kiến thức lý luận cũng như hạn chế về tài liệu và thời gian nghiên cứu, luận văn sẽ không tránh khỏi những thiếu sót. Kính mong được sự phê bình, đóng góp ý kiến của các thầy cô giáo, các cô chú tại Ngân hàng Công thương Hoàn Kiếm, các bạn bè cũng như bất kỳ ai quan tâm đến vấn đề này để chuyên đề được hoàn thiện hơn nữa. Danh mục tài liệu tham khảo Giáo trình Nghiệp vụ Ngân hàng thương mại- Học Viện Tài Chính- NXB Tài Chính Năm 2005 Quản trị Ngân hàng thương mại- Peter S.Rose Báo cáo tổng kết hoạt động kinh doanh Ngân hàng Công Thương Việt Nam chi nhánh Hoàn Kiếm các năm 2005,2006,2007. Sổ tay tín dụng- Lưu hành nội bộ- Ngân hàng Công Thương Việt Nam Báo cáo tổng hợp tình hình cho vay tiêu dùng Ngân hàng Công Thương Hoàn Kiếm Tạp chí Ngân hàng các số năm 2005,2006,2007. Công văn số 34/CV – NHNN về việc cho vay không có đảm bảo bằng tài sản đối với CBCNV và thu nợ từ tiền lương, trợ cấp và các khoản thu nhập khác. Quyết định số 049/QĐ-HĐQT-NHCT ngày 31/5/2002 của NHCT Việt Nam. Quyết định số 493/2005/QĐ-NHNN ban hành qui định về phân loại nợ, trích lập và dự phòng để xử lý rủi ro tín dụng trong hoạt động của ngân hàng và của tổ chức tín dụng. Báo điện tủ Việtnamnet.vn

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc36894.doc
Tài liệu liên quan