Luận văn Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I

+ Hiệu quả của biện pháp Thực hiện triệt để biện pháp trên từ 2 đến 3 năm sau công ty sẽ có: đội ngũ cán bộ chủ chốt với những kiến thức toàn diện như kỹ năng về công nghệ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lập kế hoạch, ra quyết định., đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý, đội ngũ công nhân với trình độ tay nghề cao.sẽ góp phần xây dựng một đội ngũ lao động có trình độ tốt, đủ khả năng tiếp cận vận hành các trang thiết bị công nghệ mới góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực hiện thành công các nhiệm vụ Công ty đề ra và hơn nữa là góp phần vào tăng sức cạnh tranh cho Công ty, giúp Công ty tồn tại và phát triển lâu dài. +Điều kiện thực hiện biện pháp + Thứ nhất: Công ty cần đào tạo ra một bầu không khí tích cực bồi dưỡng và tự bồi dưỡng đối với các cán bộ công nhân viên của mình + Thứ hai: Công ty cần có một số công nhân có trình độ tay nghề vững đồng thời có các mối quan hệ với các cán bộ kỹ thuật khác ở các cơ sở đào tạo để những người này có đủ khả năng tổ chức các cuộc thi và đánh giá chính xác kết quả thi của các công nhân. + Thứ ba: Công ty cần có các biện pháp để đánh giá, phân loại công nhân viên chức định kỳ để xác định một cách đúng đắn đối tượng cần đào tạo. Đồng thời Công ty cũng cần có các mối quan hệ với các trung tâm đào tạo để có thể gửi đúng đối tượng đến được nới cần đến để đào tạo.

doc96 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1505 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu tại công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
ể đáp ứng phù hợp với những biến động đó. Về mặt này, thì các chuyên viên quản trị cấp cao của ta còn thua kém rất nhiều so với các chuyên viên quản trị của các doanh nghiệp nước ngoài. Các chuyên viên quản trị của ta thiếu sự nhạy bén trong kinh doanh, thiếu đầu óc sáng tạo, khả năng quản lý còn kém... Một phần nguyên nhân là do hầu hết những chuyên viên này trưởng thành trong cơ chế tập trung quan liêu bao cấp. Những điều này ảnh hưởng rất lớn tới năng lực cạnh tranh cũng như khẳng định vị trí của doanh nghiệp trên thương trường quốc tế. Nhìn chung lực lượng cán bộ của công ty có trình độ cao nhưng vẫn chưa đáp ứng đầy đủ yêu cầu của công việc nhất là khi các đối tác chủ yếu là người nước ngoài. Công ty cần có những biện pháp để tăng cường hiệu quả lao động cho cán bộ trong công ty. Nhân tố thứ ba: Cơ sở vật chất trang thiết bị Cơ sở vật chất trang thiết bị của công ty được đánh giá trên yếu tố: Trình độ kỹ thuật công nghệ, cơ sở vật chất trang thiết bị. Cả hai yếu tố này, công ty còn thua kém so với các đối thủ cạnh tranh. Trình độ kỹ thuật công nghệ: hệ thống máy móc của công ty đã quá cũ, phần lớn máy móc của công ty đã sử dụng cách đây 20 năm, không được đổi mới. Máy móc đã hết khấu hao từ lâu nhưng do điều kiện còn hạn chế công ty không có khả năng đổi mới. Công ty sẽ gặp nhiều khó khăn trong viêch tăng năng suất, hạ thấp giá thành. Hơn nữa công ty sẽ không có khả năng đáp ứng được nhu cầu tăng cao của thị trường. Điều này ảnh hưởng rất lớn tới tới khả năng tận dụng cơ hội thị trường của công ty. Giá trị mà công ty đóng góp vào hàng nông sản ở khâu chế biến còn rất ít, hầu hết chỉ qua chế biến và bảo quản thủ công. Đối với cơ sở vật chất của công ty: Ngày nay, hệ thống thông tin phát triển rất mạnh mẽ. Công ty sẽ có lợi thế hơn rất nhiều khi nắm bắt được những thông tin quan trọng như: tình hình nhu cầu thị trường, sự biến động của giá cả các loại mặt hàng có liên quan, nắm bắt được những động thái, kế hoạch của đối thủ cạnh tranh cũng như thông tin về nguồn lực của đối thủ cạnh tranh. Trước sự nhận thức đó năm 2000 công ty đã đầu tư một hệ thống giàn máy vi tính cho các phòng nghiệp vụ, hệ thống máy điện thoại, máy fax và quan trọng nhất công ty kết nối internet cho các máy vi tính trong các phòng nghiệp vụ. Điều này tạo điều kiện rất thuận lợi cho các phòng nghiệp vụ có thể giao dịch với các đối tác nước ngoài, nắm bắt được những sự thay đổi của các thị trường nông sản trên thế giới,... đồng thời giảm được chi phí giao dịch rất nhiều. Nhân tố thứ tư công tác Marketing Công tác Marketing đối với công ty còn tương đối mới mẻ. Hoạt động này rất mới chỉ thực sự nổ ra ở nước ta trong một vài năm gần đây, số lượng cán bộ chuyên môn về lĩnh vực này trong công ty không có nhiều. Sau đây là một số hoạt động Marketing chủ yếu mà doanh nghiệp đang thực hiện. Hoạt động nghiên cứu thị trường: Từ khi xoá bỏ bao cấp các doanh nghiệp đều tự chủ trong các hoạt động sản xuất kinh doanh. Trước đây, công ty chủ yếu hoạt động theo kế hoạch Nhà Nước giao. Đến nay công ty tự lo đầu vào và đầu ra cho mình, tự khai thác nguồn hàng cho mình. Trong điều kiện nền kinh tế hiện nay đầy biến động, tình hình cạnh tranh ngày càng gay gắt, để tồn tại và phát triển thì công ty phải chú trọng tới hoạt động nghiên cứu thị trường nắm nhu cầu của khách hàng từ đó chỉ cung ứng những sản phẩm mà thị trường cần. Các hoạt động nghiên cứu thị trường chủ yếu do các phòng nghiệp vụ tự đảm nhận, ví dụ các phòng nghiệp vụ về hoạt động xuất khẩu nông nông sản sẽ tự tìm hiểu về thị trường nông sản. công ty chưa tổ chức thành một phòng chuyên làm công tác Marketing. Điều này thể hiện tính tự phát của hoạt động nghiên cứu thị trường của công ty. Chính sách giá cả của công ty được đánh giá là khá linh hoạt. Giá các sản phẩm của công ty thường thấp hơn so với giá cả sản phẩm cùng loại trên thị trường đồng thời công ty cũng bán giảm giá cho những người mua với khối lượng lớn, khách hàng truyền thống... Có thể nói mặc dù phòng Marketing chưa hình thành nhưng chính sách giá cả của công ty đưa ra phù hợp với yêu cầu của thị trường. Chính sách phân phối: chính sách phân phối của công ty còn đơn giản. Các loại kênh phân phối của công ty không đa dạng, chủ yếu là loại kênh trực tiếp hoặc kênh qua một trung gian nước ngoài. Đây có thể nói là một điểm yếu của công ty trong việc đưa sản phẩm của công ty đến tay người tiêu dùng. 5. Đánh giá năng lực cạnh tranh của công ty 5.1. Những thành tựu đạt được Công ty đã từng bước xây dựng những nhà máy chế biến hàng nông sản và cải thiện hệ thống kho tàng, bến bãi nhằm mục đích đảm bảo và làm tăng chất lượng hàng nông sản. mặc dù chất lượng hàng nông sản còn chưa đáp ứng được nhu cầu của khách hàng. Mức tăng kim nghạch xuất khẩu của các loại hàng nông sản chính vẫn tăng đều đặn mặc dù cầu trên thị trường bị giảm sút liên tục. Hiện nay mức giá và chất lượng sản phẩm không ngừng được cải tiến và cũng mang lại cho công ty một số thuận lợi trong việc tăng cường năng lực cạnh tranh cho công ty. Trước tình hình phải đối mặt với năng lực cạnh tranh gay gắt với các đối thủ, nhận thức rằngvới trình độ công nghệ chế biến và bảo quản hiện nay thì không thể đứng vững trong cạnh tranh nên công ty đã chủ trương tăng cường đổi mới công nghệ chế biến, bảo quản, mở rộng quy sản xuất, nâng cao chất lượng để chiếm lĩnh thị trường. Sau những năm vật lộn trong cạnh tranh, sản phẩm của công ty hiện nay đã phần nào có mặt ở nhiều thị trường mới trên thế giới, được chấp nhận ở một vài thị trường khó tính. Kết quả thu được từ cạnh tranh là công ty đã tiêu thụ được nhiều sản phẩm, ít có sản phẩm tồn kho và lợi nhuận không ngừng tăng lên. 5.2. Những mặt còn tồn tại Thị phần: thị phần của công ty trong thị trường còn rất nhỏ và tăng chậm trong những năm qua. Trong khi đó thị phần của một số công ty khác và của một số đối thủ nước ngoài đang có xu hướng tăng. Đoạn thị trường: hiện nay công ty chỉ khai thác được đoạn thị trường có mức sống trung bình trong khi đó nhu cầu đối với các sản phẩm nông sản trung và cao cấp đang có xu hướng tăng lên. Hiện nay công ty vẫn còn đang tập trung vào khai thác đoạn thị trường trung bình này. Khu vực tiêu thụ: sản phẩm của công ty chủ yếu tiêu thụ ở một số thị trường ở EU, ASEAN, Đài loan... Một số thị trường tiềm năng như Mỹ, Nhật thì công ty chưa đạt được thị phần cao ở những nước này. Những yếu kém về sản phẩm: chất lượng của sản phẩm còn thua kém so với chất lượng hàng nông sản của một số nước khác. Ngoài ra mẫu mã, bao bì sản phẩm của công ty vẫn còn đơn điệu chưa thu hút được khách hàng, chưa có tên nhãn hiệu nên chưa tạo ra được uy tín cho khách hàng. 5.3. Những nguyên nhân dẫn đến tồn tại Thứ nhất: Do sự xuất hiện của nhiều doanh nghiệp hoạt động trên cùng lĩnh vực xuất nhập khẩu, lượng nông sản cung cấp ra thị trường ngày càng tăng mặc dù sản phẩm của công ty không ngừng tăng lên nhưng cũng không theo kịp tốc độ phát triển của nghành. Bên cạnh đó còn chịu sự cạnh tranh rất mạnh từ những nước xuất khẩu những mặt hàng giống công ty. Thứ hai: Do công nghệ của công ty đã quá lạc hậu, dây chuyền chế biến hàng nông sản mặc đã có nâng cấp nhưng vẫn chưa đồng bộ, vẫn còn quá nhiều máy móc thiết bị quá lạc hậu nên ảnh hưởng đến quy mô sản xuất và chất lượng sản phẩm. Hiện nay công ty không đáp ứng nổi nhu cầu của thị trường. Về chất lượng còn thua kém so với một số sản phẩm của nhiều nước trong khu vực. Trong thời gian tới công ty phải tiếp tục đổi mới công nghệ chế biến hàng nông sản để nâng cao chất lượng đáp ứng được yêu cầu của thị trường. Thứ ba: Giá cả sản phẩm nông sản của công ty còn chịu sự biến động rất lớn vào giá cả thị trường nông sản trên thế giới và bán với giá thấp hơn rất nhiều so với giá cả trên thị trường và một số đối thủ chính. Thứ tư: Công ty chưa có sự kết hợp hài hoà giữa các chính sách Marketing, các hoạt động mang tính chất Marketing của công ty còn mang tính chất tự phát, chưa có bài bản. do đó hoạt động Marketing rất mờ nhạt. Công ty ít chú ý tới hoạt động nghiên cứu thị trường để nắm bắt yêu cầu của người tiêu dùng nên việc thu thập các thông tin phản hồi rất kém. Công ty chưa có khả năngthực hiện tốt các hoạt động quảng cáo tiếp thị. Nhưng cũng phải nói rằng để thực hiện các hoạt động này thì đòi hỏi phải chi vào đó một phần ngân sách rất lớn. Trong khi đó chi phí này lại bị khống chế bởi quy định của Nhà Nước( không vượt quá 7% tổng chi phí thực tế) Thứ năm: Đội ngũ lao động của công ty mặc dù trải qua nhiều năm kinh nghiệm song trong quá trình phát triển của thị trường có nhiều nghiệp vụ phức tạp phát sinh mà họ lại chưa được đào tạo kỹ lưỡng để có kiến thức đầy đủ cũng như tác phong công nghệ trong lao động để có thể làm việc một cách tốt nhất. Phần III các giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I I. Phương hướng và mục tiêu phát triển của công ty 1. Phương hướng hoạt động xuất khẩu nông sản của Công ty - Tiếp tục đầu tư sức lực và chi phí hợp lý để củng cố mở rộng thị trường. Đặc biệt quan tâm hơn nữa đến thị trường EU và Trung Quốc. Tranh thủ các chính sách hỗ trợ của Nhà nước , Bộ thương mại để tìm kiếm thị trường và bạn hàng. Tăng cường bám thị trường nội địa, phát huy thế mạnh về vốn, kinh nghiệm tìm cách làm thích hợp để thâm nhập thị trường . - Tiếp tục áp dụng các phương thức kinh doanh linh hoạt trong xuất khẩu nông sản để tăng thêm số hợp đồng xuất khẩu. Chú trọng hình thức xuất khẩu tự doanh nhằm nâng cao hơn nữa tính chủ động của doanh nghiệp. - Duy trì sự phát triển ổn định của nhóm hàng, mặt hàng xuất khẩu truyền thống như gạo, lạc, cà phê... đẩy mạnh những mặt hàng có tỷ xuất lợi nhuận khá như cói, mây tre đan... - Chú trọng hơn nữa tới chế biến hàng nông sản. Tiếp tục củng cố bộ máy tổ chức và cán bộ các lĩnh vực mới như: Xí nghiệp Quế, xí nghiệp chế biến hạt điều...để các cơ sở này hoạt động có nề nếp, tăng hiệu quả. Tìm đối tác hợp tác sản xuất, trợ giúp về kỹ thuật công nghệ để nâng cao công suất và năng suất lao động của các xí nghiệp này. 2. Mục tiêu hoạt động của Công ty năm 2001 - Chỉ tiêu tổng kim ngạch xuất nhập khẩu: 68 triệu USD. Trong đó xuất khẩu là 24 triệu USD và nhập khẩu là 44 triệu USD Tổng doanh thu : 255 tỷ Đồng Lợi nhuận doanh nghiệp : 16 tỷ Đồng Để thực hiện các mục tiêu trên, Công ty đã đề ra rất nhiều các biện pháp khác nhau. Đối với lĩnh vực xuất khẩu nông sản, Công ty đã đề ra những hướng đi cụ thể, thích hợp và nỗ lực hết sức mình để đạt được kế hoạch đã đề ra. II- Giải pháp nâng cao năng lực cạnh tranh Giải pháp thứ nhất: Huy động vốn một cách có hiệu quả và linh hoạt + Cơ sở lý luận Vốn là một trong ba yếu tố đầu vào không thể thiếu được khi một doanh nghiệp tiến hành sản xuất kinh doanh. Nếu chia vốn theo cách sử dụng vốn thì người ta chia ra thành vốn cố định và vốn lưu động. Vốn cố định tồn tại dưới dạng tài sản cố định, nó phản ánh trình độ công nghệ, máy móc, trang thiết bị của một doanh nghiệp. Một doanh nghiệp có trình độ công nghệ, máy móc, trang thiết bị hiện đại sẽ giúp doanh nghiệp có thể đáp ứng đầy đủ hơn nhu cầu của khách hàng từ đó có thể tồn tại và chiếm lĩnh thị trường. Còn vốn lưu động tồn tại dưới dạng tài sản lưu động, nó đảm bảo tài chính cho các hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp. Người ta ví vốn lưu động như máu trong cơ thể của con người. Hiệu quả các hoạt động sản xuất kinh doanh phụ thuộc rất lớn vào khả năng cung cấp vốn lưu động cho các hoạt động này. Thấy rõ vai trò to lớn của vốn trong doanh nghiệp, một câu hỏi đặt ra cho các doanh nghiệp: làm sao có thể nâng cao khả năng huy động vốn? là một nhiệm vụ hết sức cần thiết của doanh nghiệp. Để đảm bảo đủ vốn cho sản xuất kinh doanh thì các doanh nghiệp không chỉ dựa vào nguồn vốn tự có của mình mà còn huy động nguồn vốn từ các nguồn khác. Ngoài ra huy động vốn là một hoạt động hết sức cần thiết cho các doanh nghiệp hiện nay nếu doanh nghiệp muốn nâng cao hiệu quả sử dụng vốn thông qua các nguồn vốn sẵn có trên thị trường vốn để từ đó có thể nâng cao hiệu quả kinh doanh cho doanh nghiệp. + Cơ sở thực tiễn Hàng năm việc thiếu vốn ảnh hưởng rất lớn đến hiệu quả kinh doanh cũng như năng lực cạnh tranh của công ty. Ta có thể đưa ra một số ví dụ sau: năm 1999, tỷ suất thanh toán nhanh của Công ty là 0,28. Tỷ suất này nhỏ hơn 0,5 cho thấy Công ty không đủ tài sản lưu động để thanh toán các khoản nợ ngắn hạn. Cũng trong năm 1999 công ty cần một lượng vốn khoảng 5 đến 8 tỷ đồng để xây dựng một nhà máy chế biến nhưng công ty đã không đủ khả năng cho việc xây dựng nhà máy chế biến này. Ngoài ra chưa kể đến các khoản tín dụng cung cấp cho khách hàng thông qua việc bán chịu nhằm tăng năng lực cạnh tranh của công ty. Việc thiếu vốn kinh doanh bao giờ cũng gây rất nhiều khó khăn đối với Công ty. Công ty cũng có lúc phải lấy uy tín của mình để hưởng các ưu đãi về thanh toán tiền hàng; các khoản vay nóng của ngân hàng đôi khi cũng được Công ty sử dụng như những giải pháp tình thế. Tóm lại, việc huy động vốn là điều rất cần thiết đối với Công ty trong giai đoạn hiện nay. + Phương thức tiến hành Công ty cần huy động vốn từ những nguồn sau: - Nguồn trích từ lợi nhuận: Đây là nguồn cơ bản lâu dài để mở rộng phạm vi kinh doanh của doanh nghiệp. Nguồn này phụ thuộc trực tiếp vào hiệu quả kinh doanh của Công ty qua từng năm nên nhiều khi không chắc chắn, việc chỉ trông đợi vào sự bổ sung nguồn vốn từ lợi nhuận là chưa đủ. - Nguồn vốn huy động thông qua các tổ chức tài chính tín dụng: Cùng với sự lớn mạnh của cơ chế thị trường là sự hoàn thiện của hệ thống các ngân hàng và hoạt động ngân hàng. Ngân hàng trở thành nơi tin cậy cho các doanh nghiệp có thể huy động vốn thông qua các hình thức vay ngắn hạn, dài hạn, tín dụng xuất khẩu để phục vụ cho các hoạt động sản xuất kinh doanh và thương mại quốc tế. Hàng năm công ty có thể huy động thêm vốn từ nguồn này khoảng 20 tỷ đồng. Việc tiếp cận nguồn vốn này tuy không phải dễ dàng nhưng Công ty cần phải coi đây là nguồn quan trọng để khai thác đặc biệt là các khoản vay trung hạn, dài hạn và tín dụng xuất khẩu do lãi xuất ngân hàng hiện nay khá thấp. - Vốn huy động trong cán bộ công nhân viên: Đây là hình thức tiến tới cổ phần hoá các doanh nghiệp Nhà nước. Hiện nay, số cán bộ công nhân viên trong Công ty là 646 người, nếu huy động mỗi người 600.000 đến 1.000.000 đồng thì Công ty sẽ huy động được từ 390 đến 646 triệu đồng. Ngoài ra việc huy động vốn sẽ gắn lợi ích của người lao động với Công ty tạo thêm động lực để mọi người làm việc có trách nhiệm hơn. - Nguồn vốn liên doanh, liên kết: Công ty có thể nghiên cứu các dự án liên doanh, liên kết với nước ngoài trong những khoảng thời gian nhất định nhằm thu hút nguồn vốn từ ngoài vào Công ty. Cùng với chủ chương của Nhà nước là khuyến khích đầu tư của các nước phát triển vào Việt nam thì việc liên doanh, liên kết là hợp lý. Hiện nay công ty đang có dự định sẽ hợp tác liên doanh với một công ty chế biến nông thuỷ sản của Singapore. Dự án này sẽ có tổng vốn đầu tư khoảng 17,5 tỷ đồng Việt nam. Dự án này sẽ chính thức thông qua vào năm tháng 5 năm 2003. Tuy nhiên việc liên doanh liên kết đòi hỏi phải có sự nghiên cứu kỹ và có chọn lọc. Việc sử dụng các dây chuyền công nghệ sản xuất đòi hỏi phải là những công nghệ hiện đại có hiệu quả cao. - Trong một số trường hợp, việc tận dụng vốn của bạn hàng thông qua thanh toán trả chậm khi nhập hàng hoặc yêu cầu đối tác hỗ trợ tín dụng cũng là những việc làm cần thiết để tranh thủ tập trung vốn cho hoạt động thu mua hàng xuất khẩu . + Hiệu quả thực hiện biện pháp Nhờ việc huy động vốn linh hoạt mà công ty có thể tránh khỏi tình trạng luôn thiếu vốn cho sản xuất kinh doanh, làm cho bảng cân đối kế toán của công ty trở nên khả quan hơn. Đồng thời các giải pháp huy động vốn trên không làm cho công ty rơi vào tình trạng nợ ngắn hạn quá lớn dẫn đến mất khả năng thanh toán hiện thời. Đồng thời huy động vốn cũng tạo cho công ty có thể linh hoạt hơn trong việc nâng cao hiệu quả của vốn chủ sở hữu. Huy động vốn bằng cách vay nợ còn là một biện pháp để nâng cao thu nhập trên vốn chủ sở hữu và nó cũng làm giảm rủi ro trên vốn chủ sở hữu. Biểu dưới đây sẽ đưa ra cho ta sự hiểu biết rõ hơn về hiệu quả của cách huy động vốn này. Biểu 10: Hiệu quả của vốn chủ sở hữu khi sử dụng phương pháp vay nợ trong năm 2001 Chỉ tiêu Giá trị Doanh thu Tổng chi phí -Chí phí cố định(76%) -Chí phí biến đổi Thu nhập trước thuế và lãi vay I- Nếu sử dụng 30% nợ Lãi vay[12%*(30%*94000) Thu nhập trước thuế Thuế thu nhập Thu nhập ròng Thu nhập trênvốn chủ sở hữu II- Nếu sử dụng 60% nợ Thu nhập trước thuế và lãi vay Lãi vay[12%*(60%*94000)] Thu nhập trước thuế Thuế thu nhập(32%) Thu nhập ròng Thu nhập trên vốn chủ sở hữu 241050 223636 169963 53673 17414 3384 14030 4490 9540 14,5% 17414 6768 10646 3406,8 7239,2 19,25% Từ biểu trên ta thấy huy động vốn một cách linh hoạt có thể giúp cho công ty có nâng cao được hiệu quả của vốn chủ sở hữu từ 14,5% lên đến 19,25% + Điều kiện thực hiện biện pháp Về nhân sự: công ty phải cần từ 1-2 người có khả năng về vấn đề huy động các nguồn vốn trên thị trường. Trong công ty có giám đốc và kế toán trưởng là những người giỏi nhất về lĩnh vực này. Nhưng do đảm nhiệm nhiều công việc và khả năng chưa đáp ứng được đúng với nhu cầu nên đưa giám đốc và kế toán trưởng đi đào tạo chuyên môn sâu hơn và tuyển thêm một chuyên gia để có thể giúp cho giám đốc và kế toán trưởng thực hiện được công việc này tốt hơn. Về chi phí: công ty phải chịu những chi phí về đào tạo, thuê chuyên gia. Ngoài ra còn chịu các chi phí về trả lãi vay, chi phí nghiên cứu thị trường tài chính, chi phí giao dịch, chi phí nghiên cứu các đối tác liên doanh góp vốn... Về thông tin: công ty phải đầu tư hệ thống thông tin nhằm giúp cho công ty có thể thu thập nhận biết một cách chính xác về những thay đổi của thị trường tài chính. Giải pháp thứ hai: Nâng cao chất lượng sản phẩm nhằm củng cố uy tín và tăng năng lực cạnh tranh của hàng nông sản + Cơ sở lý luận Chất lượng sản phẩm tác động trực tiếp đến người tiêu dùng nên nó quyết định đến năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp. Nó đảm bảo cho doanh nghiệp mở rộng được thị trường, tiêu thụ sản phẩm. Nhờ có sản phẩm có chất lượng mà doanh nghiệp tăng được uy tín cho nhãn mác sản phẩm của doanh nghiệp và có khả năng định giá cao hơn. Ngoài ra nâng cao chất lượng sản phẩm giúp doanh nghiệp giảm được chi phí sản phẩm hỏng và chi phí để sửa chữa sản phẩm. + Cơ sở thực tiễn Chất lượng sản phẩm là yếu tố cạnh tranh quan trọng trong kinh doanh xuất khẩu. Chất lượng nông sản phụ thuộc rất nhiều vào khả năng chế biến hay nói đúng hơn là công nghệ chế biến. Trong những năm trước, Công ty thườngphải mua hàng nông sản dạng nguyên liệu rồi thuê chế biến, việc này nảy sinh những vấn đề sau: - Chất lượng hàng hoá không đều, không ổn định. Đây là điều rất dễ xảy ra khi thuê nhiều đơn vị chế biến mà mỗi đơn vị lại có công nghệ chế biến khác nhau. Điều này gây bất lợi, dễ làm mất uy tín của Công ty với các đối tác nước ngoài. - Chi phí chế biến cao làm cho giá thành sản phẩm tăng lợi nhuận giảm. Mặt khác nếu tăng giá bán sản phẩm, Công ty sẽ mất khách hàng. Từ thực tế ta có thể tìm ra được câu trả lời cho vấn đề nâng cao chất lượng hàng nông sản. Trong năm 1998 công ty thực hiện khoảng 160-180 đơn hàng số đơn hàng không ký kết được hợp đồng 3-3,5% do đối tác không đồng ý về chất lượng hàng hoá. Sang năm 1999, 2000, 2001 do có những cải cách trong việc nâng cao chất lượng hàng nông sản như: xây dựng một số nhà máy chế biến, tiến hành đồng bộ trong khu mua...số lượng đơn hàng ký kết tăng lên từ 7-9% so với năm 1998 và số đơn hàng bị bỏ lỡ do khách hàng không đồng ý về chất lượng giảm xuống còn 0,5-1%. Chính vì vậy, việc xây dựng thêm các cơ sở chế biến là rất cần thiết. Hiện nay Công ty đã có một số xí nghiệp chế biến hoạt động rất hiệu quả như xí nghiệp quế, xí nghiệp chế biến hạt điều... càng cho thấy hướng đi trên là đúng đắn. Đồng thời với việc đẩy mạnh chế biến, công tác giám định chất lượng đối với nguồn hàng xuất khẩu cần được thực hiện một cách nghiêm ngặt bởi đó là công việc quyết định đến chất lượng hàng hoá. + Phương thức tiến hành * Đầu tư công nghệ chế biến hàng nông sản: Nhìn vào thực trạng công nghệ chế biến hàng nông sản của công ty ta nhận thấy một điều là công nghệ chế biến của công ty còn quá lạc hậu và nghèo nàn, do đó dẫn chất lượng hàng nông sản của công ty không cao. Trước hoàn cảnh đó công ty cần thực hiện các công việc sau: Xây dựng thêm một dây chuyền sấy khô hàng nông sản. Hàng nông sản là loại hàng rất dễ bị hư hỏng khi gặp phải điều kiện không thuận lợi. Nếu ta có thể xây dựng được dây chuyền sấy khô sẽ giảm tỷ lệ hư hỏng của sản phẩm đi rất nhiều. Ngoài ra hàng của công ty đóng gói khi xuất sang các nước vẫn đảm được chất lượng cao. Xây dựng một dây chuyền kiểm tra độ đồng đều của hàng nông sản. Phần lớn hàng nông sản khi xuất sang các nước đều bị đánh giá là chất lượng không cao một phần do mức độ không đồng đều của hàng nông sản. Do đó hàng nông sản của công ty bị ép bán với giá thấp hơn so với hàng hoá cùng loại. Nếu công ty thực hiện được hai công việc trên chất lượng hàng nông sản của công ty sẽ được cải thiện lên rất nhiều từ đó có thể tăng được khối lượng tiêu thụ và doanh thu. * Thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Để có hàng hoá tốt phục vụ cho xuất khẩu thì không thể không thực hiện tốt công tác dự trữ và bảo quản hàng hoá. Sau khi đưa hàng hoá về đến kho trạm, các tổ kho phải thực hiện tốt các công tác phân loại, bao gói, xếp hàng hoá vào kho và hàng loạt các nghiệp vụ dự trữ và bảo quản khác để giữ gìn chất lượng, số lượng hàng hoá và luôn sẵn sàng xuất hàng một cách nhanh chóng thuận tiện. Trong dự trữ bảo quản hàng hoá các yêu cầu kỹ thuật của kho chứa hàng rất quan trọng, nhất là đối với hàng nông sản rất dễ bị ẩm mốc mục... Hiện nay ở Công ty có một số kho không đủ yêu cầu cho việc dự trữ hàng nông sản: mái dột, nền ẩm, hệ thống thoát khí không đạt yêu cầu do đó Công ty cần có kế hoạch nâng cấp những kho hàng này bằng cách sửa lại mái, thay đổi, lắp đặt mới hệ thống máy điều hoà nhiệt độ, máy hút ẩm. Bên cạnh đó, Công ty nên yêu cầu các nhân viên của kho phải thường xuyên kiểm tra hàng hoá, kiểm tra các điều kiện về nhiệt độ, độ ẩm phù hợp với đặc tính bảo quản của từng loại hàng hoá. + Hiệu quả biện pháp Công ty sẽ thu được lợi rất lớn từ giải pháp nâng cao chất lượng sản phẩm. Năm 2000 và 2001 công ty đã không thể ký kết hợp đồng với đối tác Nhật bản vì chất lượng hàng nông sản của công ty không đảm bảo. Nếu công ty nâng cao được chất lượng sản phẩm thì giá cả hàng nông sản của công ty có thể tăng lên từ 5-10% so với giá cũ đồng thời công ty có thể tăng được lượng hàng tiêu thụ trên một số thị trường như Mỹ, Singapore, Đài loan, Nhật bản... từ đó có thể tăng doanh thu và lợi nhuận của công ty. Ta có bảng giá của các loại mặt hàng chính của công ty sau khi nâng cao chất lượng hàng nông sản Biểu 11: Dự báo khối lượng và giá trị hàng hoá sau khi thực hiện giải pháp Giá MH Giá hiện tại(usd) Số lượng tiêu thụ (tấn) Giá trị 1000usd Giá sau khi thực hiện (usd) Số lượng tiêu thụ dự báo (tấn) Giá trị 1000usd 1-giá lạc nhân 650 9.646 6270 652 9.635 6282 2- giá hạt tiêu 1775 1.921 3410 1778 1.926 3424.4 3-giá cao su 705 4.156 2930 715 4.17 2981.5 4-giá cà phê 1560 0.949 1480 1565 0.95 1486.7 5-giá gạo 293 5.973 1750 300 5.97 1791 6-giá quế 4120 0.408 1680 4125 0.408 1683 7-giá điều nhân 4010 0.387 1550 4012 0.387 1552.6 8-tổng 23.44 19070 23.446 19201.3 Nguồn: báo cáo dự kiến tình hình tiêu thụ của công ty trong năm 2002 Nếu công ty có thể thực hiện thành công giải pháp này thì khối lượng hàng hoá nông sản mà công ty có thể tiêu thụ sẽ tăng lên từ 23.440 tấn lên đến 23.446 tấn và doanh thu tăng thêm khoảng 130 nghìn usd tương đương khoảng 1,9 tỷ. Ngoài ra giải pháp này còn giúp công ty tăng thị phần, xâm nhập vào một số thị trường mới, cải thiện được vị trí của công ty trên thương trường. Muốn thực hiện được giải pháp này công ty phải đầu tư hai dây chuyền sấy và dây chuyền kiểm tra mức độ đồng đều. Giá cả toàn bộ của hai dây chuyền này là: dây chuyền sấy 6,5 tỷ, dây truyền kiểm tra độ đồng đều 7,3 tỷ. Ngoài ra công ty còn phải xây dựng một số cơ sở phụ trợ khác chí phí hết 2 tỷ. Hai dây chuyền này dự kiến sẽ sử dụng trong vòng 10 năm. Hàng năm lợi nhuận của công ty có thể tăng thêm được từ 700 triệu đến 1tỷ. + Điều kiện thực hiện biện pháp Trước hết công ty cần có từ 15,5-16 tỷ đồng nhằm xây dựng dây chuyền chế biến hàng nông sản. Để đáp ứng với nhu cầu mua sắm thêm dây chuyền chế biến, công ty cần có từ 20-25 người gồm cả nhân viên kỹ thuật và công nhân. Điều này công ty phải chi phí một khoản tiền để đưa một số người đi đào tạo. Ban lãnh đạo phải đưa ra các chính sách cụ thể về đảm bảo và nâng cao chất lượng sản phẩm để lôi kéo mọi cán bộ trong công ty vào hoạt động này. Các phòng ban đều phải gắn mối quan hệ chặt chẽ với nhau để tạo ra hệ thống đồng bộ trong việc quản lý chất lượng hàng nông sản. Ngoài ra công ty cần tổ chức các cuộc gặp gỡ thường xuyên tại công ty để các chuyên gia chất lượng và các thành viên trong công ty có thể trao đổi ý kiến. Giải pháp thứ ba: Thực hiện đồng bộ các chính sách Marketing. + Cơ sở lý luận Kinh tế thị trường càng phát triển thì hoạt động Marketing càng giữ vai trò quan trọng quyết định sự thành công hay thất bại trong hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp trên thị trường. Nếu hoạt động Marketing được đẩy mạnh thì cũng có nghĩa là năng lực cạnh tranh của doanh nghiệp cũng được tăng cường.Tốc độ phát triển của lĩnh vực xuất nhập khẩu ở nước ta hiện nay tất yếu sẽ dẫn đến sự cạnh tranh ngày càng khốc liệt do vậy việc đẩy mạnh hoạt động Marketing là vấn đề cấp thiết. + Cơ sở thực tiễn . Trong thời gian qua các hoạt động mang tính chất Marketing của công ty chủ yếu nằm rải rác ở các phòng nghiệp vụ. Do đó hoạt động Marketing rất mờ nhạt, ảnh hưởng tới thị phần của công ty, sản phẩm chỉ tiêu thụ ở một số thị trường truyền thống chưa vào được một số thị trường tiềm năng như Mỹ, Nhật bản... Đã vậy một số thị trường truyền thống lại có xu hướng giảm đi. Theo kế hoạch năm 2002 công ty sẽ nâng tổng lợi nhuận dự kiến do vậy công ty cần thực hiện đồng bộ chính sách Marketing. + Phương thức tiến hành Tăng cường công tác nghiên cứu thị trường Xác định thị trường hiện tại và thị trường tương lai tiềm năng của công ty, xác định thị trường nào là thị trường có triển vọng nhất, khả năng tiêu thụ sản phẩm của công ty trên thị trường đó là bao nhiêu, đặc điểm của mỗi loại thị trường. Nghiên cứu và dự báo nhu cầu đối với từng loại sản phẩm. Khảo sát thị hiếu người tiêu dùng về các mặt như chất lượng, giá cả, bao bì, mẫu mã, phương thức giao nhận, phương thức thanh toán... xem đã phù hợp chưa, có cần điều chỉnh không? Ngoài ra cần phải phân tích khả năng của thị trường để phát hiện ra những thị trường mới, Công ty không thể cứ mãi trông cậy vào những sản phẩm và thị trường hiện tại được, mà cần phải thường xuyên nghiên cứu thị trường thấy được xu thế biến động của thị trường, dự báo được nhu cầu để từ đó kịp thời đưa ra những sản phẩm mới thay thế những sản phẩm đang ở thời kỳ suy thoái. Tuy nhiên, trước khi đưa ra thị trường một sản phẩm mới thì Công ty còn phải tính đến sự phù hợp với mục tiêu và tiềm năng của mình, nghiên cứu từng khả năng từ khía cạnh quy mô và tính chất của thị trường. Phải thường xuyên phân tích đánh giá các đối thủ cạnh tranh để thấy được năng lực cạnh tranh của công ty so với các đối thủ, xác định số lượng đối thủ cạnh tranh và ai là đối thủ cạnh tranh chính của công ty, họ mạnh yếu ở điểm nào? xác định thị phần, xem xét chất lượng, giá cả, phương pháp quảng cáo, dịch vụ khách hàng... của họ có gì khác biệt so với công ty. Đồng thời, công ty phải biết ai là người chiếm giữ vị trí thủ lĩnh của nghành và họ thành công là do đâu. Để hoạt động nghiên cứu có hiệu quả thì công ty phải thường xuyên tổ chức các cuộc điều tra nghiên cứu thị trường như cử các nhân viên đi phỏng vấn trực tiếp khách hàng để thu thập các thông tin của khách hàng về sản phẩm của công ty, hoặc công ty tham gia các cuộc hội chợ triển lãm, trưng bày sản phẩm... những nhân viên làm nhiệm vụ nghiên cứu thị trường phải là những người có kiến thức chuyên nghành. Hoàn thiện chính sách sản phẩm Về chủng loại và cơ cấu mặt hàng: Hiện tại công ty có 6 loại sản phẩm chính được tiêu thụ nhiều nhất, đó là mặt hàng lạc nhân, cao su, quế, điều, gạo, cà phê. Trong 6 loại này thì mặt hàng quế và điều rất được ưa thích về chất lượng và giá cả nên tiêu thụ rất nhanh thậm chí không đáp ứng đủ nhu cầu. Mặt hàng quế, điều đem lại lợi nhuận cho Công ty rất lớn do đó Công ty nên tập trung mạnh vào hai loại mặt hàng này. Mặc dù lạc nhân tiêu thụ cũng rất tốt nhưng do sản xuất đem lại lợi nhuận không đáng kể nên công ty chỉ nên duy trì ở một mức sản lượng vừa phải. Còn cà phê của công ty nói chung tiêu thụ kém, không thể cạnh tranh được với cà phê của các nước khác. Công ty cần phải đặc biệt lưa ý tới sản phẩm này, nên đầu tư để nâng cao chất lượng cũng như hình thức mẫu mã để hơn hẳn của đối thủ. Có như vậy thì mặt hàng này mới có thể tồn tại được. Về bao bì nhãn mác của sản phẩm: Nếu so sánh với các đối thủ khác thì bao bì nhãn mác của công ty còn đơn điệu, không hấp dẫn người tiêu dùng. Nhược điểm này gây ảnh hưởng rất nhiều đến năng lực cạnh tranh. Để khắc phục nhược điểm này Công ty cần quan tâm đổi mới cải tiến mẫu mã bao bì sao cho ngày một đẹp, hấp dẫn hơn, khắc phục được những điểm yếu của mình. Xây dựng chính sách giá cả linh hoạt : Giá cả có ảnh hưởng rất đến khối lượng bán của công ty. Giá cả là một trong những công cụ cạnh tranh chính của công ty. Do vậy, công ty cần xây dựng được một chính sách giá linh hoạt hợp lý để góp phần đẩy mạnh khả năng canh tranh. Mục tiêu của việc xây dựng chính sách giá cả linh hoạt là phải tăng được khối lượng bán ra và tăng lợi nhuận. Ngoài việc định giá dựa vào chi phí sản xuất thì công ty còn phải tính đến giá của các sản phẩm cùng loại khác trên thị trường. Thông thường tâm lý người tiêu dùng cho rằng giá cả gắn với chất lượng nghĩa là giá cao thì chất lượng sản phẩm tốt và ngược lại. Hiểu được tâm lý này, nếu công ty định giá thấp thì sẽ ảnh hưởng tới uy tín về chất lượng sản phẩm của công ty, ảnh hưởng đến lợi nhuận. Tuy nhiên, nếu định giá cao mà không tương xứng với chẩt lượng thì cũng không thể bán được. Công ty nên sử dụng chính sách giá để khuyến khích, hỗ trợ khách hàng, nơi mà năng lực cạnh tranh của công ty đang bị giảm xuống. Ngoài ra để mở rộng thị trường công ty phải ưu tiên các mức giá cho các khách hàng ở các khu vực thị trường mới này. Có thể như vậy thì sản phẩm của công ty mới có thể tiêu thụ được và có khả năng canh tranh với các đối thủ. Công ty cũng nên khuyến khích tiêu thụ bằng cách thay đổi một chút trong chính sách giá phân biệt. Với những khách hàng lâu năm của công ty và luôn mua với khối lượng lớn thì công ty nên có chính sách chiết khấu hoặc giảm giá thích hợp. Điều này có tác dụng làm cho khách hàng ngày càng gắn bó với công ty, khối lượng tiêu thụ sẽ tăng mạnh, vòng quay của vốn cũng sẽ tăng nhanh, năng lực cạnh tranh cũng tăng lên. Hoàn thiện chính sách phân phối sản phẩm: Kênh phân phối được tổ chức hợp lý sẽ giảm bớt các khâu trung gian không cần thiết, giảm chi phí tiêu thụ, tăng lợi nhuận của công ty và đảm bảo sản phẩm đến tay khách hàng một cách nhanh chóng, do đó sẽ đẩy mạnh năng lực cạnh tranh. Hiện tại công ty thực hiện chính sách phân phối qua một khâu trung gian, đối tác bao tiêu sản phẩm cho công ty. Điều này chứng tỏ kênh phân phối của công ty rất ngắn. Sản phẩm của công ty chưa phân phối đến tận tay người tiêu dùng cuối cùng. Do vậy công ty nên tích cực đặt những chi nhánh đại diện cho công ty ở các thị trường chính để từ đó có thể đưa sản phẩm của công ty đến tận tay người tiêu dùng. Nếu công ty thực hiện được phương thức này thì về lâu dài sản lượng tiêu thụ của công ty sẽ tăng lên sẽ làm cho tổng lợi nhuận của công ty cũng tăng lên. Cải tiến phương thức thanh toán: để giúp khách hàng mua theo hợp đồng khắc phục những khó khăn về vấn đề huy động vốn để lấy hàng công ty có thể áp dụng phương thức bán hàng trả chậm. Nếu khách hàng chưa có tiền trả ngay thì họ có thể trả chậm sau một thời gian nhất định. Điều này khuyến khích khách hàng đến với công ty và xây dựng được mối quan hệ giữa công ty và khách hàng. + Hiệu quả của biện pháp Thực hiện đồng bộ các chính sách Merketing như trên sẽ tạo sức mạnh cạnh tranh lớn cho công ty, trước hết là sẽ giữ được thị trường tiêu thụ hiện tại của công ty, sau đó sẽ tạo điều kiện thâm nhập vào thị trường Mỹ, Nhật bản, Trung quốc mà trước đây Công ty chưa thể vào được. Mạng lưới tiêu thụ sẽ được mở rộng, khối lượng sản phẩm tiêu thụ sẽ tăng lên dẫn đến doanh thu tăng, lợi nhuận tăng. Cụ thể như sau: Biểu 12: Lợi nhuận dự kiến tăng thêm khi thực hiện giải pháp Mặt hàng Giá trị hiện tại đạt được Khối lượng hàng hoá tăng thêm Giá trị hàng hoá tăng thêm Chí phí Cho từng mặt hàng(usd\tấn) Lợi nhuận dự kiến thu được(usd) Lạc nhân 650 100 65000 54500 10500 Hạt tiêu 1775 50 88750 79000 9750 Cao su 705 25 17625 10000 7625 Cà phê 1560 40 62400 56000 6400 Gạo 293 80 23440 12000 11440 Quế 4120 20 82400 72000 10400 Điều 4010 25 100250 93000 7250 Tổng kim ngạch tăng thêm 340 439865 63365 Từ giải pháp này công ty có thể lợi nhuận khoảng 900 triệu đồng sau khi đã trừ đi các chi phí cho việc thực hiện các hoạt động cho giải pháp này. Thêm vào đó một số mặt hàng của công ty có thể có mặt tại nhiều thị trường trên thế giới. Lợi ích vô hình từ giải pháp này là rất lớn. Có thể sau khi thực hiện giải pháp này công ty sẽ cải thiện được hình ảnh cũng như tên tuổi của mình trên trường quốc tế. + Điều kiện thực hiện biện pháp + Thứ nhất: Điều đầu tiên mà Công ty cần thực hiện là thành lập phòng Marketing với những chức năng nhiệm vụ cụ thể để có thể đề ra và thực hiện một cách có hiệu quả các chính sách Marketing cần thiết cho Công ty. Gồm các chức năng như sau: + Chỉ ra các nhu cầu và xu hướng, cách thức thoả mãn nhu cầu của thị trường. + Phân đoạn và lựa chọn thị trường. + Đề xuất các chính sách vềthị trường, giá cả, chất lượng sản phẩm, phân phối,... để xâm nhập và khai thác thị trường. + Phối hợp với các phòng nghiệp vụ để thực hiện các hoạt động kinh doanh và hoạt động xuất nhập khẩu. + Thu nhận và phân tích các thông tin phản hồi từ bạn hàng, đối tác kinh doanh. Tổ chức phòng marketing. Phòng marketing Marketing nhập khẩu Marketing xuất khẩu Thị trường ngoài nước Nguồn hàng trong nước Thị trường ngoài nước Nhu cầu trong nước + Thứ hai: Cần xây dựng một “cơ chế” hợp lý nhằm phối hợp các hoạt động của phòng Marketing với các phòng chức năng khác trong Công ty. Chỉ có như vậy phòng Marketing mới có thể đề ra được các chính sách sát thực và có tính khả thi. + Thứ ba: Phòng Marketing cần có một đội ngũ cán bộ trẻ, năng động, có trình độ nghiệp vụ cao để thực hiện tốt nhiệm vụ của mình. Bởi do đặc điểm có một thị trường tiêu thụ rộng lớn, trong khi mạng lưới tiêu thụ còn mỏng nên sự nhiệt tình, năng động cũng như trình độ chuyên môn của các cán bộ trong phòng là vô cùng quan trọng trong việc thiết lập một hệ thống tiêu thụ một cách quy củ cho Công ty. + Thứ tư: Do tính chất đặc thù của một doanh nghiệp Nhà nước là bị ràng buộc bởi quá nhiều đạo luật, các quy định này đã ràng buộc Công ty trong việc xử lý chi phí cho việc quảng cáo. Sẽ là tốt hơn nếu các chi phí quảng cáo được nới lỏng hơn, và khi đó Công ty sẽ có đầy đủ kinh phí hơn để thực hiện công việc này. Giải pháp thứ tư: Tăng cường đào tạo nhằm nâng cao chất lượng đội ngũ lao động. + Cơ sở lý luận Con người là nguồn lực quan trọng đối với bất kỳ một doanh nghiệp nào để nó hoạt động có hiệu quả. Sự thành công hay thất bại của bất kỳ một doanh nghiệp lớn hay nhỏ phụ thuộc chủ yếu vào nguồn nhân lực và hiệu suất của người lao động vì chính con người tác động đến việc nâng cao chất lượng sản phẩm. Nếu doanh nghiệp có một đội ngũ lao động có đủ kiến thức, trình độ kỹ thuật, công nghệ thì sẽ góp phần thúc đẩy sự phát triển của doanh nghiệp, tạo ra thế mạnh vượt trội quyết định sự thắng lợi trong cạnh tranh. + Cơ sở thực tiễn Công ty với bề dày kinh nghiệm lâu năm đã góp phần hình thành một đội ngũ lao động có nhiều kinh nghiệm trong sản xuất nhưng với chủ trương dần dần đổi mới thiết bị cũ bằng thiết bị công nghệ hiện đại chỉ có kinh nghiệm thôi chưa đủ mà còn cần phải có trình độ kỹ thuật và chuyên môn để làm chủ được công nghệ, vận hành các trang thiết bị công nghệ mới đảm bảo một cách tốt nhất trong việc nâng cao năng suất và chất lượng sản phẩm. Do vậy, để đảm bảo cho công tác đầu tư đổi mới công nghệ có hiệu quả trong những năm tới thì Công ty cần phải có kế hoạch đào tạo để nâng cao trình độ quản lý của các cán bộ quản lý, trình độ chuyên môn của các kỹ sư công nghệ và kỹ sư cơ khí, trình độ tay nghề và tác phong làm việc cho công nhân. + Phương thức tiến hành * Đối tượng đào tạo + Các cán bộ trong bộ máy quản lý. + Đội ngũ công nhân. * Hình thức đào tạo: Công ty có thể sử dụng hai hình thức đào tạo là đào tạo tại chỗ và gửi đi đào tạo. Đào tạo tại chỗ : + Đào tạo lại công nhân: Đối với công nhân kỹ thuật bậc cao và công nhân lành nghề thông qua các kỳ thi nâng bậc để đánh giá phân loại công nhân có tay nghề khá, trung bình và yếu từ đó có phương thức đào tạo thích hợp với từng loại. Công ty nên tổ chức các lớp học tại Công ty cho những công nhân có trình độ tay nghề trung bình và yếu mỗi năm thực hiện 2 khoá, mỗi khoá 6 ngày, chi phí cho mỗi ngày là 5.000.000 đồng. Như vậy trong một năm chi phí cho đào tạo lại công nhân sẽ là: Chi phí cho đào tạo lại công nhân = 2´6 ´5.000.000 = 60.000.000 đồng. + Đối với đội ngũ công nhân, tổ trưởng sản xuất thì sau mỗi quý Công ty cũng nên tổ chức các cuộc hội thảo trao đổi rút kinh nghiệm trong lĩnh vực như: quản lý, kỹ thuật, nghiệp vụ, để từ đó học hỏi những kiến thức bổ ích nhằm giúp họ điều hành tốt một tổ, một ca sản xuất. Như vậy, trong một năm Công ty sẽ tổ chức 2 lần hội thảo, chi phí cho một lần hội thảo là 5.000.000 đồng. Vậy tổng chi phí hội thảo là 4´5.000.000 = 20.000.000 đồng. Ta có tổng chi phí dành cho đào tạo tại chỗ là: 60.000.000 + 20.000.000 + 50.000.000 = 130.000.000 đồng. Gửi đi đào tạo: + Đối với cán bộ chủ chốt thì cần phải trang bị, bổ sung và nâng cao trình độ lý luận về các kiến thức cơ bản như kiến thức về công nghệ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng tổng hợp ( dự đoán, lập kế hoạch, ra quyết định ). Những cán bộ này phải được đào tạo trên các lĩnh vực như tổ chức quản lý kinh doanh, pháp luật kinh tế, tiền tệ, tín dụng, phân tích hoạt động kinh doanh, thông tin, thị trường, kinh tế đối ngoại, ngoại ngữ đạt bằng C có thể giao dịch trực tiếp khi làm việc với khách hàng nước ngoài ( khi có nhu cầu ). Công ty có thể tổ chức học tập trung theo định kỳ một năm một khoá học. Chi phí cho mỗi khoá học ước tính là 50.000.000 đồng cho 3 cán bộ. Ngoài ra, Công ty có thể cho các cán bộ này đi tham quan khảo sát tại các doanh nghiệp tiên tiến khác để học hỏi kinh nghiệm. + Đào tạo cán bộ, kỹ thuật, để nâng cao hiệu quả của công tác quản lý, với những cán bộ quản lý được phát triển từ đội ngũ cán bộ kỹ thuật thì nên đào tạo thêm kiến thức về quản lý. Với những cán bộ quản lý kinh doanh mà không phải xuất thân từ cán bộ kỹ thuật thì nên trang bị thêm các kiến thức về kỹ thuật công nghệ, trọng tâm đào tạo cán bộ kinh tế kỹ thuật hiện nay là ngoại ngữ, vi tính, các tiến bộ về khoa học kỹ thuật và công nghệ trong và ngoài nước. Các mô hình quản lý tiên tiến về mô hình đào tạo có thể đưa vào các lớp đào tạo do Bộ Công nghệ tổ chức hoặc các trường đại học trong và ngoài nước chiêu sinh để cử đi học. Cử 5 cán bộ kỹ thuật, quản lý, kinh doanh đi học trang bị thêm kiến thức tại các trường đại học. Mỗi khoá học 2 năm, chi phí cho một người mỗi khoá học là 10.000.000 đồng. Tổng chi phí sẽ là: 5 ´ 10.000.000 = 50.000.000 đồng. Cử 1 cán bộ kỹ thuật và 1 cán bộ quản lý kinh doanh có năng lực, triển vọng ra nước ngoài học để nắm bắt được những tiến bộ của các nước trên thế giới về vận dụng vào sản xuất kinh doanh của Công ty. Chi phí cho mỗi người ước tính là 100.000.000 đồng mỗi năm, khoá học kéo dài 2 năm. Như vậy, tổng chi phí sẽ là 2 ´ 100.000.000 ´ 2 = 400.000.000 đồng. Tổng chi phí gửi đi đào tạo là 50.000.000 + 50.000.000 + 400.000.000 = 500.000.000 đồng. Những ngành nghề cần đào tạo do Công ty yêu cầu, phòng tổ chức hành chính đi liên hệ các cơ sở đào tạo có uy tín để cử cán bộ đi học. + Hiệu quả của biện pháp Thực hiện triệt để biện pháp trên từ 2 đến 3 năm sau công ty sẽ có: đội ngũ cán bộ chủ chốt với những kiến thức toàn diện như kỹ năng về công nghệ, kỹ năng giao tiếp, kỹ năng lập kế hoạch, ra quyết định..., đội ngũ cán bộ kỹ thuật và quản lý, đội ngũ công nhân với trình độ tay nghề cao...sẽ góp phần xây dựng một đội ngũ lao động có trình độ tốt, đủ khả năng tiếp cận vận hành các trang thiết bị công nghệ mới góp phần nâng cao hiệu quả sản xuất kinh doanh, thực hiện thành công các nhiệm vụ Công ty đề ra và hơn nữa là góp phần vào tăng sức cạnh tranh cho Công ty, giúp Công ty tồn tại và phát triển lâu dài. +Điều kiện thực hiện biện pháp + Thứ nhất: Công ty cần đào tạo ra một bầu không khí tích cực bồi dưỡng và tự bồi dưỡng đối với các cán bộ công nhân viên của mình + Thứ hai: Công ty cần có một số công nhân có trình độ tay nghề vững đồng thời có các mối quan hệ với các cán bộ kỹ thuật khác ở các cơ sở đào tạo để những người này có đủ khả năng tổ chức các cuộc thi và đánh giá chính xác kết quả thi của các công nhân. + Thứ ba: Công ty cần có các biện pháp để đánh giá, phân loại công nhân viên chức định kỳ để xác định một cách đúng đắn đối tượng cần đào tạo. Đồng thời Công ty cũng cần có các mối quan hệ với các trung tâm đào tạo để có thể gửi đúng đối tượng đến được nới cần đến để đào tạo. III. Một số kiến nghị với Nhà nước . Thực tế những năm qua cho thấy hoạt động xuất khẩu nông sản có những đóng góp to lớn cho xuất khâủ Việt Nam nói riêng và kinh tế Việt Nam nói chung. Vì vậy việc tiếp tục nâng cao khả năng xuất khẩu nông sản ở Việt nam sẽ là hướng đi đúng đắn trong những năm tới. Để đẩy mạnh xuất khẩu nông sản thì vai trò của Nhà nước là rất quan trọng. Với mong muốn góp phần thúc đẩy hoạt động xuất khẩu nông sản ở Công ty xuất nhập khẩu Tổng hợp I nói riêng và Việt nam nói chung, em xin được mạnh dạn đưa ra một số kiến nghị đối với Nhà nước. 1. Qui hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản xuất khẩu Để nâng cao hơn nữa chất lượng hàng nông sản, việc qui hoạch các vùng sản xuất và chế biến nông sản là rất cần thiết. Qui hoạch vùng sản xuất cho phép ta có thể áp dụng các kỹ thuật đối với cây trồng một cách hợp lý, đồng bộ. Hơn nữa, nhờ có qui hoạch, đầu tư cơ sở hạ tầng cho các cơ sở sản xuất nông sản sẽ đạt hiệu quả cao hơn. Cũng căn cứ vào qui hoạch, Nhà nước có thể kế hoạch hoá được các hoạt động sản xuất và xuất khẩu nông sản. Nhà nước cũng cần xây dựng các nhà máy chế biến ở trong hay gần vùng sản xuất nông sản. Các nhà máy chế biến này có nhiệm vụ ký kết hợp đồng thu mua nông sản đối với các hộ nông dân, với cam kết về số lượng, chất lượng, thời gian nhằm định hướng cho người nông dân sản xuất. Với việc qui hoạch vùng sản xuất, chế biến nông sản, các hoạt động sản xuất, thu mua, vận chuyển, bảo quản, chế biến...được diễn ra một cách tập trung, đồng bộ từ đó làm giảm chi phí, giảm giá thành hàng nông sản xuất khẩu làm tăng lợi nhuận, tăng sức cạnh tranh của hàng nông sản Việt nam trên thị trường quốc tế. 2. Trợ giúp cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản 2.1. Hỗ trợ các doanh nghiệp trong việc tìm kiếm thị trường Hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản ở Việt nam đều gặp khó khăn trong việc tìm kiếm thị trường. Nguyên nhân chủ yếu của tình trạng này là không đủ chi phí cho hoạt động nghiên cứu thị trường một cách thoả đáng. Hơn nữa thị trường nông sản thế giới biến động rất thất thường và mang tính thời vụ nên đòi hỏi về thông tin thị trường phải rất nhanh và chính xác, trong khi việc tiếp nhận các thông tin này ở các doanh nghiệp Việt nam vẫn còn rất chậm. Do vậy, trong thời gian tới Nhà nước cũng như các Bộ có liên quan phải đặc biệt chú ý đến công tác nghiên cứu, khảo sát thị trường để nắm bắt kịp thời nhu cầu hàng nông sản trên thị trường quốc tế, thông tin về giá cả kịp thời cho các doanh nghiệp để tránh tình trạng bị ép giá, đồng thời tạo điều kiện cho các doanh nghiệp có cơ hội thăm dò, tìm kiếm thị trường. Phân đoạn thị trường theo khu vực cho một số đầu mối xuất khẩu nông sản lớn. Biện pháp này tạo điều kiện chuyên sâu về thị trường cho các doanh nghiệp, đồng thời tránh sự cạnh tranh của chính các doanh nghiệp trong nước, làm thiệt hại đến lợi ích quốc gia. Nhà nước cũng nên thành lập các trung tâm xúc tiến thương mại ở các vùng để cung cấp các thông tin kinh tế phục vụ cho hoạt động nghiên cứu thị trường cho các công ty. 2.2. Hỗ trợ về vốn cho các doanh nghiệp Chúng ta đều biết rằng hoạt động kinh doanh nông sản có tính chất thời vụ. Do vậy vốn cho thu mua hàng tại các vụ là rất lớn vì đòi hỏi phải diễn ra tập trung, nhanh chóng. Bên cạnh đó chi phí thu mua, vận chuyển dự trữ, bảo quản để có hàng đúng theo yêu cầu cung cấp cho thị trường thế giới cũng rất tốn kém. Trong thời điểm hiện nay, hầu hết các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản đều gặp khó khăn về vốn vì thế việc Nhà nước hỗ trợ vốn cho các doanh nghiệp này là rất cần thiết. Nhà nước có thể sử dụng một số biện pháp: Khuyến khích Ngân hàng cho các doanh nghiệp vay vốn thu mua nông sản. Bỏ qua quy định hạn chế mức tín dụng đối với các Ngân hàng thương mại khi cho các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản vay. Thông qua các tổ chức Ngân hàng thực hiện cơ chế: bảo lãnh tiền vay, tiền mua và bán hàng trả chậm, bảo lãnh nộp thuế, bảo đảm hợp đồng với các đơn vị xuất khẩu nông sản. Hình thành quỹ hỗ trợ xuất khẩu để cấp tín dụng ưu đãi và bảo lãnh tín dụng cho hoạt động xuất khẩu. 3. Cải tiến các cơ chế trong hoạt động xuất khẩu nông sản 3.1. Cải tiến phương thức quản lý đầu mối và hạn ngạch xuất khẩu Đây là vấn đề then chốt trong xuất khẩu nông sản, nó ảnh hưởng tới cơ cấu và qui mô của bộ máy xuất khẩu nông sản. Hiện nay, việc quản lý bằng hạn ngạch xuất khẩu đối với một số mặt hàng nông sản còn có nhiều bất cập. Chẳng hạn đối với mặt hàng gạo, Nhà nước áp dụng hạn ngạch với khoảng 41 đơn vị đầu mối xuất khẩu gạo trực tiếp trong cả nước và các doanh nghiệp ngoài đầu mối khi tìm kiếm thị trường mới phải thông qua Bộ Thương mại xem xét và trình Chính phủ quyết định. Chính điều này làm các doanh nghiệp hay bị động trong việc giao dịch xuất khẩu. Vì vậy đòi hỏi phải nâng cao năng lực điều hành phân bổ hạn ngạch sát thực tế hơn. Bên cạnh đó, Nhà nước cần duy trì ổn định các đầu mối xuất khẩu trực tiếp để các doanh nghiệp có điều kiện đầu tư cơ sở vật chất kỹ thuật và xây dựng mở rộng thị trường xuất khẩu nông sản. 3.2. Nâng cao hiệu quả điều hành xuất khẩu nông sản - Công bố giá sàn thu mua nông sản ngay từ đầu vụ để người dân yên tâm sản xuất đồng thời làm tín hiệu cho các ngành, các doanh nghiệp tham gia điều hành thị trường nhằm giữ cho giá nông sản ở mức hợp lý. Chính phủ cũng nên thành lập quỹ bảo hiểm xuất khẩu hàng nông sản nhằm hạn chế rủi ro cho người xuất khẩu hàng nông sản, lập lại trật tự mua bán thị trường trong và ngoài nước, nâng cao sức cạnh tranh và hiệu quả xuất khẩu nông sản. - Việc chỉ định doanh nghiệp đại diện giao dịch ký hợp đồng theo hiệp định Chính phủ và tham gia đấu thầu là cần thiết vì các hợp đồng theo hiệp định Chính phủ thường được giá cao, khối lượng lớn giúp cho các doanh nghiệp tiêu thụ được hàng hoá và có cơ sở để đấu tranh giá cả đối với các khách Kết luận Cùng với xu thế hội nhập chung của thế giới,Việt Nam đang nỗ lực trong quá trình công nghiệp hoá, hiện đại hoá đất nước. Một trong những nhân tố quan trọng của quá trình này là hoạt động xuất khẩu, một nguồn cung cấp ngoại tệ chính để trang trải cho các nhu cầu nhập khẩu của nền kinh tế, góp phần cân đối, duy trì và tái mở rộng sản xuất trong nước, tranh thủ những tiến bộ khoa học và công nghệ thế giới, đáp ứng nhu cầu không ngừng nâng cao trình độ phát triển kinh tế xã hội nước nhà. Công ty XNK Tổng hợp I là một doanh nghiệp nhà nước thamgia vào lĩnh vực xuất nhập khẩu ngay từ những ngày đầu chuyển đổi cơ cấu kinh tế của nước ta. Hiện nay, Công ty đã tạo lập được một vị trí tương đối vững vàng trên thị trường trong nước cũng như thế giới. Đặc biệt là hoạt động xuất khẩu nông sản của Việt Nam. Trên cơ sở định hướng của Đảng và Nhà nước, Công ty cũng coi nông sản là mặt hàng xuất khẩu chiến lược trong những năm tới và tích cực tìm kiếm những giải pháp nhằm đẩy mạnh hoạt động xuất khẩu mặt hàng này. Nhận thức được điều đó, cộng với sự quan tâm,lòng mong muốn được đóng góp ý kiến vào sự nghiệp chung của Công ty, của đất nước, em quyết định dành sự nghiên cứu của mình vào đề tài “ nâng cao năng lực cạnh tranh của mặt hàng nông sản xuất khẩu ở công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I ”. Bài viết sẽ không tránh khỏi những sai sót, tôi rất mong sẽ nhận được những góp ý, bổ sung từ phía thầy cô giáo và cán bộ trong Công ty. Một lần nữa xin chân thành cảm ơn cô giáo Đinh Ngọc Quyên và các cô chú trong công ty xuất nhập khẩu tổng hợp I đã tận tình giúp đỡ để em có thể hoàn thành tốt nhiệm vụ của mình. Tài liệu tham khảo Giáo trình Quản Trị Kinh doanh thương mại quốc tế Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân-PGS, TS Trần Chí Thành(1997). Giáo trình Thanh toán quốc tế Trường Đại học Kinh Tế Quốc Dân - PGS,TS Nguyễn Duy Bột.(1999). Kỹ thuật nghiệp vụ ngoại thương - PGS, TS Vũ Hữu Tửu, nhà xuất bản giáo dục.(1996). Kinh tế ngoại thương - PTS Bùi xuân Lưu , nhà xuất bản giáo dục 1996. Giáo trình Quản trị Doanh Nghiệp- PGS, PTS Hoàng Minh Đường, Nguyễn thừa Lộc. Tạp chí Thương Mại: số 3-2001. Các báo cáo tổng kết kết quả kinh doanh của Công ty Xuất nhập khẩu Tổng hợp 1 từ 1996- 2001. Các báo: Thời báo kinh tế Việt Nam, báo Đầu Tư, báo Nông nghiệp năm 2000 và 2001... Luận văn K37,38,39

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc29873.doc
Tài liệu liên quan