Luận văn Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán séc tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình Hà Nội

Năm 2004, Việt Nam của chúng ta đang trên con đường tiến tới mở cửa và hội nhập, giao lưu với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, cơ hội mở ra rất nhiều nhưng thách thức sẽ gặp cũng không phải là ít. Đối với ngành Ngân hàng, hoạt động Ngân hàng trong nước không những càng tăng tính cạnh tranh lẫn nhau mà còn gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng liên doanh, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng có những chiến lược phát triển và hoàn thiện hệ thống Ngân hàng Việt Nam về tất cả các mặt, đặc biệt là phát triển và mở rộng quy mô thanh toán không dùng tiền mặt trong hệ thống Ngân hàng Thương mại.

doc84 trang | Chia sẻ: aloso | Lượt xem: 1361 | Lượt tải: 0download
Bạn đang xem trước 20 trang tài liệu Luận văn Giải pháp nhằm mở rộng hoạt động thanh toán séc tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình Hà Nội, để xem tài liệu hoàn chỉnh bạn click vào nút DOWNLOAD ở trên
iện nay khi mà thanh toán chuyển tiền điện tử được đựa vào sử dụng rộng rãi trong thanh toán với tốc độ thanh toán nhanh chóng, an toàn và chính xác đã rất hấp dẫn khách hàng sử dụng. Như vậy, qua báo cáo nghiệp vụ qua mấy năm qua tại ngân hàng ta thấy doanh số thanh toán của từng hình thức tăng lên đáng kể. Điều này chứng tỏ công tác thanh toán không dùng tiền mặt của Chi nhánh, công tác thanh toán không dùng tiền mặt nói chung và thanh toán bằng séc nói riêng phải được đổi mới liên tục, cần phải có những giải pháp hữu hiệu để đáp ứng hơn nữa nhu cầu đa dạng và phức tạp của nền kinh tế hiện nay. 2.2.1.5 Những kết quả đạt được và những tồn tại của TTKDTM. Trong năm 2004, tổng doanh số thanh toán tại ngân hàng đạt 34627342 triệu đồng. Trong đó, thanh toán không dùng tiền mặt đạt 140684 món, doanh số thanh toán là 26834146triệu đồng, chiếm tỷ trọng 77,49% trong tổng thanh toán chung. Như vậy, thanh toán không dùng tiền mặt chiếm tỷ trọng rất cao. Mặc dù khối lượng công việc ngày càng lớn song công tác thanh toán nói chung và thanh toán không dùng tiền mặt nói riêng vẫn luôn đảm bảo an toàn, chính xác và kịp thời. + Công tác thanh toán liên hàng ổn định, tiếp nhận và xử lý kịp thời mọi chứng từ thanh toán đi các ngân hàng trong cả nước. Trường hợp sai sót xảy ra thì sẽ được tiến hành xử lý nhanh chóng. Còn công tác bù trừ, ngân hàng tổ chức một ngày 2 phiên để thực hiện thanh toán với các ngân hàng thành viên, do đó việc thanh toán luôn diễn ra nhanh gọn và suôn sẻ. + Bộ phận thanh toán viên giao dịch trực tiếp với khách hàng luôn cởi mở, phục vụ tốt mọi yêu cầu của khách hàng. Các nghiệp vụ phát sinh luôn được giải quyết nhanh chóng, chính xác, bám sát các văn bản chế độ của ngành. + Ngân hàng đã áp dụng giao dịch một cửa cùng với ứng dụng công nghệ thanh toán hện đại vào trong công tác thanh toán toàn hệ thống đã giúp cho ngân hàng từng bước khai thác thông tin giao dịch hàng ngày và rút ngắn được thời gian thanh toán. + Chi nhánh NHCT Ba Đình đã thực hiện đầy đủ, đúng đắn các quy trình nghiệp vụ theo các văn bản chế độ quy định Bên cạnh những kết quả đạt được, tại ngân hàng vẫn còn tồn tại một số yếu kém trong hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt. + Việc sử dụng thẻ để thanh toán ở ngân hàng đại đa số là thanh toán trong nội bộ ngân hàng thông qua việc trả lương cho cán bộ công nhân viên. Thẻ chưa được áp dụng rộng rãi và đặc biệt thể chưa phổ biến tới khách hàng là cá nhân trong khi đây là phương tiện thanh toán hiện đại và có nhiều tiện ích đối với khách hàng, góp phần nâng cao thu nhập cho ngân hàng. + Trình độ đội ngũ cán bộ kế toán chưa đồng đều, chưa đáp ứng yêu cầu đề ra. Kiến thức về tin học, ngoại ngữ của họ chưa được đào tạo có hệ thống nên phần nào hạn chế, công tác thanh toán trong thời gian qua. 2.2.2 Thực trạng thanh toán Séc tại Ngân hàng Công Thương Ba Đình Hà Nội: 2.2.2.1 Cơ sở pháp lý và việc tổ chức hoạt động thanh toán bằng séc tại NHCT Ba Đình. * Cơ sở pháp lý trong thanh toán séc tại chi nhánh: Đến nay hệ thống NHCT Việt Nam chưa có một quyết định nào về thanh toán séc cho riêng mình. Công tác tổ chức và thanh toán séc tại đây chủ yếu vẫn dựa trên các quy định, nghị định, thông tư hướng dẫn chung của chính phủ, NHNN áp dụng cho tất cả các tổ chức cung ứng dịch vụ thanh toán hoạt động trên lãnh thổ Việt Nam mà cụ thể là Nghị định 159/NĐ-CP về cung ứng và sử dụng séc của chính phủ ban hành ngày 10 tháng 12 năm 2003, thông tư số 05/2004/TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 159/CP. Sự ra đời của Nghị định này đã loại bỏ dần các yếu tố bất hợp lý do việc áp dụng các thông tư, nghị định trước đó như nghị định 22/QĐ-NH1 ngày 21/2/1994 hay nghị định 30/CP làm cho hoạt động thanh toán séc có bước tiến triển cao. * Tổ chức hoạt động thanh toán séc tại NHCT Ba Đình Hà Nội: - Việc thanh toán séc tại NHCT Ba Đình Hà Nội được phòng kế toán (có bộ phận chịu trách nhiện thanh toán séc) giám sát chặt chẽ trong cả khâu thanh toán và quản lý chứng từ, thực hiện hạch toán đầy đủ, kịp thời các nghiệp vụ kinh tế phát sinh, theo đúng các chế độ về thu- chi tài chính. Công tác ứng dụng công nghệ tin học vào thanh toán séc được quan tâm thực hiện chu đáo đã nâng cao năng suất và hiệu quả thanh toán. * Kết quả đạt trong công tác thanh toán Séc cho khách hàng. + Toàn bộ các tờ séc do người thụ hưởng nộp vào ngân hàng đều đảm bảo thanh toán nhanh chóng, kịp thời và thực hiện đúng quy định về thanh toán séc. + Chất lượng thanh toán séc tại chi nhánh được đảm bảo. Điều này được thể hiện ở tốc độ xử lý các giao dịch diễn ra nhanh chóng, chính xác và an toàn. Ngoài ra, thông tin về tài khoản, về tình hình tài chính của khách hàng được cập nhật tức thì, đảm bảo chính xác, tiện lợi cho khách hàng. + Thực tế rất đáng ghi nhận tại ngân hàng đó là bộ phận giao dịch viên luôn cởi mở, tận tình hướng dẫn khách hàng trong việc lập chứng từ cần thiết đồng thời làm công tác marketing cho khách hàng về những sản phẩm dịch vụ mới của ngân hàng. Như vậy, nhờ họ mà hoạt động thanh toán séc được thực hiện chính xác, đúng quy định và đảm bảo không xảy ra tình trạng sai sót, tạo ấn tượng tốt với khách hàng đến giao dịch tại ngân hàng. + Bên cạnh việc thanh toán, việc bán séc cho khách hàng cũng được ngân hàng đảm bảo đúng quy định: khách hàng phải nộp giấy đền nghị yêu cầu nhượng bán séc (mẫu 4). Mẫu lần ngân hàng bán séc theo quy định: không quá 3 quyển cho một pháp nhân và đối với khách hàng là cá nhân thì chỉ bán 1 quyển. Với khách hàng mới tham gia thanh toán bằng séc cũng được các nhân viên ngân hàng hướng dẫn về thủ tục phát hành séc, tránh tình trạng phát hành séc sai quy định. + Việc sử dụng séc trong thực tế hiện này thì ngời mua phải trả một mức phí khá hợp lý. Đối với việc bán séc thì khách hàng phải trả là 5000đồng/quyển séc còn khi một khoản nợ được chi trả bằng séc thì người sử dụng séc phải trả mức phí là 2500đồng/món. Ngoài ra, việc trả phí thanh toán còn phụ thuộc vào số tiền trên séc. 2.2.2.2 Kết quả thanh toán bằng Séc tại NHCT Ba Đình a) Tình hình thanh toán séc: Từ sau nghị định 159/2003/NĐ-CP của chính phủ về việc ban hành quy chế phát hành và sử dụng séc; Thông tư 05/2004TT-NHNN ngày 10/12/2003 hớng dẫn thực hiện quy chế phát hành và sử dụng séc, tốc độ thanh toán bằng séc đã từng bước đẩy mạnh, việc sử dụng séc tại NHCT Ba Đình trở nên phổ biến hơn trong các giao dịch thanh toán, nhưng vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong tổng TTKDTM Bảng 5: Bảng số liệu về thanh toán Séc Đơn vị: triệu đồng Chỉ tiêu Năm 2002 Năm 2003 Chênh lệch 2003/2002 Năm 2004 Chênh lệch 2004/2003 Số món thanh toán bằng séc. 11006 9421 -1585 16256 6835 Doanh số thanh toán bằng séc. 637759 595874 - 41885 667517 71643 Tỷ trọng thanh toán séc trong TTKDTM. 10,5% 8,94% 9,07% ( Nguồn: Báo cáo nghiệp vụ thanh toán năm 2002, năm 2003, năm 2004) Về số món: Năm 2002 số món thanh toán tại đây là đạt 11006 món thì sang năm 2003 đạt 9421 món giảm 1585 món so với năm 2002 và năm 2004 là 16256 món tăng 6835 món so với năm 2003. Về doanh số: Thì năm 2003 giảm cả số món lẫn số tiền. Cụ thể năm 2003 doanh số đạt 595874 triệu giảm hơn so với năm 2002 là 41885 triệu đồng. Nhưng sang năm 2004 thì doanh số lại đạt 667517 triệu đồng, tăng 71643 triệu đồng so với năm 2003. Nhận xét: Nhìn chung thanh toán séc tại NHCT Ba Đình qua các năm có xu hướng biến động không đều, điển hình năm 2003 thanh toán séc đã giảm cả về số món và doanh số. Song sang năm 2004 thì lại tăng đáng kể. Sở dĩ thanh toán séc vẫn còn hạn chế là do đối tượng khách hàng sử dụng séc vẫn dừng lại ở các tổ chức, doanh nghiệp còn về cá nhân thì rất hạn chế. Đây là một tồn tại mà không chỉ riêng ngân hàng Công thương mà các ngân hàng khác cũng gặp phải. Về cơ cấu sử dụng các loại Séc: ( Bảng 6 ) Loại Năm 2002 Năm 2003 Năm 2004 Số món Doanh số Tỷ trọng (%)về doanh số Số món Doanh số Tỷ trọng (%)về doanh số Số món Doanh số Tỷ trọng (%)về doanh số Séc chuyển khoản 8653 499991 78,39 7301 447763 75,14 9983 509639 76,34 Séc bảo chi 2323 135680 21,27 2097 147960 24,83 3238 156873 23,5 Séc bảo lãnh 0 0 0 0 0 0 0 0 0 Tổng thanh toán séc 11006 637759 100 9421 595874 100 16256 667517 100 ( Nguồn: Báo cáo nghiệp vụ thanh toán năm 2002, năm 2003, năm 2004) * Đối với Séc chuyển khoản: Qua bảng số liệu tình hình thực tế việc áp dụng hình thức thanh toán bằng séc chuyển khoản tại Chi nhánh NHCT Ba Đình ta thấy séc chuyển khoản được sử dụng khá phổ biến. Cụ thể: Năm 2004, thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 9983 món, chiếm tỷ trọng 61,41 % trong tổng số món thanh toán bằng séc, doanh số thanh toán đạt 509639 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 76,34% trong tổng doanh số thanh toán séc, tăng 61876 triệu VNĐ (tăng 13,81%) so với năm 2003. Hiện nay, tại Chi nhánh NHCT Ba Đình, séc chuyển khoản được sử dụng khá nhiều. Khách hàng sử dụng séc chuyển khoản chủ yếu là các doanh nghiệp lớn, doanh nghiệp vừa và nhỏ, các công ty TNHH, các công ty cổ phần như: điện lực Tây Hồ, công ty xây dựng công trình giao thông 1, công ty TNHH đào tạo và chuyển giao công nghệ cao, công ty thương mại và dịch vụ xây dựng… Kết quả trên đã chứng minh thanh toán séc chuyển khoản đã phát huy được những ưu điểm của nó trong công tác thanh toán không dùng tiền mặt. Đó là: + Có thủ tục phát hành, thủ tục thanh toán đơn giản và thuận tiện: khi khách hàng có nhu cầu thì ngân hàng bán trực tiếp, sau đó khách hàng tự phát hành séc để mua hàng hoá ngay tại nơi diễn ra giao dịch mua bán sau khi đã thoả thuận với người bán mà không cần phải đến ngân hàng làm bất kỳ thủ tục nào. Điều này đã giảm được thủ tục rườm rà phức tạp và tiết kiệm được thời gian cho người phát hành. + Thủ tục thanh toán séc chuyển khoản đơn giản, không phải chuyển qua một tài khoản trung gian nào nên giúp công tác kế toán trong ngân hàng đỡ phức tạp hơn. + Thanh toán bằng séc chuyển khoản có đặc điểm không phải ký gửi tiền vào tài khoản riêng để thanh toán trước khi giao séc cho người thụ hưởng nên người phát hành séc không bị mất một khoản sinh lời từ số tiền ký gửi như Séc bảo chi. + Năm 2003, thanh toán bằng séc chuyển khoản đạt 7301 món, chiếm tỷ trọng 77,5% trong tổng số món thanh toán bằng séc. Doanh thu thanh toán đạt 447763 triệu đồng, chiếm trọng 75,1% giảm 52228 triệu đồng (giảm 9,4%) so với năm 2002. Kết quả trên cho thấy, bên cạnh ưu điểm đã nêu trên, thanh toán bằng séc chuyển khoản cũng bộc lộ một số nhược điểm nhất định sau: + Hiện nay tại NHCT Ba Đình phạm vi thanh toán hẹp, chỉ áp dụng đối với khách hàng mở tài khoản tại cùng một ngân hàng, hoặc nếu khác ngân hàng thì hai ngân hàng đó phải tham gia thanh toán bù trừ trên cùng một địa bàn tỉnh thành phố, có giao dịch chứng từ trực tiếp. Chính điều này đã làm hạn chế rất nhiều đến tính thông dụng của séc. + Nguyên tắc thanh toán séc chuyển khoản: ghi nợ tài khoản người phát hành trước, ghi có tài khoản người thụ hưởng sau. Trường hợp khách hàng mở tài khoản tiền gửi thanh toán tại hai ngân hàng khác nhau, nếu thực hiện theo nguyên tắc trên thì quá trình luân chuyển chứng từ sẽ rất phức tạp. Mặt khác, nếu tài khoản tiền gửi của người phát hành không đủ tiền để thanh toán ngay thì vô tình người thụ hưởng đã bị chiếm dụng vốn trong một thời gian, ảnh hưởng đến hoạt động sản xuất kinh doanh của họ. + Khi nộp séc vào ngân hàng, người bán mong muốn sớm có tiền để tiến hành chu kỳ sản xuất kinh doanh của mình được liên tục. Nhưng nếu người bán nhận được tờ séc quá số dư, mặc dù theo Nghị định 159/2003/NĐ-CP của Thủ tướng Chính Phủ đã cho phép thanh toán một phần nhưng NHCT Ba Đình vẫn chưa áp dụng điều này vào trong hoạt động thanh toán của mình. Nên dù số tiền vượt quá lớn hay nhỏ theo nguyên tắc NH vẫn giữ lại chờ tài khoản đủ số dư mới thực hiện thanh toán. Như vậy, người bán ngoài thời gian đợi chứng từ luân chuyển còn phải chờ đợi tài khoản ngời mua đủ số dư để thanh toán. Trong cơ chế thị trường cạnh tranh như hiện nay, việc phải đợi để được thanh toán sẽ làm cho người bán mất đi một số cơ hội kinh doanh khác gây thiệt hại cho người bán. Để thu hút khách hàng sử dụng séc chuyển khoản hơn nữa thì ngân hàng cần phải có các biện pháp khắc phục những hạn chế của séc chuyển khoản cũng như các loại séc khác. * Đối với Séc bảo chi : Tại Chi nhánh NHCT Ba Đình, séc bảo chi được sử dụng với khối lượng nhỏ trong tổng thanh toán không dùng tiền mặt, chiếm tỷ trọng thấp trong tổng thanh toán bằng séc. Cụ thể: Năm 2003, số món thanh toán đạt 2097 món giảm 1179 món so với năm 2002, chiếm tỷ trọng 11,3% trong tổng số món thanh toán bằng séc. Doanh số thanh toán đạt 147960 triệu đồng, chiếm 24,8% trong tổng doanh số thanh toán bằng séc, tăng so với năm 2002 là 12280 triệu đồng (tăng 9,01%) so với năm 2002. Năm 2004, thanh toán bằng séc bảo chi đạt 6238 món, chiếm tỷ trọng 38,37% trong tổng số món thanh toán bằng séc, doanh số thanh toán đạt 156873 triệu đồng, chiếm tỷ trọng 23,5% trong tổng doanh số thanh toán bằng séc, tăng 8913 triệu VNĐ (tăng 6,02%) so với năm 2003. Có thể thấy được rằng, số món thanh toán séc bảo chi giảm nhưng doanh số thanh toán lại tăng. Điều này chứng tỏ khách hàng sử dụng séc bảo chi để thanh toán những món có giá trị lớn và những ưu điểm của nó đã được phát huy trong thanh toán: + Việc sử dụng hình thức thanh toán séc bảo chi luôn đảm bảo an toàn cho các bên tham gia. Do điều kiện bảo chi séc là đơn vị thanh toán phải lưu ký một khoản tiền bằng số tiền ghi trên séc vào ngân hàng thanh toán nên séc bảo chi được ghi Có ngay cho người thụ hưởng (đối với tờ séc hợp lệ), không làm ứ đọng vốn và tạo nên sự tin cậy giữa các đơn vị kinh tế. + Thời gian thanh toán của séc bảo chi rất nhanh: nếu là séc bảo chi cùng một ngân hàng thì người thụ hưởng séc đợc ghi Có ngay vào tài khoản tiền gửi của họ. Nếu là séc bảo chi trong cùng hệ thống thì bất cứ lúc nào khách hàng nộp séc vào ngân hàng, sau khi kiểm tra ký hiệu mật cũng như các yếu tố trên séc, khách hàng sẽ được thanh toán ngay và nếu khách hàng có nhu cầu chuyển tiền đến địa phương khác thì ngân hàng cũng sẽ sẵn sàng đáp ứng. Nếu là séc bảo chi khác hệ thống thì xử lý giống như séc chuyển khoản, ghi Nợ trước, ghi Có sau. Với séc bảo chi, người thụ hưởng không phải lo lắng tờ séc phát hành quá số dư. Đối với người bán, séc bảo chi đảm bảo quyền lợi hơn hẳn so với séc chuyển khoản, tuy nhiên nó cũng còn những hạn chế nhất định: + Thủ tục phát hành séc bảo chi rất phức tạp: sau khi đã điền đầy đủ các yếu tố trên tờ séc chuyển khoản, người mua phải đến ngân hàng làm thủ tục bảo chi cho tờ séc. + Để có thể phát hành séc bảo chi, người phát hành phải lưu ký quỹ một khoản bằng cách mở tài khoản tiền gửi đảm bảo thanh toán séc bảo chi, trên tài khoản phải đảm bảo một số dư nhất định. Khách hàng không được sử dụng số dư này cũng như không được hưởng lãi, điều này làm ứ đọng trong một thời gian nhất định, làm cản trở quá trình quay vòng vốn của khách hàng, do đó khách hàng ít sử dụng hình thức thanh toán này. + Hơn nữa, séc bảo chi thanh toán với khối lượng lớn, khi giữa người mua và người bán phải có sự tín nhiệm lẫn nhau mới thiết lập mối quan hệ kinh tế với nhau. Nhìn chung từ các bảng số liệu cho thấy, so với các hình thức TTKDTM khác thì Séc vẫn chiếm tỷ trọng nhỏ trong thanh toán. Vì bên cạnh những ưu điểm thì Séc vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế. 2.2.2.3 Các nguyên nhân cơ bản hạn chế thanh toán Séc tại NHCT Ba Đình Hà Nội. * Các nguyên nhân thuộc về Ngân hàng: - Phạm vi thanh toán của Séc: Hiện nay theo thông tư mới nhất 05/2004/TT-NHNN đã không còn giới hạn phạm vi thanh toán séc nhưng Ngân hàng vẫn chưa tận dụng triệt để lợi thế này. Quá trình triển khai thanh toán séc chưa sâu rộng, việc tiếp cận với các đối tượng trong dân cư còn hạn chế, còn bỏ qua nhiều đối tượng khách hàng, mới chỉ dừng ở mức quan tâm thu hút các khách hàng là doanh nghiệp, tổ chức còn khách hàng cá nhân thì ngân hàng chưa có sự hấp dẫn. Do vậy thanh toán séc chưa phổ biến, hiện tại đối tượng khách hàng là cá nhân mở tài khoản tại Ngân hàng cũng tương đối nhưng họ chưa được tiếp cận nhiều với Séc. - Chiến lược khách hàng: Hoạt động quảng cáo giới thiệu các tiện ích của séc cho khách hàng chưa cao, cách thức tiếp cận khách hàng để mở rộng thanh toán séc còn hạn chế, chỉ những khách hàng có quan hệ với Ngân hàng mới biết ít nhiều về séc, còn họ có sử dụng hay không sau khi biết được những thông tin đó thì Ngân hàng lại chưa có biện pháp để khuyến khích. Vì vậy mặc dù séc là một công cụ thanh toán từ rất lâu nhưng nó vẫn còn mới đối với người dân. - Công nghệ thanh toán séc của Ngân hàng chưa thật thuận tiện, quá trình ứng dụng công nghệ cũng không đồng bộ và ăn khớp, thời gian triển khai áp dụng triển khai không phải là quá mới mẻ nhưng kết quả đạt vẫn được vẫn chỉ là ở giai đoạn đầu. Cơ sở vật chất phục vụ thanh toán séc vẫn chưa trang bị hoàn thiện. Ngân hàng cần phải có sự vượt trội về công nghệ và nhân lực cũng như chất lượng thanh toán thoả mãn yêu cầu thực thế đề ra. - Về mẫu Séc: trên thực tế, tờ Séc nhỏ hơn so với nội dung phải ghi chép, phải dồn nén nội dung trong ghi chép, ghi tắt, chỗ đóng dấu không đủ. Cụ thể nhìn vào ( mẫu số 2 ) ta có thể thấy chỗ đóng dấu rất nhỏ và rất gần với chữ ký của kế toán. Địa chỉ của người người phát hành và người thụ hưởng chỉ có một dòng, rất ngắn nên kế toán sẽ phải viết tắt và khó tránh khỏi nhầm lẫn. - Thể lệ thanh toán còn bất cập, gò bó về phạm vi thanh toán, phạm vi luân chuyển và thủ tục phát hành séc tạo ra khách hàng những suy nghĩ rằng Ngân hàng chưa quan tâm tới lợi ích của khách hàng mà chỉ thiên về đảm bảo an toàn cho Ngân hàng trước mọi tình huống có thể xảy ra. * Các nguyên nhân về phía khách hàng: + Do thói quen ưa dùng tiền mặt từ lâu đời của người dân: tâm lý chung đã ăn sâu vào người dân mỗi khi có giao dịch thanh toán là luôn luôn sử dụng tiền mặt, với họ tiền mặt là dễ sử dụng nhất và thuận tiện nhất. + Mức thu nhập của đại bộ phận ngời dân còn quá thấp nên việc chuyển tiền lương của họ vào tài khoản cá nhân sẽ khó thực hiện vì chỉ được vài ngày, tiền lương lại phải rút ra để chi tiêu. Điều này làm hạn chế số lượng tài khoản tiền gửi cá nhân tại ngân hàng, không tạo điều kiện cho việc thanh toán séc qua tài khoản cá nhân. + Xuất phát từ thói quen ưa dùng tiền mặt nên có nhiều cơ sở cung cấp hàng hoá, dịch vụ không chấp nhận thanh toán bằng séc cho dù giá trị của giao dịch đó lên tới hàng trăm triệu đồng, họ chỉ tin tưởng vào khả năng thanh toán của khách hàng nếu nhận được tiền mặt. Việc thanh toán bằng séc không thể được mở rộng nếu người mua chấp nhận thanh toán bằng séc nhng người bán thì không và ngược lại. * Những nguyên nhân khác: Hiện nay, chúng ta có nhiều tổ chức phát hành và thanh toán Séc. Nhưng NHNN vẫn chưa tổ chức thanh toán bù trừ trên phạm vi toàn quốc… Tóm lại trong tình hình hiện nay thì việc mở rộng dịch vụ thanh toán qua Ngân hàng đặc biệt là séc và vịêc làm cần thiết nhưng là một quá trình lâu dài, phức tạp không thể tiến hành một cách nóng vội. Nền kinh tế nước ta đang trên đà đổi mới phát triển về mọi mặt, để phù hợp với tiến trình đó đòi hỏi NHNN, NHCT Việt Nam, các cơ quan có thẩm quyền và chính bản thân ngân hàng cần sớm đa ra các giải pháp hữu hiệu, thiết thực để đáp ứng tốt hơn nhu cầu của nền kinh tế và góp phần vào việc đưa đất nước phát triển vững mạnh. Chương III Giải pháp mở rộng thanh toán séc tại ngân hàng công thương Ba Đình 3.1. Phương hướng kinh doanh của ngân hàng công thương Ba Đình năm 2005: Năm 2005 mở ra cho Việt Nam một triển vọng kinh tế tốt đẹp, chưa bao giờ kinh tế Việt Nam đứng trước những cơ hội to lớn, tiếp cận được nhiều thị trường như vậy. Tuy nhiên Việt Nam cũng có thêm nhiều đối thủ cạnh tranh hết sức gay gắt, đòi hỏi các doanh nghiệp Việt Nam phải phấn đấu hơn nữa để không bị mất thị phần ngay tại Việt Nam. Đứng trước sự hội nhập khu vực và quốc tế, cuộc cạnh tranh của các doanh nghiệp trên thị trường trong nước sẽ gay gắt hơn, quyết liệt hơn, do đó sẽ gián tiếp ảnh hưởng đến hoạt động tín dụng của các ngân hàng. Mặt khác, hội nhập khu vực và quốc tế cũng sẽ đặt các ngân hàng Thương mại Việt Nam trước những thách thức mới. Tuy nhiên với truyền thống vốn có NHCT Ba Đình đã cố gắng phấn đấu đạt được nhiều kết quả đáng khích lệ trên các mặt công tác và ngân hàng cũng đã tập trung cao độ hơn để thích nghi với tình hình mới, với những mục tiêu đặt ra trong năm 2005 là: Đẩy mạnh công tác huy động vốn, đảm bảo nguồn vốn tăng trưởng ổn định, vững chắc, đổi mới cơ cấu nguồn vốn, mức tăng trưởng nguồn vốn huy động bình quân là 15%. Vốn huy động từ dân cư đạt 130000 triệu đồng tăng 46% so với năm 2004. Tổng nguồn vốn huy động 4002,9 tỷ đồng, tăng 10% so với năm 2004 Tổng dư nợ cho vay: 2040 tỷ đồng, tăng từ 15 -> 20%. Trong đó: + Tỷ trọng dự nợ trung dài hạn trong tổng dư nợ: 40% + tỷ trọng dư nợ quá hạn và nợ tồn đọng dưới < 1% + Xử lý nợ tồn đọng: 0,2 tỷ đồng Lợi nhuận hạch toán đạt: 65 tỷ đồng.. Để thực hiện tốt được các mục tiêu kinh doanh đã đề ra năm 2004, chi nhánh NHCT Ba Đình sẽ tiếp tục đổi mới và phát triển theo những định hướng sau: + Về công tác huy động vốn: trong 6 tháng đầu năm 2005, triển khai thêm một số quỹ tiết kiệm nhằm mở rộng thu hút tiền gửi chủ yếu từ dân cư đặc biệt là trên địa bàn quận Tây Hồ nơi Chi nhánh chưa có quỹ tiết kiệm nào. Tiếp tục giữ vững một só doanh nghiệp có tiền gửi lớn tại chi nhánh, mặt khác, tiếp tục tiếp cận một số khách hàng mới có nguồn vốn nhận từ tài trợ quốc tế về mở tài khoản tại chi nhánh. Thực hiện đa dạng hoá các hình thức huy động vốn, thường xuyên nâng cao tinh thần phục vụ khách hàng, xử lý nghiệp vụ nhanh để giữ vững và thu hút thêm khách hàng đến gửi tiền tại Chi nhánh. + Về công tác cho vay: Quán triệt nguyên tắc cho vay theo nguyên tắc thương mại và thị trường nhưng phải có mức tăng trưởng và chất lượng tín dụng lành mạnh, hiệu quả, bền vững. Thực hiện phân tích, đánh giá tình hình tài chính và khả năng sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, phân loại khách hàng để xác định mức cho vay, phương thức cho vay. + Công tác xử lý nợ tồn đọng: tiếp tục xử lý nợ tồn đọng còn lại theo chủ trương của chính phủ, của NHNN và hướng dẫn thực hiện của NHCTVN, đồng thời rà soát lại những món nợ tồn đọng của cả 3 nhóm để tiếp tục thực hiện xử lý theo hướng dẫn của NHNN và NHCTVN. + Công tác thanh toán: tiếp tục phát huy kết quả đã đạt được của năm 2004, công tác thanh toán luôn đảm bảo kịp thời, an toàn, chính xác, tạo điều kiện cho khách hàng luân chuyển vốn một cách nhanh nhất phục vụ cho hoạt động kinh doanh. Kinh doanh trong nền kinh tế thị trường, đặc biệt là kinh doanh tiền tệ trong bối cảnh diễn ra cuộc cạnh tranh gay gắt là một công việc vô cùng khó khăn, phức tạp. Tuy nhiên, với sự chỉ đạo kịp thời của NHNN, NHCT Việt Nam và các cấp chính quyền, ban ngành địa phương, sự hợp tác của bạn hàng… cùng với sự kết tinh trí tuệ tập thể và tinh thần lao động hăng say của toàn thể cán bộ nhân viên chi nhánh, toàn chi nhánh quyết tâm với tất cả trí tuệ và khả năng của mỗi người vì sự nghiệp của ngôi nhà chung NHCT Ba Đình nhất định sẽ thực hiện tốt phương hướng, nhiệm vụ đề ra. 3.2. Định hướng hoàn thiện công tác TTKDTM và mở rộng thanh toán Séc : 3.2.1 Hoàn thiện công tácTTKDTM : Mặc dù công tác TTKDTM ở NHCT Ba Đình không ngừng được cải thiện và mở rộng cả về phạm vi và quy mô thanh toán nhưng để vươn tới mục đích là một NHTM có uy tín, thu hút được nhiều khách hàng thì Ngân hàng có một số định hướng sau: - Nâng cao chất lượng của hoạt động TTKDTM: không để sảy ra sai sót chậm trễ trong quá trình thanh toán. Đảm bảo sử lý các yêu cầu thanh toán nhanh chóng, đúng quy trình theo quy định đáp ứng tốt nhất nhu cầu của khách hàng . - Mở rộng khuyến khích khách hàng là cá nhân, tổ chức kinh doanh nhỏ, vì đây là một thị trường đã bị bỏ ngỏ trong một thời gian dài và chưa có được sự quan tâm đúng mức đối với việc sử dụng các loại hình thanh toán của khách hàng. - Gảm bớt sự chênh lệch còn khá rõ nét giữa các hình thức thanh toán như chuyển tiền, UNT, UNC, thư tín dụng.. - Giảm tương đối về thời gian thực hiện thanh toán và thời gian làm thủ tục thanh toán. - Đảm bảo an toàn về tài sản của khách hàng cũng như các khoản thanh toán của họ . - Đào tạo chuyên môn hoá nghiệp vụ thanh toán cho nhân viên, cập nhật kiến thức về mọi hoạt động của Ngân hàng . Định kỳ Ngân hàng kết hợp đào tạo với kiểm tra nhằm nâng cao trình độ tin học, sử dụng tốt các phần mềm ứng dụng thanh toán để đạt hiệu qủa cao trong công việc (đảm bảo thanh toán chính sác kịp thời, giảm thiểu những sai sót trong quá trình thanh toán).Bên cạnh đó Ngân hàng hướng dẫn cụ thể quá trình áp dụng các văn bản, thể lệ quy định trong TTKDTM. 3.2.2. Mở rộng thanh toán Séc: Có thể nói, điều quan trọng nhất để có thể mở rộng séc trong nền kinh tế là việc mở rộng cả về phạm vi và đối tượng thanh toán séc. Hiện nay ở nước ta, phạm vi thanh toán séc còn rất hạn hẹp, séc chưa được thanh toán ra ngoài hệ thống trên phạm vi toàn quốc mà chủ yếu là thanh toán giữa hai khách hàng có tài khoản tại hai ngân hàng cùng hệ thống hoặc hai ngân hàng khác hệ thống nhưng có tham gia thanh toán bù trừ. Ngoài ra, một số tâng lớp dân cư có thu nhập khá lại sử dụng chủ yếu bằng tiền mặt chưa thanh toán bằng séc vì nhiều lý do như dấu thu nhập, trốn thuế và nhiều lý do nhạy cảm khác, do đó, tiềm năng mở rộng séc trong nền kinh tế còn lớn. Vì vậy, NHNN, chính phủ và các cơ quan có thẩm quyền cần phải thực hiện các biện pháp để mở rộng phạm vi thanh toán của séc với mục tiêu hàng đầu yêu cầu được thực hiện qua quy định của pháp luật và thực hiện một cách nghiêm ngặt theo pháp luật, được thực hiện qua ý thức trách nhiệm của người sử dụng séc, qua trách nhiệm, năng lực, trình độ của ngân hàng thương mại trong đó hàng đầu là công nghệ bảo vệ séc. Hiện nay, tại Chi nhánh NHCT Ba Đình, đối tượng sử dụng séc còn hạn hẹp, chủ yếu là các doanh nghiệp, còn dân cư thì không đáng kể. Do vậy, để mở rộng séc thì NHCT Ba Đình đã đề ra một số định hướng như: Với tiềm năng khách hàng cá nhân, nhưng từ trước tới nay séc cá nhân cũng như một số loại séc khác chưa được Ngân hàng quan tâm chú trọng vì vậy Ngân hàng sẽ đẩy mạnh hơn nữa các dịch vụ tài khoản cá nhân, duy, trì thường xuyên các hoạt động của tài khoản cá nhân như chi trả tiền lương của cán bộ công nhân viên và các doanh nghiệp thông qua Ngân hàng như điện lực, công ty dược, chi nhánh xăng dầu .. Xúc tiến mở rộng thanh toán séc tới nhiều đối tượng khách hàng khác nhau bên cạnh việc giữ mối quan hệ với các khách hàng truyền thống. Hiện nay số lượng khách hàng sử dụng séc đa số là các doanh nghiệp, tổ chức kinh tế và tập trung ở một số địa bàn nhất định trong thành phố . Tăng cường phối hợp chặt chẽ giữa các cấp Ngân hàng trên địa bàn trong việc hiện đại hoá hệ thống thanh toán để đảm bảo sự thống nhất triển khai thực hiện cơ chế thanh toán và các phương thức thanh toán mới . 3.3. Giải pháp mở rộng thanh toán bằng séc tại NHCT Ba Đình: Để mở rộng thanh toán séc, để séc phát huy được tính ưu việt vốn có của nó, góp phần vào việc phát triển thanh toán không dùng tiền mặt thì cần phải thực hiện các giải pháp sau: 3.3.1 Cho phép thấu chi trên tài khoản tiền gửi thanh toán: Trong tương lai việc sử dụng séc chuyển khoản sẽ ngày càng được mở rộng do việc hoàn chỉnh các điều khoản, quy định sử dụng séc và sự hỗ trợ của công nghệ hiện đại tạo điều kiện cho việc thanh toán séc được nhanh chóng chính sác hơn.Tuy nhiên nhược điểm của séc chuyển khoản là có thể phát hành quá số dư, nếu một tờ séc bị phát hành quá số dư thì người ký phát sẽ phải chịu phạt theo quy định. Nếu Ngân hàng cho phép thực hiện nghiệp vụ thấu chi đối với các khách hàng là khách hàng truyền thống có uy tín, bởi đối tượng khách hàng này chỉ thiếu vốn tạm thời trong thời gian ngắn với lý do khách quan, thì hiệu quả hoạt động sẽ cao hơn, tạo thêm cơ hội cho khách hàng sử dụng séc chuyển khoản để thanh toán những món tiền lớn và khách hàng cũng cảm thấy thoải mái với chính sách ưu đãi chăm sóc khách hàng của Ngân hàng, tạo mối quan hệ thân thiết của Ngân hàng đối với khách hàng có tài chính ổn định, có uy tín trong quan hệ chi trả. Về phía khách hàng nếu là người thụ hưởng sẽ thoải mái yên tâm khi được Ngân hàng tạo điều kiên thanh toán trong nhiều trường hợp không ảnh hưởng tới công việc, do vậy họ sẽ dễ dàng thanh toán séc chuyển khoản, nếu số đông khách hàng đều nhận biết được ích lợi này thì phạm vi và quy mô thanh toán séc chuyển khoản sẽ tăng lên. Hạn mức thấu chi phải dựa trên hợp đồng nhu cầu khách hàng và tình hình tài chính có thể cho phép đạt tới hạn mức tín dụng tối đa là bao nhiêu với thời hạn và lãi suất quy đinh rõ.Thông thường những khoản thấu chi như vậy là ngắn hạn và phải chịu mức lãi suất cao hơn mức lãi suất cho vay ngắn hạn thông thường, do Ngân hàng phải tính toán dựa trên khả năng xảy ra rủi ro đối với khách hàng, Ngân hàng cũng phải tính đến trường hợp khách hàng cố tình phát hành quá số dư cho dù đã được Ngân hàng ấn định ở một hạn mức nhất định. 3.3.2 Tạo thuận lợi trong thanh toán Séc: Thông thường trên tờ séc không ghi địa chỉ thanh toán thì tờ séc đó được xuất trình thanh toán tại địa chỉ của người thanh toán ghi trên tờ séc. Việc quy định trên tờ séc không ghi địa điểm thanh toán và địa chỉ của người thực hiện thanh toán thì tờ séc phải được suất trình tại trụ sở chính của người thực hiện thanh toán là thiếu thực tế gây khó khăn cho các Ngân hàng bởi khi hệ thống vi tính của các Ngân hàng được online từ hội sở chính Ngân hàng tỉnh tới các chi nhánh thì việc xuất trình tờ séc tại hội sở chính và các chi nhánh là giống nhau. Mặt khác trên tờ séc không ghi địa chỉ thanh toán và địa chỉ của người thanh toán nhưng đã có tên của người thực hiện thanh toán .Với việc quy định tờ séc phải được suất trình tại hội sở chính là không phù hợp. Để đưa séc trở thành công cụ thanh toán với nhiều tiện tích và phổ biến thì không chỉ đòi hỏi sự nỗ lực của bản thân mỗi Ngân hàng mà cần phải có sự quan tâm của các cơ quan, ban ngành không chỉ riêng trong hệ thống Ngân hàng mà còn là ở các doanh nghiệp, tổ chức của nhiều lĩnh vực kinh doanh khác nhau.Thêm vào đó là hệ thống hành lang pháp lý, cơ sở vật chất kỹ thuật phục vụ công tác thanh toán séc phải được đầu tư nhiều hơn đáp ứng nhu cầu ngày càng cao của sự phát triển kinh tế. 3.3.2. Khuyến khích mở tài khoản cá nhân và sử dụng séc cá nhân: Quá trình chuyển sang nền kinh tế thị trường ở nước ta thúc đẩy sự biến đổi về phân hoá thu nhập trong các tầng lớp dân cư, về sự xuất hiện nhanh chóng về các dạng hàng hoá, dịch vụ mới cho nhu cầu cá nhân và theo đó là sự mở rộng phát triển, hiện đại hoá dịch vụ thanh toán của ngân hàng phục vụ dân cư. Kinh nghiệm từ các nước phát triển cho thấy, công cụ thanh toán thích hợp nhất đối với dân cư là séc cá nhân. Nhưng thực tiễn hiện nay, việc sử dụng séc của cá nhân, hộ dân cư rất ít mặc dù hoạt động kinh doanh buôn bán diễn ra ngày càng sôi động, đời sống của nhiều hộ dân cư không ngừng được nâng cao, nhu cầu sử dụng các dịch vụ ngày càng lớn. Những khoản thanh toán vừa lớn vừa ổn định như nộp thuế thu nhập, thuế kinh doanh, chi trả tiền điện, điện thoại… nhưng các khoản thanh toán này hầu hết đều sử dụng tiền mặt. Vì thế, việc khuyến khích mở tài khoản cá nhân và sử dụng séc cá nhân là việc làm cấp thiết thu hút mọi tần lớp dân cư thực hiện thanh toán bằng séc. Trong thời gian trước mắt, ngân hàng nên đặc biệt quan tâm đến tầng lớp dân cư có thu nhập cao như : chủ doanh nghiệp tư nhân, các công ty TNHH, chủ các cửa hàng, cửa hiệu lớn, các cán bộ công nhân viên có thu nhập cao và ổn định… Ngân hàng có thể khuyến khích bằng các hình thức: + Trong thời gian đầu để dân cư dần làm quen với việc mở tài khoản cá nhân và sử dụng séc cá nhân thì ngân hàng nên miễn một phần lệ phí không cần thiết như: không thu phí chuyển tiền thanh toán của những món tiền không lớn trên tài khoản cá nhân. + Tạo mọi điều kiện thuận lợi cho việc mở tài khoản cá nhân và mọi giao dịch trên tài khoản cá nhân của chủ tài khoản. + Ngân hàng cần phối hợp với các ngành, doanh nghiệp trọng điểm như: bưu điện, điện nước, thuế… để tạo thuận lợi cho đầu ra của séc cá nhân. Các ngành, các cơ quan trên cần đi đầu trong việc chấp nhận séc cá nhân trong thanh toán, để khuyến khích các cá nhân trả tiền hàng hóa, dịch vụ bằng séc cá nhân. 3.3.3. Hiện đại hoá công nghệ ngân hàng: Đầu tư trang thiết bị hiện đại, đổi mới công nghệ ngân hàng để thực hiện thanh toán nhanh chóng, chính xác, an toàn là một trong những định hướng và chủ trương lớn mà NHCT Ba Đình đề ra từ nhiều năm nay. Để đáp ứng nhu cầu thanh toán ngày càng cao của khách hàng. Ngân hàng đã có sự đầu tư nghiêm túc và có bước nhảy vọt về đổi mới công nghệ trong thời gian qua. Tuy nhiên, hệ thống máy tính chưa hoàn thiện, chưa đem lại hiệu quả cao, công tác thanh toán tại ngân hàng và nhu cầu thực tế của nền kinh tế hiện nay phát sinh nhiều nhu cầu thanh toán mới đòi hỏi ngân hàng phải liên tục đổi mới, ngân hàng phải đẩy nhanh tốc độ hiện đại hoá công nghệ trên các mặt sau: + Cần đầu tư vốn cho việc mua sắm máy vi tính có công suất và hiệu năng sử dụng trong lĩnh vực thanh toán để từng bước hiện đại hoá dây truyền công nghệ thanh toán, giúp ngân hàng thực hiện tốt vai trò trung gian trong thanh toán với khẩu hiệu: nhanh chóng, chính xác, kịp thời, đem lại sự tin tưởng cho khách hàng. + Vì hệ thống thanh toán nối mạng nên khi gặp sự cố nhỏ sẽ ảnh hưởng tới quá trình hoạt động của mạng. Do đó, NH cần xem xét, tính toán để đưa ra kế hoạch đầu tư hệ thống mạng sao cho hạn chế ở mức thấp nhất sự ách tắc có thể xảy ra. + Củng cố và hoàn thiện hệ thống thanh toán liên ngân hàng vì hệ thống này sẽ xử lý TTBT tất cả các khoản thanh toán điện tử phát sinh trong cả nước giữa các ngân hàng khác hệ thống với nhau. Có thể nói, khoa học công nghệ là một trong những yếu tố quan trọng quyết định sự thành công và là lợi thế cạnh tranh của các ngân hàng trong quá trình cung cấp các dịch vụ thanh toán. 3.3.4. Tuyên truyền quảng cáo và mở rộng môi trường phục vụ: Có thể nói, hiện nay ở Việt Nam hiểu biết của người dân về ngân hàng rất ít. Phần đông người dân chỉ hiểu chức năng của ngân hàng là huy động, tiết kiệm và cho vay, rất ít người hiểu biết về các dịch vụ khác của ngân hàng như thực hiện thanh toán hộ, thực hiện các dịch vụ tư vấn liên quan đến tài chính… Đây cũng là nguyên nhân làm hạn chế việc thanh toán qua ngân hàng. Phát triển kiến thức về tài chính ngân hàng là một yếu tố làm tăng cạnh tranh trong hoạt động ngân hàng bởi vì có kiến thức chung và kỹ năng liên quan đến ngân hàng sẽ tạo ra ý định sử dụng và tham gia vào giao dịch với ngân hàng. Hiện nay, thanh toán bằng séc tại NHCT Ba đình mới chỉ tập trung ở các doanh nghiệp, chưa áp dụng phổ biến trong dân cư. Nguyên nhân của vấn đề này thì có nhiều: do thói quen sử dụng tiền mặt trong thanh toán từ rất lâu đời của người dân, do thu nhập của người dân chưa cao, công tác tuyên truyền quảng cáo về séc của ngân hàng chưa đạt hiệu quả… Vậy, để mở rộng thanh toán không dùng tiền mặt, đặc biệt là thanh toán séc, ngân hàng phải khuyến khích khách hàng sử dụng công nghệ ngân hàng thông qua các tờ tin, hướng dẫn khách hàng sử dụng sản phẩm và tuyên truyền quảng cáo rộng rãi những tiện ích của công cụ thanh toán thông qua các phương tiện thông tin đại chúng như: báo, đài, truyền hình. Từ đó thu hút các tổ chức cá nhân đến với ngân hàng để mở tài khoản và sử dụng các công cụ thanh toán không dùng tiền mặt. Thực tế trong thời gian qua việc tuyên truyền quảng cáo của ngân hàng có được thực hiện nhưng không hiệu quả. Ngân hàng quảng cáo, giới thiệu sản phẩm của mình trên các báo, tạp chí của ngành thì chỉ có những đối tượng làm trong ngành đọc, nghiên cứu. Với những người dân không làm trong ngành thì không bao giờ hoặc ít khi đọc những tạp chí này nên họ sẽ không biết. Ngoài ra, ngân hàng hầu như không quảng cáo những tiện ích của các công cụ thanh toán trên truyền hình - nơi thu hút sự theo dõi đa số của người dân và là nơi quảng cáo đạt hiệu quả nhất. Để khắc phục tình hình trên, ngân hàng cần phải lựa chọn cách thức quảng cáo mang lại hiệu quả nhất và phù hợp nhất với tâm lý của dân chúng nhất. Bên cạnh đó, ngân hàng nên thực hiện khuyến mãi khách hàng đối với những khách hàng thường xuyên giao dịch, thanh toán bằng séc. Ngân hàng nên phối kết hợp với tất cả các chi nhánh ngân hàng cùng và khác hệ thống, các cơ quan có thẩm quyền để khuyến khích các cửa hàng, các trung tâm thương mại, các đơn vị cung ứng hàng hoá dịch vụ mở tài khoản tại ngân hàng và chấp nhận thanh toán bằng séc. 3.3.5. Đẩy mạnh công tác đào tạo cán bộ: Yếu tố con người có tầm quan trọng đặc biệt trong mọi hoạt động xã hội nói chung, hoạt động kinh tế nói riêng. Đặc biệt trong hoạt động ngân hàng thương mại, yếu tố cán bộ có vai trò rất quan trọng, có tính chất quyết định trên tất cả các mặt. Chính vì vậy, hệ thống nhân sự có tầm quan trọng đặc biệt trong ngân hàng. Do đó, người làm công tác thanh toán phải có đủ năng lực trình độ chuyên môn. Ngoài việc hiểu biết các hoạt động ngân hàng nói chung, hoạt động thanh toán nói riêng, phải có trình độ tay nghề, có năng lực, phẩm chất tốt, có kỷ luật cao, thực hiện tốt chức trách của mình, tác phong giao dịch khoa học, lịch sự. NHCT Ba Đình cần phải tăng cường công tác đào tạo và đào tạo đội ngũ cán bộ, nâng cao trình độ nghiệp vụ, cần phải phân công, sử dụng, tạo điều kiện giúp họ phát huy sự sáng tạo của mình trong khi thực hiện các nghiệp vụ đáp ứng yêu cầu của nền kinh tế cũng như xu hướng hội nhập quốc tế. Khi yêu cầu đòi hỏi của khách hàng ngày càng nâng cao thì cán bộ, nhân viên thanh toán cũng phải thay đổi sao cho thích hợp và đáp ứng yêu cầu của khách hàng. Vì vậy, ngân hàng phải tiến hành đổi mới và cải thiện nội dung đào tạo phù hợp. Hiện nay, ngoài kiến thức nghiệp vụ, đội nhũ nhân viên ngân hàng còn phải thành thạo ngoại ngữ, tin học, công nghệ ngân hàng. Thực hiện tốt chính sách nhân sự sẽ tạo ra một đội ngũ cán bộ ngân hàng có chuyên môn nghiệp vụ cao, hết lòng trong công việc, sáng tạo, linh hoạt và có thái độ làm việc tốt. Điều này chắc chắn sẽ là một sức mạnh để tạo sự tin tưởng, an tâm, thoải mái đối với khách hàng đến ngân hàng giao dịch. Về công tác tuyển dụng cán bộ: Mỗi cán bộ đều có mặt mạnh, mặt yếu khác nhau, nếu NH biết sử dụng đúng chỗ thì mặt mạnh sẽ được phát huy, vì thế lãnh đạo phải đánh giá được khả năng của mỗi cán bộ và muốn đánh giá đúng cán bộ, người lãnh đạo phải sáng suốt, chí công vô tư để từ đó sắp xếp ,bố trí cán bộ hợp lý. Ngoài các giải pháp cụ thể trên, ban lãnh đạo NH cần có chính sách khen thưởng kịp thời bằng cách trực tiếp động viên hoặc dùng các khuyến khích vật chất. Đồng thời kỷ luật nghiêm minh đối với những cá nhân, phòng ban chưa làm tốt nhiệm vụ được giao. Làm như vậy sẽ tạo ra được một môi trường làm việc công bằng, thoai mái, phát huy tính sáng tạo của công nhân viên, tạo ra sự đoàn kết và hợp tác chặt chẽ giữa các cá nhân, phòng ban, hỗ trợ nhau hoàn thành tốt nhiệm vụ được giao. 3.3.6. Thành lập hiệp hội thanh toán séc liên hàng: Với hệ thống thanh toán hiện nay, việc thanh toán chưa thực hiện được ra ngoài hệ thống và khác địa bàn, séc mới chỉ được thanh toán cùng địa bàn khác hệ thống. Do vậy để đẩy mạnh việc sử dụng séc và mở rộng phạm vi thanh toán của séc hiện thời để đến lúc các ngân hàng thương mại cần tổ chức hiệp tác với nhau thành lập Hiệp hội thanh toán séc liên hàng. Trong đó, nêu rõ thể lệ, việc hỗ trợ phát hành séc, các qui chế tổ chức và hoạt động như: nghĩa vụ và quyền lợi của các bên tham gia, việc xử lý kế toán thanh toán, phân bổ chi phí, các nguyên tắc quản trị, điều hành, giám sát, kiểm tra… Đây là một bước tiến mới trong công nghệ TTKDTM ở nước ta, hội nhập tất cả các tổ chức tín dụng trong nước vào một hệ thống thanh toán thống nhất với sự hỗ trợ của máy vi tính và phần mềm ứng dụng. Kết quả mong muốn là làm sao một séc phát hành từ tài khoản mở tại ngân hàng tỉnh này được thanh toán dễ dàng tại một tỉnh khác nghĩa là séc được thanh toán trong toàn quốc một cách hữu hiệu và thông suốt. Có như vậy, việc tổ chức thanh toán séc trong toàn quốc được nhanh chóng và an toàn. 3.3.7 Bảo đảm an ninh trong phát hành séc: Trong tương lai, khi điều kiện kinh tế xã hội phát triển đặc biệt là năng lực khoa học công nghệ cho phép thì ngân hàng cũng nên tiến tới phát hành một loại thẻ đảm bảo thanh toán séc gọi là thẻ séc dùng cho người phát hành séc để nâng cao tính tiện lợi và an toàn. Trên thẻ có ảnh, địa chỉ, đặc điểm nhận dạng và chữ ký mẫu của người phát hành, người phát hành khi phát hành séc phải xuất trình cả thẻ séc. Làm như vậy sẽ an toàn trong thanh toán séc, chống séc giả mạo đồng thời người thụ hưởng sẽ yên tâm hơn khi nhận séc. Tóm lại, việc tạo điều kiện cho khách hàng thanh toán séc được an toàn, giảm nhẹ thủ tục để không vì sự thanh toán mà làm ảnh hưởng đến thời gian và vốn của người sản xuất kinh doanh thì mọi sẽ chấp nhận, séc sẽ trở thành công cụ thanh toán chủ yếu có thể lưu hành trong cả nước, góp phần lưu thông tiền tệ, tạo nguồn vốn tiền gửi, khai thông vốn tín dụng để phục vụ sự nghiệp phát triển kinh tế. 3.4 Một số kiến nghị 3.4.1 Kiến nghị về phía chính phủ 3.4.1. Xây dựng hệ thống văn bản pháp quy hoàn thiện và nâng cao hiệu lực. a) Hoàn thiện: Hiện nay nước ta chưa ban hành chính thức luật thanh toán bằng séc mà mới chỉ có các nghị định, thông tư hướng dẫn việc sử dụng và thanh toán séc.Trong khi đó trên thế giới séc là một công cụ thanh toán rất tiện lợi và phổ biến ngay cả khi đã có các công cụ thanh toán hiện đại xuất hiện như thẻ thanh toán.Do vậy trước mắt việc ban hành luật séc hoàn chỉnh để séc đi vào cuộc sống là tất yếu khách quan. Các văn bản quy định vè séc đã được ban hành thể hiện một bước phát triển mới so với các văn bản trước đó. Tuy đã đem lại kết quả khả quan xong vẫn còn tồn tại nhiều hạn chế mà Ngân hàng nhà nước cần nghiên cứu để chỉnh sửa,bổ xung.Việc nghị định 159/2003/NĐ-CP được ban hành thay thế nghị 30/CP ngày 09/05/1996 của chính phủ về quy chế phát hành và sử dụng séc là hợp lý nhưng em nghĩ còn hạn chế cần nghiên cứu để tiếp tục hoàn thiện là: Các NHTM cần soạn thảo ban hành các loại séc đang được áp dụng tại Ngân hàng, quy trình thủ tục phát hành séc, quy trình thanh toán, quyền lợi và nghĩa vụ các bên tham gia thanh toán để khách hàng có thể hiểu rõ ràng hơn và cụ thể hơn về séc. Ngân hàng nhà nước cần tiến tới tìm hiểu và lựa chọn những điều khoản khả thi trong luật séc quốc tế mà phù hợp với điều kiện nước ta. Đây là bước căn bản tạo cơ sở pháp lý cho các bên tham gia thanh toán, đảm bảo an toàn tài sản cho khách hàng, hạn chế rủi ro trong thanh toán séc. Vì mục tiêu trong tương lai phải vươn tới thanh toán séc trong phạm vi rộng lớn như khu vực hay quốc tế do đó yêu cầu một luật séc đáp ứng đúng các tiêu chuẩn giao dịch là hết sức cần thiết. b) Nâng cao hiệu lực Các văn bản về séc ở Việt Nam chưa thấy văn bản nào có quy định cụ thể cơ quan nào chịu trách nhiện sử kiện các vi phạm về thanh toán séc,mặt khác nghị định 30/CP có nói “trong trường hợp séc do đại diện pháp nhân phát hành nếu pháp nhân đó bị giải thể ,bị tuyên bố phá sản hoặc bị phong toả tài khoản thì tờ séc do pháp nhân đó phát hành sẽ được chi trả theo quyết định của cơ quan có thẩm quyền” nhưng lại không quy định rõ cơ quan nào ở đây có thẩm quyền xử kiện và mức độ vi phạm như thế nào sẽ bị quy trách nhiệm hình sự. Trong nghị định 159/2003/NĐ-CP cũng không thấy đề cập giải quyết vấn đề này. Các quy định yêu cầu có sự sác nhận của uỷ ban nhân dân xã, phường khi xảy ra trường hợp bất khả kháng cũng không thực sự cần thiết vì các quy định này làm cho tờ séc không xác định được thời hạn, hiệu lực vốn có của nó là bao nhiêu? Việc làm này chỉ kéo theo các thủ tục hành chính phức tạp mất thời gian đi lại trong khi cơ chế hành chính của nước ta vốn còn nặng nề, rườm rà, thêm nữa các cơ quan này chưa hẳn đã am hiểu tường tận tờ séc như vậy có thể gây căng thẳng cho khách hàng, khiến khách hàng không còn muốn sử dụng séc. 3.4.2 Kiến nghị về phía NHCT Việt Nam : - Ban hành các thông tư về Séc gửi đến các chi nhánh trực thuộc NHCT về cách sử dụng và thanh toán séc một cách cụ thể và chi tiết hơn nữa để các NH có thể phổ biến rộng rãi đến mọi tầng lớp nhân dân về tiện ích của Séc. Nhằm thu hút ngày một nhiều các cá nhân cũng như các doanh nghiệp vừa và nhỏ đến với ngân hàng và sủ dụng các hình thức thanh toán bằng séc. - Mở rộng phạm vi thanh toán séc: Hiện nay nghị định 159/2003/NĐ-CP đã quy định không giới hạn phạm vi thanh toán séc Kết luận Năm 2004, Việt Nam của chúng ta đang trên con đường tiến tới mở cửa và hội nhập, giao lưu với các nước trong khu vực cũng như trên thế giới, cơ hội mở ra rất nhiều nhưng thách thức sẽ gặp cũng không phải là ít. Đối với ngành Ngân hàng, hoạt động Ngân hàng trong nước không những càng tăng tính cạnh tranh lẫn nhau mà còn gặp phải sự cạnh tranh gay gắt của các Ngân hàng liên doanh, đòi hỏi Ngân hàng Nhà nước và các cơ quan chức năng có những chiến lược phát triển và hoàn thiện hệ thống Ngân hàng Việt Nam về tất cả các mặt, đặc biệt là phát triển và mở rộng quy mô thanh toán không dùng tiền mặt trong hệ thống Ngân hàng Thương mại. Trong thời gian qua, hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt đã khẳng định được thế mạnh của nó trong quá trình sử dụng đặc biệt là séc một trong các hình thức TTKDTM với rất nhiều tiện ích nổi bật nhưng lại chưa được khai thác triệt để và chuẩn hoá theo thông lệ quốc tế. Thanh toán bằng séc đã ngày càng trở nên quen thuộc với mọi người, séc góp phần không nhỏ vào những thành công trong kinh doanh của doanh nghiệp cũng như của Ngân hàng. Với những ưu điểm vốn có: tiện lợi, nhanh chóng và an toàn, séc đã góp phần làm tăng quá trình chu chuyển vốn, hạn chế thời gian ứ đọng vốn của các doanh nghiệp, đồng thời giúp Ngân hàng tăng khả năng kiểm soát quá trình lưu thông tiền tệ. Tuy nhiên, trong quá trình thanh toán séc cũng còn một số bất cập do đó đã làm giảm tốc độ phát triển của hệ thống thanh toán không dùng tiền mặt. Vì thế, việc cần thiết hiện nay là phải tiến hành xử lý nhanh chóng và kịp thời những bất cập trong thanh toán séc. Trong thời gian thực tập tại NHCT Ba Đình, em đã được tìm hiểu về hoạt động thanh toán không dùng tiền mặt và đặc biệt là nghiệp vụ thanh toán séc. Do đó cũng tiếp cận được phần nào ưu điểm cũng như hạn chế còn tồn tại trong lĩnh vực này và em mạnh dạn nêu lên một số giải pháp nhằm mở rộng thanh toán séc, từ đó góp phần phát triển và hoàn thiện thanh toán không dùng tiền mặt tại Ngân hàng. Tuy nhiên, do hạn chế về mặt thời gian cũng như kiến thức nên khoá luận không tránh khỏi những thiếu sót. Vì vậy, một lần nữa em rất mong nhận được sự chỉ bảo của cô giáo hướng dẫn cùng toàn thể các thầy cô trong khoa Kế toán - kiểm toán Ngân hàng và tập thể cán bộ Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình để khoá luận được hoàn thiện hơn. Em xin chân thành cảm ơn! Hà Nội, tháng 05 năm 2005 Sinh viên Phụ lục Mẫu số 1: Phiếu từ chối thanh toán séc Ngân hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh: Ba Đình Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam Độc lập - Tự do - Hạnh phúc ____________ ……, ngày ….. tháng ….. năm …. Phiếu từ chối thanh toán séc Kính gửi: Ông (Bà): Chúng tôi lấy làm tiếc khi phải thông báo với Quý Ông (Bà) là các tờ séc: 1. Số ………..…….. Số tiền ………….……… Phát hành ngày …../../…/…… 1. Số ………..…….. Số tiền ………….……… Phát hành ngày …../../…/…… 1. Số ………..…….. Số tiền ………….……… Phát hành ngày …../../…/…… bị từ chối thanh toán do: Tổng giám đốc (Giám đốc) (Ký tên, đóng dấu) Kế toán trưởng (hoặc kiểm soát) (Ký tên) Người lập phiếu (Ký tên) Mẫu số 2: Séc chuyển khoản, séc bảo chi Ngân hàng Công thương Việt Nam Chi nhánh: Ba Đình Séc: AA Phần dành cho NH ghi TK Nợ ………………. TK Có ………………. Yêu cầu trả cho: Số CMT: Địa chỉ: Số hiệu TK: Tại: Số tiền: (bằng chữ) Số tiền (bằng số) Người phát hành Địa chỉ: Số hiệu tài khoản: Bảo chi Ngày…. tháng …. năm … (Ký tên, đóng dấu) ….., ngày …. tháng …. năm ….. Dấu Kế toán Người phát hành Đối với séc bảo chi: Ngân hàng sẽ đóng dấu "Bảo chi" lên tờ séc sau khi làm xong thủ tục bảo chi séc. Mẫu số 3: Bảng kê nộp séc Phần do Ngân hàng ghi TK Nợ ________________________________ TK Có Bảng kê nộp séc Ngày …. tháng …. năm …. Tên đơn vị nộp séc: ………………….….. Tên Ngân hàng bên bán: ……………….. Huyện: ………….. Tỉnh: ………………. STT Số séc TK ghi nợ trên séc Tên đơn vị phát hành séc Số tiền Cộng Tổng số tiền (bằng chữ): Đơn vị nộp séc (ký tên, đóng dấu) Ngân hàng bên bán ngày…. tháng… năm Kế toán Trưởng phòng Kế toán Ngân hàng bên mua ngày…. tháng… năm Kế toán Trưởng phòng Kế toán Mẫu số 4: Giấy đề nghị Ngân hàng nhượng bán séc Giấy đề nghị Ngân hàng nhượng bán séc Số: …… Ngày ….. tháng ….. năm 2003 Kính gửi: Chi nhánh Ngân hàng Công thương Ba Đình Hà Nội Tên tôi: Là chủ tài khoản (người được uỷ quyền chủ tài khoản) số Tại chi nhánh NHCT Ba Đình Địa chỉ khách hàng: Đề nghị Ngân hàng bán cho đơn vị chúng tôi là: Các loại séc sau: Người được uỷ nhiệm nhận séc là Ông (Bà): Số CMT: ……………. Ngày cấp: ……………. Nơi cấp: Chúng tôi cam kết thực hiện đúng quy định thể lệ về phát hành và sử dụng séc của Ngân hàng, chịu hoàn toàn trách nhiệm về bảo quản và sử dụng séc. Chủ tài khoản (Ký tên, đóng dấu) Đã nhận đủ: cuốn séc Ngày …. tháng … năm 2003 (Người nhận ký, ghi rõ họ tên) ý kiến của ngân hàng Trưởng phòng kế toán Tài liệu tham khảo Giáo trình “ Hạch toán kế toán và xử lý thông tin trong hệ thống Ngân hàng “ của trung tâm đào tạo và nghiên cứu khoa học Ngân hàng. Giáo trình Kế toán Ngân hàng của Học viện Ngân hàng Báo cáo nghiệp vụ thanh toán của NHCT Ba Đình Hà Nội năm 2002, năm 2003, năm 2004. Tạp chí Ngân hàng Tạp chí khoa học và Đào tạo Ngân hàng Nghị định 30/CP ngày 09/05/1996 của Chính phủ ban hành quy chế phát hành và sử dụng Séc. Thông tư 07/TT-NH1 ngày 27/12/1996 của Thống đốc NHNN hướng dẫn thực hiện. Nghị định 159/2003/NĐ- CP ngày 10/12/2003 của Chính phủ về cung ứng và sử dụng Séc. Thông tư 05/2004/ TT-NHNN hướng dẫn thực hiện một số nội dung của Nghị định 159/2003/NĐ- CP của Chính phủ về cung ứng và sử dụng Séc. Mục lục Trang

Các file đính kèm theo tài liệu này:

  • doc34156.doc
Tài liệu liên quan